Tuesday, June 30, 2020

Cuộc triệt thoái bi thảm của QLVNCH khỏi Cao Nguyên năm 1975


Kể từ khi Tiểu Khu Phước Long bị các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đánh chiếm hồi Tháng Giêng, 1975, tiến trình sụp đổ của chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam có thể nói là đã khởi đầu bằng cuộc triệt thoái bi thảm khỏi Cao Nguyên của Quân Đoàn 2 Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hồi Tháng Ba và kết thúc với việc Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ vào tay Cộng Quân vào ngày 12 Tháng Ba, 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 dưới quyền Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, vào chiều ngày 14 Tháng Ba, triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo quyết định rút bỏ Cao Nguyên do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra.

Thiếu Tướng Phú ra lệnh cho Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh rút từ đèo Mang Yang về tăng phái cho Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân để lữ đoàn này cùng Công Binh sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên liên tỉnh lộ 7B mà theo kế hoạch thì sẽ được dùng làm con đường rút lui chính của các lực lượng Quân Đoàn 2 tử Pleiku về Tuy Hòa.
Liên tỉnh lộ 7B từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hòa trước đây là một con đường trải đá, có ba cây cầu chính là Phú Thiện (dài 50 mét), Le Bac (dài 600 mét), và Cà Lúi (dài 40 mét). Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Vùng 2 Chiến Thuật, được chỉ định làm chỉ huy trưởng tổng quát cuộc rút quân.


Liên tỉnh lộ 7B trên bản đồ. (Hình: Tài liệu)

Diễn tiến cuộc triệt thoái

Ngày 16 Tháng Ba, đoàn quân xa vận chuyển vũ khí và quân dụng di tản bắt đầu rời thị xã Pleiku. Đoàn xe được chia ra thành bốn phần, mỗi phần có khoảng 300 quân xa đủ loại và các xe dân sự. Ngày đầu tiên, đoàn xe di chuyển êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ. Nhưng đến ngày 17 Tháng Ba, có thêm nhiều dân chúng lũ lượt kéo theo nên cuộc di tản trở nên hỗn loạn và phức tạp.

Ngày 18 Tháng Ba, trong khi Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân đang cùng với thiết giáp mở đường đánh dẹp các chốt của Cộng Quân thì bị Không Quân VNCH oanh tạc lầm, làm nhiều binh sĩ thương vong. Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân được lệnh cho Tiểu Đoàn 51 Biệt Động Quân  tiến nhanh và chiếm lĩnh cây cầu Phú Túc để Công Binh tiến hành sửa chữa. Trong khi chờ đợi, Tướng Phú ra lệnh tạm ngưng lui binh và lập phòng tuyến tại thị xã Hậu Bổn. Tuy nhiên quân dân tại tỉnh Phú Bổn, bị ảnh hưởng dây chuyền, cũng hoảng hốt gia nhập cuộc di tản. Tối đến, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt lại pháo kích vào thị xã làm cho nhiều thường dân vô tội bị chết oan.

Cũng trong ngày 18 Tháng Ba, Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc truy kích các lực lượng Quân Đoàn 2 đang rút lui, đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt thoái ở Phú Bổn, rồi sau đó tiếp tục tấn công xuống Củng Sơn. Nhận được báo cáo, Tướng Phú ra lệnh cho Tướng Tất rút bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hòa. Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân được điều động phản công cầm chân địch. Kịch chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài tới sáng hôm sau, lúc đó đoàn quân và dân mới tiếp tục di chuyển được. Tuy nhiên, một đơn vị Cộng Sản Bắc Việt khác đã tràn chiếm quận Phú Túc ở phía Nam Hậu Bổn. Đoàn xe di chuyển đến nhánh sông Ba phía Nam Củng Sơn thì bị cát lún, phải chờ trực thăng chở vĩ sắt đến cho Công Binh thực hiện việc lót đường.

Các đơn vị Cộng Quân từ Thuần Mẫn, Phú Bổn, đổ xuống đã tiếp tục thiết lập các chốt cản đường. Một tiểu đoàn Địa Phương Quân và một tiểu đoàn Biệt Động Quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Ngày 22 Tháng Ba, hai tiểu đoàn Biệt Động Quân ở lại đoạn hậu đã đánh tan một trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt, gây thiệt hại nặng cho đối phương. Tuy nhiên, lúc đó, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt từ Ban Mê Thuột lại được lệnh di chuyển gấp theo tỉnh lộ 287 để đổ xuống liên tỉnh lộ 7B mà chận cắt đoàn xe.

Ngày 26 Tháng Ba, đoàn xe di tản vẫn còn bị kẹt lại gần Phú Thứ (trên đường từ Củng Sơn về Tuy Hòa) vì có các chốt chận của Cộng Quân. Tính đến ngày này, theo báo cáo của Bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh, toàn bộ chiến xa M-48 và M-41 đều bị bỏ lại trên lộ trình hoặc bị phá hủy vì trúng đạn pháo địch, ngoại trừ một chi đoàn thiết vận xa M-113 chạy thoát về Tuy Hòa.

Tướng Phú ra lệnh cho Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, tư lệnh phó Quân Đoàn 2 đặc trách hành quân kiêm tư lệnh tiền phương Quân Đoàn 2-Quân Khu 2, bay chỉ huy lực lượng xung kích phối hợp với các phi đội trực thăng để giải tỏa áp lực địch. Tướng Phú cũng ra lệnh cho Chuẩn Tướng Tất điều động chi đoàn thiết vận xa M-113 trở lại Phú Thứ đặng phối hợp cùng với Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân triệt hạ các chốt chận của Cộng Quân.

Với sự yểm trợ của các thiết vận xa M-113, lực lượng Biệt Động Quân đã dần dần dọn sạch các chốt chận. Sau khi Tiểu Đoàn 34 Biệt Động Quân đã thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh Tòng để khai thông con đường di tản, đoàn xe đầu tiên của quân và dân Quân Khu 2 đã về được tới Tuy Hòa vào ngày 25 Tháng Ba. Tổng kết, trong số 1,200 xe quân sự vào lúc khởi sự cuộc di tản từ Pleiku thì khi đến Tuy Hòa chỉ còn lại 300 chiếc mà thôi.

Liên tỉnh lộ 7B từ Pleiku xuống Tuy Hòa. (Hình: Tài liệu)

Kết cục bi thảm

Về cuộc di tản hỗn độn và đầy chết chóc của quân và dân Vùng 2 Chiến Thuật trên liên tỉnh lộ 7B từ Pleiku về Tuy Hòa, nhà văn quân đội Phan Nhật Nam, trong bài viết nhan đề “44 Năm Sau, Nhìn Lại Mối Đau” đăng trân  nhật báo Người Việt, kể lại: “Súng nổ… 105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng Sản, tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng… Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một viên đạn. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay…”

Theo “Cuộc Di Tản Đầy Máu và Nước Mắt” của Mũ Xanh Lưu Văn Phúc trên trang mạng aihuubienhoa.com, chỉ có xấp xỉ 60,000 người dân đến đích, trong khi hai phần ba trong số người dân di tản, tức hơn 100,000 người, bị chết hoặc bị thương phải bỏ lại dọc đường. Về phía quân đội, gồm khoảng 20,000 quân tiếp vận và yểm tợ, chỉ còn 5,000 người đến nơi. Sáu tiểu đoàn Biệt Động Quân, gồm 7,000 người, chỉ còn 900 người đến trình diện Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 2 ở Nha Trang. Theo “The World Almanac of The Viet Nam War,” các kho đạn dược và quân nhu tại Kon Tum và Pleiku đã bị bỏ ngỏ, và tất cả quân trang, quân dụng cũng như vũ khí trị giá khoảng $253 triệu đều lọt vào tay Cộng Quân.

