Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã
dùng nhiều tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những
danh xưng được dùng chính thức hay không chính thức để chỉ vùng lãnh thổ thuộc
quốc gia Việt Nam.
Tổng quát
Thời gian
|
Tên gọi
|
Triều đại/Chế độ
|
Người đặt tên
|
|
2879 – 2524 TCN (nghi vấn)
356 năm
|
||||
2524 – 258 TCN (nghi vấn)
2267 năm
|
||||
50 năm
|
||||
93 năm
|
||||
151 năm
|
-
|
|||
3 năm
|
||||
160 năm
|
-
|
|||
341 năm
|
||||
58 năm
|
||||
5 năm
|
-
|
|||
15 năm
|
||||
57 năm
|
||||
78 năm
|
||||
9 năm
|
||||
100 năm
|
||||
39 năm
|
||||
63 năm
|
||||
86 năm
|
||||
346 năm
|
||||
7 năm
|
||||
20 năm
|
-
|
|||
376 năm
|
||||
35 năm
|
||||
106 năm
|
||||
58 năm
|
-
|
|||
1 năm
|
||||
31 năm
|
Độc lập
|
|||
9 năm
|
Pháp can thiệp
|
-
|
||
2 năm
|
||||
6 năm
|
||||
20 năm
|
Độc lập
|
|||
7 năm
|
Độc lập
|
|||
1976 – nay
|
Các quốc hiệu chính thức
Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức
của Việt Nam theo dòng lịch
sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được
chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại
giao quốc tế.
Văn Lang
Văn Lang (chữ
Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt
Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú
Thọ. Lãnh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN.
Âu Lạc
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱[4], 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết
các bộ lạc Lạc
Việt (Văn Lang) và Âu
Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước
đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và 1 phần Tây Nam Quảng
Tây (Trung Quốc).
Khoảng cuối thế kỷ III TCN, đầu thế kỷ II TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN[5]), Triệu Đà (Quận úy Nam Hải – nhà
Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại,
nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.
Lĩnh Nam
Năm 40, Hai
Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà
Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật
Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp
Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch nối
lại nghiệp xưa vua Hùng, lập tên nước là Lĩnh Nam (嶺南), đóng đô tại Mê Linh,
ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội.
Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng Nhị được bầu làm vương của Giao Chỉ,
6 quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Tượng Quận, Nam Hải và Quế
Lâm mỗi quận có 1 vương gia. Năm 43, khởi nghĩa
Hai Bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.
Vạn Xuân
Vạn
Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong
một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đình trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến
năm 602 thì
bị nhà Tùy tiêu diệt.
Đại Cồ Việt
Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu
của Việt Nam từ thời nhà
Đinh đến đầu thời nhà Lý,
do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu
này tồn tại 87 năm cho đến năm 1054, đời
vua Lý Thánh Tông thì đổi sang quốc hiệu khác.
Đại Việt
Đại Việt (大越) là quốc hiệu
của Việt Nam từ thời nhà Lý,
bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài
nhất, dù bị gián đoạn 7 năm thời nhà
Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua
các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.
Đại Ngu
Đại
Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà
Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ
Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh,
và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của
Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.
Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ
là con cháu vua Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này
con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong
cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình
là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có
nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", chứ không phải là từ
"ngu" trong từ "ngu si" (愚癡).
Việt Nam
Quốc hiệu Việt
Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà
Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công
nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An
Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên,
tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà
Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng
Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược
lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này
năm 1804.
.
No comments:
Post a Comment