Wednesday, April 16, 2025

Đường hòa giải còn ngổn ngang vỏ đạn - Tấn Quới /Tạp chí Luật Khoa

 

Nguồn ảnh: TTXVN, LIFE, AP. Đồ họa: Thanh Tường, Thiên Tân, Tùng Anh / Luật Khoa. 


Chắc khoảng hai, ba năm trở lại đây, tôi không còn dám đọc bình luận dưới những bài đăng trên mạng xã hội về Chiến tranh Việt Nam, hoặc các tên gọi khác tùy theo góc người nhìn như chiến tranh chống Mỹ cứu nước hay chiến tranh bảo vệ tự do và chính nghĩa. Một phần vì với tôi, từ lâu mạng xã hội đã không còn là chỗ phù hợp cho những cuộc thảo luận có ý nghĩa. Một phần nữa là vì cảm xúc mỏi mệt và chán nản của mình khi đọc những dòng thù hận trên đấy, được bày biện với tất cả sự quyết liệt và hung hăng. Những ngôn từ bén ngót, lạnh lùng, cứa đứt tai, xây xát lòng người.

Dường như có một cuộc chiến khác vẫn tiếp diễn âm thầm đâu đây. Những xung đột về ý thức hệ, những ánh nhìn một chiều không thể tự ý thức được về những điểm mù mà họ có, những thông tin thiếu kiểm chứng, cộng dồn với những chấn thương tâm lý di truyền theo thế hệ được trộn lẫn với nhau, va đập trong một nồi ủ bất tận. 

Nhiều lần, tôi thấy năng lượng của mình bị rút cạn khi ngụp lặn trong nồi nước sôi sùng sục không khí đấu tranh đó. 

Chắc bạn sẽ nghĩ, một vài dòng bình luận, một vài cuộc tranh cãi vô thưởng vô phạt trên mạng thì ảnh hưởng gì đến tiến trình hòa giải chung của một cộng đồng. Cũng có lý đó, vì để hàn gắn vết thương chiến tranh thì người ta có nhiều thứ phải làm hơn là chỉ quan tâm tới những cuộc thảo luận không chính thức. Nhưng nếu chịu khó nhìn vào những điều người ta nói về một cuộc chiến cách đây nửa thế kỷ và những di sản của nó, và quan trọng hơn, là nếu chú ý cách mà người ta nói về chuyện đó, tôi tin ta sẽ thấy được những cơn sóng ngầm mà những bản báo cáo, những bài diễn văn, những lời hô hào không thể nào mô tả được. 

Làm sao tôi có thể tin rằng chúng ta đang sống trong bầu không khí hòa giải, khi người ta vẫn sẵn sàng ném vào nhau những lớp từ ngữ xù xì đầy sân hận, khi người ta hả hê gọi nhau bằng những danh từ miệt thị, khi người ta cố gắng xoay trở ý nghĩ của người khác theo ý của mình (chứ không phải là một sự thuyết phục mang tính tôn trọng)? Làm sao tôi có thể nghĩ tới một ngày mai tích cực hơn, khi con em chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong những môi trường đầy ắp kỳ thị và thù hận, khi quanh ta manh nha những cuộc săn phù thủy, và khi mỗi bên đều cho rằng lịch sử mà họ nắm giữ là duy nhất và chân lý? 

Nói như vậy không phải là tôi đang bảo rằng chúng ta không được thù hận. Những cảm xúc dồn nén từ việc trải nghiệm với chiến tranh, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều là có thật. Tổn thương là có thật. 

Chỉ có trải nghiệm của tôi là đúng, là thật, và phải được ghi nhận. Đó có phải là một ngụ ý về sự độc quyền diễn ngôn, độc quyền quá khứ không? Tôi có cảm giác mình đi lạc vào một khu phố mà ở đó hai bên đường cắm những bảng hướng vào nhau, bạn không được chào đón ở đây, bạn không xứng đáng được lên tiếng ở đây. Theo cái đà ấy, những tổn thương mới tiếp tục được tạo ra trên nền những cơn buốt nhức xa xưa vẫn chưa được điều trị dứt điểm. 

Nhiều lúc tôi tự hỏi, khi dán nhãn người khác là ba que, vện vàng, cali, phản quốc, những người đương tự nhận lãnh vai trò phán quyết lịch sử ấy cảm thấy thế nào? Có vui sướng không, có hả hê không? Sẽ như thế nào nếu họ biết rằng gia đình của họ trong quá khứ có thể từng qua lại với (những) phía bên kia? Sẽ như thế nào nếu họ biết trong những khoảnh khắc tranh tối tranh sáng của thời đại, gia đình họ rất có thể đã có vô vàn giằng co sâu thẳm? Và liệu họ có nghĩ rằng những góc nhìn của họ phần nào phản ánh đặc quyền mà bản thân họ và gia đình được kế thừa từ một quá khứ đầy đổ nát và đau thương, một quá khứ mà nhiều khi những người trong cuộc còn ngại ngần đối diện? 

Tôi thành thật không biết đáp án cho những câu hỏi ấy. Tôi chỉ đang nghe thấy họ ném ra những nhát dao vung không nhát tay, những trái mìn nổ tung, làm vực thẳm chia rẽ mỗi ngày một sâu hơn. 

Tôi đã cố nghĩ theo hướng khác, rằng những thứ mà tôi đọc chỉ là một phần rìa cực đoan trong dòng chảy thảo luận phức tạp về lịch sử, và chúng xảy ra một cách tự nhiên như bao nhiêu cuộc thảo luận, tranh cãi khác của dư luận. Nếu điều đó đúng, thì tức là đâu đó vẫn có những góc xó, những ngõ hẻm trên mạng mà người ta có thể bàn về cuộc chiến trên tinh thần xây dựng và cởi mở. Nhưng hỡi ơi, tôi đã đi đãi cát tìm vàng suốt mấy năm vừa rồi để nhìn những diễn đàn học thuật cuối cùng đóng cửa, những người viết buông bút, những tiếng nói thoi thóp trồi lên giữa một đám đông cuồng nộ và rồi lặng tắt. Những người tôi biết đã rời đi. Xung quanh tôi đâu còn gì ngoài lời chửi rủa. 

Nhiều người khi nghĩ về di sản của một cuộc chiến chắc sẽ nhớ đến những vết thương trên da thịt, những cánh rừng những làng mạc ngoi ngóp trong bom đạn còn ngủ đông, hay những mất mát khác khó nhìn được bằng mắt thường. Một người như tôi, may mắn chưa biết mặt mũi chiến tranh ra sao, còn nhìn thấy di sản của chiến tranh Việt Nam là những ánh nhìn hằn học âm thầm lẫn hiển lộ, những câu từ bài xích nhân danh ý thức hệ và chủ nghĩa dân tộc. 