Cuộc lui binh của Quân Đoàn 2 trên liên tỉnh lộ 7B được coi là một cuộc lui binh bi thảm nhất trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Liên tỉnh lộ 7B từ đó được mệnh danh là “Hành Lang Máu,” con đường đầy nước mắt và xương máu của quân và dân Quân Khu 2 trong suốt chín ngày đêm từ Pleiku xuống Tuy Hòa.

Lịch sử lên tiếng

Ngay sau khi Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay Cộng Sản, vào ngày 30 Tháng Tư, 1975, nhiều người Việt Nam trong và ngoài nước và dư luận tại nhiều nơi trên thế giới đã cho rằng cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về việc Sài Gòn sụp đổ, bởi vì kế hoạch rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần – và sau đó là Quân Đoàn 1 tại miền Bắc Trung Phần – của vị tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại thê thảm.

Sau biến cố đau thương này của đất nước, việc giải mã các bí ẩn lịch sử ở hai bên bờ Thái Bình Dương dần dần cho thấy cái thế tất yếu của lịch sử không cho phép Việt Nam Cộng Hòa tồn tại lâu hơn cột mốc 1975, cho dù ông Thiệu và các tướng lãnh trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, kể cả Đại Tướng Cao Văn Viên và Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, có thành công đưa được chủ lực quân của Quân Đoàn 2 an toàn về Nha Trang tại Vùng 2 Chiến Thuật hay Sài Gòn tại Vùng 3 Chiến Thuật.

Cụ thể là, để duy trì một cuộc chiến tranh chống du kích với quy mô lớn lao như hồi thập niên 1970, chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa cần phải có ít nhất, tức tối thiểu, là $1 tỉ kinh viện và quân viện từ bên ngoài, trong khi kinh viện và quân viện của Mỹ cho năm 1975 đã bị Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm từ mức $700 triệu xuống chỉ còn $300 triệu, và rồi sẽ bị cắt đứt hẳn nếu chiến tranh còn kéo dài sang năm sau.

Dẫu sao, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và luôn cả Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cùng với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Vùng 2 Chiến Thuật, đều đáng bị chê trách vì đã tổ chức một cuộc lui binh tồi tệ nhất trong lịch sử Chiến Tranh Việt Nam.

Thật ra, các thông tin và tài liệu có được trước và sau Tháng Tư, 1975, cho thấy ông Thiệu và Tướng Viên cùng với Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Thiệu, đã từng thảo luận về một kế hoạch “co cụm” lãnh thổ – gọi là chiến lược “nhẹ đầu, nặng đuôi” – để Việt Nam Cộng Hòa có thể đủ ngân sách mà tồn tại thêm một thời gian từ ba đến năm năm nữa. Bởi vì chính phủ VNCH đã “đánh hơi” thấy được chuyện Quốc Hội Mỹ thế nào cũng cắt giảm hoặc chấm dứt kinh viện và quân viện cho miền Nam Việt Nam một khi quân tác chiến Mỹ và các tù binh chiến tranh của họ đã an toàn hồi hương sau khi Hiệp Định Paris được ký kết hồi năm 1973.

Theo kế hoạch dự trù này, chậm nhất là hai năm sau ngày ký Hiệp Định Paris, chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải tự ý rút bỏ Cao Nguyên Trung Phần và vùng duyên hải Bắc Trung Phần, tức Quân Khu 1 và Quân Khu 2, để tập trung về giữ phần lãnh thổ còn lại của miền Nam Việt Nam, tức là chỉ bao gồm các tỉnh thuộc Vùng 3 và Vùng 4 Chiến Thuật, cụ thể là từ Qui Nhơn hay Nha Trang tới Cà Mau mà thôi, nhằm tiết kiệm tiền bạc và thu nhỏ phạm vi phòng thủ của quân đội, với hy vọng Việt Nam Cộng Hòa sẽ có được một cơ may nào đó giúp mình tiếp tục tồn tại, như khả năng có tiền nhờ khai thác được dầu hỏa ngoài Biển Đông (Biển Nam Hoa) chẳng hạn.

Nhưng cả Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cứ chần chờ mãi mà không cho thực hiện chiến lược “nhẹ đầu, nặng đuôi” nói trên, có lẽ cả hai vị vẫn còn chút hy vọng rằng sẽ có những biến chuyển chính trị thuận lợi hơn tại Mỹ khi đảng Cộng Hòa giành lại được quyền kiểm soát Quốc Hội từ tay đảng Dân Chủ. Họ thừa biết rằng đảng Cộng Hòa có khuynh hướng diều hâu nên không dễ gì chịu thua phe Cộng Sản tại Việt Nam, và rằng Quốc Hội Mỹ lúc đó sẽ có thể tiếp tục, không nhiều thì ít, tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa để giữ vững miền Nam Việt Nam. Một lý do khác, có phần thầm kín hơn, là Tổng Thống Thiệu đã bị kẹt cứng vì lời thề “không nhường đất cho Cộng Sản” trong chủ trương “4 Không,” vốn là quốc sách trước và sau khi Việt Nam Cộng Hòa đặt bút ký vào Hiệp Định Paris 1973.

Thế rồi, khi Cộng Sản Bắc Việt khởi sự cuộc tấn công sau cùng để thôn tính Miền Nam Việt Nam qua việc đánh chiếm Ban Mê Thuột (ngày 12 Tháng Ba, 1975), Tổng Thống Thiệu và Tướng Viên mới gấp rút thực hiện kế hoạch “co cụm” đó, nhưng mọi sự đã quá trễ đi rồi. Hơn nữa, các học viện quân sự lớn trên thế giới (trong đó có cả Trường Bộ Binh Thủ Đức và Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa) đều cho rằng “lui binh” là một chiến thuật hết sức khó thực hiện và rất hiếm khi thành công nếu không có sự chuẩn bị chu đáo.

Vann Phan

Source:

Tháng Chạp 1974. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn ll và Quân khu 2,
đến thăm Chi Khu Lệ Trung.

Đi sau ông là Đại Tá Nguyễn Đức Dung, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Pleiku    

.

* Những bài viết về trận Banmêthuột của tác giả Bùi Anh Trinh (Phần 2)


Trận Banmêthuột, ngày đầu
*( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ần của Chiến tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh ).

Lực lượng phòng thủ của VNCH

Bộ binh :

Theo lời kể của Trung Úy Phan Văn Phụng, Trưởng ban hành quân Tiểu đoàn 3/53 BB :
Tiểu đoàn 1/53 (500 quân ) đóng tại Căn cứ B.50. là hậu cứ của Trung đoàn 53 mỗi khi đi hành quân về.  Giờ đây Tiểu đoàn được nằm tại hậu cứ Trung đoàn cùng với Bộ chỉ huy Trung đoàn.
Tiểu đoàn 3/53 có 2 đại đội ( 200 quân ) nằm ứng chiến tại khu Gia Binh Sư đoàn 23 tại mặt Nam của thị xã, 1 đại đội ( 100 quân ) phòng thủ Hậu cứ BTL/SĐ 23, phía Bắc của khu Gia Binh. Còn Đại đội thứ tư được tăng phái phòng thủ cầu 14, phía Nam của BMT, trên đường đi Quảng Đức.
Tiểu đoàn 2/53 ( 500 quân ) cùng với Bộ chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 53 đang phòng thủ Căn cứ Dak Song thuộc Tiểu khu Quảng Đức.
Đại đội Trinh sát của Trung đoàn 45 ( 100 quân ) hoạt động tại vùng Quảng Nhiêu, phía Bắc Đắc Lắc, ngày 8-3-1975 được điều về lục soát khu vực Bản Đôn, phía Tây thị xã BMT, ngày 9-3-1975 được kêu về nằm ứng chiến trong vòng đai Phi trường Phụng Dực.

