(VNTB) – Nhìn lại lịch sử,
có thể khẳng định: Sài Gòn chính là nơi sinh ra Ý thức hệ Cộng Hoà Việt Nam. Từ
trưng cầu dân ý 1955, đến Hiến pháp 1956 và 1967, dẫn đường cho Sài Gòn trở nên
cái nôi chính trị – pháp lý của một thể chế cộng hòa trên đất Việt Nam.
Trong dòng chảy lịch sử
hiện đại Việt Nam, Sài Gòn giữ một vị trí đặc biệt. Không chỉ là trung tâm kinh
tế, văn hoá, giao thương lớn nhất nước, Sài Gòn còn là nơi khai sinh và phát
triển một thể chế chính trị chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc: Ý Thức
Hệ Cộng Hoà Việt Nam.
Chính tại thành phố này,
từ giữa thế kỷ XX, các ý tưởng về dân chủ, pháp quyền, và nhà nước cộng hoà đã
được thể chế hoá thành Hiến pháp, tổ chức bộ máy, và vận hành xã hội. Việc
nghiên cứu và nhắc lại vai trò của Sài Gòn không chỉ là để ghi nhớ lịch sử, mà
còn để hiểu rõ hơn về sự đa dạng của các con đường chính trị mà dân tộc ta từng
chọn và đi qua.
I. Bối cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của nền Cộng Hoà
Sau Thế chiến II, Việt
Nam thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, nhưng đồng thời rơi vào cuộc tranh
chấp ý thức hệ trong Chiến tranh Lạnh. (Thế giới tự do và Cộng sản Quốc tế)
– Hiệp định Genève
(20/7/1954): đất nước bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc với Ý thức hệ Cộng sản
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, Miền Nam cần một Ý Thức Hệ Cộng Hoà (Quyền
lực trao về cho Toàn dân: qua phổ thông đầu phiếu một chính phủ dân cử) thành lập
chính quyền độc lập để chống lại chủ nghĩa Cộng sản.
– Trong bối cảnh ấy, Sài
Gòn được chọn làm thủ đô miền Nam, trở thành trung tâm chính trị, quân sự, và
hành chính. Tại đây, một bước ngoặt quan trọng đã diễn ra: chấm dứt vai trò
quân chủ của Quốc trưởng Bảo Đại và thành lập nền Cộng Hoà Việt Nam.
II. Sài Gòn – Chiếc nôi của Ý Thức Hệ Cộng Hoà Việt Nam
1. Trưng cầu
dân ý (23/10/1955)
– Tại Sài Gòn và khắp miền
Nam, cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức để quyết định số phận Quốc dân cả nước.
Dân chủ, Tự do hay Quân chủ nô lệ.
– Kết quả công bố: đa số
cử tri bỏ phiếu truất phế Bảo Đại, mở đường cho việc thành lập chính thể Cộng Hoà.
2. Tuyên bố
thành lập Việt Nam Cộng Hòa (26/10/1955)
– Từ Dinh Độc Lập, Thủ tướng
Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa, trở thành Tổng thống đầu
tiên.
– Quốc kỳ và quốc ca được
xác định, đánh dấu sự ra đời của một quốc gia cộng hoà độc lập.
3. Ban hành Hiến
pháp 1956 (26/10/1956)
– Hiến pháp đầu tiên xác
lập mô hình cộng hoà: tam quyền phân lập với Tổng thống, Quốc hội và Tư pháp độc
lập.
4. Sài Gòn –
Thủ đô chính trị và xã hội
– Quốc hội Lập hiến, Dinh
Độc Lập, các bộ, các tòa án đều đặt tại đây.
– Báo chí, đảng phái,
phong trào xã hội phát triển sôi động. Khởi đầu Xã hội Dân sự.
5. Đệ Nhị Cộng
Hòa (1967–1975)
– Hiến pháp 1967 ban hành
tại Sài Gòn, mở ra giai đoạn Đệ Nhị Cộng Hoà với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
– Sài Gòn tiếp tục là
trung tâm chính trị của miền Nam.
III. Ý nghĩa của Sài Gòn trong lịch sử Cộng Hoà Việt Nam
1. Biểu tượng chuyển đổi
chế độ: từ quân chủ sang cộng hoà, phù hợp với xu thế dân chủ toàn cầu.
2. Trung tâm lập hiến – lập
pháp: nơi soạn thảo và công bố Hiến pháp 1956, 1967.
3. Không gian dân chủ và
tự do: đời sống báo chí, phong trào chính trị sôi động.
4. Di sản để lại: tinh thần
pháp quyền, ý thức dân chủ vẫn có ảnh hưởng đến tư duy chính trị Việt Nam sau
này.
