Minh Khê / Tạp chí Luật Khoa
13/5/2025
Nguồn ảnh: bandothegioikholon.com, dantri.com, htland.vn.
Đồ hoạ: Thanh Tường / Luật Khoa.
Không lâu sau ngày nhậm chức tổng bí thư Đảng Cộng Sản (3/8/2024), ông Tô Lâm đã phát động một “cuộc đại phẫu” bộ máy chính quyền.
Ban đầu, cuộc tinh gọn bộ máy diễn ra với việc sắp xếp hàng loạt các cơ quan của đảng, Chính phủ, Quốc hội.
Nay, “cuộc cách mạng” này bước sang giai đoạn sáp nhập tỉnh, thành; bỏ cấp huyện; và sắp xếp lại cấp xã.
Trong lịch sử, Việt Nam đã có nhiều lần sắp xếp các đơn vị hành chính, nhập tách tỉnh, thành. Mỗi thời kỳ đều gắn với những biến động chính trị nhất định.
Luật Khoa tạp chí giới thiệu với độc giả bài viết của tác giả Minh Khê, về một số cột mốc lịch sử sắp xếp đơn vị hành chính ở Việt Nam từ năm 1802 đến nay.
Từ năm 1802 đến năm 1858
Vùng địa giới hành chính của Việt Nam ngày nay được định hình rõ nét nhất dưới triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945), triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Dưới thời vua Gia Long, triều Nguyễn lần đầu tiên thiết lập hệ thống hành chính thống nhất trên toàn quốc, từ Bắc chí Nam, từ đất liền đến hải đảo, đặt nền tảng cho cấu trúc địa lý và hành chính của nước Việt Nam hiện đại.
Tuy vậy, quá trình cải cách hành chính dưới một nước Việt Nam độc lập kéo dài trong khoảng 82 năm (1802 – 1884).
Từ sau Hòa ước Giáp Thân ký với Pháp vào năm 1884, triều đình Huế mất dần quyền kiểm soát thực tế, và nước Việt Nam rơi vào ách cai trị của thực dân Pháp dưới hình thức bảo hộ.
Gia Long (1802 – 1820)
Từ năm 1802, sau khi đánh bại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với hiệu là Gia Long.
Lê Thành Khôi trong quyển Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ 20 có đề cập: “Sau hai thế kỷ chia cắt, quốc gia được tái thống nhất nhờ nỗ lực của cả một dân tộc. Họ Nguyễn sáp nhập cả vùng châu thổ sông Mê Kông, vốn chiếm được từ Chân Lạp, vào vương quốc của họ Lê”. [1]
Tuy vậy, toàn lãnh thổ lúc này vẫn tồn tại nhiều mô hình quản lý khác nhau.
Đàng Ngoài từng do vua Lê – chúa Trịnh cai quản qua mấy trăm năm, tồn tại hệ thống tổ chức xứ – đạo, còn Đàng Trong theo hệ thống dinh – trấn. [2] [3] Chưa kể, quốc gia còn đang chịu ảnh hưởng trực tiếp từ mô hình tổ chức của nhà Tây Sơn.
Do đó, ngoài việc cấp thiết đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đặt thủ đô tại Phú Xuân (Huế ngày nay), triều Nguyễn phải tổ chức lại bộ máy chính quyền. [4]
Theo Trần Trọng Kim, việc tổ chức lại để có một hệ thống quản lý địa phương hiệu quả cũng nhằm để giữ vững an ninh quốc nội. [5]
Vua Gia Long đã tổ chức mô hình chính quyền theo bốn cấp, gồm trung ương, địa hạt, trấn, và dưới trấn. [6]
Bộ máy cấp trung ương gồm vua và lục bộ (sáu bộ) phụ trách việc quốc gia. Đứng đầu mỗi bộ là thượng thư. Ngoài ra, còn có đô sát viện là cơ quan phụ trách việc thanh tra, giám sát quan lại và các hoạt động hành chính trong cả nước.
Ở cấp địa hạt, vua chia thành các đơn vị hành chính lớn gồm: Bắc Thành, Gia Định thành. Mỗi nơi có một một viên quan cai quản gọi là tổng trấn. [7]
Ở cấp trấn, vua chia cả nước làm 23 trấn. Đứng đầu mỗi trấn là các quan lưu trấn hay trấn thủ.
Còn ở dưới trấn chia thành: phủ, huyện, châu.
