Thư Viện Việt
Nam Toàn Cầu
8/10/2020
Nổi tiếng với
các tác phẩm Tuổi Nước Độc, Gào Thét, Buồn Vàng, Con Sâu… Dương Nghiễm Mậu còn
là một phóng viên Quân Đội từ 1966, sau nhập ngũ. Các phóng sự tiền tuyến của
nhà văn luôn bật lên sự tha thiết của quê hương. Không phải là sự sống động của
một trận đánh mà là sự nghiệt ngã của dân chạy loạn. Câu hỏi mà Dương Nghiễm Mậu
đặt ra: ”Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn, con số còn bị kẹt lại khoảng 50
ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao và thực sự là đau đầu với chính
người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải nói thế nào với quốc tế về điều
họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ, và về chiêu bài giải phóng vẫn không ngớt được
nói đến. Không, dân chúng đã ra đi khi người cộng sản đến. Không có dân, đất
đai còn có nghĩa gì nữa?”; Quang cảnh mà Dương Nghiễm Mậu chứng kiến: “Chung
quanh tôi mỗi lúc một đông người, mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng trông
mong được sống ở Đà Nẵng và chờ ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đã được
nghe câu chuyện thương tâm của một người mẹ kể lại cái chết của con mình trên
chuyến đi Nam, đứa con của bà đã chết trên chiếc thuyền của gia đình trong khi
vượt biển vào cửa Thuận. Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra
đi, cảnh tượng giống như những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người
đã chọn để được sống tự do hoặc là chết… Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại
tái diễn một lần nữa”; sẽ lặp lại tháng 4-1975 rồi tiếp tục sau đó.
Với Bắc
quân, câu hỏi còn nguyên: “Giải phóng gì?”
Thông tin
không phá hủy chất văn, Quảng Trị Đất Đợi Về toát ngời khí hậu của Mậu truyện
mà người đọc còn nghe thấy “một không khí chìm chìm nhưng đầy đe doạ”, còn
trông thấy hoa phượng đã “trở thành những vũng máu đọng chờ khô của một cái chết”.
Thời điểm của phóng sự, là ngay sau khi Quảng Trị thất thủ, Cộng quân áp sát
sông Mỹ Chánh uy hiếp Huế. [Trần Vũ]
Mỗi lần trước
khi trở lại miền Trung, điều tôi thường hỏi: ngoài đó bây giờ mưa hay nắng. Lần
này cũng thế, người em tôi vừa từ Huế trở về sau hai mươi ngày công tác nói: trời
đang nắng và thành phố đầy hoa phượng, hoa sen. Bây giờ ngoài đó mùa hè và tôi
nhớ tới không khí oi bức trong những chuyến đi cũ vào những thời gian đầu mùa
hè: hoa phượng đỏ trên những ngọn cây, hoa sen nở đầy trong hồ Tĩnh Tâm, chung
quanh trường thành, những trái nhãn nhỏ sai trên ngọn cây trong Thành nội.
Nhưng khi
tôi đặt chân tới Đà Nẵng, buổi chiều mây thấp và mưa nhỏ hạt. Người bạn nói với
tôi trời mới đổ mưa từ buổi sáng. Tôi nhìn thấy mây thấp trên phía đèo Hải Vân.
Đà Nẵng mưa thì chắc Huế mưa. Tôi hỏi về con đường qua đèo, người bạn nói: đi
được như thường, hôm qua hơi bị kẹt vì cầu Nam Ô bị gẫy. Tôi hỏi cây cầu nào.
Anh bạn nhắc lại: cầu Nam Ô. Tôi nói không phải, tôi biết ở đó có hai cây cầu,
tôi muốn biết cầu nào vì trong chuyến đi trước, cây cầu mới xây cất, thứ cầu
cho những xa lộ chưa dùng được, hôm trước đã có tin cho biết cầu Nam Ô bị sập,
nhưng là cây cầu cũ, cầu xe lửa, người bạn nói, bây giờ thì cả hai nhưng đang
được sửa chữa. Trời mây thấp, mưa nhỏ hạt, những sự di chuyển ướt át khiến cho
thị trấn có một khung cảnh đìu hiu.
