“Tôi thiết tha kêu gọi những ai, ở miền Nam này, đang ăn cơm miền Nam, đang thở
không khí miền Nam, đang được sự che chở của xương máu Dân Quân miền Nam, mà
đến ngày nay, còn âm thầm tiếp tay với cộng sản, còn lén lút đi đêm với thực
dân, ngụy hòa, còn tính đâm sau lưng chiến sĩ và đồng bào…
Tôi chân thành kêu gọi lương tri của mấy người, vì đất nước, vì dân tộc, hãy
dừng chân lại, hãy dừng tay lại, hãy từ bỏ ý định đó đi mà cùng với 17 triệu
rưỡi Dân Quân miền Nam chiến đấu chống kẻ thù cộng sản xâm lược.
Tôi kêu gọi mấy người hãy suy nghĩ, nếu yêu thích cộng sản thì hãy có can đảm
ra ngoài Bắc ở với cộng sản... như vậy cộng sản còn ít khinh rẻ mấy người hơn
là làm tay sai cho chúng ở miền Nam này...
Có thể không ai ở miền Nam tự do này giết mấy người đâu, nhưng chính cộng sản
sẽ giết mấy người...
Mấy người nếu muốn có tên trong lịch sử, thì cũng có hai lối có tên trong lịch
sử.
1/. Là khi nhắc đến, thì toàn dân cúi đầu khâm phục, con cháu lại ngẩng đầu
lên hãnh diện.
2/. Là khi nhắc đến, thì toàn dân ngẩng đầu lên nguyền rủa, còn con cháu mấy
người lại cúi đầu tủi nhục...
Tôi chắc chắn mấy người sẽ được lịch sử ghi tên vào hạng thứ hai này nếu còn
ngoan cố.
Nếu mấy người không cầm súng xông pha lửa đạn để chiến đấu bảo vệ non sông
đất Việt...
Nếu không làm được một việc gì hữu ích cho hậu phương thì mấy người đừng làm gì
hại dân bán nước...
Ăn cơm quốc gia lại thờ ma cộng sản.
Một hành động ngu xuẩn, phản bội Tổ Quốc, Chiến Sĩ và Nhân Dân, dù có gạt được
ai 5, 3 tháng, 5, 3 năm, rồi cũng sẽ bị lịch sử lôi ra chứng minh và cũng sẽ bị
trừng trị nghiêm khắc"...
Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản
làm
Lời phát biểu của Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 24/10/1972.
Trong
chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu một áng văn bất hủ của dân tộc
Việt Nam, đó là bài “Hịch Tướng Sĩ” của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mời
quý vị theo dõi sau đây.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-06-12
Tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở Nam
Định.
“Hịch
Tướng Sĩ” được viết vào năm 1285, khi cuộc xâm lăng lần thứ hai của
quân Nguyên Mông đe dọa cả nước. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì đây là “bài
hịch hiểu dụ các tỳ tướng”. Sau này được gọi là Hịch Tướng Sĩ, nằm
trong phần lời nói đầu của “Binh Thư Yếu Lược” do Trần Quốc Tuấn soạn
cho tướng sĩ dưới trướng của ông dành để học tập.
Ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông
Những
trang sử chống ngoại xâm vàng son nhất của Việt Nam đều do công của Trần Quốc
Tuấn lập ra. Trong khi đội quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn làm
mưa làm gió gần như khắp thế giới thì Việt Nam là một trong ba nước hiếm hoi
cùng với Ấn Độ và Indonesia ngăn chặn được cơn hồng thủy Mông Cổ.
Cả ba lần
đánh giặc, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Năm 1258, Trần Quốc Tuấn chỉ huy
đánh chặn quân Mông Cổ ở Hưng Hoá.
Năm 1284,
khi quân Nguyên Mông chuẩn bị sang xâm chiếm nước ta lần thứ 2, Trần Quốc
Tuấn tổ chức duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, đọc “Hịch Tướng Sĩ”, sau đó tổ
chức rút lui binh lính để bảo toàn lực lượng.
Tháng 5
năm 1285, Trần Quốc Tuấn cho quân tổng phản công và trực tiếp chỉ huy đánh
thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương
và Vạn Kiếp.
Ba năm
sau vào tháng 1 năm 1288 quân Nguyên Mông tiếp tục tràn vào xâm lược nước ta.
Trong lần tấn công lần thứ 3 này quân nhà Trần chiến thắng trận Vân Đồn. Tháng
4 năm 1288, thắng lớn trong trận Bạch Đằng và trận phục kích ở ải Nội Bàng
thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay.
Mùa thu
tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tí, tức năm 1300 Trần Quốc Tuấn qua đời. Sau khi
ông mất, vua phong ông tước “Hưng Đạo Đại Vương”, cho lập đền thờ ông ở
Vạn Kiếp, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Hiểu dụ tướng sĩ
“Hịch Tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo được khắc ghi
trên phù điêu mới
dựng tại công viên Bạch Đằng (Nha Trang). Ảnh: Trúc
Nam Sơn/VietNamNet.
.
“Ta
thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng
chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân
Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái
Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc
Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình
vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường
tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất
muôn đời bất hủ được?”
Trong
đoạn đầu của bài hịch, Trần Quốc Tuấn mang khá nhiều điển tích Trung Hoa làm ví
dụ cho binh sĩ thấy những tấm gương trung nghĩa của lịch sử phương bắc, nhưng
ngay ở đoạn kế giọng văn đã chuyển sang thể văn tự sự nhằm làm cho ba quân dưới
trướng hiểu rõ hơn ý của mình. Đây là điểm cốt lõi của nguyên tắc truyền thông
mà Trần Quốc Tuấn có thể được xem là người tinh tường trong thời đại bấy giờ:
càng dễ hiểu bao nhiêu thì hiệu quả thông tin càng lớn bấy nhiêu.