Hỡi những người đang bước trên con đường hòa giải còn ngổn ngang vỏ đạn, có ai xốn xang như tôi không, khi đọc những lời lẽ ấy bằng tiếng Việt, để rồi đôi lúc cảm tưởng rằng người ta không còn dùng được trường từ vựng về yêu thương để bàn về một cuộc chiến đã qua 50 năm nữa.

 


Bức ảnh “Hai người lính” do phóng viên Chu Chí Thành của Thông tấn xã Việt Nam chụp vào tháng 4 năm 1973 ở Quảng Trị khi chiến sự tạm dừng tại khu vực quanh vĩ tuyến 17.

SOURCE:

https://www.luatkhoa.com/2025/04/duong-hoa-giai-con-ngon-ngang-vo-dan/

 


Ngày Quốc Hận - Bài viết tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận 30.04.1975


Dương Hoàng Mai/ Munich

22/02/2025

Mỗi năm, khi tháng Tư quay về, tại hải ngoại, nhiều hội đoàn tổ chức các buổi lễ tưởng niệm ngày 30.04.1975—ngày lịch sử bước vào những tháng năm điêu linh của dân tộc Việt.




Gần đây, xuất hiện những bài viết kêu gọi “hòa giải, hòa hợp,” “xóa bỏ hận thù,” v.v…Từ đó, có ý kiến cho rằng không nên gọi ngày 30.04.1975 là Ngày Quốc Hận mà nên đổi qua tên gọi khác?

Đầu tiên, chúng ta thấy cụm từ “xóa bỏ hận thù” đã bị sử dụng theo kiểu đánh tráo khái niệm.Khi một đám cướp hung tợn, gian ác đến cướp của, bắt người đày đọa, đẩy nhiều gia đình vào cảnh tan nát, bi thương…Sau vài năm, bỗng dưng những nạn nhân của quân bạo cuồng lại bị trùm cho mấy chữ “mang lòng thù hận”?!

Lại nữa, những kẻ gây tội ác chưa hề dừng tay hay có bất kỳ hành động chuộc tội nào, thậm chí chưa thốt nên được một lời xin lỗi. Như thế, việc áp đặt cụm từ “xóa bỏ hận thù” lên chính các nạn nhân có phải là quá đáng không?

Thực tế, đại đa số người Việt di tản đều lớn lên trong một xã hội được xây dựng trên tình thương và đạo đức.Qua các đạo giáo, họ thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái—khác với những người sống trong một xã hội vô thần.Do đó, lời kêu gọi tình thương, bác ái và tình đồng bào sau năm 1975 phần lớn lại đến từ những người di tản xa xứ.Nhưng cần phải thấy rõ: việc xây dựng một xã hội có tình thương, có đạo đức chỉ có thể thực hiện khi không dung túng cho tội ác.

Một xã hội an vui, thịnh vượng phải là một xã hội có công bằng, có lẽ phải.

Việc đưa tội ác ra ánh sáng công lý, buộc những kẻ tội phạm phải chịu trách nhiệm, giúp thế hệ sau nhận thức rõ tội ác gây ra từ lòng cuồng tín, từ chủ nghĩa giáo điều—tất cả đều là những hành động cần thiết để đất nước từ từ không còn tội ác, để công lý và lẽ phải được thiết lập.

Những kẻ đã đánh tráo khái niệm “xóa bỏ hận thù” với “xóa bỏ tội ác” có lẽ vì trong lòng họ đã bị hai chữ “hận thù” xâm chiếm, không còn nhìn rõ đâu là “tội ác”—thứ không thể che giấu hay xóa nhòa.

Hành động cực kỳ gian xảo khi biến nạn nhân thành “kẻ mang lòng thù hận” không chỉ là một hành động chạy tội mà còn là hành động gieo rắc chia rẽ và hận thù.

Những kẻ gieo rắc hận thù vẫn lớn tiếng đòi “xóa bỏ hận thù” nhưng lại tiếp tục gieo rắc hận thù. Như thế có hợp lý không?

Cuộc chiến Việt Nam kéo dài 20 năm đã khiến gần 2 triệu người Việt bỏ mạng.Những tưởng sau năm 1975, toàn dân sẽ được hưởng cảnh thái bình, thịnh vượng.Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam, với chính sách chia rẽ dân tộc, gây bất công qua sự phân biệt “ngụy – ta,” lý lịch “con ông cháu cha,” học tập cải tạo, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo tư sản, v.v… khiến thêm 1 triệu người bỏ mạng nơi chốn tù đày hoặc dưới đáy đại dương trên đường tìm tự do.Và ngày nay, ở Việt Nam, tội ác từ các chính sách của chế độ đương thời vẫn còn tràn ngập.

Như thế, ngày 30.04.1975—ngày cả nước phải chịu ách thống trị của một chế độ tàn bạo và bất công nhất trong lịch sử Việt Nam, với con số nạn nhân tạm tổng kết đã lên đến hàng triệu—có đáng được gọi là Ngày Quốc Hận?

Việt Nam đang dần đi vào con đường lệ thuộc Trung Quốc, không chỉ về chính trị, kinh tế mà cả về văn hóa, dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa, trở thành một tỉnh nhỏ của Trung Quốc.

Ngày mở đầu cho giai đoạn này có phải là Ngày Quốc Hận cho cả dân tộc?

Việc Hồ Chí Minh có thực sự là một người Trung Quốc hay không vẫn còn tranh cãi, nhưng mối “hận” mất nước đã cận kề khi biển đảo và tài nguyên quốc gia đang dần dần bị bán cho Trung Quốc.

Như thế, còn cách gọi nào xứng đáng hơn hai chữ “Quốc Hận” để ghi nhớ mối hận của cả dân tộc Việt?

Các đấng nam nhi xứ Việt, những người vẫn đang kêu gọi “xóa bỏ hận thù,” nghĩ gì khi đọc đến câu thơ “Thương nữ bất tri vong quốc hận” của Đỗ Mục trong bài Bạc Tần Hoài?

Xin hãy hiểu hai chữ “Quốc Hận” theo nghĩa của chữ “hận” trong câu thơ vừa nêu.

Ở Đức, mỗi năm đều có ngày kỷ niệm Volkstrauertag—Ngày Quốc Tang— ngày tưởng niệm tất cả nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, đặc biệt là các nạn nhân của Chủ nghĩa Phát xít.

Cho đến nay, những phiên tòa và các cuộc điều tra về tội phạm chiến tranh và diệt chủng vẫn đang được tiến hành tại Đức và các nước dân chủ trên thế giới.

Với con số nạn nhân gần 5 triệu người, tội ác của Đảng Cộng sản Việt Nam không còn dừng ở mức quốc gia mà đã trở thành tội ác diệt chủng, cần được đưa ra trước tòa án quốc tế. Việc này không xuất phát từ “nuôi lòng thù hận” mà là để lấy lại công bằng, lẽ phải và để toàn thế giới cảnh giác trước tội ác.Im lặng, che giấu hay tiếp tay xóa nhòa tội ác đều là đồng lõa với tội ác.