Pháo binh:

Theo bài viết của Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc, thì vào thời điểm chiến trận nổ ra, tại BMT chỉ có 1 trung đội pháo binh ( 2 khẩu ) của Sư đoàn 23. 
Nhưng theo lời kể của Thiếu úy Vĩnh Bình, Pháo đội phó Pháo đội A thuộc Tiểu đoàn 231/PB thì lúc đó tại BMT có tới 1 Tiểu đoàn pháo binh VNCH, đó là Tiểu đoàn 231/PB, được bố trí như sau :
– Pháo đội A có 3 trung đội :  1 trung đội đóng tại xã Đạt Lý, cách trung tâm BMT 5 cây số về hướng Bắc, trên Quốc lộ 14; 1 trung đội đóng tại cây số 72 trên Quốc lộ 21, gần đồn Chu Cúc giáp ranh với Tiểu khu Khánh Hòa; 1 trung đội đóng tại phi trường L.19, cách Trung tâm thành phố 2 cây số. ( Mỗi trung đội là 2 khẩu 105 ly ).

– Pháo đội B gồm có 2 trung đội ( 4 khẩu 105 ly ) đóng tại hậu cứ Tiểu đoàn 231/PB, bên cạnh phi trường Phụng Dực, gần căn cứ B.50;  và 1 trung đội ( 2 khẩu 105 ly ) đóng gần Khu gia binh Sư đoàn 23/BB để yểm trợ cho các đơn vị đang phòng thủ tại khu vực cầu 14, phía Nam BMT.
– Pháo đội C ( 6 khẩu 105 ly ) đóng tại Gia Nghĩa, Quảng Đức để yểm trợ cho Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 53 tại căn cứ Dak Song và Liên đoàn 24 Biệt động quân đang hoạt động tại Quảng Đức.
– Tại BMT thay thế cho Pháo đội C/231 là 1 trung đội pháo binh 155 ly ( 2 khẩu ) thuộc Tiểu đoàn 230/PB đóng trong vòng đai phi trường Phụng Dực;
– 1 Trung đội pháo binh diện địa ( 2 khẩu 105 ly ) của Quân khu 2 đóng tại khu Thiết giáp, rìa Tây Bắc của thành phố, dùng để yểm trợ cho các đơn vị ĐPQ trong phạm vi Chi khu Ban Mê Thuột.

Tổng cộng là 8 trung đội Pháo binh, gồm 14 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly. Ngoại trừ trung đội pháo binh diện địa thuộc quyền điều động của Ban chỉ huy Pháo binh thuộc Tiểu khu Đắc Lắc, 7 trung đội còn lại thuộc quyền chỉ huy của Thiếu tá Đào Đắc Đạo, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 231/PB. ( Có lẽ bài viết của Đại tá Luật hiểu lầm về lực lượng pháo binh có khả năng phản pháo là trung đội 155 ly duy nhất bố trí giữa phi trường Phụng Dực và Căn cứ B.50 ).

Thiết giáp :

Tại Căn cứ B.40 có 1 đại đội thiết vận xa M.113 ( 15 chiếc ) đóng chung với BCH trung đoàn 53.BB.
Tại khu Thiết giáp, phía Tây thị xã BMT, có 1 đại đội thiết vận xa M.113 gồm 11 chiếc.  Tuy nhiên M.113 chỉ là những xe chở lính chứ không phải là chiến xa, cho nên không thể tung ra đối đầu với xe tăng T.54 của CSVN.  M.113 chỉ được dùng như những ụ súng đại liên di động để phòng thủ trong trường hợp bị tấn công.  Và kể từ sau trận Mậu Thân thì M.113 trở thành mục tiêu lý tưởng cho các xạ thủ B.40, B.41 của quân đội CSVN.

Riêng trong trận này, 11 thiết vận xa tại khu Thiết Giáp trở thành mục tiêu cho đại bác của xe tăng T.54, súng chống tăng B.40, hỏa tiễn chống chiến xa AT.3 của quân CSVN.  Lính Thiết giáp VNCH không dại gì leo vào các xe M.113 để chiến đấu, họ nằm trên mui xe với súng đại liên để chờ bộ binh địch, nhưng một khi đã ở trong tầm bắn của xe tăng T.54 của CSVN  thì họ phải bỏ xe và bỏ chạy.

Diễn tiến trận đánh

Ngày 10-3

– Lúc 2 giờ sáng, các khẩu pháo 130 ly và 122 ly của Trung đoàn 40 pháo binh CSVN ( 36 khẩu ) đồng loạt pháo kích vào BCH Tiểu khu Đắc Lắc, hậu cứ BTL Sư đoàn 23, Phi trường L.19 ( Rìa phía Đông Bắc của thị xã ), Kho đạn Mai Hắc Đế ( Rìa phía Tây của Thị xã. ).  Tất cả các điểm đặt pháo từ hướng Tây của Thị xã , nhưng vì khu vực Bản Đôn không còn quân VNCH hoạt động cho nên không có sĩ quan xác định tọa độ để phản pháo.
Hơn nữa, do vì các trung đội pháo binh của VNCH tại BMT đều là súng 105 ly và 155 ly cho nên dù có biết được tọa độ đặt súng của pháo binh CSVN thì cũng đành chịu thua bởi vì súng 105 ly bắn hết tầm chỉ có 10 cây số, súng 155 ly bắn hết tầm là 15 cây số. Trong khi súng 130 ly của CSVN bắn xa tới 27,8 cây số; hoặc súng 122 ly bắn xa tới 15,4 cây số, nếu bắn đầu đạn trái phá tên lửa thì xa tới 21 cây số.  Tất cả các khẩu 130 ly và 122 ly của Trung đoàn 40 PB/CSVN đều đặt cách BMT trên 15 cây số.

– Lúc 2 giờ sáng, trong lúc pháo của quân CSVN bắn vào BCH Tiểu khu và BTL Sư đoàn 23 thì 2 tiểu đoàn đặc công của Trung đoàn 198 tấn công phi trường L.19 trong thị xã, phi trường được canh gác bởi 2 đại đội phòng thủ của Không quân.   Đến 4 giờ sáng thì quân CSVN chiếm được 2/3 phi trường nhưng thiệt hại nặng vì đụng phải Chiến đoàn 3 của Lực lượng Lôi Hổ đóng trong vòng đai Phi trường L.19, nên phải trụ lại chờ tiếp viện..

– Cùng lúc 2 giờ sáng, một đội Đặc công của Trung đoàn 198 CSVN hướng dẫn Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 149 thuộc Sư đoàn 316 CSVN lên đường đi đánh Phi trường Phụng Dực đang do 1 tiểu đoàn ĐPQ/VNCH trấn giữ.

– Lúc 4 giờ sáng, quân CSVN tấn công kho đạn Mai Hắc Đế. Lúc 5 giờ sáng, Đại úy Chỉ huy trưởng kho đạn bị thương nặng.  Lúc 5 giờ 30 sáng, kho đạn Mai Hắc Đế bị tràn ngập.

– Lúc 5 giờ sáng, Tiểu đoàn 9 của Trung Đoàn 149 thuộc Sư đoàn 316/CSVN không tìm được lối tiếp cận hàng rào phi trường cho nên tam chiếm khu chợ xã Hòa Bình rồi báo cáo đã khống chế được quận lỵ Hòa Bình ( Tức là khu sân bay Hòa Bình, hay là phi trường Phụng Dực.  Sự thực là chưa vào được phi trường, đến 10 giờ mới báo cáo là đã bị địch chặn lại ).