Nhìn lại lịch sử, có thể
khẳng định: Sài Gòn chính là nơi sinh ra Ý thức hệ Cộng Hoà Việt Nam. Từ trưng
cầu dân ý 1955, đến Hiến pháp 1956 và 1967, dẫn đường cho Sài Gòn trở nên cái
nôi chính trị – pháp lý của một thể chế cộng hòa trên đất Việt Nam. Có thể ví
như một Philadelphia, Hoa Kỳ – Nơi bắt đầu Ý thức hệ Cộng Hoà chấm dứt chế độ
nô lệ của Quân chủ thực dân Anh.
Vai trò ấy không chỉ mang
ý nghĩa với miền Nam, mà còn đánh dấu bước ngoặt lịch sử toàn dân tộc: từ quân
chủ sang cộng hoà dân chủ. Khi nhắc lại, chúng ta không chỉ hồi tưởng, mà còn
trân trọng di sản tinh thần của Sài Gòn – thành phố từng là thủ đô của một nền
cộng hoà, từng mang hoài bão dân chủ và pháp quyền cho dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp Việt Nam Cộng
Hòa, 1956, Sài Gòn.
2. Hiến pháp Việt Nam Cộng
Hòa, 1967, Sài Gòn.
3. Quốc hội Lập hiến Việt
Nam Cộng Hòa (1955–1956), Biên bản và Tư liệu, Sài Gòn.
4. Bộ Thông Tin VNCH
(1955–1975), các ấn phẩm chính thức và niên giám.
5. Nguyễn Văn Trung,
1963. ‘Chính trị học nhập môn’, Sài Gòn.
BIỆT
CÁCH LƯU DANH hay Hổ Xám Vào An Lộc được Đình Đại phổ nhạc vào khoảng 2015 từ một
bài thơ vô danh mang tên là GỞI EM CÔ GÁI BÌNH LONG. Tương truyền là bài thơ kể
trên được viết bởi một người lính Biệt Cách Nhảy Dù 81 hay Biệt Kích khoảng đầu
năm 1975.
Theo
trang Web Bất Khuất.Net của Trường Bộ Binh Thủ Đức thì Bài "Gửi Em Cô Gái
Bình Long là của một người lính Biệt Kích vô danh. Anh là một hạ sĩ trẻ của biệt-đội
I. Thángnăm 1975 nhảy toán vào Phước
Long. Bị thương và bị bắt. Trong giờ phút cuối cùng của đời người, anh đã cố viết
được một bài thơ rất cảm động với mong muốn gửi tặng cô giáo Pha. Anh ấy đã chết
sau đó 8 ngày và bài thơ đã được một người tù nhớ thuộc lòng và đem về cho thế
giới tự do từ lao tù cộng sản".
“Nhớ
theo Hổ Xám vào An Lộc
Ðội
pháo trên đầu như đội mưa
Múa
kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc
Mà
tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.
Trong
tiếng đạn reo mù khói trận
Bỗng
gặp em, cô giáo như mơ
Em
ngồi rũ tóc trong hầm tối
Ðọc
tiếng kinh cầu, như đọc thơ”.
“Lạy
Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng
tin có Chúa ngự trên trời
Chúa
ơi, Biệt Kích là thi sĩ
Thi
sĩ cầm gươm như đi chơi”.
“An
Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt
Cách Dù vị quốc vong thân”
Lời
thơ hôm ấy sao hay quá
Nghĩa
trang buồn như tiếng lá rơi.
Pha
hỡi, bây chừ em đâu nhỉ?
Cô
giáo hôm xưa đã lấy chồng?
Chúc
em hạnh phúc răng long bạc
Còn
anh hôm nay vào Phước Long.
Anh
theo quân vào nơi hiểm địa
Hét
tiếng xung phong đến vỡ trời
Bắn
cháy xe tăng như uống rượu
Mà
tưởng em đang rót chén mời.
Bóng
địch chập chùng nơi cửa ngõ
Ba
trăm quân đánh một sư đoàn
Mãnh
hổ nan địch quần hồ bại
Anh
thối binh về mà thấy oan.
Nửa
chừng lại gặp cơn bão lửa
Toán
Delta bị kích giữa đàng
Ôi
lại Phước Long lưu chiến tích
Anh
bị trúng đạn giữa rừng hoang.
Và
chừ giờ đang ngồi bó gối
Tay
xích chân xiềng trong trại giam
Máu
bụng vẫn tuôn ra như suối
Anh
biết mình thôi thế là tan.
Nhưng
giây phút cuối anh vẫn nhớ
Màu
áo hoa dù nón mũ xanh
Nhớ
dáng em xưa cô giáo nhỏ
Họa
bút thành thơ như tiếng oanh.
“Túy
ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Sá
gì một cõi đi về đất
Biệt
Cách lưu danh, Biệt Kích đời.”
Video
được LAM SON 719 thu âm và dàn dựng vào năm 2017 trên âm thanh thật của tiếng
súng, pháo và trực thăng bởi chính anh cũng đã từng tham chiến và bước về từ
cõi chết trong trận chiến kinh hoàng trên đồi Charlie.