Như thế, cần phân biệt rõ những tư tưởng và hành động gieo hận thù, trả thù cá nhân với chính sách nhân đạo nhằm giúp nạn nhân lấy lại công bằng theo tinh thần nhân đạo và nhân quyền.

Khi nào toàn dân Việt Nam xem ngày 30.04 là Ngày Quốc Hận— ngày để mỗi năm những người nắm quyền điều hành quốc gia, các đảng phái, tôn giáo, thanh niên, học sinh, sinh viên có dịp đọc lại, thấy lại qua sách báo, phim ảnh những tội ác do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra — thì đó sẽ là lúc cả nước nhận thức rõ đâu là tội ác, đâu là lệ thuộc Tàu Cộng.

Cùng cảnh giác.

Cùng lên tiếng phản đối tội ác.

Cùng lên án kẻ bán nước.

Đó là cơ sở thiết yếu để Việt Nam có được tương lai thanh bình, no ấm và độc lập.

Dương Hoàng Mai


Tuesday, April 15, 2025

Hội Thảo Y Tế, Giáo Dục và Nữ Quyền: 50 Năm Qua - Song ngữ Việt Anh


(Healthcare, Education and Women Rights: The Last 50 Years)


NGÀY 12 THÁNG 4 NĂM 2025

Trung Tâm và Viện Lưu Trữ Việt Nam tại Đại Học Texas Tech

HỆ THỐNG Y TẾ Ở VIỆT NAM

Diễn giả: BS. Nguyễn Như Phúc, Y Sĩ Trung Úy, đơn vị Trường Quân Y, Quân Lực VNCH

 

Kính chào quý vị,

"Sức khỏe và Hạnh phúc" là một trong những mục-tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc, nhằm bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc cho mọi người, ở mọi lứa tuổi. Việt Nam đã thực hiện một số nỗ lực nhằm cải thiện sức khỏe cộng đồng, nhưng còn nhiều khiếm khuyết quan trọng:

1. Bệnh không lây nhiễm (NCDs): Bao gồm cao huyết áp, tim mạch, tiểu đường, bệnh phổi mãn tính và ung thư – đang ngày càng phổ biến và chiếm đến 73% tổng số ca tử vong hằng năm tại Việt Nam. Nguyên nhân chính bao gồm thói quen ăn uống không lành mạnh (quá nhiều muối, đường, chất béo và rượu), thiếu vận động thể chất, và lối sống có hại như hút thuốc và lạm dụng chất kích thích. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng cũng góp phần vào tình trạng này khi nhiều người chuyển sang công việc ít vận động và tiêu thụ thực phẩm chế biến sẵn vì tiện lợi. Để đối phó, Việt Nam cần đẩy mạnh giáo dục sức khỏe cộng đồng, triển khai các chiến dịch quốc gia về lối sống lành mạnh, và tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế dự phòng. Việc xây dựng cơ sở thể thao công cộng, phát triển các chương trình phúc lợi cộng đồng, và giảm hút thuốc và rượu bia phải được ưu tiên.

2. Lạm dụng chất kích thích: Rượu và heroin vẫn phổ biến tại các thành phố, trường học và cộng đồng. Tỷ lệ sử dụng ma túy trong giới trẻ tăng nhanh, thường gắn liền với các vấn đề sức khỏe tâm thần, nghèo đói và thiếu cơ hội giáo dục. Áp lực từ bạn bè và sự cô lập xã hội cũng là nguyên nhân đáng lo ngại. Lạm dụng chất gây nghiện kéo theo hàng loạt hệ lụy tiêu cực như tội phạm, tan vỡ gia đình và thất nghiệp. Các trung tâm cai nghiện tại Việt Nam thường quá tải, thiếu kinh phí, và thiếu chương trình tái hòa nhập hiệu quả. Các kế hoạch hành động về phòng chống ma túy còn mang tính hình thức, thiếu khả năng thực thi. Việt Nam cần triển khai các chương trình can thiệp dựa trên bằng chứng, củng cố phục hồi chức năng tại cộng đồng, và hợp tác với các tổ chức quốc tế để nâng cao năng lực cho đội ngũ y tế chuyên về nghiện.

3. Sức khỏe tâm thần: Chăm sóc sức khỏe tâm thần vẫn bị xem nhẹ nghiêm trọng do định kiến xã hội và thiếu chính sách quy mô lớn từ nhà cầm quyền để hỗ trợ bệnh nhân và gia đình. Theo UNICEF (tháng 11/2023), cứ 5 thanh thiếu niên Việt Nam thì có 1 em gặp vấn đề tâm lý, nhưng chỉ 8,4% tiếp cận được dịch vụ tư vấn hay hỗ trợ cần thiết. Chỉ 5,1% phụ huynh nhận biết con mình cần hỗ trợ tâm lý. Việc thiếu chuyên gia sức khỏe tâm thần, đặc biệt ở nông thôn, khiến nhiều cộng đồng không có một chuyên viên tâm lý nào. Tỷ lệ tự tử trong giới trẻ tăng lên những năm gần đây, nhưng chiến dịch nâng cao nhận thức còn rất ít ỏi. Việt Nam cần đào tạo thêm chuyên gia tâm lý, thiết lập phòng khám tâm thần tại trường học và cộng đồng, đồng thời xóa bỏ kỳ thị thông qua các chương trình truyền thông công cộng.

4. Chăm sóc người cao tuổi: Dân số Việt Nam đang lão hóa nhanh chóng, trong khi dịch vụ y tế cho người cao tuổi và chăm sóc cho bệnh mãn tính vẫn chưa đáp ứng đủ. Nhiều cụ già, nhất là ở nông thôn, không được tiếp cận với chăm sóc lão khoa và phải phụ thuộc vào người thân. Các chương trình hỗ trợ của nhà cầm quyền còn thiếu và không hiệu quả, trong khi nhiều người cao tuổi sống dưới mức nghèo, không đủ khả năng chi trả thuốc men. Việt Nam cần xây dựng hệ thống chăm sóc người già toàn diện, mở rộng tiếp cận thuốc giá rẻ, và phát triển dịch vụ chăm sóc tại nhà.

5. Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu gây rủi ro nghiêm trọng cho sức khỏe. Ô nhiễm nguồn nước xuất phát từ chất thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp. Xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long làm ô nhiễm nguồn nước ngọt ở miền Nam. Ngoài ra, các chất độc như chì, thủy ngân, cadimi và nhiều chất ô nhiễm khác gia tăng rủi ro sức khỏe môi trường. Tại đô thị, mức độ bụi mịn (PM2.5) cao gây ra nhiều bệnh hô hấp, nhất là với trẻ em và người già. Việt Nam cần thực thi nghiêm ngặt hơn các quy định môi trường, đầu tư vào hạ tầng nước sạch, và tổ chức chiến dịch nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.