Ở thời vua Gia Long, đất nước có ba vùng lãnh thổ lớn là Bắc Hà, Trung Hà, Nam Hà.
Trong đó, Bắc Hà (từ Ninh Bình trở ra Bắc, có thủ phủ tại Bắc Thành thuộc Hà Nội) quản lý 11 trấn, gồm năm nội trấn là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương và sáu ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. [8]
Trung Hà (vùng Kinh Kỳ, từ Thanh Hóa đến Bình Thuận) gồm kinh đô Phú Xuân và tám trấn là Thanh Hóa, Nghệ An, Nghĩa Quảng, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận.
Nam Hà (từ Bình Thuận trở vào Nam) có thủ phủ tại Gia Định thành, quản lý năm trấn và một đạo. Cụ thể gồm Gia Định (thành lập năm 1802), Biên Hòa (1808), Vĩnh Thanh (1814, là Vĩnh Long và An Giang sau này), Định Tường (1808, phần đất nằm giữa sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây, nay tương ứng với các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp), Hà Tiên (ngày nay phần đất này tương ứng với tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, đảo Phú Quốc, một phần Campuchia), và Đạo Châu Đốc. [9]
Đồng thời, còn có bốn doanh tiếp giáp với hoàng triều (kinh đô Phú Xuân) gồm: Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, và Quảng Nam. [10] [11]
Bản đồ Việt Nam thời chúa Nguyễn năm 1938. Nguồn ảnh: Wikimedia Commons.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TOÀN BÀI
Minh Mạng (1820 – 1840)
Sau khi Nguyễn Ánh mất (3/2/1820), con trai là Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi, lấy niên hiệu là Minh Mạng.
Trong suốt 20 năm trị vì, vua Minh Mạng đã sắp xếp lại địa giới hành chính quốc gia.
Trong đó, nổi bật nhất xóa bỏ hệ thống thành và trấn để chia cả nước bằng tỉnh. [12] [13]
Tổng cộng, vua Minh Mạng đã chia cả nước thành 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh, bao gồm 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên (kinh đô).
Từ năm 1831 – 1832, vua Minh Mạng đã thiết lập hệ thống hành chính gồm bốn cấp: tỉnh, phủ, huyện/châu, tổng, xã.
Theo Đại Nam thực lục, đến năm Giáp Ngọ (1834), vua Minh Mạng chia Việt Nam thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và Nam Kỳ. [14]
Trong đó, Bắc Kỳ có 13 tỉnh, Trung Kỳ có 11 tỉnh và một phủ, Nam Kỳ được chia thành lục tỉnh (sáu tỉnh).
Kỳ (tên gọi bắt đầu từ năm 1834)
Tỉnh (tên gọi bắt đầu từ năm 1832)
Bắc Kỳ
Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên.
Trung Kỳ
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Phủ Thừa Thiên (Kinh đô Huế).
Nam Kỳ
Phiên An (đổi tên thành Gia Định vào năm 1836), Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Bảng 1: 31 đơn vị hành chính của Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Việt Nam.
Ngoài ra, ở thời kỳ này, Việt Nam còn tồn tại song song các khu vực có tính chất tự trị và chư hầu.
Theo ước tính, năm 1835, lãnh thổ Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng rộng gấp 1,7 lần ngày nay (khoảng 575.000 km²).
Các phần lãnh thổ mở rộng bao gồm toàn bộ vùng Tây Nguyên (sáp nhập năm 1830), trấn Tây Thành (một phần lãnh thổ thuộc Việt Nam và Campuchia ngày nay) và quần đảo Hoàng Sa, Trường sa (xác lập chủ quyền năm 1816).
Lãnh thổ
Giai đoạn
Quan hệ với triều đình
Đặc điểm
Bắc Thành
1802 – 1831
Hành chính khu vực
Là hai khu hành chính – quân sự lớn (tổng trấn cai trị). Bị bãi bỏ khi Minh Mạng chia lại thành tỉnh vào 1831 – 1832.
Gia Định Thành
1808 – 1832
Chân Lạp (Campuchia)
1802 – 1863
Quốc gia chư hầu/bảo hộ
Triều cống định kỳ, nhiều thời kỳ bị can thiệp quân sự sâu. Một số vùng như Tầm Bôn, Lôi Lạt được sáp nhập. Đến năm 1863, trở thành thuộc địa Pháp.
