Thursday, April 18, 2024

Sách về cờ vàng - Liên Hội Người Việt Canada thực hiện


18/4/2024


 

– Mời bấm vào link xem sách dạng e-book:

https://online.fliphtml5.com/xkoc/nrpd/

 

– Tải xuống xem sách dạng PDF:

https://drive.google.com/file/d/1oRsV01LchpuwE3qAX_vjUGBVhjUlVfIA/view?usp=sharing

 

Sách dầy hơn 50 trang, có thể in ra khi cần.

Hy vọng có thể giúp mọi người hiểu thêm về Cộng Đồng Người Việt Tự do và lá cờ Vàng – Lá cờ Di Sản và Tự Do.

 

Cai tù Việt Cộng (Phạm Kim Khôi)

 

Tranh bút chì về Tù Cải Tạo của Phạm Hữu Đản

 SOURCE:

https://baovecovang2012.wordpress.com/2023/07/07/cai-tu-viet-cong-pham-kim-khoi/ 

 

1. Như hàng ngàn nhà tù khác, Việt cộng đã dựng lên sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, ngày cuối cùng của hạn kỳ 10 ngày do chính chúng quy định cho Sĩ Quan cấp Úy đi “học tập cải tạo” đã qua tại nhà tù Long Giao. Nỗi hoài nghi về sự lừa gạt của Việt cộng càng ngày càng trở thành chính xác khi tuần thứ 10 cũng đã qua luôn.

Cái án tù vô hạn định không hề tuyên bố đang chính thức được thi hành để hủy diệt dần mòn số phận toàn thể Sĩ Quan của một quân đội thua trận vì bị Đồng Minh phản bội.

Trước khi chuyển tù từ các nơi tập trung ở Saigon về Long Giao, cán bộ Việt cộng phụ trách công tác tuyên bố:“nhờ chính sách khoan hồng đại lượng của cách mạng hôm nay các anh được đưa đến một địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi để học tập cải tạo…”, tới nơi mới thấy địa điểm đầy đủ điều kiện thuận lợi là một chỗ không có lấy một cái cầu tiêu, không một miếng ván lót nằm.

Thêm chuyện lạ khó tin nhưng có thật với nhân chứng gồm hàng trăm ngàn người đi ở tù, đó là ở tù phải đóng tiền cơm! Chỉ sau khi đến Long Giao tới ngày thứ hai, toàn thể tù nhân bị bọn cai tù bắt nộp tiền cơm. Chúng biết thóp ai cũng mang theo vài ngàn để phòng thân nên vét trọn được một mẻ rất khá.

Đểu cáng là tuy đóng tiền cơm, nhưng hàng ngày nhà bếp tù chỉ được phát gạo mục rỗng ruột. Thứ gạo bỏ vào nước vo nổi nhiều hơn chìm. Kết quả sau một thời gian ngắn, rất nhiều người bị mắc bệnh phù vì thiếu sinh tố B1. Chân người bệnh sưng mọng lên gấp hai ba lần khiến cho việc đi lại thật khó khăn. Dã man hơn nữa, có khi Việt cộng còn phát ra những bao gạo trộn đầy đất cát.

Thứ gạo này khi nấu thành cơm cả trại đều nhăn mặt người nghĩ cách đổ đầy nước vào nửa chén cơm rồi lấy đũa khuấy thật mạnh cho sạn cát lắng xuống nhưng cũng không thể nào lọc được. Cơm và đất cát đã dính bết vào nhau rồi. Cả ngày hôm đó cơm tù còn nguyên. Anh em đợi bọn cai tù xuống nói rõ sự việc, nhưng bọn này nghe xong thản nhiên trả lời :

– Các anh phải khắc phục.

Bệnh tật phát sinh trong trại tù mỗi ngày một tăng. Phụ trách y tế trại là một con y tá vườn. Con này mới bò từ rừng ra sau ngày 30-4-75. Hàng ngày nó ngồi vênh váo bên trong khuôn cửa sổ căn nhà dùng làm trạm y tế để làm việc.

Tù bệnh buổi sáng đến ngồi chờ bên ngoài lần lượt tới khai. Bất cứ bệnh gì, con này cũng khủng khỉnh cho toa điều trị một cách quái đản. Giữa năm 1975 không ai có thể ngờ y tá Việt cộng lại có cách chữa bệnh bán khai đến như vậy :

– Bệnh gì?

– Tôi bị phù, người mỏi mệt, đau nhức toàn thân.

– Xuống nhà bếp xin nước vo gạo đun lên mà uống.

-…?!?

– Bệnh gì?

– Tôi bị tiêu chảy.

– Tiêu chảy ra làm sao?

– Tôi bị đi cầu nhiều lần trong ngày.

– Nhịn ăn, ra chỗ hàng rào, hái lá ổi đun lên mà uống.

-…

– Bệnh gì?

– Chân tôi bị lưỡi cuốc văng vào làm độc có mủ nhiều ngày nay rồi.

Thằng quản giáo, cai tù trực tiếp coi mỗi buồng, sau khi nghe báo cáo thiếu hai người. Mặt nó tái đi. Tuy nhiên nó cũng vào tận nơi xem xét lại chỗ nằm của 2 người. Sau đó nó chạy về Bộ chỉ huy Trại rồi trở xuống ngay với thằng cán bộ an ninh. Hai thằng chia nhau tém gọn tất cả đồ đạc của tù trốn.

Tối hôm đó cả buồng 5 phải ngồi sinh hoạt kiểm điểm, dưới sự theo dõi và chất vấn của thằng quản giáo. Mọi người đến phiên phát biểu ý kiến đều cả quyết xác nhận không hề hay biết gì về âm mưu của hai người trốn trại.

Thằng quản giáo cố nén tức giận thông báo phịa: “Tôi cho các anh biết 2 tên phản động trốn trại bị bắt lại rồi. Hiện nay trại đang có biện pháp xử lý 2 tên này. Các anh lấy đó làm gương. Đừng bao giờ dại dột mà trốn trại. Các anh có trốn cũng không thể nào thoát được. Vì khắp nơi nhân dân ta đều là tai mắt của Đảng và nhà nước.”

Mặc dù bọn cai tù Việt cộng hết sức dọa nạt để ngăn chặn nạn trốn trại, nhưng không bao lâu một vụ trốn trại đông hơn trước lại xẩy ra. Lần này anh em ở nhiều buồng đặt kế hoạch chung nhưng họ lại thiếu may mắn hơn 2 người lần trước.

Sau vài ngày, xảy ra vụ thứ hai. Cả trại chứng kiến cảnh ba người bị dẫn giải về. Cả 3 quần áo rách tả tơi, tay bị trói quặt về phía sau bằng dây kẽm gai, mặt mày sưng húp, bầm máu. Họ đi không còn vững, lúc nào cũng chỉ chực ngã chúi về phía trước.



Sau khi được nhá cho mọi người thấy, họ bị nhốt ngay vào những cái cũi tù mà muốn ngồi dậy phải cúi đầu thật thấp. Anh em dò hỏi mới hay toán vượt ngục thất bại gồm 7 người. Bốn người đã bị bắn chết trong rừng. Ba người còn lại không bị bắn nốt vì sau khi tra tấn họ chết đi sống lại nhiều lần, bọn cai tù thấy rồi cũng chết, nên mang về trại để dằn mặt những người khác.

Lần này các đội tù không bị bắt sinh hoạt kiểm điểm về việc trốn trại nữa. Bọn cai tù sợ phản tác dụng nếu công khai hóa liên tục những tin tức loại này.