– Lúc 6 giờ sáng BCH Trung đoàn 149 CSVN và 2 tiểu đoàn trực thuộc bắt đầu tấn công Căn cứ B.50 đang do Tiểu đoàn 1/53 trấn giữ.

– Lúc 7 giờ sáng, đoàn xe tăng đầu tiên của CSVN cùng với Trung đoàn 95.B CSVN tiến vào trung tâm thành phố, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc là Đại tá Nguyễn Trọng Luật xin phép được di chuyển qua Trung tâm hành quân của Sư đoàn 23 BB để cùng Đại Tá Vũ Thế Quang chỉ huy lực lượng chống trả.

– Lúc 8 giờ sáng, Tổng cục Tiếp vận tại Sài Gòn nhận được tin mất liên lạc hữu tuyến lẫn vô tuyến với Ban Mê Thuột.  Đại tá Phạm Bá Hoa, Tham mưu trưởng Tổng cục, tìm cách liên lạc với Chiến đoàn 3 của Lực lượng Lôi Hổ tại phi trường L.19 BMT.  ( Là đơn vị có máy liên lạc siêu tần số trực tiếp với BTTM ).

Vị sĩ quan chỉ huy của Lực lượng Lôi Hổ cho biết : “ Xe tăng của tụi nó đã vào cuối sân bay rồi…… Xe tăng của tụi nó tấn công kho đạn đêm qua, và tụi nó tiến vào thành phố rồi.  Khu vực Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 và bên BCH Tiểu khu đều có tiếng súng dữ lắm, em chưa rõ lắm, nhưng em nghĩ là bị tụi nó chiếm hết rồi, bậy giờ em phải rút ra ngoại ô.  Chào Đại tá” ( Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, trang 268 )

– Lúc 9 giờ sáng, 2 xe tăng CSVN bị bắn cháy tại đường Thống Nhất.
– Lúc 11 giờ sáng, 1 xe tăng T.54 của CSVN bị Trung đội Tình báo thuộc Tiểu khu Đắc Lắc bắn cháy trước cổng BCH Tiểu khu, trên đường Thống Nhất.
– Lúc 11 giờ 30 trưa, 2 xe tăng CSVN bị phi cơ bắn cháy cách thành phố 2 cây số hướng Tây Bắc.
– Lúc 12 giờ 45 trưa, Trung tâm hành quân của BCH Tiểu Khu bị trúng pháo của xe tăng CSVN. Ban tham mưu hành quân tại TTHQ/Tiểu Khu di chuyển qua TTHQ của BTL/SĐ 23.
– Lúc 1 giờ 30 trưa, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 CSVN tấn công vào BCH Tiểu khu.
– Lúc 2 giờ chiều, Trung đội Tình báo Đắc Lắc và Trung đội Công vụ ĐPQ rút khỏi BCH Tiểu khu.
– Lúc 2 giờ chiều, 4 xe tăng CSVN bị Tiểu đoàn 204 ĐPQ/VNCH bắn cháy trong thành phố.
– Lúc 2 giờ chiều, Trung đoàn 149/SĐ 320 CSVN ( thiếu tiểu đoàn 9 ) tấn công căn cứ B.50 đang do Tiểu đoàn 1/53 thuộc Trung đoàn 53 BB/VNCH trấn giữ. Tiểu đoàn 231 Pháo binh VNCH đóng trên đồi đối diện với căn cứ B.50 bèn chong 2 khẩu 105 ly bắn trực xạ vào 2 tiểu đoàn CSVN đang tấn công B.50.

Đến 3 giờ 30 chiều thì cuộc tấn công hoàn toàn thất bại, quân CSVN chạy tháo về hướng Tây Nam, đụng phải Đại đội trinh sát thuộc Trung đoàn 45 VNCH đang chờ sẵn tại bìa rừng cao su gần phi đạo.  Sau khi im tiếng súng, Đại đội Trinh sát VNCH đếm được 40 xác chết, 100 nón cối rơi lại, thu nhiều vũ khí, trong đó có 5 hỏa tiễn tầm nhiệt SA.7 còn mới nguyên. Còn tại căn cứ B.50 đếm được khoảng 150 xác, thu 50 vũ khí.
– Lúc 3 giờ 30 chiều, chiến trường im tiếng súng.

Đại tá Luật báo cáo cho tướng Phú là trong ngày đã bắn cháy 7 xe tăng của quân CSVN.  Tướng Phú cho biết Liên đoàn 21 BĐQ đang tiến về BMT ( Bài viết của Đại tá Luật cho biết quân BĐQ đi bộ từ Buôn Hô đến BMT nhưng sự thực 24 giờ sau quân BĐQ mới đến ).

Tình hình trong đêm yên tĩnh. Theo như bài viết của Đại tá Luật thì Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L.19 và BCH/ Tiểu khu đã bị địch chiếm, ông và Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB đang cố thủ tại Hậu cứ BTL/SĐ 23 và chờ tiếp viện của Quân đoàn.

Đặc biệt Đại tá Luật không nói gì tới lệnh lạc của Bộ tư lệnh Quân khu 2 hay của Tướng Phạm Văn Phú, hay của Tham mưu trưởng Quân khu Lê Khắc Lý.  Và tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, người đang theo sát Tướng Phú, cũng không có một dòng đả động tới chuyện Tướng Phú có liên lạc hay ra lệnh cho Đại tá Luật hoặc Đại tá Quang trong 2 ngày 10 và 11-3-1975.

Về phần CSVN thì trong đêm 10-3, Tướng Đặng Vũ Hiệp ghi vào sổ tay : “Đã chiếm được sân bay thị xã và tòa tỉnh trưởng, khống chế được sân bay hòa Bình ( phi trường Phụng Dực ).  Các mũi đều đánh tốt, riêng mũi phía Nam ( Trung đoàn 149 ) có khó khăn, thắng lợi thu được chưa tương xứng với tổn thất của bộ đội”.  Đây là Tướng Hiệp viết theo lối tuyên huấn để tránh nói ra sự thật là Trung đoàn 149 CSVN đã bị xóa sổ.

Như vậy là trong ngày quân CSVN chưa chiếm BCH Tiểu Khu như Đại tá Luật đã viết, chẳng qua là lúc 2 giờ chiều Trung đội Tình báo và Trung đội Công vụ đã rút khỏi BCH/TK để hộ tống BCH hành quân Tiểu khu Đắc Lắc di chuyển về BCH hành quân SĐ23.BB/VNCH.

Riêng tư dinh tỉnh trưởng, sát với BCH Tiểu khu, do 1 trung đội ĐPQ ( Trung úy Hoành ) trấn giữ vẫn cầm cự cho tới 7 giờ 45 sáng hôm sau.