Ai Lao (Lào)
1802 – 1884
Gửi cống, thần phục triều Nguyễn. Một số vùng phía bắc Lào chịu sự ảnh hưởng mạnh (Trấn Ninh, Sầm Nưa, v.v.). Về sau bị Pháp kiểm soát.
Trấn Tây Thành
(thuộc tỉnh Hà Tiên)
1835 – 1847
Vùng lãnh thổ bán tự trị
Có tổng trấn (thường là người Minh Hương). Trấn Tây Thành gồm phần lớn vùng Campuchia hiện nay. Chế độ tự trị suy giảm sau năm 1847.
Các vùng sắc tộc thiểu số (Cao Bằng, Lạng Sơn, Tây Nguyên, v.v.)
1802 – 1884
Tự trị từng phần, gián tiếp quản lý
Gồm nhiều thổ ty, tù trưởng. Ban đầu tự trị, thời Minh Mạng siết quyền, lập châu, huyện. Năm 1884, mất về tay Pháp theo Hiệp ước Patenôtre.
Bảng 2: Các vùng lãnh thổ tự trị/phụ thuộc của Nhà Nguyễn. Tổng hợp: Minh Khê.
Sau khi vua Minh Mạng qua đời, quân đội nhà Nguyễn đã rút khỏi các vùng lãnh thổ mở rộng do thiếu nguồn lực để quản lý. Điển hình là việc vua Thiệu Trị ra lệnh rút quân chiếm giữ ở trấn Tây Thành vào năm 1847.
Trong giai đoạn từ năm 1840 đến năm 1858, địa giới hành chính ở Việt Nam dưới các đời vua tiếp theo của triều Nguyễn, về cơ bản, vẫn giữ nguyên số lượng 31 đơn vị hành chính được sắp xếp từ đời vua Minh Mạng.
Từ năm 1858 đến năm 1954
Năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam.
Đến năm 1862, triều Nguyễn ký với Pháp Hòa ước Nhâm Tuất, nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) và toàn bộ đảo Côn Lôn (tức Côn Đảo ngày nay), đồng thời mở ba cửa biển cho Pháp vào buôn bán và bồi thường chiến phí
Đến năm 1867, Pháp chiếm tiếp ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên).
Sau đó, chính quyền Huế ký Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 với Pháp (công nhận chủ quyền của Pháp tại Nam Kỳ và mở rộng quyền lợi thương mại cho Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam) và Hòa ước Giáp Thân năm 1884 (còn gọi là Hòa ước Patenôtre, xác lập quyền bảo hộ của Pháp đối với toàn cõi Việt Nam, chia Việt Nam thành ba kỳ: Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ, Nam Kỳ là thuộc địa trực tiếp của Pháp). [15]
Một trang của Hòa ước Giáp Thân năm 1884 – trích từ trang 12, Tăng Xuân An (1961),
Việt sử lớp đệ nhất.
Hòa ước Giáp Thân năm 1884 quy định trả ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (trước đó bị sáp nhập vào Bắc Kỳ theo Hòa ước Quý Mùi năm 1883) về Trung Kỳ; trả tỉnh Bình Thuận (trước bị sáp nhập vào Nam Kỳ) về Trung Kỳ.
Đồng thời, căn cứ khoản 1, 3, 6, 7 của hòa ước; Nam Kỳ do Pháp trực tiếp cai trị, Bắc Kỳ và Trung Kỳ thuộc triều đình Huế đặt dưới sự bảo hộ của Pháp.
Đến ngày 17/10/1887, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, và Campuchia, đặt dưới sự quản lý của toàn quyền Đông Dương và trước Bộ Hải quân và Thuộc địa của Pháp. Đến năm 1893, Lào được sáp nhập vào liên bang này.
Năm 1897, Pháp buộc vua Thành Thái ban hành đạo dụ trao toàn quyền hành ở Bắc Kỳ cho Pháp. Từ đó, Pháp nắm quyền cai trị trực tiếp ở cả Bắc Kỳ và Nam Kỳ.
Theo Geographie – Sách Địa dư (1926), Liên bang Đông Dương có gần 14,2 triệu người, gồm Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine), Cao Miên (Campuchia), Lào. [16]
Về bộ máy cai trị tại Việt Nam, Pháp tổ chức hành chính trung ương và hành chính khác nhau ở ba miền.