Tuy nhiên thằng quản giáo vẫn lên giọng răn đe: “Hiện nay trong trại ta vẫn còn những kẻ ngoan cố, chúng muốn coi thường luật pháp XHCN, đang âm mưu trốn trại để tiếp tục chống phá cách mạng. Nhưng không được đâu. Kẻ nào có ý đồ làm những chuyện dại dột đó sẽ bị trừng trị đích đáng như các anh đã thấy. Bốn tên cực kỳ phản động, chống đối đến cùng đã bị chính nhân dân ta bắn hạ. Ba tên còn lại nhờ vệ binh can thiệp kịp thời đưa về trại. Nếu những tên này biết ăn năn thật tâm hối cải thì sẽ được hưởng chính sách khoan hồng. Đây là lần chót để các anh suy nghĩ học tập cho tốt.”

Khoan hồng đâu không thấy, chỉ thấy vài ngày sau hai người trong cũi đã chết tại chỗ. Còn một người nằm mê man, bất tỉnh không ăn không uống nổi nữa, bọn cai tù nói là cho đi viện, nhưng có lẽ là viện dưới âm ty.

Lần này bọn cai tù có vẻ yên tâm vì cả 7 người trốn trại đều bị chúng bắn hạ hoặc tra tấn đánh đập rồi cũng chết luôn trong cũi. Biện pháp đó tưởng đâu đã bóp chết được phong trào trốn trại. Trái lại vẫn có những anh em tiếp tục quyết tâm tự cứu. Trước sự gan lì này, bọn cai tù chơi trò khác.

Chúng bày ra tòa án, cố tạo không khí nghiêm trọng để xử người trốn trại. Một buổi sáng cả trại nghỉ lao động. Từng đội sắp hàng cạnh nhau trước loa phóng thanh trực tiếp truyền thanh phiên xử Đại úy Thịnh tội âm mưu trốn trại. Riêng thành phần “chức sắc” gồm các lán trưởng, tổ trưởng tù được tham dự tận mắt phiên tòa tại bộ chỉ huy trại. Nhưng xử cái gì nữa, phiên tòa chưa bắt đầu, đã có một chiếc xe Molotova chở cỗ quan tài đưa vào trại.

Mọi người nhìn nhau : “xong rồi!” và đúng như thế. Cuối cùng bản án được một thằng Việt cộng mặt đầy sát khí ngồi bàn chánh án tuyên ra 2 chữ vắn gọn: “Tử hình!”. Đại Úy Thịnh bị mang ra bắn trước sự chứng kiến bắt buộc của đồng đội.

XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP

Bốn mươi tám năm trước (Người Việt Tự Do)

 Posted on May 3, 2023 by Lê Thy 


" Những Binh Nhì , Hạ Sĩ , Trung Sĩ , Chuẩn Uý khung sườn của quân đội đã giữ vững tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội đó . Họ được chỉ huy bởi những “ÔNG THẦY ” lừng danh nhưng tiếc thay lại vắn số như Đỗ Cao Trí , Nguyễn Viết Thanh , Nguyễn Viết Cần , Trương Quang  n , Nguyễn Văn Hiếu  hay những danh tướng chọn Chết Đứng hơn Sống Quỳ sau ngày 30/4/1975 (Nguyễn Khoa Nam , Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai , Lê Nguyên Vỹ , Phạm Văn Phú , Hồ Ngọc Cẩn , Nguyễn Văn Long) và bao nhiêu BINH NHÌ ,BINH NHẤT , HẠ SĨ TRUNG SĨ , CHUẨN UÝ , THIẾU UÝ coi cái chết HÀO HÙNG đẹp hơn SỐNG TỦI NHỤC chia nhau trái lựu đạn thay vì cởi bỏ quân phục trốn về nhà BÌNH AN !!!

Một quân đội như thế vẫn SỐNG MÃI trong lòng người dân cho dù đối phương đã tìm đủ mánh khoé để giết cho bằng được .

Bởi vì quân đội đó được dựng nên bằng máu của các ANH HÙNG !!!!".

 oOo

Năm nay 2023 – bốn mươi tám năm tròn ngày miền Nam bị chiếm đóng.

Việt Cộng gọi ngày 30/4/75 là ngày giải phóng , vài người trong này quen miệng cũng gọi theo . Một số lại cho là ngày hoà bình khi không còn tiếng súng nổ .

Còn những người lính miền Nam vẫn cầm súng và chỉ giã từ vũ khí sau 30/4/75 họ nghĩ gì ?

– Hạ Sĩ Truyền Tin thuộc TĐ 313 Địa Phương Quân : Hồi đó đi trình diện gia nhập quân đội cũng mong cho mau chấm dứt chiến tranh rồi về sum họp với gia đình . Đâu có mong muốn cầm súng hoài . Hồi đó cũng nghĩ lính Bắc Việt là người VN chắc không đến nổi nào, đánh đấm riết rồi cũng phải mệt chớ . Và người Bắc thì cũng là Việt Nam với nhau cũng cùng con cháu Lạc Long Quân và bà  u Cơ . Dù sao mấy ông lớn chạy hết rồi mình lính quèn đâu có sao có rau ăn rau có cháo ăn cháo . Đâu dè thậm chí rau cũng không có mà ăn . Con cháu mình đi học bị kỳ thị bị chửi chó mắng mèo , Nguỵ này Nguỵ nọ

Bây giờ nghĩ lại mà biết được mọi chuyện giống như vầy thì …thôi không nói được đâu…

– Th. Uýt.Đoàn 95 BĐQBP : Hồi đó từng có suy tư về cuộc chiến và đặt câu hỏi tại sao mình phải đánh nhau với một kẻ thù nhiều khi không nhìn thấy mặt . Mình cầm súng vì bổn phận phải làm chứ cũng không thù oán gì.  Nhiều lúc đụng trận bạn bè lính chết rất đau lòng nhưng không bao giờ trả thù khi bắt được tù binh . Mình có nghe nói VC đuổi thương binh ra khỏi bệnh viện dành chỗ cho lính của họ. Hồi đó mình không tin vì làm sao người lại có thể đối xử với đồng loại như vậy . Mình rời khỏi VN sớm nên không biết gì nhiều những chuyện sau ngày 30/4 nhưng nhờ Internet mình nhận ra những chuyện như thế có thật !!

Mình thấy CS ở đâu họ cũng có cùng một khuyết điểm là họ không chịu nhìn nhận sự dốt nát của mình . Cam Pu Chia thì cào sạch , xoá bỏ hết văn minh bắt đầu lại từ số không . Nga,  Tàu, Bắc Hàn hay VN Lào cũng y vậy . Không biết ai nói điều này  nhưng ở đâu có CS ở đó có nghèo đói. Thiệt y như trong kinh…

– Binh Nhất T.Đoàn 6 Nhảy Dù (còn ở VN ) : Tụi tui đâu có tè khi đánh nhau với VC , nhưng mà mấy ông thầy biểu bỏ súng về nhà thì mình theo lệnh thôi. Nói thiệt sau đó thấy tụi nó đi lểnh nghểnh ngoài đường mà ứa gan !! cỡ đó quạt cho vài băng M60 hết đất chôn .

Tui là dân VNCH thì làm sao trở cờ được . Ngày 30/4 có gặp lại vài thằng bạn củ rủ nhau mua đế về nhậu . Hàng xóm tưởng ăn mừng nên để yên đâu ai biết trong lòng tụi tui ruột gan héo hắt . Không dám kể cho con cháu nghe chiến tích hồi xưa . Tui sợ rắc rối cho vợ con cháu chắt chớ thân tui thì kể gì, còn con $#^@* gì đâu mà sợ . VC sợ Nhảy Dù chớ Nhảy Dù đ. sợ VC.

– Một thành viên LĐ81 BCND ( còn ở VN ) : Chuyện tụi tui bắn cháy tăng T54 ngày 30/4  có thiệt không hả ? cứ coi báo coi hình thì biết -thời này bấm một cái là biết hết trơn , có gì che dấu nổi.