Tôi gởi hành
lý lại nhà người bạn rồi chạy quanh, vẫn khung cảnh quen thuộc, thêm một vài
ngôi cao ốc đang được xây cất nhưng chừng như công việc đã ngừng lại, những trường
học trở thành trại tạm cư. Tại trường nữ, tôi thấy những nữ học sinh ngồi gác cổng
ra vào trong khi đó có một gia đình thì chất hành lý lên hai chiếc xích lô, tôi
hỏi và được biết: họ dời ra trại Hoà Khánh. Trại tạm cư Nguyễn Thượng Hiền cũng
đã đóng cửa với tấm vải lớn kẻ những hàng chữ cho thấy những người tỵ nạn đã ra
sống ở trại tạm cư Hoà Khánh.
Đi bộ trên
đường phố tôi thấy số xe ôm gia tăng với những chiếc xe ghé lại lề đường. Buổi
chiều báo từ Sàigòn ra trễ và những nhà sách đông người ghé lại đợi chờ những tờ
báo phát hành từ chiều hôm trước tại Sàigòn… Tôi ghé lại nhà những người quen,
nơi nào cũng có những người thân từ Quảng Trị, từ Huế vào tạm trú, một vài người
đã trở lại Huế, hoặc đi Sàigòn, tôi được nghe nói về những người tỵ nạn đã vào
Chu Lai, đã đi Long Khánh.
Một gia đình
trong khi chạy khỏi Quảng Trị đã bị thất tán, một nửa vào được Đà Nẵng, còn một
nửa không biết đâu, những người thân đang đi tìm kiếm nhau. Đài phát thanh Đà Nẵng
với mục nhắn tin đài của những người ở Quảng trị tìm tin cha, tìm mẹ, chồng con
thất lạc. Có những đứa trẻ tám chín tuổi bị lạc gia đình trên đường chạy giặc.
Theo dõi mục nhắn tin tôi thấy nỗi tan hoang đối với hơn ba trăm ngàn dân chúng
vùng giới tuyến.
Trại tạm cư
lớn nhứt ở Đà Nẵng dành cho Quảng Trị nằm ở Hoà Khánh, một Quận ở ngoài Thị xã,
nằm phía nam đèo Hải Vân, ngay ven quốc lộ Một. Tôi ngạc nhiên khi vừa từ thị
xã tới đây lúc đứng trước một ngã ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh, kẻ chữ trắng
hàng chữ: QUẬN GIO LINH.
Quận Gio
Linh, tôi nói với người bạn: quận Gio Linh ở Đà Nẵng! Tôi nhớ tới nơi tôi đã từng
ghé lại trong những năm trước trên đường công tác. Ngày ấy tôi theo quốc lộ Một
vượt Đông Hà ra tới đồn A2 nằm ngoài cùng giáp với vùng phi quân sự sau khi
Quân Đội ta đã bỏ chân cầu Hiền Lương trở vào trấn đóng phía trong gần với quận
Gio Linh. Trên con đường đầy những bom đạn tôi chỉ thấy những cánh đồng hoang
vu không bóng người, dân chúng đã phải rời làng mạc trở vào sống trong khu định
cư Hà Thành, còn lại chăng một số thôn ấp nhỏ bé nằm ở giữa quốc lộ với bờ biển,
còn lại phía Tây quốc lộ thì coi như bình địa với vùng oanh kích tự do.
