REVIEW PREVIOUS POST:
https://mauaotran.blogspot.com/2023/06/viet-nam-bat-16-nghi-can-trong-vu-no.html
17/6/2023
Ảnh:
chris-slupski-unsplash
Rừng…
Rưng
rưng nước mắt!
Hồn
Tổ Quốc ngự giữa rừng sâu thẳm,
Rừng
điêu tàn là Tổ Quốc suy vong!
_________________
Lời
Người Viết:
Mùa
Đông 1958, từ Đà Nẵng, gã thiếu niên 15 tuổi lần đầu được vào Nam. Xe lửa xuyên
rừng Miền Đông Nam Bộ bắt đầu từ chặng Tánh Linh, Xuân Lộc, Long Khánh… Rừng
ngờm ngợp, ngút ngàn thăm thẳm gây cảm xúc bừng bừng… Gã thúc giục đám bạn
trong đoàn Hướng Đạo… Dậy xem rừng! Dậy coi rừng! Xuống ga Trảng Bom, Biên Hòa,
đầu cửa rừng, Khu Quốc Gia Lâm Viên với hàng hàng cây sao cao vút hùng vĩ, gã
đọc trên tấm bảng màu xanh lá cây dòng chữ hàm xúc…
Rừng
điêu tàn là Tổ Quốc suy vong!
Gã
thiếu niên học được bài Yêu Tổ Quốc từ lời thơ cao quý, trầm lắng nầy.
Chiều
ngày 4 Tháng Ba 1973, trong cảm giác rã rời thất vọng, u uất do sau một ngày
được sống cùng “Thủ đô xã hội chủ nghĩa Hà Nội” – Một thành phố vô tính/không
nhân hậu/xăm xắp khắc nghiệt! Về Nam lúc trời chiều tối, qua khung cửa sổ máy
bay, anh nhìn xuống những đám lửa chập chờn vùng Rừng Long Khánh, Hàm Tân… Cảm
giác nôn nao, ấm áp của người được về nhà. Trên đường về nhà sau cuộc lữ hành
não nề. Về Nam. Về Miền Nam.
Năm
nay, 2023 đọc tin trên báo kể chuyện nặng lòng xẩy ra trong nước, nơi Ban Mê
Thuột: Con Người bị bức hại – Núi – Rừng – Tổ Quốc bị tàn phá. Người Lính đang
độ tuổi 80 không còn chốn để về. Cũng không còn sức để khóc.
***
Một.
Chiều
23 Tháng Sáu 1976, đám tù người Nam đến Trại 12 Đoàn 776 nằm trong lũng núi
Hoàng Liên Sơn. Sáng hôm sau, anh được xếp vào một đội lao động đi lấy gỗ với
một con dao tay, dao tông. Núi dựng đứng, rừng mịt mùng, rừng nguyên sinh chưa
hề có dấu chân người. Đội lao động số 4 được đánh giá là đội chủ lực (gồm những
sĩ quan cấp đại úy, phần đông thuộc các đơn vị tác chiến của quân lực miền Nam,
Bộ Binh, Biệt Động, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù… tuổi từ 30, 40) với sức vóc
đang độ tráng kiện, tâm lý đơn giản, dứt khoát, tự xác nhận hoàn cảnh: Vào
đây coi như là chết!
Trước
khi lên đường tìm gỗ, cả bọn bàn tán: Chúng bắt mình lấy gỗ làm nhà… Gỗ làm nhà
là những gỗ gì? Hỏi gã tù cùng cấp đại úy thuộc lực lượng cảnh sát (cầm đầu
toán làm nhà) nay được cấp phát cây thước nhôm để đo gỗ. Gã đại úy cảnh sát
rành rẽ giải thích (không biết học từ đâu, bao giờ?): Các ông chọn cây lá nhỏ,
ví dụ như cây “gỗ vàng tâm”, dài 3 thước 8 đến 4 thước, đường kính 20 – 25 cm
để làm kèo, làm cột.