Tụi tui còn cả ngàn mà, sợ gì VC ? thiệt tình mà nói lính tráng như tui vẫn thắc mắc tại sao mình buông súng vậy ta !!!Hồi đó tui tính chỉ riêng bán tiểu đội tui mà VC muốn đạp qua xác để tiến lên cũng phải tốn bộn chừng trung đội đủ . Súng ống đạn dược còn ngon mà…

Nghĩ gì về người lính VNCH hả ? tui không biết nhưng theo kiểu nhìn của tui về mấy đứa bạn cùng đơn vị thì VC chỉ ăn hên thôi. Nếu hai bên mà đồng cân đồng lượng về súng ống đạn dược thì còn lâu VC mới chiếm được miền Nam . Mấy ông thầy chịu ở lại thì tụi tui cũng đâu chấp nhận bỏ cuộc.

– Thành viên một trung đội Nghĩa Quân : Chú Ba biểu tụi tui bỏ súng về mà có thằng nào nghe lời đâu . Rồi chú cháu kéo nhau vô rừng kháng chiến. Thân đơn thế cô cuối cùng bị bắt hết ráo, có đứa tự sát có đứa bị đánh chết đứa bị tù gần chục năm mới được tha .

Hoà hợp hoà giải với VC hả ? nội cái tiếng nói giọng the thé như hát tiếng Tàu nghe còn không lọt lỗ tai thì hoà ở cái chỗ nào ? Mình người quân tử thiệt thà làm sao mà hòa hợp với đám người lưu manh đểu cáng thắng xưng ông thua xưng con. đêm nói một ngày nói hai được . Nói cho ông biết tui mới chửi thằng cháu nội nát nước về tội ” du nhập văn hóa phản động ” . Thằng nhỏ học lớp Một về chào ba nó ” Thưa BỐ con đi học mới về ” . Hỏi ra mới biết nó học theo lời dạy của cô giáo trong trường. Riết rồi tiếng ” BA ” tiếng ” MÁ” biến mất trong xưng hô của dân miền Nam mình…

Đây chỉ là vài tâm sự riêng tư của số ít người lính VNCH gần năm mươi năm về trước từng cầm súng bảo vệ quê hương . Họ không mang lon lá , cao nhất là ông Thiếu Uý Biệt Động Quân nhưng nghe tâm sự của họ thì hào khí hồi tuổi mười chín hai mươi vẫn ngời sáng . Bây giờ đi đứng có khó khăn sức khỏe nhiều vấn đề nhưng hình như họ vẫn cứ thắc mắc mãi câu hỏi tại sao mình lại chịu thua một địch thủ mà mình không phục.

Trong chiến tranh họ là những con tốt nhưng quân đội thành hình được là nhờ những con tốt như họ . Họ đuổi địch ra khỏi thủ đô Sài Gòn tết Mậu Thân , giữ vững An Lộc trong một trận chiến không khác nhiều so với Stalingrad (chiến tranh thế giới lần thứ Hai ) về cường độ ác liệt và tàn phá thương vong, lấy lại Cổ Thành Quảng Trị (1972) chết mấy ngàn lính TQLC. Họ làm nên những chiến tích chấn động thế giới như cha ông họ đã thành công trong quá khứ (Trần Hưng Đạo đuổi Thoát Hoan chui ống đồng chạy về Tàu , Đại Đế Quang Trung bức tử Sầm Nghi Đống, truy kích Tôn Sĩ Nghị dựng cờ chiến thắng trên thành Thăng Long ) .

Những người lính miền Nam đổ máu mình ra hàng ngày nhưng không than van oán trách ông phó tổng thống của mình chống nhau với ông tổng thống , dung túng cho bọn nằm vùng ( Huỳnh Tấn Mẫm , Lê Văn Nuôi… ) có cơ hội quậy phá hậu phương . Ông thủ tướng thì ngậm miệng ăn tiền- nghe đồn dính dáng tới chuyện còi hụ Long An – (Sau khi mất nước ông PTT về VN cười cầu tài , ông thủ tướng thì nhìn nhận VC có công thống nhất – thế còn mạng của gần ba trăm ngàn thanh niên miền Nam và hơn một triệu thương binh mấy ông quăng bỏ đi đâu ?

Đó là những con người TỐT BỤNG QUÁ MỨC !! bị thù trong giặc ngoài đeo bám nhũng nhiễu , chung quanh hầu như không ai cảm thông trừ chính gia đình , cha mẹ vợ con anh em bạn bè . Thân quân hành vài ba chục ký trĩu nặng trên vai leo đồi vượt suối đổ máu  mồ hôi bảo vệ một hậu phương bị quân thù quậy phá luôn luôn gậy gộc giáo mác đâm sau lưng . Thầy chùa không phải đi lính cầm đầu biểu tình kết tội người lính, tung hô đối phương có chính nghĩa.  Nhảy đầm nhạc trẻ vẫn nhảy đầm nhạc trẻ , chẳng ai quan tâm chiếc GMC chở vài quan tài phủ cờ chạy ngang qua .Cả báo chí ngoại quốc thiên tả cũng bóp méo sự thực về họ nói xấu họ…

 Thế mà họ không chấp !! vẫn giữ vững tay súng bảo vệ quê hương . Những tướng tá Mỹ tỏ ra đàn anh đánh giá thực lực tài năng chiến đấu quân đội Cộng Hoà trong khi KHÔNG BIẾT GÌ , KINH NGHIỆM GÌ về chiến tranh Việt Nam. Thậm chí họ còn không hiểu nổi tại sao đối phương chấp nhận đụng trận với lính Mỹ nhưng ngần ngại cố gắng tránh né đối đầu với các binh chủng Tổng Trừ Bị ( ND, BĐQ , TQLC, BC81)…

TẠI SAO ?

Những Binh Nhì , Hạ Sĩ , Trung Sĩ , Chuẩn Uý khung sườn của quân đội đã giữ vững tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội đó . Họ được chỉ huy bởi những “ÔNG THẦY ” lừng danh nhưng tiếc thay lại vắn số như Đỗ Cao Trí , Nguyễn Viết Thanh , Nguyễn Viết Cần , Trương Quang  n , Nguyễn Văn Hiếu  hay những danh tướng chọn Chết Đứng hơn Sống Quỳ sau ngày 30/4/1975 (Nguyễn Khoa Nam , Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai , Lê Nguyên Vỹ , Phạm Văn Phú , Hồ Ngọc Cẩn , Nguyễn Văn Long) và bao nhiêu BINH NHÌ ,BINH NHẤT , HẠ SĨ TRUNG SĨ , CHUẨN UÝ , THIẾU UÝ coi cái chết HÀO HÙNG đẹp hơn SỐNG TỦI NHỤC chia nhau trái lựu đạn thay vì cởi bỏ quân phục trốn về nhà BÌNH AN !!!

Một quân đội như thế vẫn SỐNG MÃI trong lòng người dân cho dù đối phương đã tìm đủ mánh khoé để giết cho bằng được .