Nay Gio Linh
chỉ còn là tên gọi của một vùng đất. Hai tiếng Gio Linh đã đi theo dân chúng
vào Đà Nẵng. Bỏ quốc lộ đi sâu vào gần bờ biển, nơi đây có hàng trăm lều vải mới
được dựng lên cho dân chúng tạm trú. Người trưởng trại ngày nay là ông Quận Trưởng
của vùng đất cũ. Vị Thiếu Tá này người nhỏ bé trong bộ đồ đen nói cho tôi biết
qua tình hình dân chúng, ông không thể đoán chắc về số dân chúng tại Gio Linh
đã ra đi, vì hiện dân chúng không những chỉ sống tại Đà Nẵng, họ còn vào Chu
Lai và nhiều nơi khác nữa, con số phỏng chừng khoảng 28 ngàn người ra đi so với
dân hơn ba chục ngàn người. Ông kể lại cho tôi nghe những ngày kinh hoàng ở Quảng
Trị khi đoàn người rời khỏi nơi đây để vào Huế: cả đoàn xe bị mìn và pháo kích,
nhiều người bị thương phải nằm lại với tiếng kêu la thảm thiết…
– Ông thấy
dân chúng có muốn đi vào lập nghiệp ở trong Nam không?
– Phần lớn dân chúng không muốn đi, họ mong trở lại Gio Linh.
Khi tôi từ
trong lều đi ra thì có một người đàn ông giữ tôi lại và hỏi tôi có phải nhà báo
không? Tôi nói không phải. Ông ta nói điều muốn nhờ. Tôi nói cho tôi biết. Sau
đó ông ta giới thiệu là một người thuộc làng Gia Hải, một làng phần lớn sống bằng
nghề chài lưới tại Cửa Việt, tôi ngạc nhiên khi biết dân chúng tại làng này đã
cùng nhau xuống thuyền đi về phía Nam bằng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé của
họ. Điều mà người này muốn nhờ tôi là: tranh đấu cho họ được ở lại Đà Nẵng sinh
sống, họ chỉ cần giúp đỡ lương thực một tháng đầu rồi sẽ tự túc bằng nghề đánh
cá của mình.
Sau đó ông
ta cho tôi thấy, dân chúng tại Gia Hải đưa được vào Đà Nẵng 150 chiếc thuyền,
chuyến ra đi của họ hết sức gian khổ, trước hết khi ra khỏi Cửa Việt họ đã bị cộng
quân ngăn cản, súng đã nổ vào đoàn thuyền, một số dân chúng đã không ra đi được
vì những làn đạn này, nhiều người đã bị thương và chết trong chuyến ra đi, trước
hết họ tới được cửa Thuận An. Sau đó tới Thuận An vào trong bãi biển Đa Phước.
Khi tôi nói
tới chuyện đi vào miền Nam, ông ta nói chính phủ có thể mang được người đi
nhưng còn thuyền bè của chúng tôi thì sao, chúng tôi sống bằng nghề biển như vậy
làm sao để thích ứng với nghề nông trong khu vực khai hoang? Chung quanh tôi mỗi
lúc một đông người, mỗi người góp một câu chuyện, ai cũng mong được sống ở Đà Nẵng
và chờ ngày trở lại quê hương của họ, tôi cũng đã được nghe câu chuyện thương
tâm của một người mẹ kể lại cái chết của con mình trên chuyến đi Nam, đứa con của
bà đã chết trên chiếc thuyền của gia đình trong khi vượt biển vào cửa Thuận.
Tôi mường tượng thấy cảnh tượng bi hùng của chuyến ra đi, cảnh tượng giống như
những người dân miền Bắc trong vụ Trà Lý, những người đã chọn để được sống tự
do hoặc là chết… Gần hai mươi năm sau, cảnh tượng đó lại tái diễn một lần nữa.
Câu hỏi mà
tôi hỏi đi hỏi lại nhiều lần với những người đã gặp là: tại sao không nghĩ tới
việc vào các vùng đất an ninh, phì nhiêu ở Nam lập nghiệp? Tất cả đều nói: chúng
tôi chờ đợi trở về. Trở về, họ như gắn liền với đất đai khô khan cực nhọc, họ
không muốn rời khỏi quê hương nơi có những mái tranh nghèo, những mồ mả tổ
tiên, nơi họ đã được sinh ra và lớn lên trong nỗi nhọc nhằn.