Tiếng
đệm đàn của nhạc sĩ Đặng Bình và anh cũng là một cựu Biệt Kích trong Lực Lượng
Đặc Biệt.
Sau
lần thu âm năm 2017, Đình Đại quyết định đổi tựa bài hát từ Hổ Xám Vào An Lộc
thành Biệt Cách Lưu Danh đểkhông chỉ
kính tặng bài hát này cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù mà còn cho toàn thể
các binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bởi tinh thần hào hùng bi tráng của
bài thơ kể trên.
XIN
THÀNH KÍNH TRI ÂN TOÀN THẾ CHƯVỊ QUÂN
DÂN CÁN CHÍNH CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ ĐÃ MỘT LÒNG VỊ QUỐC VONG THÂN TỪ TRONG THỜI
CHIẾN CHO ĐẾN THỜI BÌNH.
Tác
giả: James H. Willbanks - Joaquin Nguyễn Hòa. Dịch
14
tháng 10 2025
Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,
Một binh sĩ Việt Nam Cộng hòa trong trận
đánh phía nam An Lộc năm 1972
An
Lộc là một trong những chiến trường khốc liệt nhất trong Mùa hè đỏ lửa 1972. Hồi
ức của một người Mỹ cho thấy thêm những góc khuất chưa được biết tới của trận
chiến này.
Một
trong những định kiến dai dẳng về Chiến tranh Việt Nam là binh lính Quân lực
Việt Nam Cộng hòa không chịu chiến đấu. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy
những lời đồn này không những là sự sỉ nhục đối với nhiều binh sĩ miền Nam Việt
Nam, những người đã chiến đấu vì đất nước của họ, mà còn không đúng sự thực. Với
tư cách là sĩ quan cố vấn cho một trung đoàn bộ binh ở An Lộc năm 1972, tôi đã
có dịp chứng kiến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam trong những điều kiện chiến đấu
khắc nghiệt nhất của cuộc chiến.
Chiến
trường An Lộc là một phần của cuộc tấn công mùa xuân
1972 của Bắc quân, đó là một cuộc tấn công ba mũi được thiết kế để làm sụp đổ
chính quyền và quân đội Nam Việt Nam.
Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 30
tháng 3 năm 1972, với ba sư đoàn quân Bắc Việt của Mặt trận B-5 đã tiến
công về phía nam, tràn qua khu vực phi quân sự tới Quảng Trị và Huế. Thêm vào
đó, các lực lượng Bắc quân dưới sự điều động của Mặt trận B-3 đã tấn công Kon
Tum ở Cao nguyên Trung phần. Ba ngày sau đó, ba nhóm lực lượng Bắc quân dưới sự
điều động của các tổng tư lệnh Mặt trận B-2 đã tấn công tỉnh Bình Long, Vùng
III chiến thuật. Tổng cộng có 14 sư đoàn Bắc quân và 26 trung đoàn độc lập, bao
gồm 120.000 binh sĩ và ước tính 1.200 xe tăng và chiến xa đã tham gia vào cuộc
phản công này, vốn được gọi là Chiến dịch Nguyễn Huệ.
Vùng
III chiến thuật bao gồm 11 tỉnh lỵ xung quanh Sài Gòn, nằm giữa cao nguyên miền
trung và châu thổ sông Cửu Long. Tỉnh Bình Long nằm ở phía tây bắc khu vực và
giáp với biên giới Campuchia ở phía tây. Tỉnh lỵ An Lộc có dân số 15.000 người,
bao quanh bởi 75.000 mẫu đất đồn điền cao su. Nó cặp theo Quốc lộ 13, một xa lộ
chạy thẳng từ biên giới Campuchia tới thủ đô miền Nam Việt Nam, nơi chỉ cách An
Lộc chừng 100km.
Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,
Bom do máy bay Mỹ ném ở bên ngoài An Lộc để
yểm trợ cho
Việt Nam Cộng hòa (trái) và toàn cảnh
thị trấn An Lộc trong Mùa hè đỏ lửa 1972 (phải)
Khoảng
6 giờ 50 sáng ngày 5 tháng 4, Sư đoàn 5 Cộng quân bất ngờ tấn công Lộc Ninh,
huyện lỵ nằm trên Quốc lộ 13 thuộc tỉnh Bình Long, khoảng nửa đường từ biên giới
Campuchia tới An Lộc. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Sư đoàn 3, cùng Thiếu
tướng James F. Hollingsworth, cố vấn Hoa Kỳ, điều toàn bộ lực lượng trong tay đến
tiếp cứu Bình Long. Cuộc tấn công nhằm vào lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
chỉ khoảng 2.000 binh sĩ (đa phần thuộc Trung đoàn 9 Sư đoàn 5 Quân lực Việt
Nam Cộng hòa và các đơn vị đồn trú địa phương) cùng 7 cố vấn Mỹ, diễn ra cực kỳ
khốc liệt với thiết giáp, pháo binh, súng cối và hỏa tiễn. Đến chiều 7/4, những
đợt tấn công liên tiếp "lấy thịt đè người" được yểm trợ bằng thiết
giáp và pháo hạng nặng đã giúp Bắc quân chiếm một số vị trí của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa. Một số binh sĩ và cố vấn Mỹ thoát được, nhưng nhiều người khác bị
giết hoặc bắt giữ.