Bởi vì quân đội đó được dựng nên bằng máu của các ANH HÙNG !!!!

nguoiviettudo

30-4-2023

SOURCE:

https://baovecovang2012.wordpress.com/2023/05/03/bon-muoi-tam-nam-truoc-nguoiviettudo/

 

Wednesday, April 17, 2024

Tuyển tập thơ văn H.O.: Viết từ miền đất hồi sinh -- Đỗ Quý Sáng – Chim hót ngoài song

 

Tháng 7-1975, mùa hè ở vùng New England thật là êm ả. Bọn sinh viên Việt Nam ở Hải ngoại lại tập họp về trại hè. Lần này tôi đem theo gia đình vì vợ và con tôi chạy thoát được ra ngoài. Năm ngoái, 1974, ở Đại Hội Sinh Viên Trại Hè tại Chicago, tôi bị chỉ định mặc áo dài khăn đóng để đóng vai cô dâu chú rể. Lúc ấy mấy gã độc thân trai trẻ không anh nào dám đóng vai chú rể, sợ bị vướng thật. Còn tôi, vợ ở Việt Nam, mà tôi lại có kinh nghiệm lấy vợ từ 1971 nên chi đóng vai chú rể hẳn là không khó. Năm nay, tôi nghiễm nhiên là một lão sinh viên. Thật quả lần này, không thể ngờ được, là tôi lại đoàn tụ gia đình bên Mỹ. Dẫn vợ đi đại hội sinh viên tôi cũng nhột lắm, nhưng không thể nào để hai mẹ con bơ vơ ở nhà. Bà vợ quê mùa của tôi sẽ phải ăn nói ra sao với bọn nữ sinh viên du học tân tiến? Lại còn cháu bé ba tuổi! Bạn bè có chế giễu tôi là lão sinh viên không? Sinh viên mà có vợ con thì kể như đi tiêu rồi. Suy nghĩ thì vậy nhưng mà không đem vợ con đi theo đại hội thì kể như cuộc đời còn rắc rối hơn. Thôi, cũng liều nhắm mắt đưa chân. Tôi là chủ bút tờ báo sinh viên, dứt khoát phải đi phó hội. Số báo “Chuông Việt” đã phát hành, tôi phải đem theo. Số báo này có một bài gay cấn do ông Nguyễn Xuân Nhị viết. Ông Nhị là nhân viên ngoại giao Tòa Đại Sứ của ta ở Thái. Là một người có kinh nghiệm đấu tranh với Cộng Sản… ông tiên đoán Cộng Sản sẽ bắt đầu giở thủ đoạn. Bài viết của ông dựa trên giả thuyết… cứ theo những quan điểm của Cộng Sản… thì đây là việc chúng sẽ làm… Từ đó ông suy diễn ra những hành động đổi tiền, tịch thu tài sản, bắt lao động cưỡng bách…, thủ tiêu người quốc gia. Vài anh em sinh viên trẻ khi duyệt bài của ông Nhị thì có vẻ ái ngại. Bởi cái tinh thần học ở bên Mỹ nó rất thơ ngây. Có anh suy diễn: Việt Cộng không ngu dại gì lại bỏ lỡ cơ hội hòa giải hòa hợp. Nhất định không có bắt bớ, họ khẳng định! Họ cũng phê bình lối viết giả tưởng, một lối viết họ cho là bóp méo sự thật.

Là chủ bút tờ báo sinh viên duy nhất ở đất Mỹ lúc đó, tôi thật sự đem bàn cân ra suy nghĩ. Ông Nhị bảo vệ cho quan niệm của ông. Ông cho rằng ông không viết theo giả tưởng. Bọn sinh viên du học Mỹ quá thơ ngây đến độ bị lừa bịp. Làm gì có chuyện hòa giải hòa hợp. Bọn Vẹm nhất định tiên hạ thủ vi cường. Ông ký bút hiệu Nhị Nguyên và nói rằng Cộng Sản chúng theo lối độc đạo… độc nhất nguyên. Ông đứng trên quan điểm nhị nguyên để soi sáng vấn đề.

Cuối cùng thì tôi quyết định đăng bài của ông Nhị Nguyên. Tôi nghĩ rằng cả trăm ngàn người dọt chạy nạn Cộng Sản, nhất định phải có lý do. Chiến tranh đã chấm dứt, một bên thắng một bên thua, bên thua cảm thấy như thế cũng xong, bây giờ là lúc chờ xem.

Khi báo được phân phối vào buổi sáng thì buổi trưa một tốp sinh viên kéo đến chất vấn tôi và kết án việc cho đăng bài chống Cộng trong một cuộc chiến đã ngã ngũ. Thôi thì họ làm đủ thứ ồn ào. Tôi cắt nghĩa cho họ thế nào là tự do tư tưởng. Tôi đòi hỏi họ phải áp dụng những giá trị cơ bản đó trong quan điểm phê phán. Những người này quả quyết không có vấn đề biển máu. Tôi cho rằng trăm ngàn người bỏ chạy đã nói lên chính xác của dự phóng. Tất nhiên mấy người phản chiến không chịu luận điệu này. Vả lại họ đã khoác cho họ một chiếc áo choàng chiến thắng, muốn đồng hóa họ với phe thắng trận, kiếm chút thỏa mãn tự ái. Thuyết phục những người này lúc hai bên còn lâm chiến bất phân thắng bại đã khó. Khuất phục họ lúc thế cờ của họ đang lên khó khăn bằng đi lên trời. Họ cho rằng những người bỏ chạy là nạn nhân của chính đường lối tuyên truyền ngáo ộp hóa Cộng Sản. Rất mừng là kỳ đại hội sinh viên này có khá nhiều thân nhân của sinh viên đi theo. Dân số chống Cộng ở đại hội vẫn đè bẹp phe thiểu số đón gió hào quang chiến thắng. Nhất là những người này vừa từ quê hương tị nạn chạy qua. Có hay không có biển máu cho những người xấu số kẹt lại bên nhà trở nên một đề tài nóng bỏng ngoài những đề tài liên quan đến vai trò sinh viên du học đối với công cuộc trợ giúp đồng hương.

Trong những người không tin có biển máu phải kể nhóm đi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về. Số phận những người này cũng chưa có tin tức gì xác nhận vào lúc ấy.

Đề tài phải thích ứng với đời sống mới như thế nào trở nên sôi nổi bởi vì sinh viên du học lâu nay không được phép làm việc trên đất Mỹ. Anh em phần lớn chỉ có kinh nghiệm làm bồi bàn và rửa chén ở mấy tiệm ăn Tầu. Nay phải đi kiếm job, họ cũng không tài ba gì hơn người mới qua là bao nhiêu. Đặc biệt họ lại mù tịt trong vấn đề các chương trình xã hội … bởi vì chính họ… từ trước tới nay không có điều kiện thụ hưởng.

Đề tài Biển Máu do đó sôi nổi được một lúc rồi… lạnh luôn. Không phải dùng lý luận cũng hiểu là tâm lý ai cũng không muốn có biển máu xẩy ra. Lý luận một hồi cũng đâm ra nhàm bởi vì nếu có biển máu thì chúng ta làm được gì? Không ai muốn đặt cho mình vào vị thế khó xử! Quan điểm ngầm là lạy trời không có biển máu xảy ra! thế thôi. Trong khi đó biết bao cơ cực và đầy ải xảy ra trên khắp các vùng đất nước mà người ở ngoài không sao biết được.

Vào những năm đầu tiên tin tức về Việt Nam quá mù mờ. Dần dần nhờ các vụ vượt biên, đi chui hoặc đăng ký của thuyền nhân mà một số dữ kiện về học tập cải tạo tù đầy được tiết lộ. Tin tức liên quan đến thảm sát và diệt chủng ở Campuchea được thế giới chú ý đến hơn. Chiến tranh Hoa – Việt vào cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 lại càng làm số phận những người tù cải tạo không được chú ý đến. Dần dần các phong trào ở hải ngoại tranh đấu mỗi lúc lên cao và tin tức về số phận nửa triệu người bị cầm tù trong các trại cải tạo được phơi bày.

Bên  Âu Châu lúc đầu có nhiều tin tức sốt dẻo hơn, vì số người được cho phép rời Việt Nam qua Pháp dễ dàng hơn bởi quan hệ ngoại giao hai nước. Từ năm 1976, tôi đã được nghe những chuyện lạ đời như nhổ một củ khoai ăn lén là bị cán bộ Cộng Sản bắn chết. Đối với đời sống no đủ ở ngoại quốc và ở nơi mà nhân quyền được tôn trọng, câu chuyện khủng khiếp như vậy không mấy ai tin. Ban đầu người ta còn hồ nghi vì không ai nghĩ Cộng Sản lại có thú tính dã man như thế. Tin này dồn dập với tin kia và nhân chứng sống mỗi ngày mỗi đông, không tin cũng không được.