Bộ máy chính quyền trung ương gồm toàn quyền Đông Dương và các hội đồng chuyên môn có vai trò cố vấn cho toàn quyền. [17]
Tại Bắc Kỳ, đứng đầu là viên thống sứ Bắc Kỳ, dưới là phủ thống sứ và hội đồng tư vấn, gồm hai thành phố (Hà Nội, Hải Phòng), 23 tỉnh (Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Kiến An, Quảng Yên, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình, Sơn La, Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Sơn Tây) và bốn đạo quan binh (Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Móng Cái). [18]
Tổ chức chính quyền Pháp ở ba kỳ của Việt Nam – trích trang 15, Tăng Xuân An (1961),
Việt sử lớp đệ nhất.
Tại Nam Kỳ, đứng đầu là viên thống đốc Pháp có phủ thống đốc đặt tại Sài Gòn, dưới là văn phòng thống đốc và hội đồng tư vấn. Mỗi tỉnh sau đó chia làm các quận, xã, làng. Đứng đầu mỗi tỉnh là tham biện, mỗi quận là tổng/cai tổng, mỗi xã/làng là hội tề. [19]
Nam Kỳ được Pháp chia thành 22 đơn vị gồm hai thành phố (Sài Gòn, Chợ Lớn) và 20 tỉnh (Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Gò Công, Tây Ninh, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh, Bến Tre, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên và Côn Nôn). [20]
Triều đình nhà Nguyễn đặt tại Trung Kỳ. Đứng đầu triều đình là vua và một viên khâm sứ người Pháp. Mỗi tỉnh do quan công tổng đốc nhà Nguyễn và công sứ người Pháp quản lý. Dưới tỉnh chia làm phủ, huyện. Phủ, huyện lại chia thành tổng. Tổng chia ra thành các làng. [21]
Trung Kỳ được Pháp chia lại thành 17 tỉnh, thành, gồm một thành phố là Cửa Hàn (Đà Nẵng ngày nay); 16 tỉnh là Bình Thuận, Phan Rang, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Đồng Nai Thượng (thuộc tỉnh Lâm Đồng ngày nay), Đà Lạt, Kon Tum; một hạt là Lâm Viên (tên gọi cũ của Tây Nguyên, thành lập năm 1916). [22]
Trong thời kỳ chiến tranh Việt – Pháp (1945 – 1954), Pháp cũng đã nhiều lần sửa đổi các địa hạt hành chính.
Đơn cử, Pháp lập ra tỉnh Gia Lâm, Bùi Chu, Vĩnh Ninh tại Bắc phần; lập ra nhiều khu hành chính – quân sự mới; sửa đổi nhiều đơn vị hành chính cũ. [23]
Sau thất bại ở trận Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với các bên liên quan tại Hội nghị Genève, diễn ra tại Thụy Sĩ từ ngày 8/5 và kết thúc vào ngày 20/7/1954.
Hai phái đoàn đại diện Việt Nam tham gia hội nghị gồm Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (thành lập ngày 2/9/1945) do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, và Chính phủ Quốc gia Việt Nam (thành lập năm 1949, do Bảo Đại làm quốc trưởng và Ngô Đình Diệm làm thủ tướng), tuy nhiên phía Quốc gia Việt Nam không ký vào bản hiệp định.
Hiệp định quyết định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, đồng thời công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia.
Tại Việt Nam, hiệp định quy định tạm thời chia đất nước thành hai vùng tập kết quân sự, lấy vĩ tuyến 17 (khu vực sông Bến Hải, Quảng Trị) làm ranh giới.
Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ra Bắc, quân đội Pháp và các lực lượng thân Pháp tập kết vào Nam. Một cuộc tổng tuyển cử toàn quốc dự kiến sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956 để thống nhất đất nước nhưng chưa bao giờ được diễn ra.
Với việc ký kết hiệp định, Pháp chấm dứt gần 100 năm áp đặt chế độ thực dân ở Việt Nam.
Tuy nhiên, sự chia cắt đất nước đã mở đầu cho cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm, với hai chính quyền đối lập ở hai miền Nam – Bắc, mỗi bên tổ chức đơn vị hành chính và thiết lập thể chế khác nhau.
Bản đồ Liên Bang Đông Dương năm 1948 được vẽ bởi người Pháp.
Nguồn ảnh: davidrumsey.com.
Từ năm 1954 đến năm 1975
Miền Bắc: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản toàn bộ lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc. [24]
Chính quyền miền Bắc tổ chức các đơn vị hành chính gồm: 30 tỉnh, hai thành phố trực thuộc trung ương (thủ đô Hà Nội, TP. Hải Phòng) và hai đặc khu (Hòn Gai, Vĩnh Linh).