Mặt
trận B-2 chiếm An Lộc đã huy động ba sư đoàn Cộng quân Bắc Việt cùng các lực lượng
yểm trợ khác. Vào thời điểm đó, dù một số đơn vị cộng sản vẫn theo kiểu Việt cộng
truyền thống, các sư đoàn này đã được tổ chức và trang bị thành đơn vị chủ lực
của quân đội Bắc Việt, gồm chủ yếu các chiến binh từng đi đường mòn Hồ Chí Minh
vào Nam. Theo kế hoạch, Sư đoàn 9 Việt Cộng, vốn được xem là một trong những
đơn vị tinh nhuệ, được chọn tấn công An Lộc. Sư đoàn 7 Bắc quân có nhiệm vụ chặn
tiếp liệu và quân từ Sài Gòn tới An Lộc bằng cách cắt Quốc lộ 13 đoạn phía nam
An Lộc, giữa Chơn Thành và Lai Khê. Sư đoàn 5 Việt Cộng, vốn đã khởi động chiến
dịch tiến công ở Bình Long bằng việc chiếm Lộc Ninh, sẽ tham gia cùng Sư đoàn 9
tấn công An Lộc sau đó.
Nguồn hình ảnh Getty Images
Chụp lại hình ảnh,
Lính Việt Nam Cộng hòa hành quân trên Quốc
lộ 13
để giải cứu đồng đội đang bị vây ráp tại
An Lộc
Sau
khi Lộc Ninh thất thủ, Bắc quân tiếp tục tấn công xuống phía nam, đánh vào hai
đồn nhỏ giữa Lộc Ninh và An Lộc do một lực lượng đặc biệt cỡ trung đoàn (TF-52)
thuộc Sư đoàn 18 Quân lực Việt Nam Cộng hòa trấn giữ, dưới quyền chỉ huy của tư
lệnh Sư đoàn 5. Bắc quân chiếm được các vị trí này khiến những binh sĩ còn sống
sót phải rút về An Lộc. Trưa 12 tháng 4, tôi cùng một sĩ quan Hoa Kỳ khác bay tới
An Lộc tham gia lực lượng đặc biệt, thay thế các cố vấn bị thương đã được đưa về
Sài Gòn.
Không
lâu sau, Sư đoàn 9 Việt Cộng chiếm sân bay dã chiến Quản Lợi, chỉ cách An Lộc
ba cây số về đông bắc. Việc Quản Lợi thất thủ cùng với Quốc lộ 13 phía nam bị
Sư đoàn 7 Bắc quân chặn đứng đồng nghĩa An Lộc bị bao vây và cắt đứt mọi nguồn
yểm trợ, mở đầu cuộc vây hãm kéo dài gần 3 tháng.
Sau
đó là một khoảng lặng ngắn khi Bắc quân chuẩn bị cho cuộc tấn công chính vào thị
trấn. Tới trưa 12 tháng 4, lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong và quanh
thị trấn đã tăng lên 9 tiểu đoàn bộ binh, gồm quân của Sư đoàn 5, 18, lính biệt
kích và địa phương quân. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh Sư đoàn 5, bắt đầu chỉ
huy toàn bộ các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong thị trấn.
Sáng
13 tháng 4, Bắc quân khai hỏa bằng pháo, cối và hỏa tiễn. Ngay sau bình minh, họ
phối hợp bộ binh và thiết giáp tấn công từ đông bắc. Xe tăng T-54 và PT-76 của
Liên Xô tràn vào trên trục đường chính bắc-nam thị trấn.
Đơn
vị TF-52 của chúng tôi gánh phần nặng nhất ở phía bắc. Binh sĩ chưa từng đối đầu
xe tăng và chỉ có ít vũ khí chống thiết giáp, nên chúng tôi rút về phía nam dọc
con lộ bắc-nam đến một cứ điểm do lực lượng tỉnh lỵ Bình Long trấn giữ. Thế trận
tạm ổn định khi một binh sĩ địa phương hạ một xe tăng địch bằng súng chống tăng
M-72 (LAW).