6. Bất bình đẳng trong chăm sóc y tế: Dù đã có cải thiện, nhưng sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp xã hội vẫn rất rõ rệt. Vùng sâu vùng xa thiếu nhân lực y tế, cơ sở vật chất, và thuốc thiết yếu. Trong khi đó, thành phố có bệnh viện hiện đại hơn và đội ngũ bác sĩ chuyên khoa đa dạng hơn. Điều này cũng thể hiện rõ qua tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh cao hơn tại các vùng xa. Nhà cầm quyền cần có chính sách phân bổ y tế công bằng, phát triển phòng khám lưu động và khuyến khích bác sĩ phục vụ tại nông thôn. Đồng thời, phát triển y tế từ xa để giúp bệnh nhân ở vùng khó khăn được tư vấn và theo dõi sức khỏe kịp thời.

7. Tham nhũng trong ngành y: Tham nhũng là vấn đề tồn tại lâu dài và làm suy giảm niềm tin của người dân:

∙   Lạm dụng quyền lực: Một số quan chức y tế trục lợi từ vị trí của mình qua hối lộ.

∙   Hối lộ từ bệnh nhân: Có tình trạng bác sĩ và y tá yêu cầu chi tiền "lót tay" để được khám chữa nhanh và tốt hơn.

∙   Gian lận mua sắm: Các công ty dược phẩm và thiết bị y tế thông đồng nâng giá, gây thất thoát nghiêm trọng cho ngân sách y tế.

∙   Mất lòng tin: Tham nhũng không chỉ làm cạn kiệt tài chính công mà còn khiến người dân mất lòng tin, phải tìm đến phòng khám tư, dù không đủ khả năng chi trả.

Kính thưa quý vị,

Sức khỏe tinh thần cũng chính là quyền con người.

Hồ sơ nhân quyền của Việt Nam hiện vẫn tồi tệ trên hầu hết mọi khía cạnh. Đảng Cộng sản duy trì độc quyền chính trị và đàn áp mọi thách thức đối với quyền lực của mình. Các quyền căn bản như tự do ngôn luận, hội họp ôn hòa, lập hội và tôn giáo đều bị kiểm soát nghiêm ngặt. Các blogger và nhà hoạt động nhân quyền thường bị công an sách nhiễu, cấm xuất cảnh, bắt giữ tùy tiện và biệt giam. Nông dân và người dân bị cưỡng chế đất đai mà không được bồi thường thỏa đáng. Người lao động bị cấm thành lập công đoàn độc lập. Công an thường xuyên sử dụng tra tấn và đánh đập để ép cung. Hệ thống tư pháp, bao gồm cả tòa án, thiếu độc lập và thường tuyên án nặng nề đối với những người bất đồng chính kiến dựa trên các cáo buộc mơ hồ về an ninh quốc gia.

Sức khỏe của một quốc gia không chỉ thể hiện qua thể chất mà còn qua mức độ tự do và nhân quyền. Muốn cải thiện y tế công cộng tại Việt Nam, không chỉ cần đầu tư vào hạ tầng y tế mà còn cần bảo vệ nhân phẩm và công lý. Khi người dân có thể cất tiếng nói mà không sợ hãi, có thể tìm kiếm hỗ trợ khi cần, và sống trong cộng đồng không có bạo lực hay đàn áp – thì đó mới là nền tảng cho một xã hội khỏe mạnh và phát triển.

Xin trân trọng cảm ơn quý vị đã lắng nghe.

 oOo

Healthcare System in Vietnam


Ladies and Gentlemen,

"Health and Happiness" is one of the United Nations' Sustainable Development Goals, aimed at ensuring healthy lives and promoting well-being for people of all ages. While Vietnam has made some efforts to improve public health, significant shortcomings remain:

Non-communicable diseases (NCDs): These include high blood pressure, cardiovascular diseases, diabetes, chronic lung diseases, and cancer, which are becoming more prevalent and account for 73% of annual deaths in Vietnam. The primary causes include unhealthy eating habits (excessive salt, sugar, fats, and alcohol), lack of physical activity, and unhealthy lifestyles, such as smoking and substance abuse. Rapid urbanization has also contributed to this trend, as more people shift to sedentary jobs and unhealthy diets due to convenience foods. Addressing this issue requires comprehensive public health education, national campaigns promoting healthier lifestyles, and improved access to preventive healthcare services. Public fitness facilities, community wellness programs, and initiatives to reduce smoking and alcohol consumption must be prioritized to combat this growing crisis.

Substance abuse: Alcohol and heroin remain prevalent across cities, schools, and communities. Youth have shown a rapid increase in drug use, often linked to mental health issues, poverty, and lack of educational opportunities. Peer pressure and social marginalization also contribute to this concerning trend. Substance abuse leads to a ripple effect of negative consequences, including crime, family disintegration, and unemployment. Rehabilitation centers in Vietnam are often overcrowded and underfunded, lacking effective reintegration programs. Moreover, action plans and preventive measures against drug abuse often remain superficial, not actionable. To address this issue, Vietnam must adopt evidence-based drug intervention programs, strengthen community-based rehabilitation, and collaborate with international organizations to enhance training for healthcare workers dealing with addiction.

Mental health: Mental health care remains grossly neglected due to societal stigma and the government's lack of large-scale plans to support patients and their families. According to UNICEF in November 2023, 1 in 5 Vietnamese adolescents face mental health challenges, yet only 8.4% have access to necessary counseling or support services. Moreover, only 5.1% of parents recognize their children’s need for mental health support. The scarcity of mental health professionals, especially in rural areas, exacerbates the issue, with many communities lacking even a single licensed psychologist. Suicide rates among youth have increased in recent years, yet mental health awareness campaigns remain minimal. There is an urgent need to train more mental health professionals, establish mental health clinics in schools and local communities, and destigmatize mental illness through public education campaigns.

Elder care: Vietnam’s population is aging rapidly, yet services for chronic disease management and healthcare support for the elderly remain inadequate. Many seniors, particularly in rural areas, lack access to geriatric care and depend on family members for medical support. Government support programs are insufficient, and many older adults live below the poverty line, unable to afford necessary treatments. Establishing comprehensive elderly care programs, expanding access to affordable medication, and developing home-care services can help address this growing issue.

Environmental concerns: Air pollution and climate change pose significant health risks. Water pollution results from untreated industrial waste, residential waste, and agricultural chemicals. Salinity intrusion in the Mekong Delta contaminates freshwater supplies across southern Vietnam. Additionally, pollutants like lead, mercury, cadmium, and other toxins exacerbate environmental health threats. In urban areas, the high levels of fine particulate matter (PM2.5) contribute to an increase in respiratory diseases, particularly in children and the elderly. Addressing these environmental issues requires stricter enforcement of environmental regulations, investment in clean water infrastructure, and public awareness initiatives on waste management.