Ông Nhị Nguyên nói thế mà đúng… những sự thật về Cộng Sản không thể phủ nhận. Tôi tự hào với sự chọn lựa đăng bài của Nhị Nguyên và thầm nhủ đáng lẽ… chả có gì là tự hào mới đúng bởi vì nếu có kinh nghiệm đấu tranh lẽ ra phải… nhìn rõ như hai với hai là bốn. Những lý luận rằng Cộng Sản Việt Nam không áp dụng lối biển máu như ở Campuchea tức là chúng nhân đạo hơn, liên tiếp bị những nhân chứng sống phản ứng mạnh mẽ. Ai cũng cho rằng Cộng Sản Việt Nam tinh vi ác độc hơn… chúng bóc lột sức lao động và hành hạ đầy ải người thất trận một cách vô nhân đạo, để cho người bị cầm tù sống dở chết dở… mà không mang tiếng xấu quốc tế.

Mỗi câu chuyện tôi nghe kể làm ghê rợn và ơn ớn ở khắp cơ thể không phải chỉ ở cổ của người bị cắt tiết, không phải chỉ ở cổ chân nơi bị xiềng xích, không phải chỉ ở khuỷu tay bị đánh gẫy rồi đem đi mổ sống, mà cảm giác rờn rợn chạy khắp quanh người. Hồi còn nhỏ mỗi lần nhìn thấy cắt tiết gà vịt, tôi rợn ở cổ và không muốn… ăn thịt gà vịt. Ba tôi mỗi lần cắt tiết gà vịt thường đọc câu niệm: “cắt tiết sát kê hóa kiếp này ra kiếp khác.” để cho đỡ mang tội. Những câu chuyện cổ tích về báo oán như đánh rắn bị báo thù, cứu con cá nhỏ được vua Long Vương thủy tề báo ơn dường như lúc nào cũng pha trộn trong tâm thức để ngăn chuyện ác, khuyến chuyện lành. Những lần phải phụ cầm cánh con gà hoặc cánh con vịt, tôi kinh nghiệm là trước khi gà vịt chết chúng vùng mạnh lắm có lần tuột ra khỏi tay tôi. Cứ liên tưởng những hình ảnh đó đối với con người lại làm tôi ớn lạnh. Tiếp chuyện với những người cựu tù nhân học tập, tôi không thể nào ngưng được dòng dĩ vãng.

Khi còn 7, 8 tuổi ở Hà Nội tôi đã gặp những người ăn mày hai tay run lẩy bẩy. Tôi thường năn nỉ mẹ tôi cho tiền những người này. Chúng tôi hỏi han vì sao họ ra nông nỗi ấy. Phần lớn họ nói bị Tây bắt và bị tra điện. Những trẻ sống ở thành thị thường chỉ nghe tiếng Tây say rượu la ó với phu xe xích lô. Chúng ít có dịp nhìn thấy cảnh người đánh người. Một đứa bé như tôi, tôi có may mắn hơn, vì thật quả tôi mới từ quê ra tỉnh có vài năm, óc còn mang những hình ảnh hãi hùng. Đồng quê Việt Nam quá thanh bình và quá đẹp. Chiến tranh đã làm cho tan nát. Không phải là tan nhà nát cửa về thể chất mà tan nát cả tấm lòng trong trắng.

Tôi rơm rớm nước mắt, kéo tay mẹ tôi lẳng lặng từ giã những người ăn mày chiến cuộc. Tôi thường có những lần nằm mê. Giấc mơ có nhiều sợ hãi. Mỗi chiều trở lại, thì cơn sợ của tôi cũng trở lại. Tôi không biết tối nay phải trải qua những cơn mơ quái đản gì nữa đây. Tôi không hỏi mẹ, vì tôi biết mẹ tôi không có thì giờ suy nghĩ trả lời. Vả lại con nít nhỏ ở Việt Nam… những âu lo của nó… có gì quan trọng lắm đâu. Nhất là trong thời chiến.

Năm tôi lên sáu, chứng kiến cảnh Tây về làng. Mõ làng đánh liên hồi. Mọi người phải tụ họp ở sân làng. Thanh niên, trung niên bị xét hỏi giấy tờ. Người nào không ra trình diện kịp thì bị đòn nặng. Tôi là một đứa bé cũng phải theo mẹ tôi ra trình diện. Ba tôi tất nhiên là không có ở trong làng vì ông còn kháng chiến chưa về tề. Có khi ông đã bị bắt nhốt ở nhà pha Hỏa Lò rồi. Thời gian quá xa mà lúc đó tôi quá nhỏ không được mẹ tôi cho biết chi tiết. Người trung niên bị Tây bắt ở đình run rẩy lạy lục lắm. Tây không đánh, mà một người Việt Nam mặc đồ nhà binh đánh đấm đá túi bụi. Người nhà quê ấy kêu la rống lên. Anh ta bèn được lệnh há mồm ra và đổ nước mắm vào cho uống. Sau đó, anh ta được uống liên hồi một thùng nước lã, nước ao ở đình làng. Lúc anh ta bị cởi áo ra thì cái bụng đã trương phượt lên. Người “Việt gian” lúc ấy hùng hổ vừa chửi vừa đạp đôi giày “săng đá” lên cái bụng nước ấy. Mỗi lần đạp thì từ miệng anh nhà quê nước lại phun ra. Tôi không nhìn thấy máu nhưng tiếng chửi rủa, tiếng kêu đau rõ mồn một. Cả làng ngồi ở đấy mà yên lặng như tờ. Trẻ con như chúng tôi, có đứa nhỏ hơn tôi, đầu còn để mấy cái cút, mớ chỏm tóc, cũng không đứa nào dám hó hé. Nín thở. Bất lực. Phó mặc.

Một sáng nắng đẹp trời, không có Tây, mẹ tôi phơi thóc và chiếu ra sân. Tới gần trưa mẹ tôi kêu tất cả các con lại, trao cho mỗi đứa một cái túi xách nhỏ. Tiểu đội chúng tôi ra tới đầu làng, tách vào đường ruộng. Chúng tôi như lũ vịt con theo chân mẹ đi trong ruộng lúa. Đến khi gần tới địa phận Tỉnh có đồn lính Tây gác chúng tôi mới lên lại đường cái. Nhìn thấy Tây đen gạch mặt (gốc Phi Châu – Sénégal) tôi lạnh cả xương sống. Tây về làng đánh đập, sao mình lại về đây hả mẹ. Tôi hỏi âu lo. Mẹ tôi chỉ nói về Tỉnh ở thì chúng nó không đánh đập nữa.

…Những quá khứ sóng gió như thế thường tạo cho mình những giấc mơ khủng khiếp. Tôi nghĩ những người tù nhân chính trị gọi là cải tạo cũng vậy. Họ vẫn còn những giấc mơ ám ảnh, sợ hãi. Người còn minh mẫn thì thở phào tỉnh dậy với cảm giác…thì ra chỉ là một cơn ác mộng. Người yếu tiếp tục kéo theo  cơn sợ cả ngày. Ông Trang Tử nằm mơ thấy mình là con bướm bay một cái đi khắp vũ trụ… vào khoảng không… ông gọi là thái chân chi du… Lúc ông tỉnh dậy quên cả mình là Trang Tử. Nằm mơ vào cõi mê ly đó ai là không muốn, nhưng những giấc mơ của người cựu tù Cộng Sản không đẹp như vậy… nó toàn là máu… là xô đẩy… là khiếp hãi… là nhìn thấy bạn bị bắn chết… là thấy sắp đến lượt mình bị hành hạ. Họ tỉnh lại, với mồ hôi vã ra như tắm. Bần thần. Uể oải. Chán nản. Nghĩ đến thực tế… rồi mấy tháng phù du sẽ trôi qua. Trong mơ cũng khủng khiếp mà thực tế cũng hãi sợ. Sống trong cơn lốc.