Hệ thống chính quyền gồm bốn cấp: khu, tỉnh, châu, và xã.
Đặc trưng của thời kỳ này ở miền Bắc là chính quyền công nhận và thành lập các khu tự trị cho các sắc tộc thiểu số vùng núi phía Bắc.
Năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 230 thành lập khu tự trị Thái – Mèo, gồm ba tỉnh Lai Châu, Sơn La và Nghĩa Lộ (nay thuộc tỉnh Yên Bái). Về sau (năm 1962), khu này được đổi tên thành khu tự trị Tây Bắc.
Cùng năm 1955, đặc khu Hòn Gai được hợp nhất với tỉnh Quảng Yên (hiện nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) thành khu Hồng Quảng.
Đến năm 1956, ông Hồ Chí Minh tiếp tục ký Sắc lệnh 268 thành lập khu tự trị Việt Bắc, gồm năm tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Năm 1959, tỉnh Hà Giang tiếp tục được sáp nhập vào khu tự trị Việt Bắc.
Từ năm 1960 – 1963, chính quyền tiếp tục mở rộng địa giới của thủ đô Hà Nội và sáp nhập hoặc thành lập mới nhiều tỉnh như Hà Bắc (sáp nhập tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh), v.v.
Đến năm 1975, miền Bắc có 24 tỉnh, hai thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội và Hải Phòng) và hai khu tự trị (Việt Bắc, Tây Bắc).
Năm 1976, sau khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thay đổi quốc hiệu thành Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Miền Nam: Việt Nam Cộng hòa
Năm 1955
Theo Công báo Việt Nam Cộng hòa, tháng 9/1955, ông Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 153-VN chia lại lãnh thổ phía Nam Việt Nam thành 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
Số lượng tỉnh, thành ở miền Nam sau đó tiếp tục tăng do chính quyền thành lập mới nhiều đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Năm 1956
Ngày 4/3/1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức cuộc tổng tuyển cử Quốc hội lập hiến.
Ngày 26/10/1956, Quốc hội lập hiến thông qua Hiến pháp năm 1956, chính thức thiết lập nền Đệ nhất Cộng hòa. [25]
Bảng thống kê dân số Việt Nam Cộng hòa tại 22 tỉnh, thành và Đô thành Sài Gòn từ năm 1948 – 1955. Nguồn: Thống kê niên giám Việt Nam Cộng hòa 1954 – 1955.
Tháng 10/ 1956, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa đổi tên vùng Bắc Việt thành Bắc Phần; Trung Việt thành Trung Phần; Nam Việt thành Nam Phần.
Việt Nam Cộng hòa tổ chức chính quyền theo năm cấp: trung ương (đứng đầu là tổng thống, bên cạnh là Chính phủ và Quốc hội); vùng (đại diện Chính phủ được đặt tại các thủ phủ vùng); tỉnh, thành phố, đô thành (đứng đầu là tỉnh/thị trưởng); quận/huyện (đứng đầu là quận/huyện trưởng); xã/phường (đứng đầu là xã/phường trưởng).
Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa được chia thành 35 đơn vị hành chính, bao gồm 34 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.
Năm 1962
Việt Nam Cộng hòa đã chia lãnh thổ thành 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn. So với năm 1956, số lượng tỉnh tăng lên do việc thành lập và điều chỉnh địa giới các tỉnh mới.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng tổ chức các Tòa Đại biểu Chính phủ tại các vùng để đại diện cho chính quyền trung ương.
|
Vùng |
Tỉnh/thành |
|
Trung Nguyên Trung Phần |
Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ngãi, Quảng Tín (trước thuộc Quảng Nam), TP. Huế, TP. Đà Nẵng.
|
|
Cao Nguyên Trung Phần |
Kon Tum, Pleiku, Darlac (tỉnh lỵ Buôn Mê Thuột), Phú Bổn (tỉnh lỵ Hậu Bổn – Cheo Reo cũ, trước thuộc tỉnh Pleiku), Quảng Đức (tỉnh lỵ Gia Nghĩa, trước thuộc Darlac, Lâm Đồng, Phước Long), Tuyên Đức (tỉnh lỵ Đà Lạt, trước là đô thị Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng), Lâm Đồng (tỉnh lỵ Bảo Lộc – Blao cũ, tên cũ là Đồng Nai Thượng).