Healthcare disparities: Despite some improvements, there remains a significant gap in healthcare services between urban and rural areas, as well as across different socio-economic groups. Rural areas often lack access to qualified medical professionals, modern facilities, and essential medications. In contrast, urban areas have better-equipped hospitals and a broader range of specialists. This disparity is also evident in maternal and infant mortality rates, which remain higher in remote regions. Government policies must focus on equitable distribution of healthcare resources, mobile clinics, and incentives to attract doctors to rural areas. Additionally, telemedicine services could help bridge the gap by providing remote consultations and follow-ups for patients in underserved areas.

Corruption in the healthcare sector: Corruption remains a long-standing issue that undermines public trust in the system:

Abuse of power: Some healthcare officials exploit their positions for bribery and personal gain.

Patient bribery: There are accusations of doctors and nurses requesting "under-the-table" payments from patients in exchange for timely or better-quality care.

Procurement fraud: Pharmaceutical and medical equipment companies have been implicated in bid rigging and inflating prices, diverting essential funds from critical services.

Public distrust: Corruption in the healthcare sector not only strains public finances but also erodes confidence in public health services. Patients often turn to private clinics, even if they cannot afford it, due to the lack of trust in public hospitals.

Ladies and Gentlemen,

Psychological well-being also encompasses human rights.

Vietnam’s human rights record remains dire in nearly every respect. The Communist Party maintains a political monopoly, suppressing any challenges to its authority. Fundamental rights such as freedom of expression, peaceful assembly, association, and religion are severely restricted. Bloggers and human rights activists are subjected to police harassment, travel bans, arbitrary arrests, and solitary confinement. Farmers and citizens lose their land for development projects without fair compensation, and workers are forbidden from forming independent unions. Police frequently use torture and beatings to coerce confessions. The criminal justice system, including courts, lacks independence, often imposing long prison sentences on dissidents and civil society activists based on fabricated national security charges.

A nation’s health extends beyond physical well-being—it also reflects the state of its freedoms and human rights. Strengthening public health in Vietnam requires not only investments in medical infrastructure but also upholding human dignity and justice. Ensuring that people can speak out without fear, seek assistance when needed, and live in communities free from violence and coercion is central to creating a healthy and thriving society.

Thank you for your attention.

THE END


Hào hùng ở giờ thứ 25

 


Sài Gòn Xưa

12/4/2025

Thiếu úy: Huỳnh Văn Thái và bảy người lính Nhảy Dù anh hùng và biết bao Tử Sĩ đã chọn sự tuẫn tiết “Thà Chết Không Đầu Hàng Giặc” ngày 30/4/1975

Thái ngồi xuống vệ đường...Anh bâng khuâng nhìn chung quanh những người đồng đội...Họ đã theo anh tới tận giờ phút này...Những người lính Dù mặt mày hốc hác, nhưng chưa nghe ai mở miệng thở than...

Thằng Tăng Thiện Minh, chín tháng làm Nhảy Dù mà mắt vẫn còn ngơ ngáo non choẹt..Nó xin làm đệ tử anh bởi vì “em khoái cái mặt ngầu của thiếu úy”. Thằng nhỏ mới mười chín tuổi, người Hoa, còn có bà mẹ ở Chợ Lớn và mấy anh chị em làm ăn khấm khá, sẵn sàng chi tiền để nó được ở hậu phương làm lính kiểng...Má nó khóc hết nước mắt khi nó cứ nhất định đăng lính. “Má à, tui đi lính rồi chừng nào hết diệc cộng tui dề dới má mà...Má khóc goài dậy ? "Nó nhăn mặt, cố dấu mấy giọt nước mắt khi nói...

Thái đốt một điếu thuốc...Anh lắc đầu từ chối chén cơm thằng Minh mới nấu...Thằng nhỏ cứ năn nỉ “thiếu úy ăn chút gì đi, từ sáng giờ…” Thật ra cả hai thầy trò chưa có gì trong bụng, nhưng Thái không thấy đói...Anh chỉ mệt

Cả trung đội mấy chục người nay chỉ còn có tám thầy trò với nhau...Thái nhớ thằng Hòa, tình nguyện ở lại cản đường, chỉ kịp quẳng hai trái lựu đạn nổ được một băng M16 thì chết...AK cày nát ngực nó...Hòa chết, mặt nhăn nhó thảm hại, nằm chàng hảng giữa đường...Bạn bè cố gắng đào một lỗ cạn chôn tạm...Trung đội mất liên lạc, tự tìm lấy cho mình phương thể ứng xử...Giờ thì chỉ có một con đường – Mầy ngon mầy dô đây – Thái nghiến răng...Anh kiểm tra lại vũ khí...Mỗi người lính Dù còn lại bốn băng, hơn chục trái lựu đạn, hai M72, một M60 với hai dây đàn...Vậy là có đủ vốn để chơi rồi...Kỳ này thế nào anh cũng có lời...

“Mở liên lạc coi, …” Thái hy vọng sẽ còn một cấp trên nào, một đơn vị nào có thể liên lạc được...Ít nhất lúc đó anh sẽ dễ tính toán hơn...Tiếng se sẻ từ máy PRC25 của thằng Minh vẳng ra khi nó đang cố dò tần số...

Bỗng nhiên từ máy phát ra tiếng nói “Tôi Dương Văn Minh...Yêu cầu anh em bỏ súng chờ bàn giao…” Cái gì ?...Thái la lên “Vặn lớn lên coi Minh … Chờ bàn giao….” Thằng Cậy mếu máo :

- Mình thua rồi thiếu úy ơi,

Thằng Hưng hét lên :

- Thua cái con C... - nước mắt nó chạy dài trên gò má...

Thạch Sơn quăng ca cà-phê mặt tái mét...Thái cảm thấy lùng bùng lỗ tai...Cái gi ? Thua à ? thua việt cộng à ?đã đánh đâu mà thua ? anh nhớ tới những người lính trong trung đội đã chết, anh nhớ tới Hoa,tới Bằng, tới Tốt. Máu anh căng tràn trong cơ thể...Anh ước anh có thể nổ một phát súng vào đầu Dương Văn Minh...

Thái hít một hơi dài cố lấy lại bình tĩnh. Tính mạng của bảy người lính còn lại ở trong tay anh...Thượng sĩ Năm lo lắng hỏi “Tính sao thiếu úy?” “ Còn tính sao nữa, buông súng đầu hàng thôi” Thái gắt gỏng...Thật ra anh đã có một lối thoát cho chính mình...Anh thở dài, nhìn mấy người lính “Tụi bay lại đây”. Họ quây quần chung quanh anh...Thái bình tĩnh nói :

- Tụi bây nghe rồi đó, mình là lính, lệnh trên sao thì mình phải theo...Giờ phút này mình thua rồi, tụi bây bỏ súng xuống, rồi thằng nào muốn về nhà thì cứ đi...Không ai chỉ huy ai nữa...Tụi bây hiểu chưa ?