Trước đây,
ngay từ thời Đệ nhất Cộng hoà, công việc di dân lập ấp được đặt ra, dân chúng tại
đây cũng đã từ khước ra đi, ngày nay họ vẫn không thay đổi ý muốn đó. Chừng như
quê hương càng đau khổ, đời sống càng nhọc nhằn người dân càng gắn bó keo sơn với
nó. Vùng Gia Đẳng, Gia Hải… những vùng cát trắng khô khan kia vẫn còn lại những
gì mà người dân thấy không thể bỏ nó mà ra đi được cho dù họ biết chắc rằng ra
đi họ sẽ có một nơi sung sướng hơn, đầy đủ hơn.
Những gia
đình với hành lý nghèo nàn ở trong trại tạm cư chia nhau những diện tích nhỏ hẹp
để sống, những trẻ con vẫn nô giỡn trên bãi cát, những bà mẹ vẫn nhẫn nại nhóm
những bếp lửa nhỏ lo bữa ăn đạm bạc hàng ngày. Tôi thấy chiếc áo màu của một
sinh viên ra đây lo cứu trợ như lạc lõng với khung cảnh.
Trại tạm cư
Hoà Khánh lớn lao hơn nhiều trại tạm cư dành cho dân thuộc Quận Gio Linh. Nơi
đây bao gồm dân chúng thuộc nhiều Quận, phần lớn họ được sống trong những ngôi
nhà tôn của một trại binh Mỹ. Những con đường trong trại tráng nhựa phẳng lì
còn tốt nguyên vẹn, nhưng những ngôi nhà thì phần lớn đã hư vì thời gian, nhiều
vách gỗ đã bị gỡ, những bao cát phần lớn đã mục khiến cho khung cảnh có vẻ điêu
tàn. Ngay trong những ngã tư đã có những hàng quán giải khát, dân chúng như đã
bắt tay ngay vào việc tìm sống. Nhiều người lo đi tìm kiếm những người quen,
người ra kẻ vào tấp nập.
Đại Tá Hoà,
người tôi gặp lúc ông cầm đầu một phái đoàn, là vị Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Ông mới
về làm Tỉnh Trưởng được ba tháng, nay ông đã ở Đà Nẵng với những người tỵ nạn.
Trông ông thấy phảng phất một vẻ buồn. Dân số Quảng Trị có hơn ba trăm ngàn,
con số còn bị kẹt lại khoảng 50 ngàn, tôi thấy số dân chúng ra đi thật lớn lao
và thực sự là đau đầu với chính người cộng sản khi tới chiếm Quảng Trị. Họ phải
nói thế nào với quốc tế về điều họ vẫn nói: dân chúng ủng hộ họ, và về chiêu
bài giải phóng vẫn không ngớt được nói đến. Không, dân chúng đã ra đi khi người
cộng sản đến. Không có dân, đất đai còn có nghĩa gì nữa?
Người thanh
niên ấy có nước da ngăm đen, vẻ ngơ ngác trên mắt nhìn, gò má cao, cằm vuông,
anh hơi chút mỉm cười ngậm ngùi khi tôi hỏi anh về chuyến hành trình đã trải
qua. Anh lặng đi rất lâu, giọng anh trầm xuống, có lúc tôi chỉ thấy môi anh mấp
máy và như tiếng nói biến mất: trước hết chúng tôi về Quảng Trị, thực chúng tôi
không nghĩ có lúc sẽ ở đây, nếu biết vậy chúng tôi đã đi thẳng tới đây, chúng
tôi không ai nghĩ thế cả, nhưng rồi chúng tôi phải đi khỏi Quảng Trị, ngày đó
là ngày mấy nhỉ, không rõ là 28 hay 29 gì đó, mà chừng như…, phải rồi, pháo
kích, rồi mìn anh ạ, rồi cả một cuộc giao tranh nữa, những chiếc xe nổ tung, những
thân người văng lên, tan tác những tiếng kêu khóc thảm thiết, mạnh ai nấy chạy,
không còn ai nghĩ tới chuyện cứu ai nữa… Chúng tôi chạy, chỉ biết chạy thế
thôi… với hai bàn chân chúng tôi tiếp tục đi, trước hết là Huế, sau tiếp tục đi
nữa, không, anh không thể hiểu được nếu anh không cùng chúng tôi trong chuyến
ra đi ấy, chúng tôi có cảm tưởng như ngay sau chân chúng tôi cộng sản theo bén
gót.