*Chú giải :  So sánh cách bố trí lực lượng của quân VNCH và kế hoạch tấn công của quân CSVN thì phía CSVN có nhiều sơ suất trầm trọng.  Trong khi lực lượng chính của VNCH tập trung tại khu vực Phi trường Phụng Dực với BCH Trung đoàn 53 và Tiểu đoàn 1/53, 1 tiểu đoàn ĐPQ, 1 đại đội Trinh sát Bộ binh, 1 Đại đội Pháo binh với 2 khẩu 155 ly và 4 khẩu 105 ly, 1 chi đội Thiết vận xa M.113 ( khoảng 15 chiếc )

Thế nhưng tướng CSVN Hoàng Minh Thảo đã phân công cho 1 trung đoàn ( hơn 2.000 người ) và 1 đại đội xe tăng đánh vào BTL/Sư đoàn 23 mà nơi này chỉ có 1 đại đội Bộ binh phòng thủ ( Khoảng 100 người ). Một trung đoàn khác ( hơn 2.000 người ) cùng với 1 đại đội xe tăng tấn công BCH Tiểu khu mà nơi này chỉ có  trung đội công vụ của Tiểu Khu và Trung đội tình báo TK phòng thủ ( 2 trung đội khoảng 60 người ). Và một trung đoàn khác ( hơn 2.000 người ) cùng 1 đại đội tăng đánh vào khu vực Kho xăng của SĐ.23 nhưng tại đây chỉ có 1 trung đội  lính văn phòng canh giữ ( khoảng 30 người ).

Trong khi đó lại phân công cho 1 trung đoàn ( hơn 2.000 người ), không có xe tăng, đánh khu vực phi trường Phụng Dực khiến cho cả 1 trung đoàn tan tành sau 2 giờ chiến đấu.  Theo sách vở quân sự, muốn tấn công lực lượng đang phòng thủ tại khu phi trường Phụng Dực ( khoảng 1.400 người ) thì quân CSVN phải là 1 sư đoàn ( Từ 8.000 đến 10.000 người ).

Hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, trang 418 :  “Việc đánh chiếm sân bay Hòa Bình và căn cứ Trung đoàn 53 là mục tiêu quan trọng phải đánh ngay từ đầu.  Vì nhiều lý do công tác bảo đảm, ta không thể đưa bộ binh và xe tăng vào để đánh ngay mà chỉ sử dụng Trung đoàn Đặc công 198 thực hiện nhiệm vụ này, khi được lệnh nổ súng, lúc 2 giờ 10 phút ngày 10 tháng 3 Trung đoàn nhanh chóng chiếm được sân bay Hòa Bình.
Nhưng khi đánh vào căn cứ 53, Trung đoàn 198 gặp nhiều khó khăn, tuy có đánh chiếm một số mục tiêu nhưng sau đó địch đã phản kích và đánh bật ta ra và cho xe tăng bịt cửa mở”.

Theo Thiếu úy Nguyễn Công Phúc, một sĩ quan của đại đội Trinh sát của Trung đoàn 45 VNCH thì sau trận đánh sáng ngày 10-3 tại vòng đai phi trường Phụng Dực, Thiếu úy Phúc lục được một quyển sổ tay trong xác của một Đại đội trưởng CSVN cho thấy đây là Tiểu đoàn K.5 thuộc Sư đoàn 316 CSVN từ Miền Bắc mới vào Nam bằng xe hơi.  Nghĩa là trung đoàn đánh căn cứ 53 là của sư đoàn 316.

Bản đồ Thị xã Ban Mê Thuột


Trận Banmêthuột, ngày thứ hai

( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ần của Chiến tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh ).

Ngày 11-3

– Lúc 2 giờ sáng, Liên đoàn 21/BĐQ báo tin cho Đại tá Luật, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc, là họ đã đến làng Đạt Lý, cách trung tâm thành phố 8 cây số.  Nhưng sự thực đây chỉ là trung đội thám báo đi dò dường từ Buôn Hô tới Đạt Lý là nơi có đặt 2 khẩu 105 ly của Tiểu đoàn 231 Pháo binh.  Cho tới lúc này tình hình tại Đạt Lý hoàn toàn yên tĩnh.
Lúc 4 giờ sáng BCH Liên đoàn 21 BĐQ báo cho Đại tá Luật là quân Liên đoàn đã tới bìa thành phố.  ( Sự thực cũng chỉ là đại đội trinh sát mới tới Đạt Lý, tại đây có 1 trung đội Pháo binh của SĐ 23 BB vẫn còn an toàn trong căn cứ Chư Pao; còn đại quân của Liên đoàn đang trên đường di chuyển từ  Buôn Hô về BMT, cánh quân cuối cùng đến nơi vào mờ sáng ngày 12-3 ).

Lúc 6 giờ 30 sáng, pháo binh CSVN bắt đầu nả pháo liên tục vào BCH Tiểu khu và BTL Sư đoàn 23 BB.

Lúc 7 giờ sáng, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 CSVN cùng với 16 xe tăng tiến vào Hậu cứ BTL/SĐ 23 BB, đại bác của các xe tăng CSVN bắn thẳng vào BTL. SĐ23.  Lúc này tại hậu cứ của BTL/SĐ.23 có 1 đại đội Bộ binh thuộc tiểu đoàn 3/53 với lính cơ hữu tại hậu cứ BTL, cùng với Trung đội công vụ của Tiểu Khu Đắc Lắc và lính cơ hữu của BCH Tiểu khu ( Lính cơ hữu của BCH/TK chỉ trang bị súng Carbin M.2 ).

Lúc 7 giờ 30 sáng, xe tăng và quân của Trung đoàn 95.B/ CSVN đã bao vây vị trí của BTL/SĐ 23, cách khoảng 300 mét.  Lúc này phía VNCH chỉ có 1 khẩu súng chống tăng là khẩu 106 ly không giật được đặt trên 1 xe tăng M.113, đây là loại vũ khí chống tăng duy nhất của Bộ binh VNCH, có thể bắn xe tăng địch ở tầm trên 200 m.  Còn loại M.72 chỉ bắn có hiệu quả ở tầm gần, dưới 50 mét ( Bắn bên hông mới có thể làm đứt xích xe tăng, còn bắn phía trước mặt xe thì không ăn thua, bắn phía sau bên phải có thể làm cháy xe do trúng bình xăng ).

Lúc 7 giờ 45 sáng, xe tăng CSVN tiến vào dinh Tỉnh trưởng Đắc Lắc đang được 1 trung đội ĐPQ trấn giữ, 2 xe tăng bị hạ ngay cổng vào tư dinh bằng súng M.72. ( Nghĩa là tầm bắn dưới 50 m.  Tuy nhiên M.72 chỉ làm xe tăng T.54 đứt xích chứ không bị cháy cho nên 2 chiếc T.54 trở thành 2 lô cốt của 2 khẩu đại liên 12 ly 8, làm chủ khu vực trận địa toàn nội vi tư dinh ).  Trung đội ĐPQ/VNCH rút lui khỏi tư dinh.
Kế bên tư dinh là BTL/Sư đoàn 23 BB, Bộ chỉ huy đầu não của quân VNCH tại BMT. Hạ được BTL/SĐ có nghĩa là hạ được BMT.  Tuy nhiên lúc đó lực lượng chính của quân VNCH tại BMT không phải là BTL/SĐ 23 VNCH mà là Trung đoàn 53 thuộc SĐ 23 VNCH đang nằm tại Căn cứ B.50, cạnh phi trường Phụng Dực.

Lúc 10 giờ sáng, Bộ chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 53 VNCH và Tiểu đoàn 2/53 VNCH đang phòng thủ tại Căn cứ Dak Song, Quảng Đức nhận được lệnh của Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23.BB, rút về cứu ứng cho BMT.  Nhưng trên đường về bị 2 tiểu đoàn CSVN phục kích.  Trung đoàn phó Trung đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị bắt, một số tàn quân được Trung úy Trọng, Trưởng ban hành quân TĐ 2/53 hướng dẫn chạy về Đà Lạt.