|
|
Miền Đông Nam Phần |
Biên Hòa, Gia Định, Tây Ninh, Côn Sơn, Bình Tuy (tỉnh lỵ Hàm Tân, một phần của Đồng Nai Thượng, Bình Thuận, Biên Hòa), Long Khánh (trước thuộc tỉnh Biên Hòa), Phước Long (trước thuộc tỉnh Biên Hòa), Phước Thành (trước là quận Tân Uyên, thuộc tỉnh Biên Hòa, sau thuộc tỉnh Phước Long, Bình Dương, Long Khánh), Bình Long (trước là quận Hớn Quản, tỉnh Tây Ninh), Phước Tuy (tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu cũ), Bình Dương (tỉnh Thủ Dầu Một cũ), Đô thành Sài Gòn (khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn cũ).
|
|
Miền Tây Nam Phần |
Long An (nhập từ tỉnh Chợ Lớn và Tân An), Kiến Tường (đổi tên từ tỉnh Mộc Hóa), Định Tường (hợp nhất từ tỉnh Mỹ Tho và Gò Công), Kiến Phong (đổi tên từ tỉnh Phong Thạnh), Kiến Hòa (tỉnh Bến Tre cũ), Vĩnh Long (hợp nhất từ tỉnh Vĩnh Long và Sa Đéc), An Giang (hợp nhất từ tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc), Vĩnh Bình (đổi tên từ tỉnh Tam Cần), Phong Dinh (tỉnh lỵ là Cần Thơ, tương ứng với tỉnh Cần Thơ cũ), Chương Thiện (tỉnh lỵ là Vị Thanh, trước đây là một phần của các tỉnh Phong Dinh, Kiên Giang và Ba Xuyên), Kiên Giang (tỉnh lỵ là Rạch Giá, hợp nhất từ Rạch Giá và Hà Tiên), Ba Xuyên (tỉnh lỵ là Khánh Hưng, hợp nhất từ Bạc Liêu và Sóc Trăng), An Xuyên (tỉnh lỵ là Quản Long, đổi tên từ tỉnh Cà Mau). |
Bảng 3: Các khu vực hành chính của Việt Nam Cộng hòa năm 1962 –
trích từ trang 205, Bộ Quốc gia Giáo Dục (1962), Hồng Đức Bản Đồ.
Năm 1963
Ngô Đình Diệm cải tổ hệ thống quân sự bằng cách chia lãnh thổ miền Nam thành bốn vùng chiến thuật.
Cuối thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa (1954 – 1963), Việt Nam có bốn thành phố lớn gồm: Đô thành Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt; 41 tỉnh, 239 quận, 2.580 xã, 14.752 ấp với dân số khoảng 14 triệu người, trong đó chừng 50% là người Thượng. [26]
Bản đồ tổ chức hành chính Việt Nam Cộng Hòa năm 1964.
Nguồn: virtual-saigon.net.
Năm 1970
Đến thời kỳ Đệ nhị Cộng hòa (1967 – 1975), năm 1970, chính quyền thay đổi tên bốn vùng chiến thuật thành khu quân sự, gồm bốn khu quân sự I, II, III, và IV, đồng thời duy trì Biệt khu thủ đô Sài Gòn như một đơn vị quân sự độc lập.
Tính đến trước ngày 30/4/1975, hệ thống hành chính của Việt Nam Cộng hòa bao gồm Đô thành Sài Gòn, 44 tỉnh (gồm các tỉnh từ miền Trung đến miền Nam), hai đặc khu (Phú Quốc và Côn Đảo, nằm ngoài khơi biển Đông), 10 thị xã (là các đơn vị hành chính cấp dưới tỉnh, có tính chất đô thị) và 259 quận (là đơn vị hành chính cấp dưới tỉnh hoặc thị xã).
Từ sau năm 1975
30/4/1975: Kết thúc chiến tranh
Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến tranh kéo dài suốt 20 năm tại Việt Nam.
Chính quyền miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) giành quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ từ Bắc vào Nam.
Vào thời điểm này, Việt Nam có tổng cộng 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh, bao gồm: 28 tỉnh, thành phố của miền Bắc và 44 tỉnh, thành phố của miền Nam.