“Các
ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa
ngờ. Thôi việc đời trước hẳn tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà
nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là
người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân
Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn
sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là
người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam
Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu
tiếng tốt!”
Lén nhìn
sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục
triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ.
Hịch
Tướng Sĩ, HĐĐV Trần Quốc Tuấn
Ở đoạn
thứ ba, Hịch Tướng Sĩ chuyển sang hẳn thể loại “hịch” là cách mà văn
chương Trung Đại Việt Nam thường dùng để chiêu tập lòng người. Giọng văn từ
chậm đến nhanh, khi hùng tráng lúc thống thiết, khi giận dữ lúc khoan hòa nhưng
lúc nào cũng giữ một ý chính: Giặc vừa tàn ác vừa tham lam, muốn đối phó với
chúng mọi người phải tận tâm tận lực.
“Huống
chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan.
Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng
nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà
đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch
bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói,
tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường
tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận
chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi
ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi
ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn
thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy
thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết;
được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột
Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?”
Khơi lòng tự ái dân tộc
Giọng văn
đi vào cao trào khi khơi gợi tự ái dân tộc, nêu ra cái nhục quốc sĩ và hệ lụy
của những thú ăn chơi mà quên việc nước. Cả đoạn này có khả năng làm cho những
ai còn u mê trước sự mua chuộc của giặc phải tỉnh ngộ mà quay về với bổn phận
mà đất nước đã giao phó cho họ.
“Nay các
ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết
thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái
thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ
lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có
kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên
việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ
mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không
đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh.
Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì
cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay
không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng
hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt,
đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các
ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con
các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày
xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta
kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia
thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu
các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?”
Hùng tráng, khoan hòa
Tượng
Trần Hưng Đạo của điêu khắc gia Phạm Thông
dựng vào
giữa thập niên 1960 tại bến Bạch Đằng, Sài Gòn.
Photo
courtesy of Wikipedia.
Chuyển
sang giọng văn nhẹ nhàng và tự sự hơn, đoạn cuối cho thấy cái tâm đầy nhân bản
của tác giả. Vừa kêu gọi, vừa chỉ ra điều hơn lẽ thiệt nhằm thuyết phục người
nghe bằng những luận cứ xác đáng. Phảng phất trong đó là lời của cha dạy con,
thầy chỉ bảo cho trò và cuối cùng mới tới cấp trên ra lệnh cho cấp dưới. Những
yếu tố này tổng hợp và quyện lấy nhau một cách khéo léo, thuyết phục người nghe
hoàn toàn bằng cái tâm rất lớn của một nhà văn hóa, một hào kiệt đúng nghĩa của
mọi thời đại.
“Nay
ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ"
làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ.
Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng
Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa
khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như thế chẳng những thái ấp của
ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những
gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy;
chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng
được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi,
trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà
tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn
vui chơi, phỏng có được không?”
Ở
đoạn kết thúc, văn phong bất ngờ trở nên nghiêm khắc và đây cũng là nét đặc sắc
của bài hịch. Nó cho thấy nguời viết có cái uy dũng cần thiết để nói với ba
quân vì vậy tướng sĩ dưới quyền không ai là không phục.
“Nay
ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược.
Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là
thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là
nghịch thù.
Giặc
Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên
không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào
quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc.
Hịch
Tướng Sĩ, HĐĐV Trần Quốc Tuấn
Vì
sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ
điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng
khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu
vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào
đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho
nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.”
Trong
kho tàng văn học chống ngoại xâm của Việt Nam có lẽ bài Hịch Tướng Sĩ luôn dẫn
đầu mọi thời đại. Không những do nghệ thuật đã đạt đỉnh cao văn học của nó mà
yếu tố con người tức tác giả của bài hịch đã chiếm một phần rất quan trọng.
Trần
Quốc Tuấn là một trung thần nổi tiếng mặc dù ông dư sức chiếm ngôi do quyền lực
và tài năng bao trùm cả triều đình. Sự tận trung với đất nước đã buộc ông phải
quên thù riêng của gia tộc mà chỉ chuyên tâm lo chống giặc ngoại xâm. Từ cái
tâm trong sáng này, ông đã thu phục nhiều danh tướng tạo nên những chiến thắng
hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm như Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão,
Trương Hán Siêu cùng hàng chục tướng tài khác.
Phương
Bắc tuy nhiều lần xâm lược nước ta nhưng lòng kính trọng trong quân đội của họ đối
với danh tướng Trần Quốc Tuấn không nhỏ. Họ gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương và
sự kính trọng này đã làm nhụt chí đối phương trong nhiều năm sau khi thất trận.
Miếu thờ
Hưng Đạo Vương tại Sài Gòn. Photo courtesy of Wikipedia.
Trong
khi ốm nặng trên giường bệnh vua Trần Anh Tông hỏi ông, nếu chẳng may ông mất
đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao? Trần Quốc Tuấn đã
trăn trối “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là
thượng sách giữ nước".
Trước
khi chết ông dặn con "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng
xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người
đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau phục".
Những
bài học mà Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn để lại cho nhân dân Việt Nam không
bao giờ sử dụng hết tài năng kiệt suất và cái tâm kỳ vĩ của ông. Trước bất cứ
đe dọa ngoại xâm nào nhất là từ phương Bắc, thì Hịch Tướng Sĩ cùng với những
gương sáng mà ông để lại sẽ là cuốn binh thư tốt nhất gối đầu giường cho những
người lãnh trọng trách lèo lái đất nước.