Lúc 10 giờ sáng, xe tăng của quân CSVN bắt đầu tấn công vào vị trí phòng thủ tại BTL/SĐ 23.  Đích thân Đại tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy bán đại đội Bộ binh phòng thủ tại cổng chính.  Lực lượng phòng thủ có 1 khẩu 106 ly không giật đặt trên 1 thiết vận xa M.113.  Khi chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào tầm bắn 100 mét, Đại tá Luật ra lệnh khai hỏa nhưng khẩu súng bị gãy kim hỏa và không có kim hỏa dự phòng để thay thế (sic).  Đoàn xe tăng tiếp tục tiến vào BTL.  Bắt buộc Đại tá Luật phải gọi phi cơ để chống chiến xa.
Từ lúc bắt đầu xảy ra trận đánh cho tới giờ phi cơ không được phép dội bom trong thành phố bởi vì còn dân ở trong đó.  Tuy nhiên lúc này không còn lựa chọn nào khác, Đại tá Luật gọi cho phi cơ quan sát, ra lệnh thả bom ngay trước cổng BTL, chấp nhận hủy bỏ quy định về khoảng cách an toàn tối thiểu ( phải cách xa phe ta tối thiểu 1.000 mét ).  Nghĩa là chấp nhận ném bom hủy diệt cả ta và địch.
Lúc 10 giờ 10 sáng, một phi cơ A.37 đã cắt bom theo như yêu cầu của Đại tá Luật nhưng đường bay lệch một góc rất nhỏ nên quả bom đã rơi trúng Trung tâm hành quân của BTL/SĐ.23.  Theo sách vở của kỹ thuật ném bom thì việc này không thể nào thực hiện được ( cắt bom chính xác trong vòng 100 mét );  lối cắt bom chấp nhận nguy hiểm chỉ được phép dùng để hủy diệt căn cứ của ta sau khi chính chỉ huy trưởng đơn vị ở dưới đất quyết định cùng tự sát theo đồn do vì địch đã tràn ngập.

*(Theo quy định kỹ thuật ném bom,  người pilot của máy bay A.37 không được phép thả bom gần phe ta trong vòng 1.000 mét;  nhưng có thể thả ngay lên đầu phe ta nếu quan sát viên điều không tiền tuyến trên phi cơ quan sát ghi nhận chính đơn vị trưởng dưới đất yêu cầu. Trong trường hợp này chính Đại tá Luật yêu cầu trên máy vô tuyến, dĩ nhiên các máy vô tuyến khác hoạt động trên cùng tần số sẽ làm chứng về lời yêu cầu của Đại tá Luật.
Tài liệu của Phạm Huấn ghi rằng lúc trái bom rơi là đúng 8 giờ sáng, lúc đó ông đang đứng bên cạnh máy truyền tin vô tuyến của Trung tâm hành quân Không trợ II. Trong khi bài viết của Đại tá Luật lại ghi là  khoảng 10 giờ 10 sáng;  không biết ai nói đúng nhưng chi tiết gọi máy bay của Đại tá Luật có lý hơn ).
Sau khi trái bom đánh sập Trung tâm hành quân, toàn bộ cơ quan đầu não của quân VNCH khoảng 100 người chia làm 2 cánh đào thoát khỏi BTL/SĐ23 giữa tiếng loa kêu gọi đầu hàng của quân CSVN nằm vùng phát đi từ chùa Khải Đoan, gần BTL/SĐ 23.

Lúc 11 giờ 30 trưa, Tiểu đoàn 3/53 đang phòng ngự tại Khu gia binh SĐ 23 bị mất liên lạc với Đại tá Vũ Thế Quang, lính của Đại đội bảo vệ BTL chạy về khu gia binh loan báo Đại tá Quang và Đại tá Luật đã bỏ chạy.  Tiểu đoàn 3/53 xin lệnh Trung tá Võ Ân, Trung đoàn trưởng 53.  Trung tá Ân cho lệnh Tiểu đoàn rút về hậu cứ Trung đoàn 45, cách trung tâm BMT 5 cây số để phòng thủ tại đây chờ quân tiếp viện của Liên đoàn 21 BĐQ.  Tiểu đoàn 3/53 ra lệnh cho đại đội thứ 4 đang trấn giữ cầu 14 rút về hậu cứ TrĐ 45/BB.

Lúc 3 giờ 30 chiều, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng VNCH ra lệnh cho Tướng Phú bốc Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB thả xuống BMT để chỉ huy thay thế Đại tá Vũ Thế Quang.
Lúc 5 giờ chiều, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm gọi cho Tướng Phú, chấp thuận cử một sĩ quan khác thay thế Đại tá Luật làm tỉnh trưởng BMT để theo đoàn quân của Sư đoàn 23 BB về tái chiếm BMT.

Lúc 6 giờ chiều, toàn bộ tiểu đoàn 3/53 tập trung đầy đủ tại hậu cứ Trung đoàn 45, nhưng lúc này nhân số đông lên gấp 3 bởi vì binh sĩ trong tiểu đoàn đã hộ tống toàn bộ gia đình của họ và những gia đình khác của Sư đoàn 23 BB cùng chạy lánh nạn về đó ( kể cả gia đình Tướng Lê Trung Tường, tư lệnh SĐ.23/BB/VNCH.  Tại đây đã có sẵn các con của Đại tá Phùng Văn Quang, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 45 BB.  Còn bà Phùng Văn Quang thì đang đi thăm chồng tại Pleiku ).

Trong đêm tối, các sĩ quan và binh sĩ thuộc Sư đoàn 23 BB sắp xếp cho gia đình chuẩn bị mờ sáng hôm sau lên đường di tản về Phước An, tức là hướng về Nha Trang.  Trong khi các sĩ quan đang bàn bạc thì cùng lúc đó Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, bị quân CSVN bắt trên đường đi Phước An để về Nha Trang. Ông đã chạy trước gia đình binh sĩ một bước, nhưng không may cho ông là nội tuyến của CSVN theo dõi ông từ lúc ông mới rời BTL/ SĐ.23.
Về phần Đại tá Luât cũng thế, ông muốn bọc lên hướng Bắc của thành phố để theo đường tắt băng xuống Phước An, nhưng lộ trình của ông cũng bị nội tuyến CSVN bám sát từ khi ông vừa rời BTL/SĐ 23, ông bị bắt cùng thời gian với Đại tá Quang.

*( Theo hồi ký của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp cho biết lúc Đại tá Luật bị bắt thì ông ta cùng đi với 12 sĩ quan, còn Đại tá  Quang thì : “chạy một mình, vứt bỏ cả giày, cả mũ; trên người chỉ mang một cái túi con”  ).

Ngày 11-3, lúc 11 giờ đêm, Tướng Thiệu gọi cho Tướng Phú chỉ thị “tránh sa lầy, sử dụng quân quá nhiều cho một mặt trận.  Toàn quyền linh động, có thể bỏ BMT”. ( Theo Phạm Huấn ).

* Chú giải :  Sở dĩ Tướng Thiệu chỉ thị như vậy bởi vì Tướng Phú đã báo cáo về bộ TTM : “Phi trường Pleiku bị pháo”, “BTL/Quân khu 2 bị pháo”, “Trung đoàn 42 và 47 giao tranh suốt ngày với các đơn vị Cọng sản Bắc Việt”, “Sư đoàn 22 Bộ binh hiện đã trực diện với toàn bộ Sư đoàn 3 Sao Vàng và các trung đoàn biệt lập của Bắc Việt tại Quân khu 5”, “17 chiến xa Cọng sản Bắc Việt xuất hiện gần Phù Cát, Bình Định”.
Nhận được báo cáo như vậy, Tướng Thiệu và Bộ TTM nghi là có thể quân CSVN tổng tấn công trên toàn Quân khu 2, có thể nhất là đánh Bình Định để cắt đôi lãnh thổ VNCH. Cho nên Tướng Thiệu chỉ thị : “nếu cần thì bỏ BMT để giữ các nơi còn vững, chớ có hoang mang điều động mà vỡ lỡ tất cả, riêng BMT sẽ tổ chức phản công sau” .Chỉ thị lúc 11 giờ tối ngày 10-3

Lúc đó chưa ai biết rõ ý đồ của quân CSVN, thường thì quân CSVN đánh “diện” trước, tức là đánh mục tiêu phụ trước;  sau khi địch lo tập trung cứu ứng cho mục tiêu phụ thì CSVN mới đánh “điểm”, tức là đánh mục tiêu chính ( “Dương Đông kích Tây”,  đây là chiến thuật cơ bản của binh thư Trung Quốc ).