Chúng tôi
như tranh nhau lấn bước về phía trước, người ta có phương tiện để đi, chúng tôi
thì không, quốc lộ như thế mà bốn hàng xe chạy thì anh thử hỏi làm sao chúng
tôi len chân, và trên dọc đường ấy người ta như đứng lại với nhau, không còn trật
tự nữa, thỉnh thoảng súng lại nổ và người nháo nhác… Tôi đã thấy ngay trước mắt
tôi chiếc xe lật xuống đèo và những người chết, tôi đã thấy những bà mẹ kêu gào
tìm đứa con thất lạc… Tôi không hiểu tại sao sự việc lại xảy ra như thế, bây giờ
nhìn lại tôi càng thấy vô lý, bọn nó chưa tới được vòng đai mà sao mình đã bỏ lại
hết để chạy… Tôi lạc mất một người em gái, cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu
nó còn sống hay đã chết phơi xác dọc theo quốc lộ…
Người thanh
niên lặng đi, đôi mắt nhìn xuống trũng bóng tối. Tôi không còn biết có lời nào
để nói với anh. Tôi nhớ lời anh Cường kể lại chuyến đi của chính anh, thực anh
chưa muốn đi nhưng sau nhìn lại thấy mọi người đi hết thì anh sợ, người anh
nghĩ chưa đi là anh Du thì anh đã thấy lên trực thăng đi rồi, cuối cùng anh phải
đi chiếc xe cũ đưa anh lên đèo nhích từng chút, có lúc xe không đứng lại được
mà tụt xuống, đi từ sáng cho mãi tới 9 giờ tối mới vào tới Ðà Nẵng, trên đường
anh đã thấy những đào binh nổ súng bắt xe cho họ lên, anh đã thấy một bà cụ già
ngồi trên một tấm gỗ có gắn bánh xe, tay bám lấy chiếc dây thừng buộc vào chiếc
xe đạp của người con đạp phía trước… Mường tượng tới cảnh ra đi, quãng đường Quảng
Trị-Huế-Ðà Nẵng trở thành một cuộc trường chinh cho người dân Trị Thiên, tôi
nghĩ nếu con đường đèo bị cắt, hay một cuộc phục kích xảy ra thì họ sẽ ra sao?
Trời mưa nhỏ
hạt suốt đêm, sáng hôm sau trời vẫn thấp mây, tôi mang theo hành lý để tới Huế
như dự định, trước khi đi tôi ghé lại thăm anh Lam, tôi nghĩ anh nắm được nhiều
dữ kiện về những sự việc đã xảy ra. Tôi thấy anh hết sức bình tĩnh và nói với
tôi về công việc anh đang làm, giúp đưa dân chúng Quảng Trị vào miền Nam theo
chương trình di dân khẩn hoang của chính phủ, anh cho thấy dân chúng không muốn
đi riêng, họ muốn đi cả Quận, cả Làng. Anh cũng nói tới hoạt động của các đảng
phái một cách lạc quan. Khi hỏi anh: ai ra lệnh rút khỏi Quảng Trị, anh nói
không phải Tướng Lãm ra lệnh. Anh cười khi đặt với tôi một vài vấn đề sau khi
rút khỏi phần đất này, việc oanh tạc Bắc Việt, việc thả thủy lôi xuống các cửa
biển và sông ngòi miền Bắc…
Tôi ra bến
xe, trời mưa nhỏ, tôi chờ cho những chuyến xe từ Huế vào tới nơi thì leo xe trở
ra. Tôi thường theo cách đó để có thể yên tâm lên đường mỗi khi ra đây công
tác. Chuyến xe quen thuộc màu đen với mười chỗ ngồi, số người trở ra Huế chờ đợi
từng chuyến xe đến và trong chốc lát lên đường trở ra. Ðường ra khỏi thị xã xe
cộ đủ loại nối đuôi nhau, có hàng trăm xe vận tải đưa đạn vượt qua đèo. Trước
khi tới cầu Nam Ô xe bị đọng lại với sự chờ đợi oi bức, xe nhích từng khoảng ngắn.