- Ơ tui không biết cái đầu hàng a, tui ghét việt cộng, tui đánh chết việt cộng, tui không đầu hàng, Ykron lên tiếng...

- Giờ phút này tao hết trách nhiệm, tụi bây cứ về nhà...

- Vậy còn thiếu úy tính sao ? Thằng Minh mếu máo..

- Tao ở lại...Dm bắn hết đạn tao tự xử tao...

- Em theo ông thầy, – thằng Minh la lên.

Thằng Hưng cười toe toét :

- Ông thầy, cho em bắt tay cái, mình Nhảy Dù mà ông thầy...

Thằng Cường rút trái lựu đạn ngắm nghía :

- Thua việt cộng nhục lắm ông thầy, còn mày, mày tính sao Sơn?”

Thạch Sơn lẩm bẩm :

- Ai sao tui vậy

- Rồi ai làm bậy mày cũng làm theo hả Sơn? Cường cười toe toét. Đến nước này mà nó vẫn còn giỡn được.

Thái nghiêm nghị :

- Anh em hãy suy nghĩ cho kỹ, phần tôi thì xong rồi, nhưng anh em còn có gia đình để lo. Tôi không muốn vì tôi mà anh em suy nghĩ ẩu tả. Lần đầu tiên Thái gọi họ là anh em và xưng tôi.

- Tôi chọn màu áo này để chiến đấu, tôi cũng sẽ chết với màu áo này. Tôi không thể đầu hàng, không chịu thua.

- Lính Nhảy Dù đâu có chịu đầu hàng, ông thầy. Thằng Minh nói.

Thái quay sang thượng sĩ Năm:

- Còn phần anh, về với vợ con anh đi anh Năm, và bỏ qua cho những gì mà tôi đã làm anh buồn.

- Thiếu úy, thật sự tôi khuyên thiếu úy và anh em suy nghĩ cho kỹ. Còn đánh đấm gì được khi lãnh tụ tối cao đã đầu hàng. Nhưng thật tình mà nói, tôi không thể bỏ anh em. Cả trung đội như huyết nhục của tôi, nay chỉ còn lại mấy mạng, làm sao tôi bỏ đi được. Tùy thiếu úy, nếu ông ở lại, tôi cũng ở lại.

Cả đám nhao nhao sau lời nói của Nguyễn Năm, Thượng Sĩ Nhảy Dù bị thương tích, nhưng vẫn sống sót qua bao trận đánh “Chơi tới luôn đi thiếu uý”.

Thái đưa mắt nhìn, giọng anh đầy xúc động:

- Cảm ơn anh em, Nhảy Dù Cố Gắng

- Nhảy Dù Cố Gắng, cả nhóm hét lên.

Thái vạch kế hoạch:

- Sức mình có thể chơi dài dài được, mình nằm đây chờ nó. Hễ xe tăng nó vô thổi cho hai trái M72. Cứ dùng lựu đạn khử mấy thằng tùng thiết. Tập trung hỏa lực M60 với M16, nhưng đừng phí đạn dược. Làm được không tụi bây?

- Nhảy Dù Cố Gắng mà ông thầy.

Thái căng mắt nhìn về phía trước. Anh đã quyết định và tự nhiên anh cảm thấy thanh thản. Anh chưa từng tâm sự với ai về lý do anh đã chọn Nhảy Dù. Anh đã nhìn thấy những người lính Mũ Đỏ chiến đấu như thế nào trong trận Tết Mậu Thân. Anh cũng đã nhìn thấy hình ảnh những người lính Dù miền Nam, binh chủng mà bọn Việt cộng vẫn tuyên truyền thích ăn gan uống máu tù binh, đút từng miếng bánh cho VC bị bắt, đốt cho họ từng điếu thuốc. Tính chiến đấu dũng mãnh làm địch khiếp sợ nhưng lại rất nhân đạo khi đối phương đầu hàng đã làm Thái cảm phục và ngưỡng mộ. Anh chọn chiếc nón đội trên đầu, anh phải bảo về danh dự cho chiếc nón đó.

Tám người lính chờ đợi. Họ không nhìn thấy quân thù tiền về hướng họ. Anh không thể chờ đợi mãi, anh cũng không thể buông súng. Anh chỉ còn một cách:

- Anh em sẵn sáng chưa?

- Sẵn sàng rồi thiếu úy

- Lời cuối tôi muốn nói với anh em: Tôi cảm ơn anh em đã theo tôi đến tận giờ phút này. Nước mình đã mất, tôi đã không làm tròn bổn phận với Tổ Quốc Dân Tộc. Tính khí tôi cũng không cho phép tôi đầu hàng chịu nhục với kẻ thù. Nay tôi chọn cho riêng tôi cái chết để đền nợ nước. Thái ngắt lời, giọng anh run run vì xúc động “ Tôi biết anh cũng có cùng ý nghĩ, nhưng giờ phút chót anh em vẫn có quyền quyết định,và bất cứ quyết định nào của anh em tôi cũng tôn trọng. Tôi không oán trách anh em gì hết.

- Em theo ông thầy,Thằng Hưng mếu máo

- Em cũng vậy,

Thằng Cậy, thằng Cường tiếp lời.

- Còn tao,tụi bây bỏ đi đâu?

Tới phiên Tăng Thiên Minh, người Việt gốc Hoa, nhà có của ăn của để, nhưng khoái làm “Nhảy Dù” hơn lính kiểng.

- Ơ, tui thương cái ông thầy, cái ông thầy đi đâu tui theo đó,

Y Kron quả quyết.

- Chết thì thôi, sợ gì.

Thạch Sơn mân mê chiếc nanh

- Đây là lần đầu tiên tôi thua mấy thằng việt cộng, thiếu úy. Thượng Sĩ Nhảy Dù Nguyễn Năm uể oải.

- Được rồi, vậy anh em quây quần lại đây, Thái nói, giọng anh tỉnh táo đến đáng sợ:

- Tôi sẽ đếm một hai ba rồi tôi sẽ rút chốt hai trái lựu đạn. Đó là cách cuối cùng anh em mình sẽ đi với nhau. Anh em đồng ý không?

Bảy người lính gật gù, họ tự động làm thành một vòng tròn, người nầy sát với người kia. Đến phút cuối họ vẫn còn muốn ôm được nhau trong vòng tay.

Thái nhớ đến má, nhớ đến ba, nhớ đến đứa em trai. Hết rồi nhóc ơi, hết còn cơ hội đăng lính Nhảy Dù, hết còn cơ hội đội nón bê-rê đỏ. Chăm sóc ba má dùm anh nha nhóc. Ba ơi má ơi, con sẽ về thăm ba má trong mơ. Vân ơi, anh yêu em.