Tôi không có kinh nghiệm ở tù. Chưa ở tù lấy một ngày trong đời. Có lẽ vì vậy tôi kém nhạy cảm về quyền lực của kẻ thống trị. Có người bảo tôi chưa từng trải vì nói năng… không đề phòng. Có lẽ các anh ấy nói đúng. Một con chim dù là chim bồ câu ở Việt Nam cũng rất thận trọng khi gần người. Ở Mỹ, chim cứ sà vào tay người ta mổ hạt mà không sợ bị chụp. Vì cuộc đời của tôi từ khi trưởng thành hít thở không khí tự do, phần lớn lại là ở các đại học. Nơi mà quyền ăn nói phát biểu được tôn trọng nhất. Có người bảo tôi khéo nói. Nhưng nội dung lời nói thì mang những ý kiến phản kháng. Phản kháng tuổi già, cản chân giới trẻ! Phản kháng giả đạo đức! Phản kháng tinh thần quan liêu chết nếp! Tôi chưa ở tù vì làm gì sái quấy nhưng phải vạ miệng thì có rất nhiều. Một con chim chưa bị đạn, chưa từng bị người vồ bắt, rình rập, ắt hẳn kém nhạy cảm và vì thế dạn dĩ hơn con chim ở Việt Nam giữa thời giông loạn. Đấy là nhược điểm của tôi.

Nhưng tôi lại có nhạy cảm về sự đau khổ của người khác. Một người nhà quê bị Tây giật điện. Một người thương binh tàn phế cụt chân bán vé số trên đường Tự Do, một em bé bụi đời đánh giày trên hè phố… những hình ảnh ấy rướm máu trong tim tôi và thường làm tôi xúc động. Mặt khác, một ông Tướng hống hách… di chuyển ở quân đoàn có tiền hô hậu ủng, có quân cảnh bảo vệ nhẩy xổ xuống đường xô ngã một ông già đi xe đạp để đừng phớt qua chiếc xe của vị Tướng… hình ảnh mà tôi nhìn từ văn phòng Tòa Hành Chánh Tỉnh Biên Hòa… làm tôi phẫn nộ với kẻ quyền lực.

Thứ cường quyền mà Cộng Sản áp dụng là một thứ cường quyền có thể làm cho người ta tức ói máu lên chết được. Tôi nghe lại những cách xử và giải quyết sự việc của các cán bộ Cộng Sản do những người cựu tù học tập kể lại… mà thầm phục cho những người sống sót. Thật vậy, khi kẻ cường quyền không màng đến sự sống chết của người dưới tay, thì cái dũng của Thánh nhân là một cái dũng quá dại dột. Bởi vì làm như thế là dọn cho mình cái chết thế thôi. Nhưng mà cũng không được hèn hạ để cầu sướng thân hơn anh em bạn tù. Cái khó cho người sống sót mà giữ toàn danh tiết là ở chỗ đó. Tôi không hiểu sao tôi đã làm thơ than khóc cho những cô nhi khốn khổ, đã làm thơ cám cảnh “Thương binh đợi bạn về”, mà tôi chưa làm thơ về người tù cải tạo.

Một dạo tôi định làm thơ bởi vì tôi đã nghe quá nhiều các câu chuyện do người tù cải tạo kể cho tôi nghe về thân phận và nỗi đọa đày của họ. Chất liệu họ có đủ tại sao tôi không làm được? Một lần tôi đọc thơ của Luân Hoán viết về người cải tạo đi gỡ mìn. Tôi xúc động và không dám làm thơ thác lời người cải tạo. Làm như thế tôi cho là mất phong cách của người cầm bút. Hằng trăm ngàn tinh hoa miền Nam bị đẩy vào các trại cải tạo khắp các vùng đất nước. Những địa danh Trảng Lớn, Long Giao, Hàm Tân, Kà Tum, Đầm Đùn, Thanh Hóa, Hoàng Liên Sơn… rộn lên sợ hãi. Đất nước ta có những địa danh Vạn Kiếp, Tam Điệp, Bạch Đằng Giang, Chí Linh, Chi Lăng, Hàm Tử Quan… rền vang trong tâm thức Việt. Hùng tráng. Oanh liệt. Những địa danh ghê rợn do Cộng Sản cống hiến cho lịch sử sẽ viết tội ác của họ đến muôn đời. Tôi không thể lấy đi cơ hội của những người tù cải tạo nói lên nỗi oán hờn cũng như niềm tự hào của họ. Chính các anh mới là những tác giả chân thành và chính thống. Khi các anh viết về các anh, lịch sử lắng nghe và lịch sử ghi nhận. Anh Kiêm Thêm là một nhà văn, lại là giám đốc các chương trình huấn nghệ và trực tiếp điều hành trung tâm sinh hoạt cựu tù nhân chính trị Việt Nam ở Los Angeles. Tôi đề nghị với anh ước vọng của tôi là cộng đồng có một tuyển tập của các cây viết cựu tù cải tạo. Tôi biết anh Kiêm Thêm quá bận rộn với các chương trình, và báo chí do anh chủ trương, nhưng “Ngục văn nhất hữu, phiếm luận bách vô.” Tôi bắt chước câu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của thời hủ lậu để trình bày là dù anh xuất bản 100 quyển tạp luận cũng chẳng kể chi, nhưng một cuốn tuyển tập của những cây viết tù cải tạo là kể như có một sự đóng góp lớn. Nhất là nếu được những người chưa hề viết bao giờ nay phải viết ra thì đúng là “vật cùng tắc minh” có lẽ sẽ vô cùng xúc động!

Đã có rất nhiều nhà văn viết lên cuộc đời của họ qua các trại tù. Thỉnh thoảng trong vài tập có nêu những gương can đảm trong thời cải tạo … Những người can đảm thì phần lớn là nhận lấy cái chết. Ngoài ra, thì đều phải tập nhẫn nhịn như một thứ thiền bất đắc dĩ cho khỏi nộ khí xung thiên hoặc tức mà chết, hoặc vọng động mà đưa mình đến chỗ chết. Tôi nghĩ rằng người chết cũng đã vinh danh mà người sống cũng đáng được ca tụng nếu họ nói được cho loài người nghe nỗi đau đớn của họ. Tuyển tập viết từ MIỀN ĐẤT HỒI SINH với 26 tác giả đóng góp bài vở hy vọng làm được điều mong ước chung này. Tuyển tập này do Liên Hiệp Cộng Đồng Việt Nam, Trung Tâm Sinh Hoạt Cựu Tù Nhân Chính Trị Los Angeles xuất bản gởi tặng các anh em H.O mới sang như là một món quà văn nghệ. Hy vọng trong tương lai những tác phẩm như thế này sẽ được thực hiện đều đặn. Mong các cây viết H.O, các nhà văn, thơ cùng các mạnh thường quân tiếp tay với UVCC trong mục tiêu kể trên.

Khi tôi nói chuyện với một nhóm cựu tù cải tạo mà nay đã thành danh vì có tên tuổi thì có một điều lý thú là họ hết sức chân thật cả đến những khuyết điểm của mình.

Một hôm chúng tôi hội họp vui vẻ. Anh chủ xị đóng vai quản giáo, một cựu thiếu tá Hải quân, Thiếu tá Chuộng, mặc dù anh Chuộng hình như chạy thoát từ 75. Đóng vai quản giáo ngu dốt thì ai mà chả đóng được. Hồi xưa dưới đời nhà Minh, Bồ Tùng Linh không biết phải châm chọc chế độ độc tài cách nào cho an toàn. Ông bày ra chuyện hồ ly tinh. Ông dựng quán bên đường, ai có chuyện ma quái hay ho thì đến kể và được thưởng rượu. Nhờ sáng kiến này chúng ta mới có bộ ngoại thư Liêu Trai Chí Dị mà thưởng thức những cảnh ái ân ma quái. Tôi bắt đầu buổi họp ở Chicago bằng bốn câu thơ:

“Cô vọng ngôn chi cô thính chi

đậu bằng qua giá vũ như ty

Liễu ưng yếm tác nhân gian ngữ

Ái thính thu phần quỷ xướng thi.”