Chiến
sự quyết liệt suốt ba ngày khi quân Bắc Việt lấn từng ngôi nhà. Cả hai bên chịu
thương vong nặng nề. Quân lực Việt Nam Cộng hòa suy yếu nhiều dù đã chiến đấu hết
sức. Sau ba ngày, Bắc quân mất 23 xe tăng nhưng đẩy lùi Quân lực Việt Nam Cộng
hòa vào một đồn lũy chu vi chỉ 1.000–1.500 mét ở phía nam thị trấn, trong khi
chiếm giữ phần còn lại. Có lúc hai bên chỉ cách nhau chiều rộng một con đường.
Thỉnh thoảng quân tấn công gần chiếm được hầm chỉ huy của tướng Hưng, nhưng mỗi
lần như vậy lại buộc phải rút lui.
Yếu
tố chủ đạo cản trở cuộc tấn công mở màn của Bắc quân vào An Lộc là sự yểm trợ của
không quân Hoa Kỳ, được điều phối bởi các cố vấn Mỹ phối hợp với Quân lực Việt
Nam Cộng hòa trên trận địa. Trong khi binh sĩ và các oanh tạc cơ của Không
quân, Hải quân, Thủy quân Lục chiến, cùng máy bay AC-130 và trực thăng tấn công
phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng thủ trực diện, tướng James F.
Hollingsworth điều động B-52 đánh vào các khu tập kết trong đồn điền cao su
quanh thị trấn. Sự yểm trợ này đã tạo nên khác biệt trong những trận giao tranh
khốc liệt ba ngày đầu, cứu các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa ít quân khỏi
thất bại gần như chắc chắn. Mô hình phản công này tiếp tục được áp dụng trong
hai tháng sau đó.
Sau
ba ngày, cường độ chiến cuộc trong thị trấn có vẻ lắng dịu khi Bắc quân giảm
công kích vì bị không kích liên tục. Tuy vậy, họ vẫn siết chặt gọng kìm quanh
An Lộc, tiếp tục nã pháo dữ dội. Hơn 25.000 quả đạn pháo đã được bắn trong ba
ngày đầu và còn tiếp diễn suốt tuần sau khi họ tập hợp lực lượng cho một đợt tấn
công mới.
Ngày
16 tháng 4, Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh ra lệnh cho Lữ đoàn 1 Không vận, vốn
đang đánh phá hầm công sự dọc Quốc lộ 13, tiến về phía nam giải tỏa lực lượng địch
và mở một cuộc tấn công trực thăng vào cao điểm ở cánh đông nam An Lộc để tăng
cường cho thị trấn.
Cuộc
tấn công chính của Sư đoàn 9 Việt Cộng bị đẩy lùi nhờ không lực Mỹ và tinh thần
kiên cường của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Bắc quân buộc phải điều chỉnh kế hoạch,
mở cuộc tấn công mới từ phía đông. Một lần nữa, Sư đoàn 9 đảm trách mũi chủ lực,
được yểm trợ bởi Sư đoàn 5 và 7, đánh vào các cứ điểm của Lữ đoàn 1 Không vận ở
đông nam. Để đối phó không lực Mỹ, Sư đoàn 9 đưa thêm hỏa lực phòng không, kể cả
hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 Strella và pháo tự hành ZSU-57-2 do Liên Xô sản xuất.
Nỗ
lực đánh chiếm An Lộc lần thứ nhì bắt đầu trước bình minh ngày 19 tháng 4 với hỏa
lực cấp tập dội vào thị trấn, tiếp theo là quân Bắc Việt tràn vào. Lực lượng
phòng thủ Quân lực Việt Nam Cộng hòa và cố vấn chống trả các đợt tấn công liên
tiếp, đồng thời dùng không lực yểm trợ tầm gần tung hỏa lực diệt các đợt biển
người của địch. Trận chiến vô cùng khốc liệt, nhưng nhờ có không quân, binh sĩ
phòng thủ vẫn đánh trả được.
Đến
ngày 20 tháng 4, cường độ tấn công của Bắc quân dịu bớt, song họ vẫn tiếp tục bắn
phá bằng pháo tăng 100mm, hỏa tiễn, pháo, cối. Trong lúc đạn pháo nổ liên hồi,
điều kiện sống ở An Lộc trở nên thảm hại. Binh sĩ phòng thủ và dân thường không
kịp chạy đã phải sống dưới hầm, ra ngoài là đối mặt rủi ro lớn.
Đa
phần nhà cửa trong thị trấn hư hại vì pháo kích liên tục. Khắp nơi hoang tàn, với
gạch đá, cây cối gãy đổ, xác thú nuôi và rác rến vương vãi. Thương vong nặng nề:
trên đường phố và trong đống đổ nát rải rác xác binh sĩ lẫn thường dân. Một cố
vấn báo cáo: "tử thi của đàn ông, đàn bà, trẻ con ở khắp nơi." Mùi tử
thi ám không khí. Trong cảnh ấy, dịch bệnh nhanh chóng lây lan, kể cả dịch tả,
trong cả binh sĩ lẫn dân chúng. Để ngăn dịch, giữa những khoảng lặng của pháo
kích, binh sĩ phải dùng máy xúc đào hố chôn tập thể, có hố chứa 300–500 tử thi.