Khi ngang qua tôi thấy dòng sông rộng. Cây cầu xi măng bị hư một nhịp đang được
sửa chữa và hiện có một cầu tạm bắc lên cho xe cộ lưu thông.
Cầu Nam Ô là
cây cầu xa lộ độc nhất được hãng thầu Mỹ làm cho suốt dọc quốc lộ từ Ðà Nẵng tới
Huế, cầu Lăng Cô là cầu cũ được sửa lại, còn hầu hết những cây cầu khác được
làm bằng gỗ ở đây đã bị phá sập, những binh sĩ công binh đang lo đắp một con đường
vòng và sửa lại cây cầu.
Chiếc xe tôi
đi chạy hơi ra ngoài bị chận lại, như một hình phạt không được qua, người tài xế
bứt đầu bứt tai nhìn những chiếc xe chạy sau vượt lên phía trước, tôi thấy nhiều
xe chở hàng không có mui chở đầy người, đó là những gia đình ở Huế trở lại nhà,
họ mang những hành lý. Có những chiếc xe có mui thì người ngồi cả trên mui cao,
trên quãng đường này tôi cũng thấy nhiều xe chạy đường xuyên Việt, từ Quảng Trị
tới Sàigòn, nhưng vì biến cố trong những ngày qua đã khiến cho những chuyến xe
này không thể trở lại Sàigòn được. Những chuyến xe sẽ thương nhớ đường dài…
Mưa vẫn đổ
mau hạt trong khi xe qua đèo, con đường rộng, nhựa phẳng trở thành nguy hiểm,
tôi nghĩ tới những ngày tháng trước khi đoàn người tỵ nạn phải ngang qua đây. Một
trăm cây số của đường dài lo âu chất ngất và nỗi kinh hoàng nhìn về ngày mai…
Vùng biển Lăng Cô làm tôi nhớ lại mộng ước được về sống trong một xóm dân chài
của Ninh Hoà, hai tiếng Hòn Khói vẫn còn ghi nhớ với những cồn cát trắng như
tuyết và những ngọn dương cao cùng với biển xanh bao la phía trước… Quê hương
ta những vùng đất hứa có thật vẫn còn đó nhưng chừng như lúc nào cũng ở ngoài tầm
tay với…
Cầu Phú Lưu
bị sập nhưng vẫn di chuyển một chiều, khoảng đường từ phía chân đèo trở lại Huế
tôi thấy nhiều binh sĩ thuộc Sư Đoàn 3, họ có mặt nơi những chiếc cầu còn lại.
Trên một thành cầu sắt của đường xe lửa tôi nhìn thấy hàng chữ: Bảo vệ cây cầu
tới giọt máu cuối cùng. Tôi buồn rầu nghĩ tới những cây cầu đã gãy. Tôi nghĩ tới
những cây cầu gỗ trên quốc lộ 9 nối Ðông Hà tới biên giới và trên quốc lộ 1 Gio
Linh tới Ðà Nẵng.