Trời
đất! Gỗ vàng tâm là cái quái quỷ gì? Go. Toán lấy gỗ ra đi. Cầm bằng
nhảy trực thăng xuống LZ của vi-xi! Đầu trần, chân đất giẫm lên núi đá tai mèo,
cuối cùng toán lấy gỗ (toàn dân chuyên nghiệp lội rừng hành quân trước 1975)
đến vùng rừng có cây cao thẳng, lá nhỏ. Cả toán vây quanh thân cây như đèn cù,
tuy nhiên quá trưa cũng hạ được hai thân gỗ theo chỉ tiêu ấn định.
Thạch
Xen, đại úy huấn luyện viên thể chất của Trường Thủ Đức nhấc thử. Mẹ, nặng quá!
Nặng hơn đá! Cuối cùng, Thạch Xen quyết định: Tao khiêng phần gốc, cho mầy (chỉ
anh) khiêng phần ngọn, từ núi xuống dưới đường. Bọn nó khiêng tiếp về trại. Khi
thả cây gỗ xuống sân trại, anh cảm thấy ươn ướt ở đũng quần – Máu đỏ tươi chảy
ứa ra lúc nào không
hay!
Qua
mùa Đông năm 1977, trước khi di chuyển lên xây dựng đập Thủy Điện Thác Bà, khu
rừng nguyên sinh năm 1976 đã trở nên trống trải. Trưởng trại hân hoan nêu thành
tích: Trại chúng ta đạt chỉ tiêu sản xuất được… mét khối gỗ, đứng đầu toàn Đoàn
776. Khu đất khai thác được “quy hoạch” trồng sắn xuất khẩu. Sắn cọng đỏ
để pha chế thành chất hóa học làm lốp ô-tô. Đưa nước nhà tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa!
Trưởng
trại 12 là một thượng úy người sắc tộc, chân chất, có kết luận thật thà kết
thúc buổi sinh hoạt: Chúng tôi sinh ra, sống ở đây từ nhỏ. Nay phá rừng, trồng
sắn theo lệnh trên là phá hết đất. Sau đó đất hết màu, không trồng ngô, trồng
lúa gì được! Đồng bào (sắc tộc bản địa) không biết sẽ ra sao? Làm sao làm
nương, làm rẫy để sống?
Ảnh:
ha-link-unsplash
Hai.
Cuối
năm 1978, trước ngày Tàu đánh Việt Nam (17 Tháng Hai 1979), các liên trại Đoàn
776 rời vùng Hoàng Liên Sơn. Vùng đồi núi mênh mông hai năm trước nay đã hóa
thành một biển sắn. Khi lên xe rời vùng núi để di chuyển ra ga Yên Bái về các
trại đồng bằng, đám tù người Nam nhìn quanh quẩn: Chúng mình chịu phần tù tội
đến đây là xong phần đầu, dân các sắc tộc ở lại làm sao để sống?
Nhưng
không chỉ nơi vùng núi Hoàng Liên Sơn với các sắc dân Dao, Mèo, Lô-Lô… 1989,
sau khi đi tù về, anh lên Pleiku, đến vùng Phước Long, Long Khánh thấy ra người
dân các nhóm Bà Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng… còn chịu cảnh khốn
cùng gấp bội, không chỉ vì điều kiện sinh hoạt kinh tế bị khốn cùng mà còn phải
nhận áp bức chính trị, tôn giáo, văn hóa.
Năm
nay, 49 năm sau 1975, tình cảnh kiệt cùng, tuyệt vọng mỗi ngày của người Thượng
luôn hiện mới. Rừng bị phá. Người không còn đất sống. So với hệ thống “công
an trị” của Đảng Cộng sản, nhà nước CHXHCNVN thì thực dân Pháp trước 1955,
chính phủ VNCH trước 1975 là những “ông tiên nhân hậu” trong chuyện cổ
tích. Chúng tôi tiếp chứng minh.