Nhiều xác còn phải chôn lại vì pháo nổ tung các hố chôn ban đầu.
Đạn
pháo phòng không của địch tăng mạnh tới mức việc tái yểm trợ bằng đường không
cho các chiến sĩ phòng thủ trở nên bất khả thi. Vật dụng y tế cũng dần cạn kiệt
và gần như không còn có thể làm gì khi con số thương vong cứ tăng cao. Tình trạng
thực phẩm và đạn dược cũng chẳng mấy khả quan. Không có bất cứ thứ gì có thể ra
hay vào thành phố; tương tự cũng không có cách nào để chuyển thương binh ra
ngoài. Trong điều kiện thiếu thốn bất hạnh ấy, các binh sĩ phòng thủ đã phải tự
chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công dữ dội kế tiếp của Bắc quân.
Nguồn hình ảnh,Getty Images
Chụp lại hình ảnh,
Quân Việt Nam Cộng hòa chiến đấu bên ngoài
An Lộc trong Mùa hè đỏ lửa 1972
Quân
Bắc Việt lại thay đổi kế hoạch. Tài liệu thu được cho biết chỉ huy Sư đoàn 9 Việt
Cộng đã bị kiểm điểm vì không hoàn thành nhiệm vụ sau hai lần tấn công. Một kế
hoạch mới điều động Sư đoàn 5 Việt Cộng phụ trách tấn công chính, với sự yểm trợ
của Sư đoàn 7 Bắc quân và Sư đoàn 9 Việt Cộng, tổng cộng 9 trung đoàn.
Cuộc
tấn công bắt đầu lúc 5 giờ sáng ngày 11 tháng 5 của quân Bắc Việt như thường lệ
mở màn với đạn pháo hạng nặng. Trong vòng 12 tiếng tiếp theo, thị trấn đã lãnh
trọn 10.000 viên đạn pháo. Trong khi được pháo binh yểm trợ, xe tăng và bộ binh
Bắc Việt đã tấn công phía bắc và tây bắc thị trấn. Địch quân thành công đẩy lùi
hai trọng điểm của tuyến phòng thủ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, gần như chia
cách được phòng tuyến. Chiến trận rất khốc liệt, có lúc các binh sĩ phòng thủ
Quân lực Việt Nam Cộng hòa gần như bị bẻ gãy. Tuy nhiên, sự yểm trợ chiến thuật
trên không đã giúp quân Miền Nam không thua trận khi họ kiên trì cố thủ.
Cho
tới cuối tháng 5, mặc dù chiến trận vẫn tiếp diễn nhưng thế trận đang ngả về
phía có lợi cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Những đợt không kích suốt ngày đêm
đã gây thương vong nặng nề cho quân Bắc Việt; tin tình báo của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa sau đó ước tính số thương vong Bắc quân trong trận An Lộc là khoảng
10.000 trong tháng 4 và 5.
Quân
Bắc Việt đã dốc toàn lực vào An Lộc và sẽ không còn tổ chức tấn công quy mô lớn
vào đó nữa trong năm 1972. Đầu tháng 6, Thiếu tướng Minh gửi quân tiếp viện tới
An Lộc và bắt đầu cho những binh sĩ còn sống sót của Sư đoàn số 5 Quân lực Việt
Nam Cộng hòa rút lui. Ngày 16 tháng 8, ông tuyên bố cuộc bao vây An Lộc của địch
đã bị bẻ gãy.
Nhưng
điều đó không có nghĩa là hòa bình đã đến với An Lộc, khi đạn pháo vẫn tiếp tục
mặc dù ở mức độ thấp hơn nhiều. Những cuộc giao tranh vẫn còn diễn ra rải rác
trong thành phố cho tới cuối mùa hè. Ngày 9 tháng 7, Chuẩn tướng Richard
Tallman, cấp phó của tướng Hollingsworth, cùng với ba sĩ quan của ông và một
thông dịch viên của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tử trận do đạn pháo của địch
quân ngay sau khi vừa hạ cánh ở An Lộc để phối hợp hành động. Hai sĩ quan Mỹ
khác, một trong hai người là tác giả bài viết này, đã bị thương trong cuộc tấn
công đó và đã được trực thăng tải thương về Sài Gòn.
Tới
giữa tháng 7 thì trận An Lộc kết thúc. Những đợt đạn pháo, ước lượng khoảng
trên 78.000 viên trong suốt tháng 4 và tháng 5 đã khiến thị trấn gần như hoàn
toàn đổ nát. Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 5.400 binh sĩ thương vong, trong đó
có 2.300 người chết hoặc mất tích. Sau này có một cố vấn đã mô tả là, "Những
nấm mồ, những xe cộ cháy đen và sự hoang tàn đổ nát là chứng nhân câm lặng cho
sự khốc liệt của cuộc chiến đã diễn ra ở đây."