Thượng Sĩ Nguyễn Năm chợt nhớ kỳ lương tháng này ông đã kịp gởi về cho bà xã. Vậy là mẹ con nó cũng ấm cúng. Ông không buồn, ông chỉ hận vì bao nhiêu năm đánh nhau đây là lần đầu tiên ông thua trận.

Binh nhất Tăng Thiên Minh mỉm cười. Ít nhất cũng được chết trong quân phục Nhảy Dù. Minh nói thầm với má “Má à, con dề dồi nè, má đừng khóc nữa”.

Binh nhất Trần Ngọc Hưng cười toe toét “Giỡn chơi sao em, anh đâu có đào ngũ, bỏ bạn bè với ông thầy của anh được. Không sao, anh sẽ về thăm em luôn, nhớ chăm sóc ba má dùm anh”

Hạ sĩ Nguyễn Cậy đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh để Vinh Danh Thiên Chúa “Lạy Chúa con, con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Xin Chúa gìn giữ thầy mẹ con. Ave Maria con yêu kính mẹ.”

Binh nhì Nguyễn Văn Cường. chợt nhớ mình còn thiếu tiền hai ly cà phê đá chưa trả lần dưỡng quân kỳ trước. Bé Ba ạ, thông cảm cho lính đi em.

Hạ sĩ nhất Ykron mắt bâng quơ nhìn xa xa, miệng thì thầm lời hát quê hương rừng núi. Trong đầu người lính Thượng chất phác chỉ hiện lên ý nghĩ “Ơ tui ghet viet cong”

Trung Sĩ Thạch Sơn mân mê chiếc nanh heo rừng “Tao sẽ đầu thai trở lại để chơi tiếp với tụi bay”

Tiếng đếm của Thiếu úy Nhảy dù Huỳnh Van Thái, hai mươi bốn tuổi đời, ba tuổi lính hãnh diện đã chiến đấu tới cùng cho Tổ Quốc bằng Danh Dự và Trách Nhiệm nghe rõ mồn một “ Một, hai, ba…”.

Và đến tiếng thứ ba, anh rút chốt lựu đạn…

(Nguồn: Son H Cao.com/docsz/)


TRUNG TƯỚNG LÂM QUANG THI (1932-2021)

 

Xin tặng các chiến hữu thuộc Lực Lượng Pháo Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Đồng Đế 4A/72

Lâm Quang Thi (1932 - 19 tháng 01 năm 2021) nguyên là một tướng lĩnh gốc Pháo binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Quốc gia Việt Nam mở ra ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Chuyên môn Quân sự của ông là Pháo binh. Ông đã phục vụ ở Binh chủng này từ khi còn là Thiếu úy cho đến khi lên đến Trung tá suốt 12 năm liền (1951-1963). Sau ông được chuyển sang Tư lệnh các Sư đoàn Bộ binh, rồi Chỉ huy trưởng các cơ sở đào tạo nhân sự cho Quân đội. Sau cùng là Phó Tư lệnh của Quân đoàn I & Quân khu I. Ông cũng được mệnh danh là một vị "Tướng Pháo binh".

TIỂU SỬ & BINH NGHIỆP

Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1932 trong một gia đình đã có mấy đời là đại điền chủ danh giá tại Vĩnh Trạch, Bạc Liêu, miền Tây Nam phần Việt Nam. Thời niên thiếu ông học ở trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Kế tiếp lên Sài Gòn học ở trường Lycée Petrus Ký theo chương trình Pháp. Năm 1949, ông thi đậu Tú tài bán phần (Part I). Về sau, khi đã ở trong quân ngũ, ông học hàm thụ thi đậu bằng Tú tài II Triết học Pháp.[1]

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 9 năm 1950, thi hành lệnh động viên của Chính phủ Quốc gia Việt Nam, ông cùng người anh trai là Lâm Quang Thơ tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/120.072. Được theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950. Ngày 1 tháng 7 năm 1951 tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường tiếp tục theo học lớp căn bản Pháo Binh tại Trung tâm Huấn luyện Pháo binh Phú Lợi, Bình Dương. Sau đó, được huấn luyện thêm về chuyên môn Pháo binh tại Biên Hòa. Tháng 2 năm 1952 mãn khóa, ông được điều đến Pháo đội 3 đồn trú ở Bắc Ninh giữ chức vụ Trung đội trưởng.

Đầu năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy, giữ chức vụ Pháo đội trưởng Pháo đội 2 đồn trú tại Hưng Yên. Tháng 5 cùng năm, Pháo đội 2 di chuyển về Vân Đồn, ông hoán chuyển nhiệm vụ với Trung úy Nguyễn Xuân Thịnh chuyển qua chỉ huy Pháo đội 1. Tháng 11, bàn giao Pháo đội 1 lại cho Trung úy Dương Thái Đồng.[2] Kế tiếp, ông chuyển vào Nam phục vụ tại Ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 Pháo binh ở Bình Thuỷ, Cần Thơ trong chức vụ Sĩ quan Hành quân Tiểu đoàn. Tháng 12 cuối năm, chuyển sang làm Pháo đội trưởng Pháo đội 3 đồn trú tại Vĩnh Long.

Tháng 4 năm 1954, ông bàn giao Pháo đội 3 (đang hành quân ở Ban Mê Thuột) lại cho Trung úy Lê Trí Tín.[3] Đầu tháng 5, ông được thăng cấp Đại úy và được chọn đi du học lớp Pháo binh cao cấp (2 tháng) tại Trường Pháo binh Châtons-Sur-Marne, Pháp. Tháng 10 cuối năm, ông được cử làm Tiếu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4 Pháo binh đồn trú tại Pleiku.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu năm 1955, ông bàn giao Tiểu đoàn 4 lại cho Đại úy Dương Thái Đồng. Sau đó, ông được cử làm Giám đốc Quân huấn Trung tâm Huấn luyện Pháo binh Phú Lợi (Bình Dương) do Trung tá Bùi Hữu Nhơn làm Chỉ huy trưởng. Tháng 7 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm thay thế Trung tá Bùi Hữu Nhơn được cử làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Pháo binh Trung ương.

Tháng 7 năm 1956, ông được cử đi du học Pháo binh cao cấp tại Fort Still, Olahoma, Hoa Kỳ sau khi bàn giao Trường Pháo binh lại cho Thiếu tá Trần Văn Hào

Thiếu tá Trần Văn Hào sinh năm 1922 tại Nam Vang, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Pháo binh Quân đoàn IV. Tháng 11 cùng năm mãn khóa về nước phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu. Qua tháng 2 năm 1957, chuyển về trường Đại học Quân sự do Trung tướng Trần Văn Minh (Lục quân) làm Chỉ huy trưởng. Ông được cử làm giảng sư và huấn luyện viên về Pháo binh. Tháng 12 cuối năm, chuyển ra miền Trung giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Pháo binh Quân đoàn I. Tháng 9 năm 1958, ông được tháp tùng Phái đoàn Quân sự Việt Nam đi du hành thăm viếng các đơn vị và căn cứ quân sự của Đại Hàn Dân Quốc. Cuối năm 1959, ông chuyển trở về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Chỉ huy phó Binh chủng Pháo binh Trung ương.