Số lượng tỉnh, thành lúc này được coi là quá lớn, cũng như sự khác biệt trong mô hình tổ chức chính quyền của hai miền, do đó, chính quyền xác định cần giảm số lượng tỉnh, đồng thời thống nhất mô hình tổ chức hành chính, tập trung nguồn lực tái thiết đất nước.
Từ giữa 1975: Miền Nam điều chỉnh tổ chức hành chính
Áp dụng mô hình hành chính 3 cấp (tỉnh, huyện, xã) như miền Bắc; các cấp trung gian như khu quân sự bị bãi bỏ.
Tháng 9/1975: Ban hành chủ trương hợp nhất tỉnh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ban hành Nghị quyết 245-NQ/TW, chỉ đạo đổi tên và sáp nhập nhiều tỉnh, thành trên cả nước. [27]
Nghị quyết 245 quyết định việc “Bỏ khu, hợp tỉnh”. Nguồn: Trung tâm lưu trữ quốc gia III.
Tháng 12/1975
Quốc hội khóa 5 (1975 – 1976) thông qua nghị quyết hợp nhất một loạt tỉnh, thành, đặc biệt là tại các vùng phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Năm 1976
Việc sáp nhập địa giới hành chính tiếp tục được thực hiện trên quy mô cả nước, mở rộng đến các tỉnh Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Việt Nam giảm từ 72 xuống còn 35 tỉnh, thành và ba thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, và TP. HCM (được đổi tên từ Sài Gòn – Gia Định vào năm 1976).
Năm 1978 – năm 2004: Tái chia tách vì bất cập
Mô hình 38 tỉnh bộc lộ hạn chế (quá rộng, khó quản lý), nhiều tỉnh được chia lại thành đơn vị nhỏ hơn.
Tháng 12/1978
Tách tỉnh Cao Lạng thành hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
Tháng 5/1979
Thành lập đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, tách khỏi tỉnh Đồng Nai.
Ngày 30/6/1989
Chia tách ba tỉnh lớn, gồm: Nghĩa Bình thành Bình Định và Quảng Ngãi; Bình Trị Thiên thành Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế; Phú Khánh thành Phú Yên và Khánh Hòa.
Từ năm 1991 đến năm 2004
Các tỉnh từng được sáp nhập như Nghệ Tĩnh, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Gia Lai – Kon Tum, Hà Sơn Bình, v.v. cũng lần lượt được chia tách trở lại, nâng tổng số đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam lên 64 tỉnh, thành.
Trong cùng giai đoạn này, TP. Đà Nẵng được tách khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và trở thành thành phố trực thuộc trung ương vào năm 1996; TP. Cần Thơ được tách khỏi tỉnh Cần Thơ (nay là Hậu Giang) vào năm 2004 và trở thành thành phố trực thuộc trung ương.
Năm 2008
Quốc hội khóa 12 (2007 – 2011) thông qua Nghị quyết số 15/2008 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan.
Theo đó, chính quyền sáp nhập tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình) vào TP. Hà Nội.
Sau sự kiện này, Việt Nam ổn định ở con số 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, bao gồm 58 tỉnh và năm thành phố trực thuộc trung ương: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, và Cần Thơ.
Chủ trương tinh gọn bộ máy hành chính
Ngày 25/10/2017: Khởi đầu cải cách bộ máy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản khóa 12 ban hành Nghị quyết số 18, chủ trương đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
Đây là nền tảng cho các đợt sắp xếp hành chính sau này.
Năm 2019 đến năm 2021
Theo báo cáo của Chính phủ, trong giai đoạn này, cả nước đã giảm được tám đơn vị hành chính cấp huyện và 561 đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp, dựa trên cơ sở Nghị quyết số 18.
Ngày 12/7/2023
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 35 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2030.
Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam sẽ giảm 10% đơn vị hành chính cấp tỉnh, 15% cấp huyện và 10% cấp xã. Lộ trình này bao gồm hai giai đoạn: 2023 – 2025 và 2026 – 2030.
Ngày 30/11/2024
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 15 (2021 – 2026) đã thông qua nghị quyết thành lập thành phố Huế trực thuộc trung ương (có hiệu lực từ ngày 1/1/2025).
TP. Huế được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, với diện tích gần 5.000 km² và dân số hơn 1,2 triệu người. Qua đó, nâng tổng số thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam lên sáu.
Đến nay, Việt Nam có 63 tỉnh, thành (57 tỉnh và sáu thành phố trực thuộc trung ương); 696 đơn vị cấp huyện; 10.035 đơn vị cấp xã.