Dù
sao đi nữa, Quân lực Việt Nam Cộng đã đứng vững và thị trấn An Lộc vẫn nằm
trong tay miền Nam. Mặc dù cũng có tổn thất, các binh sĩ phòng thủ cùng các cố
vấn của họ, với sự giúp đỡ của không lực chiến thuật Hoa Kỳ, đã kiên quyết đánh
bại được ba sư đoàn tinh nhuệ của quân Bắc Việt và giữ được thị trấn dù lép vế
hơn hẳn.
Thành
thật mà nói thì trong cuộc chiến đấu bảo vệ An Lộc, Quân lực Việt Nam Cộng đã
chiến đấu không đồng đều, có những đơn vị đã không có được hào quang chiến thắng.
Nhưng những đơn vị khác đã chiến đấu với kỹ năng tác chiến và lòng dũng cảm
siêu phàm. Sau khi chiến cuộc kết thúc, Trung tá Laddie Logan đã xác nhận rằng, "Đội biệt
kích dù 81 đã không hề từ bỏ dù chỉ một tấc đất, họ không bao giờ bỏ lại một
xác đồng đội mà không chôn cất, ngay cả khi đang ở dưới những đợt pháo đạn nặng
nề nhất."
Lúc
Bắc quân bắt đầu tấn công, đội biệt động quân số 3, dưới quyền chỉ huy của Đại
tá Nguyễn Văn Biết, có khoảng hơn một ngàn binh sĩ; sau ba tháng chiến đấu có
346 người tử trận hoặc bị thương. Yểm trợ y tế rất ít ỏi, nhưng các binh sĩ
trong phần lớn cuộc chiến đã duy trì chiến đấu với khả năng cao nhất của mình
trong những tình huống vô cùng ngặt nghèo.
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Chụp lại hình ảnh,
Phụ nữ và trẻ em lên trực thăng sơ tán khi
quân Bắc Việt pháo kích An Lộc
Các
lực lượng địa phương quân dưới sự chỉ huy của Đại tá Trần Văn Nhựt nói chung đã
rất xuất sắc trong suốt thời gian An Lộc bị bao vây. Họ được trang bị đầy đủ,
được huấn luyện kỹ càng và được chỉ huy tốt. Nhiều người có người thân thiệt mạng
và đã phải chứng kiến nhà cửa của mình bị phá hủy trong cuộc chiến. Họ có lý do
để chiến đấu và họ quả thực đã chiến đấu hết sức mình để chống lại quân chính
quy Bắc Việt; họ vẫn giữ được tinh thần cao mặc dù thương vong nặng nề.
Trong
từng khoảnh khắc của cuộc chiến, tinh thần chỉ huy là yếu tố chính của khả năng
chiến đấu của một đơn vị; ở đâu có người chỉ huy xông xáo, cùng chia sẻ khó
khăn gian khổ với binh sĩ thì ở đó thái độ và sự thi hành nhiệm vụ của binh sĩ
là hết sức mẫu mực. Chẳng hạn, khi quân Bắc Việt bao vây một tiểu đoàn Quân lực
Việt Nam Cộng hòa ở nhà tù thị trấn vào đêm 10 rạng sáng ngày 11 tháng 5, binh
sĩ miền Nam đã gần hết đạn dược và gần như không còn phương tiện tự vệ nữa.
Quân Bắc Việt đã nhắn gọi người chỉ huy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa rằng,
ông đã chiến đấu rất giỏi, nhưng đã bị bao vây, rằng ông có thể đầu hàng trong
danh dự và sẽ được bảo vệ; nhưng nếu không đầu hàng thì ông và toàn bộ binh sĩ
của ông sẽ bị giết. Người chỉ huy ấy đã trả lời rằng, ông không bao giờ đầu
hàng như vậy. Trong vài tiếng đồng hồ sau đó, quân Bắc Việt tràn vào vị trí chỉ
huy. Vị chỉ huy tiểu đoàn đó và các binh sĩ của ông đã chiến đấu tới người lính
cuối cùng. Thi thể của họ đã được tìm thấy vào ngày 12 tháng 6, lúc Trung đoàn
số 7 Quân lực Việt Nam Cộng hòa rà soát khu vực đó khi đang giằng co từng căn
nhà với địch. Viên chỉ huy và các binh sĩ của ông đã dũng cảm hy sinh trong chiến
đấu.
Trong
một trường hợp khác, viên chỉ huy trưởng Trung đoàn số 7, Thiếu tá Lý Đức Quân
(sau này được Tổng thống Thiệu phong hàm đại tá tại mặt trận) đã ba lần bị
thương trong suốt cuộc chiến. Trong giai đoạn căng thẳng nhất vào giữa tháng 5,
ông đã chỉ huy chiến đấu trong khi bản thân đang nằm trên cáng cứu thương.