Năm 1968,
khi tôi theo quốc lộ 9 lên Cam Lộ, nơi có trên 6 ngàn dân chúng quận Hướng Hoá
từ trong núi về tỵ nạn, trong số này phần lớn là sắc tộc Bru. Bấy giờ trận chiến
ác liệt ở Khe Sanh, trong khi xe ủi đất Mỹ làm việc không ngừng, họ mở rộng đường
trải đá, trải nhựa và làm cầu. Tôi tự hỏi như vậy có phải con đường sẽ được
dùng để sang Lào không? Năm 1970 trở lại, cả vùng đã hết lính Mỹ, chúng tôi
dùng xe díp chạy từ Quảng Trị lên Cam Lộ uống cà phê và nói chuyện hoà bình,
ngày lên xin đất mở đồn điền trên Khe Sanh…
Tôi nghĩ tới
những cây cầu và hỏi: những cây cầu bằng gỗ này chịu đựng được bao nhiêu năm? Tại
sao không phải là cầu xi măng? Không ai trả lời. Và tôi cũng đã hỏi: sao Mỹ làm
con đường này tốt vậy mà không dùng? Và câu trả lời mãi tới khi có cuộc hành
quân sang Hạ Lào tôi mới thấy, mỗi ngày hàng trăm xe đạn dược theo đó mà tới
Khe Sanh. Nói tiếp về những cây cầu tôi cũng thấy từ Gio Linh vào Huế chỉ mới
có một cây cầu mới đúc, còn hầu hết là cầu gỗ. Và bây giờ tôi lặp lại câu hỏi:
những cây cầu chưa bị phá sẽ còn chịu đựng được bao nhiêu lâu?
Phú Lộc, La
Sơn, Phú Bài, Phú Lương, Dạ Lê, An Cựu… và cầu Trường Tiền. Huế vẫn còn đó, một
sinh hoạt lặng lẽ, nhiều căn nhà cửa đóng nhưng có toán công nhân sửa đường vẫn
làm việc, những người thợ nề vẫn tiếp tục trát vôi nơi bệnh viện trung ương
đang xây cất… Hoa phượng đỏ như máu trên những con đường hai bên bờ sông, trong
Thành nội, ghe thuyền đầy trong lòng sông nhà bè và vùng Bao Vinh không khí như
thuở thanh bình, tôi nghe thấy một không khí chìm chìm nhưng đầy đe doạ. Tôi
tìm gặp lại những người bạn cũ, gần hết đã ra đi. Anh Tấn bây giờ nuôi râu dài
như một đạo sĩ, anh Du như già hơn mấy tuổi, anh nói lại một ngày từ sở làm ra
đường tìm xe về nhà, phố vắng tanh, không một chuyến xe khiến anh ngao ngán thấy
mình như con chó hoang, và mắt anh như rưng rưng khi kể lại chuyến bay đưa anh
khỏi Thành nội trong không khí nháo nhác tan vỡ. Bây giờ thì anh đã trở về một
mình sống như mình muốn sống. Thục nói: ở lại với ý nghĩ ngông cuồng làm kẻ tuẫn
đạo… Liệu có mất Huế không?