Dự kiến còn 34 tỉnh, thành
Ngày 14/2/2025
Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận 126, giao nhiệm vụ cho các cơ quan Đảng ủy Trung ương nghiên cứu đề án sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã, đồng thời định hướng bỏ cấp hành chính trung gian (cấp huyện) để hoàn thiện tổ chức bộ máy trong năm 2025.
Ngày 28/2
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp tục ban hành Kết luận 127, quy định cụ thể lộ trình thực hiện các nội dung tại Kết luận 126.
Ngày 19/2
Quốc hội khóa 15 đã thông qua Luật Tổ chức Chính quyền Địa phương năm 2025, có hiệu lực từ ngày 1/3/2025. Luật này rút ngắn còn bảy chương, 50 điều, quy định lại tổ chức của chính quyền địa phương mới, giới hạn số lượng đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp và hướng dẫn cụ thể các trình tự, thủ tục cho tiến trình sáp nhập, chia lại đơn vị hành chính ở các địa phương.
Tuy nhiên, hiện Quốc hội lại tiếp tục sửa đổi, để phù hợp chủ trương sắp xếp bộ máy (bỏ cấp huyện).
Ngày 20/3
Ban Chỉ đạo Trung ương ban hành Công văn 43, đề ra lộ trình sắp xếp bộ máy hành chính, xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp trong năm 2025.
Ngày 12/4: Định danh các đơn vị hành chính cấp tỉnh mới
Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 60, về tên gọi mới dự kiến của 34 tỉnh, thành (gồm 28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc trung ương) sau khi sáp nhập 52 trong số 63 tỉnh, thành.
Ngày 14/4
Ban Chỉ đạo Trung ương ban hành Kế hoạch số 47, thể hiện rõ ràng lộ trình sắp xếp địa giới hành chính các cấp đến ngày 15/9, gắn liền thời gian tổ chức đại hội đảng bộ các cấp.
Ngày 15/4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 76, quy định tiêu chuẩn phân loại đơn vị cấp tỉnh và cấp xã sau sắp xếp.
Theo đó, số lượng 10.035 đơn vị hành chính cấp xã sẽ giảm từ 60% đến 70% sau sắp xếp. Các xã mới phải đạt tiêu chuẩn diện tích tối thiểu 50 km² với dân số từ 10.000 người trở lên.
Các đơn vị hành chính cấp tỉnh sẽ bao gồm các khu kinh tế, loại đô thị và hải đảo được sắp xếp theo tiêu chí giảm số lượng, nhưng tăng quy mô để phát huy tối đa tiềm năng phát triển của từng địa phương.
Từ ngày 15/4 đến ngày 20/4
Triển khai lấy ý kiến nhân dân trên toàn quốc.
Ngày 9/5: Ghi nhận sự đồng thuận cao
Theo Báo Chính phủ, gần 86% người dân đồng thuận với phương án sáp nhập.
Từ ngày 5/5 đến ngày 30/6: Kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa 15
Tập trung sửa đổi Hiến pháp năm 2013 và thông qua phương án tổ chức lại đơn vị hành chính.
Dự kiến từ ngày 1/7
Cấp huyện chính thức kết thúc hoạt động. Mô hình chính quyền mới đi vào vận hành theo hai cấp: tỉnh, cơ sở.
Trước ngày 15/9
Dự kiến 34 tỉnh, thành mới sau sáp nhập, sẽ đi vào hoạt động.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho biết đơn vị hành chính cấp xã tiếp tục được sắp xếp để hoàn thành mục tiêu giảm từ 60% đến 70% số lượng đơn vị, đảm bảo mỗi xã sau khi sắp xếp có quy mô tương đương “một huyện nhỏ”.
Trước ngày 31/10
Các bộ, ngành, địa phương báo cáo tiến độ sắp xếp về Chính phủ.
Trước ngày 30/11
Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét bước tiếp theo.
Quý Bốn, năm 2025
Sơ kết giai đoạn 2023 – 2025 về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện và xã.
Ngày 31/12
Dữ liệu diện tích, dân số, đơn vị hành chính sẽ được chốt làm cơ sở cho giai đoạn 2026 – 2030.
SOURCE:
https://luatkhoa.com/2025/05/timeline-sap-xep-tinh-thanh-o-viet-nam-tu-nam-1802-den-nay/








No comments:
Post a Comment