Dù
vậy, không người nào đã từng ở An Lộc lúc đó có thể phủ nhận thực tế là không lực
Hoa Kỳ, dưới bất kỳ hình thức nào, là một yếu tố then chốt trong việc bảo vệ thị
trấn. Nếu không có sự yểm trợ không lực đó thì thị trấn ắt hẳn đã thất thủ ngay
khi cuộc tấn công bắt đầu. Có tổng cộng 247 phi vụ B-52 cùng với 9.203 cuộc tấn
công chiến thuật hàng không để chống trả quân Bắc Việt ở Lộc Ninh, An Lộc và dọc
theo Quốc lộ 13. Xét về mọi mặt thì yểm trợ không lực chiến thuật là một yếu tố
chủ đạo của chiến thắng.
Đại
tướng Creighton Abrams, cựu chỉ huy viện trợ quân sự Việt Nam, sau này có tuyên
bố rằng, theo quan điểm của ông, thì "Không lực Hoa Kỳ… đã khiến quân Bắc
Việt thua trận." Các tướng lãnh Nam Việt Nam cũng đồng ý rằng thị trấn có
thể đã thất thủ nếu như họ không có được sự đáp ứng của các trực thăng chiến đấu
của quân đội phối hợp với yểm trợ của Không Lực Hoa Kỳ.
Play
video, "Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của
Kissinger?", Thời lượng 12,20
Đại
tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã phát biểu
sau cuộc chiến rằng, "Nếu không có sự yểm trợ chiến thuật trên không này
thì thắng lợi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong việc đẩy lùi sự xâm lăng của
địch quân là bất khả thi."
Với
tất cả những điều nêu trên, cần phải nhớ rằng, khi chiến cuộc ở An Lộc kết
thúc, các đạo quân miền Nam Việt Nam đã đứng vững trong tình huống quá sức
mình. Giống như phóng viên Rudolph Rauch của tờ Time đã dẫn lời một trong các cố
vấn quân sự Hoa Kỳ ở An Lộc rằng, "Cách duy nhất để tiếp cận cuộc chiến ở
An Lộc là nhớ rằng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang ở đó, còn quân Bắc Việt thì
không. Nhìn nó dưới bất kỳ nhãn quan nào khác là một sự bất công cho người Việt
Nam."
Một
thực tế là sự hy sinh của các chiến sĩ ở An Lộc (cũng như đồng đội của họ ở Kon
Tum và Quảng Trị) trong năm 1972 đã được chứng tỏ là vô ích. Với sự yểm trợ của
Hoa Kỳ, quân đội miền Nam đã đứng vững ở An Lộc và Kon Tum, và chống trả để lấy
lại Quảng Trị. Xét cho cùng, họ đã chiến thắng chống lại tất cả những gì Cộng
quân tung ra.
Sau
chiến cuộc 1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đồng ý với Hiệp định Hòa bình
Paris chủ yếu vì những lời hứa mà Richard Nixon lặp đi lặp lại rằng Hoa Kỳ sẽ
tiếp tục yểm trợ miền Nam. Họ tự giữ vững trong suốt cuộc chiến kéo dài tới năm
1974, thế nhưng khi Bắc Việt gia tăng cường độ vào tháng 12 năm đó, lời hứa yểm
trợ vốn dĩ đã được thực hiện trong những trận chiến tuyệt vọng năm 1972 đã
không hề được thực hiện; và cuối cùng miền Nam phải rơi vào tay Cộng sản. Dù vậy,
người ta không bao giờ quên được sự dũng cảm mà các binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng
hòa đã thể hiện trong năm 1972.
Tác giả: Tiến sĩ James H. Willbanks
là trung tá Lục quân Hoa Kỳ, cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam và sử gia quân
sự. Ông từng làm cố vấn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong Mùa hè đỏ lửa
1972, trải qua trận vây hãm An Lộc, hai lần bị thương và được trao Huân chương
Sao Bạc, hai Sao Đồng, hai Tử Tâm; cùng ba Huân chương Anh dũng Bội tinh của Việt
Nam Cộng hòa. Sau khi giải ngũ năm 1992, ông trở thành giáo sư và giám đốc Bộ
môn Lịch sử Quân sự tại Trường Chỉ huy – Tham mưu Lục quân Hoa Kỳ, được phong
giáo sư danh dự.
Willbanks
là tác giả nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về Chiến tranh Việt Nam như
Thiet Giap! The Battle of An Loc (1993), The Tet Offensive: A Concise History
(2008) và A Raid Too Far (2014), đồng thời được ghi nhận rộng rãi vì đóng góp học
thuật và giúp công chúng hiểu rõ hơn về cuộc chiến.
SOURCE:
Mùa
hè đỏ lửa: Chiến đấu cùng Quân lực Việt Nam Cộng hòa năm 1972 –