Lịch
sử các sắc dân vùng Cao Nguyên Trung Phần, miền núi rừng Trung Bộ, miền Đông
Nam Phần từ lâu không hề được bình yên. Cụ thể cuối thế kỷ 19, một cá nhân tên
gọi Marie-Charles David de Mayréna sinh năm 1842, vốn là một thủy binh người
Pháp có công trận trong chiến tranh với Phổ (1870-1871). Khoảng 1884,
Marie-Charles vào Đông Dương, lập đồn điền ở Bà Rịa (Phước Tuy). Nhưng không an
phận làm chủ đồn điền, tay phiêu lưu lên vùng Cao Nguyên với y phục võ quan
Pháp, được giám mục Jean-Baptiste Guerlach (1858-1912) phù tá lập Liên Bang
Bà-Na, đặt bản doanh ở Kontum.
Dần
khắc phục thêm hai bộ lạc người Xê Đăng và Jia Rai, ngày 3 Tháng Sáu 1888, y
chính thức tự phong vương “Vua Marie I của Xê Đăng”, tuyên bố Hiến Pháp
11 điểm với cờ, quốc hiệu, biểu nghi của một quân vương. Chính quyền bảo hộ
Pháp phải phái quân binh từ Quy Nhơn lên đánh dẹp, “Vua Marie I” bị trục
xuất về Pháp; cuối cùng bị ám sát tại Tân Gia Ba trong ngày 11 Tháng Mười Một
1890 khi tìm cách trở lại vương quốc Xê Đăng.
Câu
chuyện của “Vua Marie I” không phải là trò riêng của một cá nhân nhưng bởi
ý chí muốn sống đời tự chủ, độc lập của người Xê-Đăng, Jia Rai… nơi vùng
Cao Nguyên Trung Phần, là động cơ tinh thần chính đã giúp Marie-Charles thực
hiện mưu đồ cá nhân.
Sau
1955, qua thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa, ngày 1 Tháng Năm 1958, một số trí thức
người Thượng, đứng đầu là Y Bhăm Êñuôl người Ê Đê, thành lập BAJARAKA. BAJARAKA
là chữ viết tắt tên bốn dân tộc chủ yếu tại Cao Nguyên Trung Phần: Bà-Na,
Jia-Rai, Ra-Đê, Kà-Ho. Ngày 25 Tháng Bảy 1958, BAJARAKA gửi thư đến Tòa đại sứ
Pháp, Tòa đại sứ Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc yêu cầu các cường quốc can thiệp để
người Thượng được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc độc lập dưới sự lãnh
đạo của Hoa Kỳ.
Từ năm 1965, trong chiến lược, chiến thuật chống cộng, cố vấn quân sự Mỹ trang bị vũ khí cho thanh niên Thượng thành lập các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng (Civilian Indigenous Defense Group, CIDG) dưới quyền chỉ huy của các toán Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ.
Tháng Ba 1964, được sự ủng hộ (ngầm) của Mỹ, những người
lãnh đạo phong trào BAJARAKA kết hợp với sắc tộc Thượng khác, và người Chăm tại
miền Nam Trung Bộ thành lập Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (Tiếng Pháp:
Front de Libération des Hauts Plateaux, FLHP). Tổ chức này chia làm hai
phe: Phe chủ trương ôn hòa do Y Bhăm Êñuôl đại diện; Phe chủ trương bạo động,
do Y Dhơn Adrơng cầm đầu.
Ngày
19 Tháng Chín 1964, các toán biệt kích thuộc các Trại Lực Lượng Đặc Biệt và các
đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng nổi dậy đánh chiếm một số đồn ở Quảng Đức (Đắk Nông
ngày nay) và Đắk Lắc giết chết 35 quân nhân người Việt, bắt sống quận trưởng
Đức Lập; chiếm đài phát thanh Ban Mê Thuột kêu gọi thành lập một quốc gia độc
lập.
Chuẩn
Tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Vùng II Chiến Thuật điều động Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Biệt
Động Quân và thiết giáp bao vây đài phát thanh, chuẩn bị tấn công những vị trí
bị chiếm đóng. Nhưng do khuyến cáo của William Beachner, Tham tán Tòa lãnh sự
Mỹ, Tướng Lộc đồng ý thương thuyết với lực lượng nổi dậy. Y Bhăm Êñuôl được cử
làm chủ tịch phong trào FLHP, tuy nhiên ngay chiều 20 Tháng Chín, người nầy
(bị/được) đào thoát sang Campuchia do chủ trương của nhóm quá khích (đối với
VNCH).