Sau này sách của Phạm Huấn chê trách Tướng Thiệu ra lệnh “tiền hậu bất nhất”, mới đêm hôm trước cho phép nếu cần thì bỏ BMT nhưng sáng hôm sau lại ra lệnh… tái chiếm !?. ( trang 126 ) Thực ra Phạm Huấn không đủ trình độ quân sự để nghĩ ra rằng sau khi nói chuyện với Tướng Phú thì Tướng Thiệu đã cùng với các Tướng khác tại BTTM ngồi nghiên cứu tình hình và thấy rõ Ban Mê Thuột mới là mục tiêu tấn công chính ( điểm ); còn Bình Định, Pleiku chỉ là những mục tiêu phụ ( diện ).

Một khi đã rõ quân CSVN tập trung đánh BMT thì chỉ cần tập trung ứng cứu tại BMT:  Trước tiên là điều ngay Sư đoàn 23 BB từ Pleiku về cứu nguy BMT; quân CSVN chỉ mới chiếm được đất trong thành phố chứ lực lượng chính của VNCH là Trung đoàn 53 và 2 tiểu đoàn trực thuộc vẫn còn nguyên, Liên đoàn 21 BĐQ chưa sứt mẻ.  Như vậy lệnh của Tướng Thiệu là sáng suốt chứ không phải “tiền hậu bất nhất”.

Bản đồ từ biên giới Việt- Miên tới Nha Trang


Trận Banmêthuột, ngày thứ ba và thứ tư

*( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của Bùi Anh Trinh ).

Ngày 12-3

Theo lệnh của Tướng Cao Văn Viên, Tướng Phú chỉ thị Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, bay về BMT để chỉ huy trực tiếp Trung đoàn 53 BB và Liên đoàn 21/BĐQ.

Lúc 4 giờ sáng BCH Liên đoàn 21 BĐQ và 1 trung đội pháo binh BĐQ đến xã Đạt Lý, cách trung tâm BMT 5 cây số về hướng Bắc, trên quốc lộ 14.  Một trung đội pháo binh của LĐ.21 BĐQ nhập với trung đội pháo binh Sư đoàn 23 BB tại căn cứ Chư Pao.

Lúc 5 giờ sáng, gia đình binh sĩ Sư đoàn 23 BB rời hậu cứ Trung đoàn 45 để di tản bộ về Phước An.  Còn binh sĩ và sĩ quan ở lại để tổ chức lập tuyến phòng ngự tại Hậu cứ Trung đoàn 45, cách trung tâm BMT 5 cây số.

Lúc 6 giờ sáng, toàn bộ Liên đoàn 21 bắt đầu tiến vào khu vực Phi trường L.19.

Lúc 8 giờ sáng, một phi đoàn trực thăng gồm 46 chiếc UH.1 và Chinook bốc Trung đoàn 45 thuộc Sư đoàn 23 BB từ căn  cứ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, cách BMT 20 cây số về hướng Đông Nam.  Cùng đi với Trung đoàn 45 có Bộ chỉ huy hành  quân của Sư đoàn 23 Bộ binh, Đại đội trinh sát Sư đoàn 23 BB và các phóng viên chiến trường.

Lúc 11 giờ, Liên đoàn 21 BĐQ đang di chuyển tới phi trường L19, cách trung tâm thành phố 2 cây số về hướng Đông Bắc, thì nhận được lệnh của Tướng Lê Trung Tường tạt về hướng Đông, tiến đến Hậu cứ Trung đoàn 45 ( cũng là Trung tâm huấn luyện của Sư đoàn 23 BB ) để nhập với Tiểu đoàn 3/53 BB cùng phòng thủ khu vực Hậu cứ Trung đoàn 45 BB và Trung tâm huấn luyện.

Lúc 11 giờ 30, trực thăng của Tướng Tường đáp xuống Hậu cứ Trung tâm huấn luyện để bốc gia đình tướng Tường đang bị kẹt lại ( Phạm Huấn, trang 132 ) Chứng kiến cảnh này, binh sĩ thuộc Sư đoàn 23 BB rất bất mãn.

Lúc 12 giờ, hàng loạt lính Sư đoàn 23 BB cởi áo trận, thay đồ dân sự đuổi theo gia đình của họ đang trên đường chạy về Phước An.  Tiểu đoàn 3/53 chỉ còn 1/3 quân số.  Tiểu đoàn trưởng báo về BCH Trung đoàn tại Căn cứ B.50.  Trung tá Võ Ân cho lệnh kéo toàn bộ số quân còn lại nhập về B.50, một nửa tăng cường phòng thủ cho Pháo đội Pháo binh của Tiểu đoàn 231/PB, một nửa tăng cường phòng thủ tại B.50.
Sau khi quân BB đi khỏi, quân ĐPQ của Đắc Lắc, khoảng 1 tiểu đoàn, cũng bỏ súng đi về nhà để lo cho gia đình.  Đa số đều là người Sắc tộc Ê Đê.

Lúc 12 giờ 30, Liên đoàn 21/BĐQ báo cáo cho Tướng Tường tại Phước An rằng quân Trung đoàn 53 BB và các đơn vị ĐPQ đã rút hết, xin chỉ thị của Tư lệnh mặt trận.  Tướng Tường chỉ thị cố thủ tại đó để chờ quân Trung đoàn 45 và Trung đoàn 44 sẽ được trực thăng vận xuống Trung tâm huấn luyện SĐ. 23 BB.

Lúc 2 giờ chiều, máy bay trực thăng bay chuyến cuối để thả Trung đoàn 45 BB xuống Phước An chứ không thả xuống Trung tâm huấn luyện.  Chỉ có Đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 được đổ xuống Phi trường Phụng Dực, đại đội này tiến vào căn cứ B.50 để nhập với Trung đoàn 53 BB.

Lúc 2 giờ 30 chiều, Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu.2/VNCH bay thị sát trên trời BMT, liên lạc với Trung đoàn 53, Liên đoàn 21 và các đơn vị ĐPQ đang tụ về Hậu cứ Trung đoàn 45.

Lúc 3 giờ chiều, hàng loạt binh sĩ thộc Liên đoàn 21 BĐQ cởi áo trận bỏ về với gia đình.  Đa số họ là người Sắc tộc Miền Núi, trước đây thuộc Lực lượng Biệt kích Mỹ.

Buổi chiều, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 CSVN cùng với 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 95.B/CSVN và 1 đại đội xe tăng tiến về Hậu cứ Trung đoàn 45 đang do Liên đoàn 21 BĐQ trấn giữ.  Sự thực là lúc đó Hậu cứ Trung đoàn 45 đã bỏ ngỏ vì Trung tá Lê Quí Dậu cho toàn bộ Liên đoàn 21 BĐQ rút về Phước An.( 5 ngày sau, ngày 17-3, sổ tay của Thiếu tá Phạm Huấn ghi lại quân số của Liên đoàn 21 BĐQ chỉ còn 110 người mà không đụng một trận nào.  Trong khi quân số nguyên thủy là trên 2.300 người ).