Đầu tháng 11 năm 1960, Xử lý thường vụ chức vụ Chỉ huy trưởng Pháo binh Trung ương trong khi Đại tá Nguyễn Xuân Trang đi học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ. Ngay sau đó ông được thăng cấp Trung tá. Tháng 8 năm 1961, hoán đổi nhiệm vụ với Trung tá Nguyễn Xuân Thịnh [4], ông được cử làm Chỉ huy trưởng Pháo binh ở Bộ tư lệnh hành quân tại Bộ Tổng tham mưu, do Trung tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh. Tháng 2 năm 1963, ông được cử làm Trưởng phòng 3 tại Bộ Tư lệnh Lục quân do Trung tướng Trần Văn Đôn làm Tư lệnh. Tháng giêng năm 1964, được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ, tiếp theo học lớp Bảo toàn Dự phòng và lớp Hành quân chống dấy loạn tại 2 trường: Trường Thiết giáp Kỵ binh Fort Knox, Kentucky và Trường Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ. Tháng 9 cùng năm mãn khóa về nước, ông được cử giữ chức vụ Phụ tá hành quân Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Hai tháng sau vào ngày Quốc khánh 1 tháng 11 ông được thăng cấp Đại tá, giữ chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 7 do Chuẩn tướng Nguyễn Bảo Trị làm Tư lệnh. Cuối tháng 9 năm 1965, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Vĩnh Lộc đi làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 2 năm 1966, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Một tháng sau, bàn giao Sư đoàn 9 lại cho Đại tá Tư lệnh phó Trần Bá Di. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thay thế Đại tá Đỗ Ngọc Nhận[5]. Tháng 5 năm 1969, ông hướng dẫn Phái đoàn Quân sự đi thăm viếng trường Võ bị Thái Lan và Philippines. Tháng 11 cùng năm, hướng Phái đoàn thăm viếng trường Võ bị Đại Hàn, Đài Loan và Nhật Bản. Tháng 11 năm 1970, hướng dẫn Phái đoàn đến Hoa Kỳ thăm viếng các trường Võ bị Lục quân, Hải quân, Không quân và Võ bị West Point. Mùa hè năm 1971, ông tiếp tục được hướng dẫn Phái đoàn quân sự thăm viếng trường Võ bị Hoàng gia và trường Không quân ở Canberra, Thủ đô nước Úc. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Trung tuần tháng 4 năm 1972, ông nhận lệnh bàn giao trường Võ bị Đà Lạt lại cho bào huynh là Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, để đi nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn I và Quân khu 1 (Tư lệnh Quân đoàn là Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, một tháng sau Trung tướng Ngô Quang Trưởng nguyên Tư lệnh Quân đoàn IV được bộ Tổng tham mưu cử ra thay thế tướng Hoàng Xuân Lãm). Đầu tháng 9, ông kiêm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I cho đến cuối tháng 3 năm 1975 (Bộ Tư lệnh Tiền phương đặt tại căn cứ Mang Cá trong Thành Nội Huế).

• Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I vào thời điểm tháng 3/1975, nhân sự được phân bổ trách nhiệm như sau:

-Tham mưu trưởng - Đại tá Lê Ngọc Hy [6]

-Tham mưu phó kiêm Trưởng phòng 5 - Trung tá Nguyễn Trinh [7]

-Trưởng phòng 1 - Trung tá Bảo Thọ [8]

-Trưởng phòng 2 - Trung tá Trần Khắc Đản [9]

-Trưởng phòng 3 - Trung tá Lê Duy Hiền[10]

-Trưởng phòng 4 - Trung tá Nguyễn Văn Thông [11]

-Trưởng phòng 6 - Trung tá Đỗ Hữu Bảo [12]

1975

Ngày 29 tháng 3, ông di tản khỏi Đà Nẵng về Sài Gòn. Đêm ngày 29 tháng 4 tại bến Bạch Đằng, cùng với gia đình di tản ra khơi trên Soái hạm HQ-1.

Sau đó, gia đình sang định cư ở Hoa Kỳ, lúc đầu ở Thành phố Milpitas California, sau chuyển sang sống tại Thành phố Fremont, cũng thuộc Tiểu bang California.

HUY CHƯƠNG

-Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng (ân thưởng)

-Mười bảy Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu.

-Huy chương U.S Legion of Merit (Hoa Kỳ).

-Chương mỹ Bội tinh (Đại Hàn).

Bằng cấp về sau:

-Tú tài II Triết học Pháp

-Cử nhân Xã hội học tại Viện Đại học University of San Francisco.

-Cao học Quản trị kinh doanh (Master Degree of Business Administration) tại Viện Đại học Golden Gate University, San Francisco.

TÁC PHẨM

- Autopsy-The Death of South Vietnam (Khám nghiệm cái chết của miền Nam Việt Nam).

- The Twenty-Five Year Century (Hai mươi lăm năm trong một thế kỷ).

- Rolling Thunder in a Gentle Land.

GIA ĐÌNH

• Song thân: Cụ Lâm Quang Diêu (Kỹ sư) và cụ Diệp Thị Hiền (1909-2002)

• Bào huynh: Ông Lâm Quang Thơ (Thiếu tướng Việt Nam Cộng hòa)

• Bào đệ:

-Ông Lâm Quang Thới (Sinh năm 1933, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt, Trung tá Bộ binh VNCH)

-Ông Lâm Quang Thân (Sinh năm 1936, tốt nghiệp khóa 14 Võ bị Đà Lạt, Thiếu tá Không quân VNCH)

• Phu nhân: Bà Tô Ngọc Bích - Ông bà có ba người con gồm 2 trai, 1 gái. Người con trai là Andrew Lâm, hiện đang là một nhà văn và phóng viên.

QUA ĐỜI

Ông qua đời ngày 19 tháng 1 năm 2021, hưởng thọ 88 tuổi, sau 14 ngày chống chọi với Bệnh virus corona 2019[13].

 

TRUNG TƯỚNG LÂM QUANG THI

Người Con Xưa Đã Trở Về Trường Mẹ

SOURCE:

https://www.facebook.com/groups/dongdethuduc1972

 


LOGOS or POSTERS: TƯỞNG NIỆM 50 NĂM QUỐC HẬN (1975 - 2025)

 


 

 








 

 


 

 


 

 


 

 


 

 


 

 


 

 


 

(CÒN TIẾP) 

 

.