Tại
Campuchia, dưới sự chủ tọa của Sihanouk (được Bắc Kinh và Hà Nội yểm trợ),
Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh của các Sắc Tộc bị Áp Bức (United Front for the Liberation
of Oppressed Races – FULRO) được thành lập, quyết liệt chống VNCH.
Do
chủ trương hòa hợp của phía VNCH (đang phải chống lực lượng chủ lực cộng sản Hà
Nội vùng Mặt Trận B3) nên ngày 2 Tháng Tám 1965, một Thông Cáo Chung hợp tác
Kinh-Thượng nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình và chống cộng sản (Bắc Việt)
được ký kết. Ngày 15 Tháng Chín 1965 buổi lễ nạp vũ khí của 500 FULRO Thượng
được tổ chức tại Buôn Buor.
Cuối
năm 1968, một cuộc thương lượng thượng đỉnh giữa lãnh đạo FULRO và đại diện
chính quyền VNCH đi đến các thỏa thuận căn bản. Lễ ký kết dự định sẽ được cử
hành tại Ban Mê Thuột đầu năm 1969, và Chủ Tịch Y Bhăm Êñuôl (dự định) sẽ quay
về Việt Nam ở hẳn luôn. Nhưng trước khi Quân Lực VNCH đem trực thăng sang
Campuchia đón Y Bhăm Êñuôl và lực lượng FULRO Thượng (hồi chánh) về Ban Mê
Thuột thì Les Kosem (thuộc phe quá khích chống VNCH) đã bắt cóc Y Bhăm
Êñuôl đưa về Nam Vang giam lỏng. Cuối cùng, vị lãnh đạo Fulro (thân VNCH)
nầy bị Khmer Đỏ hành quyết vào ngày 17 Tháng Tư 1975.
Tại
miền Nam, ngày 1 Tháng Hai 1969, Bộ Trưởng Sắc Tộc VNCH Paul Nưr và Y Dhê
Adrong đại diện FULRO dưới sự chủ tọa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký kết
thỏa ước hòa hợp giữa đôi bên. Tóm lại, chính phủ VNCH dẫu có những khuyết điểm
ở những lãnh vực nào khác nhưng rõ ràng đã có chủ trương, hành động tích cực,
đúng đắn để giải quyết vấn đề FULRO – Nhưng quả thật người của Dinh Độc Lập
chưa NHẬN đủ yếu tố sống/chết của VỊ THẾ CAO NGUYÊN TRUNG PHẦN đối với
sinh mệnh miền Nam/Toàn thể Việt Nam nên đã để mất Ban Mê Thuột (10 Tháng Ba
1975), khi di tản, rời bỏ cao nguyên (16 Tháng Ba 1975) để phải chịu (liền) uất
hận 30 Tháng Tư 1975 như một điều tất nhiên.
Với
chế độ cộng sản Việt Nam/Cộng sản Hà Nội là vấn đề hôm nay đang xẩy ra.
Ba.
Từ
sau năm 1975, đối với Tây Nguyên (cách gọi của Hà Nội), đảng, nhà nước cộng sản
có hai chủ trương chiến lược:
1/Xây
dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng.
2/Xây
dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước. Để thực hiện chủ
trương chiến lược nầy, đảng và nhà nước Hà Nội tiến hành một cuộc đại di dân
chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Nam
Trung Bộ lên Tây Nguyên. Nhưng thực chất là một vụ xâm thực thô bạo, tàn nhẫn:
“Thực dân hóa/cộng sản hóa/Bắc kỳ hóa” Cao Nguyên Trung Phần bằng lực lượng dân
cư từ, của chế độ cộng sản Miền Bắc. Kết quả, dân số miền Cao Nguyên tăng
nhanh, đột ngột, với cường độ lớn…
Đầu
thế kỷ 20, các dân tộc người Thượng chiếm 95% dân số; đến năm 1975 (sau 20 năm
dưới chế độ VNCH), tỷ lệ này là 50%. Hiện nay, người các sắc tộc chỉ còn 15-20%
trên toàn vùng cao nguyên.