Buổi chiều, Trung đoàn 174 thuộc Sư đoàn 316 CSVN đánh chiếm cầu Thọ Thành (Sê-Rê-Pốc ) bít đường về của 2 trung đội Pháo binh VNCH đang nằm tại xã Đạt Lý. Trung đội trưởng Pháo binh BĐQ tại Đạt Lý mất liên lạc với Liên đoàn 21 BB.  Trung đội trưởng Pháo binh SĐ.23, Thiếu úy Vĩnh Bình, xin lệnh của Tiểu đoàn trưởng 231/PB đang nằm tại B.50 cùng với Trung đoàn 53 BB.  Thiếu tá Đào Đắc Đạo khuyên 2 trung đội pháo binh nên rút ngược về Buôn Hô, cách trận địa BMT 30 cây số, trên quốc lộ 14, đường đi Pleiku.

Ngày 13-3

Lúc 9 giờ sáng, một đoàn trực thăng gồm khoảng 50 chiếc UH.1 và 8 chiếc Chinook bốc BCH Trung đoàn 44 BB/VNCH, Tiểu đoàn 3/44, và Đại đội Trinh sát Trung đoàn 44 từ Pleiku đổ xuống Phước An.  Theo như kế hoạch của BTL/Quân đoàn thì Tiểu đoàn 1/44 và Tiểu đoàn 2/44 cùng với Trung đoàn phó sẽ đi đợt sau.

Lúc 10 giờ 15, đoàn quân của Trung đoàn 44 VNCH đáp xuống Phước An, Tiểu đoàn 3/44 nhập vào phòng tuyến của Trung đoàn 45 BB.

Lúc 2 giờ chiều, Trung tá Ngô Văn Xuân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 chờ không thấy trực thăng đổ nửa còn lại của Trung đoàn, ông hỏi thăm thì không ai biết tại sao.  Đến 4 giờ thì ông được cho biết là nửa còn lại sẽ không về BMT.

 * Chú giải : Vì danh dự của Quân đội VNCH, Trung tá Xuân không nói ra nguyên do thực sự của lệnh không chở 2 tiểu đoàn Bộ binh về BMT. Tuy nhiên có một chứng nhân khác có thể kể rõ sự việc mà sau đó cũng được các phóng viên chiến trường tiết lộ một phần :

Đại úy Nhảy dù Tôn Thất Thạnh, Đại đội trưởng đại đội Trinh sát của Lữ đoàn 1 Dù có mặt trong chuyến đầu chở Trung đoàn 44 đáp xuống Phước An.  Nguyên Đại úy Thạnh vừa mới ra khỏi Tổng y viện Cọng Hòa sau khi bị thương trong trận Thường Đức.  Đang nắm giấy phép xuất viện với 15 ngày phép dưỡng sức thì ông nhận được tin BMT bị thất thủ, trong khi cha mẹ của ông đang sinh sống tại Phước An.  Cha của ông là cụ Tôn Thất Thiết, cựu Trưởng phòng Nội dịch phủ Tổng thống dưới thời Ngô Đình Diệm.
Sẵn còn giấy phép xuất viện, Đại úy Thạnh ra phi trường Tân Sơn Nhất tìm bạn trong đoàn trực thăng chở quân tái chiếm BMT để xin đi theo lên Pleiku với ý định về Phước An giúp gia đình di tản.  Từ Pleiku ông theo Trung đoàn 44 nhảy xuống Phước An, lúc đi ông mang theo một khuẩu AR.15, một áo đạn, và nhiều lựu đạn mini.
Vừa bước khỏi máy bay trực thăng ông nhìn quanh, dự định theo một toán quân nào đó để tìm đường về đồn điền của cụ Thiết.  Nhưng ông chợt bàng hoàng nhận ra không còn một người lính nào hết :  Tất cả hoặc đã thay xong đồ dân sự hoặc đang cởi đồ lính để mặc đồ dân sự,  không biết họ hẹn nhau từ lúc nào mà vừa mới bước xuống đất thì họ bỏ súng và thay đồ ngay tại bãi đáp.
Hoảng quá Đại úy Thạnh chạy ngược trở lại chiếc trực thăng đang còn nổ máy để xin trở lại Pleiku.  Trên đường bay ông nghe Pilot trực thăng báo cáo tình hình cho Trung tâm hành quân của Sư đoàn 6 Không quân.  Trên máy cũng có tiếng báo cáo của các Pilot khác vời tình hình tương tự.  Vì vậy mà BTL Quân đoàn 2 cho ngưng chuyến thứ hai.

Còn về chuyến đổ Trung đoàn 45 BB vào ngày hôm trước, có các phóng viên báo chí đi theo, họ đã thuật lại kỹ càng giai đoạn bốc quân tại Căn cứ Hàm Rồng Pleiku.  Trong đoàn quân có các các phụ nữ mặc đồ trận đi theo chồng, các phóng viên ghi nhận một người phụ nữ tiêu biểu là phu nhân của Đại tá Trung đoàn trưởng Phùng Văn Quang, bà mặc đồ trận, đội nón sắt, mang lựu đạn.  Khi trả lời phỏng vấn, bà Quang cho biết các con của bà đang bị kẹt lại Thị xã Ban Mê Thuột, bà muốn theo chồng tái chiếm Ban Mê Thuột.

Dĩ nhiên khi vừa đặt chân xuống đất, các bà đã thay đồ dân sự chạy ngược về BMT để tìm các con.  Báo chí không loan tin này, cũng không loan tin các người đàn ông cởi áo lính đi tìm vợ con..  Chỉ một ngày sau, trên phòng tuyến của Trung đoàn 45 tại Phước An chỉ còn lại sĩ quan và một số binh sĩ độc thân hoặc không có gia đình tại BMT.

Bốn ngày sau, ngày 17, sổ tay của Thiếu tá Phạm Huấn ghi lại quân số của Sư đoàn 23 tại Phước An là Trung đoàn 45 còn 200 người, Trung đoàn 44 còn 300 người.  Trong khi cả hai Trung đoàn không đụng trận nào cả!! Quân số nguyên thủy của Trung đoàn 45 BB trên 2.000 người.  Còn quân số của BCH Trung đoàn 44 BB và Tiểu đoàn 3/44 khoảng 600 người

Lúc mờ sáng, hai trung đội pháo binh tại Đạt Lý kéo súng về Buôn Hô.  Tại Buôn Hô dân chúng đang chạy ngược trở lại hướng BMT để xuống Phước An vì nghe đài BBC loan báo BMT đã lọt vào tay quân CSVN.

Buổi trưa, hai trung đội pháo binh đóng tại Buôn Hô mà không có bộ binh bảo vệ, các đơn vị ĐPQ thuộc Chi khu Buôn Hô đã tự động tan hàng, người Miền Núi thì trở về buôn làng, người Kinh thì lo đưa gia đình di tản.  Dân chúng báo cho biết quân CSVN từ đèo Tử sĩ (Thuần Mẫn ) đang tiến về Buôn Hô, hai vị trung đội trưởng pháo binh bèn quyết định kéo súng quay trở lại Đạt Lý.

Tại Đạt Lý dòng người di tản cuồn cuộn tràn về Phước An theo ngõ tắt băng qua các đồn điền cà phê.  Thiếu úy Vĩnh Bình xin lệnh Tiểu đoàn trưởng Đào Đắc Đạo, Thiếu tá Đạo cho lệnh hủy súng và đưa binh sĩ về Phước An theo đường của dân chạy loạn.

Bản đồ từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang

BÙI ANH TRINH


.