Tản Đà dịch:

Nói láo mà chơi nghe láo chơi

Dàn dưa lún phún hạt mưa rơi

Chuyện đời chán ngắt không thèm nhắc

Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời.

Anh em liền nổi hứng kể chuyện mình và kể chuyện người.

Bằng một giọng cảm động, anh Mai Tất Đắc, Chủ Tịch Hội Người Việt tại ILLinois phát biểu: “Phải công nhận là nếu chúng ta, gốc sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà bị cải tạo không chết thì chúng ta cũng đã có tí hèn rồi. Chúng ta phải làm cái gì chuộc lại.” Anh em hoan hô cựu sĩ quan Hải quân Mai Tất Đắc… người đã làm bài thơ tự trách “Ta như bầy chim trốn tuyết“.

Nhà văn Vũ Uyên Giang đứng lên hát bài “Kha Tư Giáo”, anh bắt đầu giọng trầm buồn hát bài hát mà anh khiếu nại là đã làm trong dịp chứng  kiến cái chết tàn nhẫn của Kha Tư Giáo ở trại tù cải tạo.

…”Kha Tư Giáo là một sĩ quan cứng cổ đã từng bớp tai cấp trên và được cho đoái công chuộc tội lao công chiến trường. Một thứ Nguyễn Công Trứ bị phạt đi “tiền quân hiệu lực“. Kha Tư Giáo hạch sách cán bộ Cộng Sản: “tại sao chúng tôi có tội? chúng tôi yêu phần đất tự do và phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Nếu chúng tôi thắng các anh, chúng tôi chắc chắn đối xử với các anh tốt hơn là chính Đảng đối xử với các anh nữa!”

Bọn chúng tôi lạnh mình… khi công an… lên đạn rầm rập. “Mày cứ bắn tao đi, tụi hèn” Kha Tư Giáo thách thức. Một tiếng nổ chát chúa. Kha Tư Giáo choạng đi, viên đạn xuyên vào chân. Kha Tư Giáo gào lên: “Mày không bắn chết tao là mày hèn”…

Cán bộ lôi Kha Tư Giáo sệch sệch đi như lôi một con dã thú bị thương.

Giáo không bị giết vì chú của Giáo là Kha Tư, một cán bộ ở cấp Bộ Trưởng Bộ Thương Nghiệp Hà Nội. Kha Tư viết giấy vào nói: “Cháu chỉ cần nhận tội theo ngụy, thì cháu sẽ được về”. Kha Tư Giáo mắng cán bộ quản giáo: “Tao không có thân nhân nào làm quan ở chế độ Cộng Sản cả.”

Một buổi sáng, công an đeo súng vào triệu tập cả trại tề tựu. “Hôm nay chúng tôi cho các anh cơ hội. Các anh được quyền xét xử tên Kha Tư Giáo. Chúng tôi đã kết tội tử hình. Anh nào đồng ý thì giơ tay.” Cả bọn tù ngồi xổm, không đứa nào giơ tay.

Tiếng súng AK lên nòng đạn đến rợn người.

Họng súng nâng ngang, rồi chĩa vào đám tù chúng tôi. Một vài cánh tay lác đác giơ lên. À, chắc là của ăng-ten. Không có lý. Vậy thì của vài thằng hèn sợ chết không gặp mặt vợ con. Thêm một đợt súng khác lên nòng. Thêm cánh tay “biểu quyết” thuận án tử hình.

Tiếng cán bộ nói: “Các anh đã đồng ý án tử hình cho tên Kha Tư Giáo, thôi các anh bỏ tay xuống.” Cả bọn tù thở phào nhẹ nhõm. Được một giây, ai nấy lại ái ngại cho viên cựu sĩ quan gan lì này.

Vũ Uyên Giang kết luận:

“Thế là Giáo bị trói tay chân trên giàn, để khát để đói. Dai dẳng vài ngày không chết. Các vết còng bị ghẻ lở có dòi. Cán bộ cho nhúng tay  vào nước muối. Cuối cùng Kha Tư Giáo kiệt lực, lờ đờ. Không ai cứu giúp được gì. Mọi người lặng nhìn cái chết tàn nhẫn thoi thóp của anh. Ngày ấy mưa buồn phất nhẹ. Kha Tư Giáo có lẽ thấm được môi vài giọt nước từ trời cao rơi xuống.”

Nhà văn Việt Dương kể lại bằng giọng đanh thép dù người anh nhỏ yếu và gầy:

“Cách tra khảo thật là tàn nhẫn. Tôi bị treo ngược lên. Mười đầu ngón tay bị đâm kim gút và buộc lông gà tơ. Quạt máy được vặn lên xoay qua lại để phe phẩy vào các sợi lông. Mỗi lần lông gà xoáy, cơn đau của tôi không thể nào kể ra hết được.”

Một cựu Đại úy lục quân nói về số phận mình:

“Tôi bị đi Hoàng Liên Sơn đẵn nứa. Giang, nứa, tre, lồ ồ, cây bương cây mai. Những năm ở Sơn La và Hoàng Liên Sơn rét mướt vô cùng. Khi ở trong Nam tôi đã bị đập một báng súng vào màng tang ngất xỉu vì đi chậm. Cán bộ chửi rủa và cho rằng tôi muốn trốn. Ở trại Long Giao tôi mất hai người bạn. Đại úy Lê Đức Thịnh, dạy tình báo ở Thủ Đức là một trong hai người bị bắn chết. Thịnh viết thư gởi cho vợ và bị công an bắt được. Cán bộ bắt ra hành hình. Thư của Thịnh được đọc để kể tội. Thịnh nói cho vợ nghe: “Anh rất oán hận lũ Cộng, em ở nhà nhất định không cho con gái lấy bọn chó đẻ. Khi nào anh em bên ngoài tập họp xong, anh sẽ ra tiếp tay.”

Thịnh được buộc vào cột đèn xi măng của Mỹ để lại. Người thứ hai can tội trốn trại bị bắt. Cả hai bị không biết bao nhiêu viên AK bắn vào, thân thể cứ co lại rồi bật lên. Tôi không dám khóc. Một cái báng súng vào đầu ngất xỉu hôm trước, được coi là ơn huệ cảnh cáo. Từ Long Giao chúng tôi được chuyển trại. Về Tân Cảng lên thuyền than đá đi ra Bắc. Người tù xuống tầu ngồi co ro, được phát cho cái chai để tiểu vào. Ai đi cầu thì phải đợi. Tôi chờ xếp hàng từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, leo lên được miệng thùng phuy thì không thể đi cầu được. Trong bụng chắc không có gì tiêu hóa để phải hóa tiêu!

Trời nắng, cán bộ phun nước lên đầu, ai uống được tí nào thì uống. Sau 3 ngày 2 đêm, thì tầu cập bến Cẩm Phả. Đến trạm nào chúng nó cũng cho chuyển vào ban đêm. Khi xuống tầu, công an rọi đèn pha. Có cả chó dữ dàn chào, họng súng AK chờ đợi. Chúng tôi mặc kệ… chó cắn thì cứ cắn, sống chết không thành vấn đề. Từ đó chúng tôi được chuyển lên xe lửa. Chỗ nào đi qua có trạm là có “đồng bào” tập hợp la hét dọa đánh chết. Cán bộ công an phải ra sức cản cho họ… khỏi xông tới xé xác chúng tôi. Cán bộ lên tiếng:

“Mấy anh phải đánh giá đúng điểm đứng của mấy anh. Mấy anh phải biết tội ác của mấy anh. Đồng bào sẽ giết các anh liền nếu Đảng không bảo vệ mấy anh”.