Cộng sản có
đánh Huế không? Tại sao Huế không bị pháo kích? Những câu hỏi đặt ra mà không
ai dám trả lời khẳng định, ai cũng có ý kiến nhưng sau đó là cái mỉm cười ngụ
ý… Thành phố đầy những lính, đủ màu áo, hình như không thiếu một binh chủng
nào, ít hoặc nhiều họ đều có mặt. Tôi gặp lại những người bạn trong Quân Đội những
ngày cũ. Những hàn huyên không hết về kẻ sống người chết, những người ở An Hậu,
những ngày ở Phú Thứ, những ngày trong Dãy Phố Buồn Thiu, những ngày ở Khe
Sanh, những ngày rong chơi yên bình trong những làng xóm ở Triệu Phong nói chuyện
về những nàng cung phi sinh trưởng ở Sải, và vẻ đẹp tây phương của những cô gái
ở Mỹ Chánh, dòng sông mà người bạn tôi nói nửa đục nửa xanh, nơi những thuyền
bè tây phương từ thế kỷ trước đã vào đó…
Trên máy bay
nhìn xuống Quốc Lộ 1 chỉ thấy một dòng xuôi về Nam hỗn độn…
Buổi chiều
mưa thật lớn, người bạn nói với tôi cơn bão đang tiến tới. Một người bạn nói với
tôi về Huế: đất gì lạ, một năm ở đây thì có ba tháng để tranh đấu, ba tháng để
chịu tai ương, ba tháng để cứu trợ, còn ba tháng để làm thơ. Ðiều người bạn nói
thực đúng với thời gian 10 năm trở lại đây, Huế đầy những tai ương và đau khổ,
cơn ác mộng Mậu Thân với hàng ngàn người bị chôn sống vẫn còn ám ảnh những người
sống sót, đó là một trong những điều giải thích vì sao họ đã lũ lượt kéo nhau
ra khỏi Huế dù thực sự chiến tranh chưa đến.
Tôi theo xe
người bạn ra khỏi Huế, hiện đang có những cuộc chuyển quân vào phía Tây và phía
Bắc, những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến đã đột kích ba lần vào vùng đất Quảng Trị,
nhưng sông Mỹ Chánh vẫn là chiến tuyến. Quốc lộ 1 chạy về phía Bắc vắng hoe, chỉ
có những xe nhà binh di chuyển với vận tốc nhanh hơn thường ngày, những cánh đồng
ở Hương Ðiền vẫn có bóng người nông phu, thiên nhiên vẫn như một ngày thanh
bình cũ. Trong phòng tuyến, tôi hỏi một anh bạn: bao giờ qua bên kia? Người bạn
cười, định qua rồi nhưng mưa nên ngừng. Sao vậy? Hết mùi thối rồi… Tôi không hiểu.
Người bạn nói: Mấy hôm trời nắng, gió Nam thổi hôi quá chịu không nổi tính hành
quân để chôn xác chết của mấy trận, nhưng mưa rồi nên đỡ.
Tôi rùng người
và thấy như đầy mùi tử khí. Tôi mường tượng tới khoảng đường còn lại để tới Quảng
Trị, những làng mạc và đồng ruộng ngày nay còn ngổn ngang những xác người đã nằm
xuống trong những ngày trước, nắng lửa làm cho những tử thi trương lên và bây
giờ những cơn mưa làm cho tan rã… Ðêm lại cơn mưa lớn. Tôi cùng người bạn ngồi
trong quán cà phê, chút rượu khiến cho chúng tôi ngây ngất. Trên chiếc xe nhỏ
chúng tôi đi trên những con đường vắng không có bóng người, chỉ có những tàn
cây và bóng tối, thỉnh thoảng mới gặp những người lính ướt nước. Tường thành lầm
lì, những bãi cỏ tranh cao với bông trắng, tất cả như thầm thì một tâm sự.
Không khí lặng như một cõi chết nào. Thiên nhiên kia còn nghĩa gì khi không còn
những mắt nhìn chan chứa, không còn nhịp tim rộn ràng? Tôi như nghe thấy tiếng
thở dài của những cánh sen hồng về nỗi tàn tạ. Mùa hè đã đến rồi đấy nhưng như
đã mất vì không có tiếng guốc khuya trên cầu, hoa phượng đã nở đỏ nhưng không
còn là màu của nắng lửa, nó trở thành những vũng máu đọng chờ khô của một cái
chết.
Người bạn
nói: Tôi ở lại đây và tôi chờ ngày vào Quảng Trị.
Tôi nhìn người bạn.
Dương Nghiễm
Mậu
(*) Quảng Trị
Đất Đợi Về đăng lần đầu trên Tạp chí Chính Văn số 1 phát hành ngày 17 tháng
5-1972
https://www.tvvn.org/quang-tri-dat-doi-ve-duong-nghiem-mau-2/
.