Một
bài viết của Nguyên Ngọc, cán bộ văn hóa lãnh đạo cấp cao của cộng sản (từ
1950) năm nay 84 tuổi (sinh 1930) ghi nhận: “Người Châu ở trong thung lũng
Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80 người… Các dân tộc Ba Na, Cà
Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ, Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho,
Lào, La Chí… may mắn và đông đúc hơn nên có được một (hay hai) học sinh đủ tiêu
chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học!
Vậy
người các dân tộc Thượng trên cao nguyên Trung phần đi đâu và làm gì, sống ra
sao trên phần lãnh thổ cổ truyền ngàn năm của họ từ sau 1975? Bài viết của
Nguyên Ngọc cho biết:
“…
Toàn bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được/bị lấy giao cho các
binh đoàn làm kinh tế, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư từ
miền Bắc vào. Người (Thượng) bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm
rẫy.”
Hệ
quả, hay nói đúng ra là hậu quả (tai họa) của “hai chủ trương chiến lược” kể
trên, theo nhận xét của Nguyên Ngọc (chữ in đậm trong bài viết-Pnn): “Sự
tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống
của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiễm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và
rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền
tảng vật chất, kinh tế của làng; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ
bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ… Đây chính là nguyên nhân trực tiếp
của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.” (Hết
trích)
Từ
tình trạng vừa kể ra, đất đai mất trắng, môi trường bị tàn phá, văn hoá bị hủy
hoại, xóm làng xơ xác tiêu điều, ngơ ngác đói khát trên mảnh đất quê hương ngàn
đời của chính mình, không còn lối thoát nào khác nên cuối cùng người Thượng
phải nổi dậy. Sau đó, họ bị đàn áp, săn đuổi (và săn đuổi đến cùng) như
thú vật giữa rừng hoang. Đặc phái viên Nguyễn Khanh, Đài Tiếng Nói Á Châu Tự Do
(RFA), tường trình vào ngày 4 Tháng Năm 2004:
“Hiện
có một số người Thượng đang lẩn trốn trong rừng sâu ở tỉnh Mondulkiri nằm sát
biên giới với Việt Nam. Những người này từ Tây Nguyên băng rừng sang đến Xứ
Chùa Tháp sau cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo ở Dak Lak và Jia Lai… Công an
Ban Mê Thuột đã bắt giữ một số người Thượng, cáo buộc họ hoạt động chính trị,
âm mưu lật đổ nhà cầm quyền. Một vài người trong số này may mắn trốn được sang
Campuchia… Hà Nội treo giải thưởng: Bắt được mỗi người Thượng, trả lại cho Việt
Nam, sẽ được thưởng 125 đôla Mỹ.
Ảnh:
phuong-anh-unsplash
Kết Luận
Từ
năm 2004 đến nay là gần 20 năm, tình trạng gọi là “nổi loạn chống chính
quyền” ngày trước nay trở thành… “hàng chục người (Thượng) đã tấn công
hai trụ sở chính quyền cấp xã ở tỉnh Đắk Lắk vào rạng sáng 11 Tháng Sáu, giết
chết ít nhất bảy người bao gồm bốn công an”.
Đúng
như kết luận (thấy trước) của Nguyên Ngọc đã viết nên: “… Nếu không kịp thời
có giải pháp khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng
đất đai thì ‘vấn đề dân tộc’ sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở
Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là máu lại đổ…
Của
rừng… Rưng rưng nước mắt – Không chỉ là nước mắt mà là Máu.
Máu của Người Dân bị áp bức.
__________
Tháng
Sáu 2023
Ngày
Vỡ Trận Đồng Xoài, 11 Tháng Sáu 1965. Với máu của Lính, Dân nơi miền Nam.
.
No comments:
Post a Comment