Chao ơi cũng chúng nó xúi, rồi lại lên tiếng nhân nghĩa hão. Chúng tôi bị bắt buộc phải biết ơn những kẻ cầm tù chúng tôi.

Đến phà Ô Lâu… bọn tù chúng tôi xuống xe qua phà. Xe giải phóng và xe molotova cũng lên phà. Từ bờ này qua bờ kia là hai giây cáp dài. Bọn móc thuyền móc từng nấc vào giây cáp kéo phà đi chứ không có máy móc gì. Chắc đây là sông Kỳ Cùng, tôi nghĩ như vậy.

Rồi thì đoạn đường di chuyển cũng phải đến.

Trại Hoàng Liên Sơn là một liên trại. Cứ sáu người chúng tôi thì có một cái thau. Trong bọn có một Đại Đức trước làm ở bệnh viện Cộng Hòa. Đại Đức này lo hái thuốc, hái lá để dành làm dược liệu cho trại. Một hôm bọn tù chúng tôi dấu được một củ khoai nhờ Đại Đức luộc giúp. Chỉ có thế mà Đại Đức này bị kiểm thảo là nhóm lửa ngoài giờ sắc thuốc. Bị kết tội là toan nấu thuốc độc đầu độc cán bộ. Khi bị giải đi Đại Đức nói với tôi, ông sẽ từ giã cõi đời. Khi được điều tra và được trở lại trại thì ông uống thuốc độc tự tử chết. Tôi không còn nhớ tên vị Đại Đức này nữa. Đầu óc tôi bây giờ không nhớ được gì khi cần nhớ nữa anh ơi.” –  người Đại úy cựu tù than trách. Ông nói: “Trong ba tháng tôi phải đóng quan tài chôn tới 9 người bạn ở đây. Bây giờ tôi nằm mơ là thấy máu, thấy lửa đỏ, tôi ghê rợn màu đỏ, trước tôi là Tiểu Đoàn Trưởng sao bây giờ tôi sợ sệt không giống ai cả.”…

Kịch sĩ Quản giáo Chuộng… lên tiếng kéo mọi người về thực tế: “Thôi mấy anh kể chuyện chống tôi quá, anh nào muốn làm quản giáo thì lên thế tôi đi.”

Cả đám anh em cựu tù cải tạo cười ồ. Anh Chuộng đóng vai quản giáo dễ thương quá, bằng không anh em đã xông tới siết cổ anh rồi. Bữa họp tại Chicago này làm mọi người lên tinh thần quá cỡ! Thật ra bữa tập họp này làm mọi người buồn vui lẫn lộn. Tôi không biết phải nói với anh em điều gì hơn. Sự khổ não của anh em bi thảm quá! thê lương và tàn nhẫn.

Mấy hôm nay một bọn đón tiếp cựu Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín khi anh chàng này bỏ Đảng ở giờ thứ 25. Mấy người đại tá của chế độ cũ đi qua đây chẳng ai đón rước. “Thì ra vì chính trị người ta làm đủ mọi chuyện… còn bọn tù rục xương cải tạo qua đây có ma nào thèm đoái hoài.” Anh Tâm Trung úy Không Quân buồn nản than phiền trong buổi nói chuyện hàng tháng của anh và tôi.

Tôi chợt thấy mình ướt nước mắt khi người sĩ quan cựu tù cải tạo bước ra khỏi phòng. Làm tâm lý không có quyền cảm động để khóc trước mặt thân chủ. Nhưng không khóc làm sao được khi tất cả những thân chủ của tôi người nào cũng cơ thể mục nát, đi đứng  như những kẻ mất hồn. Họ không tin ở sự tử tế của loài người nữa. Tiếng chim hót bên ngoài trời có lẽ làm thoa dịu đau thương của họ hơn là lời khuyên giải của tâm lý gia. Ông cựu Đại úy Cảnh Sát Tuân đã nói với tôi như một giấc mơ nhẹ nhàng trong giọng Quảng Bình: “Tôi nghe tiếng con chim sáo kêu, con sáo tôi nuôi lúc còn làm cảnh sát, nó khôn lắm, bây giờ nó còn theo tôi.” Ông nói: “Ở Việt Nam hay ở đây, đất Mỹ tôi vẫn còn thấy hình như mình vẫn ở tù. Chỉ có tiếng chim hót làm tôi thoải mái.”

Tiếng con chim sáo làm cho Tuân thoải mái vì nó liên tưởng đến một thời anh đã sống. Nhưng anh tách rời tiếng con chim kêu với quá khứ vẫy vùng. Anh không tin ở quá khứ ấy nữa và muốn phủ nhận nó. Chấp nhận quá khứ là chấp nhận “tội lỗi”. Tẩy não đã làm cho anh phải chối bỏ quá khứ… Khi chối bỏ quá khứ thì anh cũng chẳng còn gì đáng sống. Tuân là người bệnh tâm thần nặng nhất của tôi. Tuân không phải là tên thật của anh. Có buổi nói chuyện làm anh quắc mắt giận dữ… có lúc anh nói như mê nhái lại lời Cộng Sản đã mớm cho anh… lúc tỉnh thì anh chán nản khóc lóc. Có buổi anh ca hát những bài yêu nước “quê hương là gì” một cách say mê. Tại sao các anh đã sống sót qua địa ngục trần gian? Nhiều khi tôi hỏi các anh tại sao đã không tự tử. Câu trả lời của những người sống sót đều là… phải tìm cho ra một lý do để sống. Sống để về nhìn mặt vợ con. Sống để về tạ tội với cha mẹ. Sống để gặp lại bạn bè. Sống để về kể lại những gì tai nghe mắt thấy. Sống để không thể chết được. Vô lý quá. Tôi phải sống. Sống để làm toán số đời nhân chia trừ cộng (có anh cải tạo đã chết vì lời nói này).

Vậy mà lạ lùng khi đặt chân lên Mỹ, cũng có những người cựu tù cải tạo thấy chán nản không muốn sống. Lý do để sống đã không còn nữa khi họ đến được bến an toàn. Có lẽ cần phải phát hiện ra một mục tiêu mới tại sao phải sống! Sống để kể mãi, kể mãi câu chuyện bi thương của từng người. Con chim đã sổ lồng dù nó vẫn còn bịn rịn tâm lý với cái lồng giam, chưa bay đi xa được. Chim hót lên tiếng hót ngoài song nhà giam. Hân hoan và tủi hận.

Từ thời thượng cổ đã có những tư tưởng chán nản cuộc đời:

“Thiên lý thảo hề thanh thanh

Tri ngã thử, nhi vô sinh. “

(Dọc đường cỏ mọc xanh xanh

Biết thân nông nổi đừng sinh làm người.)

Bây giờ tôi mới hiểu nổi những chán nản cùng cực và những ao ước vô lý vẫn song đôi nghịch lý:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm con chim nhạn tung trời mà bay.

Các anh H.O, các anh đã trả giá quá đắt cho tự  do… cái tự do xa xỉ mà bây giờ các anh cũng chưa biết phải xử dụng ra sao ở xứ Mỹ này ít nhất là trong vài năm đầu điều chỉnh.

Tôi xin dành lại các anh, trả lại các anh… những trang giấy trắng sẽ viết thành lời. Bài thơ người tù cải tạo xin trả lại cho các anh để viết lên từ tâm thức soi sáng bằng kinh nghiệm. Tập văn Viết Từ Miền Đất Hồi Sinh… tôi xin được góp phần nhỏ bé.

Đỗ Quý Sáng

https://baovecovang2012.wordpress.com/2022/10/29/viet-tu-mien-dat-hoi-sinh/6/

 

 XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP