Thế hệ chúng
ta có duyên được sống qua hai thiên niên kỷ để chứng kiến những biến động lớn của
dân tộc, qua đó mỗi cá nhân cũng chịu bao bất trắc, oan nghiệt, xoay vần theo vận
nước cùng những nỗi khổ niềm đau chất chứa, tưởng chừng như quá tải cho một đời
người, nhưng theo thời gian rồi cũng qua đi. Tuy nhiên, có những sự kiện chỉ xảy
ra thoáng chốc, đôi khi không dính dáng gì đến mình lại hằn sâu vào tâm tưởng,
tạo dấu ấn khó quên.
Ngày
1/5/1972 toàn bộ Sư Đoàn 3BB và các lực lượng tăng phái yểm trợ rút khỏi Quảng
Trị, tôi được đi theo một đơn vị Thiết giáp, đêm đó dừng quân trước Chi khu Hải
Lăng. Sáng hôm sau không theo quốc lộ mà di chuyển về phía Đông, rồi qua Mỹ
Chánh. Tất cả các loại xe đều phải dừng lại ở phía nam cầu, tôi may mắn được một
nhóm phóng viên nước ngoài cho theo vào Huế, rồi hai hôm sau vào Đà Nẵng.
Sau khi gặp
và ổn định gia đình, ngày 6/5/1972, tôi vào Phòng 2/BTL/Quân đoàn để hỏi tình
hình và thăm một số bạn đang làm việc tại đây, chúng tôi không vào phòng mà đứng
ngoài hành lang, tình cờ tôi thấy một thiếu phụ còn trẻ, dáng vẻ thanh tú, từ
văn phòng Trung tá Phó phòng bước ra, vừa đi vừa khóc, trên tay ôm một túi
xách. Thấy tôi nhìn có vẻ thắc mắc, một anh bạn cho biết: Đó là vợ Đại úy Trần
Doãn Dân, có lẽ trên đường di tản khi qua Đại lộ Kinh hoàng, Ông bị thương nặng
không di chuyển được nên nhờ người lính bên cạnh mang túi xách về Quân đoàn và
hôm nay chị được thông báo đến nhận?
Sau khi Bộ
Tư Lệnh SĐ3 di chuyển từ căn cứ Ái Tử vào Thành cổ Quảng Trị (31/3/1972), Phòng
2/BTL/QĐI gởi Đại úy Nguyễn văn Tâm làm sĩ quan đại diện tại P2/SĐ3 như là một
cách yểm trợ tinh thần vì thực chất mọi tin tức đã được báo cáo đầy đủ từng giờ.
Đại úy Tâm là Trưởng ban Khai thác tài liệu thuộc Biệt đội Quân báo Quân đoàn
I. Cuối năm 1970 khi được thuyên chuyển từ P2/ Bộ Tổng Tham mưu ra, tôi về làm
việc dưới quyền của ông, cho nên khi ông ra Quảng Trị, chúng tôi rất thân nhau.
Ngày
8/4/1972, quân đội Bắc Việt tung 3 Sư đoàn tấn công trực diện vào tuyến phòng
thủ Cửa Việt - Đông Hà - Ái Tử - Phượng Hoàng - La Vang thất bại, đặc biệt tại
căn cứ Phượng Hoàng do Tiểu đoàn 6 TQLC trấn giữ, ngày 9/4/1972 đã tiêu diệt 2
Tiểu đoàn Bộ binh và 1 Tiểu đoàn xe tăng địch, nên tình hình lúc này rất yên
tĩnh. Ông và tôi thường ra phố uống cafe, ăn sáng! Khoảng hai tuần sau, ông cho
biết sắp về Đà Nẵng và sẽ có một sĩ quan khác ra thay... Ông giới thiệu Đại úy
Trần Doãn Dân và nhắn gởi cố gắng hỗ trợ. Thời gian này ở đây cũng có một sĩ
quan trước đã phục vụ tại P2/SĐ22 quen ông, có kể giai thoại là mỗi lần có người
muốn gặp ông hỏi là gặp Nhà văn Doãn Dân hay Đại úy Trần Doãn Dân!
Ông ít nói,
hạn chế tiếp xúc, dành nhiều thời gian để viết. Tuy thế, chúng tôi có nhiều lần
nói chuyện khi cho Ông biết có đọc văn Ông trên tạp chí Bách Khoa, Văn. Ông lên
án sự phi lý của chiến tranh, làm tiêu hao cả một thế hệ thanh niên của cả hai
miền, đặc biệt là chia sẻ về thân phận của những nhà văn trong quân đội, không
đặt đúng thiên chức của họ, nhiều người đã chết thật oan uổng!
Ngày
24/4/1972, tôi được lệnh trở lại căn cứ Ái Tử để tăng cường cho Trung úy Trần
Kim Anh đang bảo vệ kho bản đồ và tài liệu ở đây, đến khi vào lại thì không thấy
Ông nữa. Nếu không bỏ đi trước, chắc Ông không bị cảnh thảm thương như thế. Lúc
Sư đoàn tái chỉnh trang và huấn luyện tại Phú Bài, Phòng 2 có nhận được thông
báo về cái chết của Ông và từ đó tình hình diễn biến phức tạp, không còn ai nhắc
đến tên Đại úy Trần Doãn Dân nữa!
Tháng
4/1973, tạp chí Văn, cơ sở văn học lúc sinh thời Ông cộng tác đã ra một số Tưởng
niệm nhân giỗ đầu của Ông. Các văn nghệ sĩ như Nguyễn Xuân Hoàng, Võ Hồng, Định
Nguyên, Du Tử Lê đều có những bài viết về sinh hoạt văn học và những kỷ niệm đã
có với Ông, có nhắc đến ngày Ông mất 29/4/1972 tại Quảng Trị, mà không nói rõ tại
sao Ông có mặt ở đây. Mọi người tiếc nuối không còn nhiều cơ hội tiếp xúc, có lần
đầu gặp ngắn ngủi cũng là lần gặp cuối ,thương tiếc một phong thái nho nhã, bộc
trực, thẳng thắn, yêu bạn lính hơn bạn văn mặc dầu rất đam mê và nôn nóng chờ đợi
những trang sách của mình, một cuộc đời nổi trôi với nhiều khó khăn trong gia
đình cũng như ở đơn vị mà ít ai chia sẻ được, cũng như mọi người đều bất ngờ về
cái chết của Ông, đang ở Saigon, tự nhiên nghe tin chết ở Quảng Trị!
Ba mươi tám
năm sau ngày tạp chí Văn ra số kỷ niệm, tháng 4/2011, tạp chí Thư Quán Bản Thảo
do nhà văn Trần Hoài Thư chủ biên cũng đã xuất bản số Tưởng niệm, lần này Ông
được nhắc đến nhiều, chi tiết hơn trong cương vị một nhà văn và một Sĩ quan
Quân báo. Ông đến với Làng Văn rất sớm và khá nổi tiếng, tạo một chỗ đứng uy
tín vững vàng khi thường xuyên có mặt trên những tạp chí văn học nổi tiếng ở
Saigon như Chỉ Đạo, Giai phẩm Tân Phong, Bách khoa và Văn.
Ông có một
cung cách riêng khi diễn bày tâm tư. Ông viết:"... cốt đế thỏa mãn sự tò
mò, muốn thấy mình được sống ở những hoàn cảnh mà mình không có và nhất là để
thỏa mãn sự náo nức thích viết của mình..., tôi cứ cố gắng thành tâm với những
gì tôi muốn viết, chỉ nguyên sự ham thích sáng tác và rung cảm với những hoàn cảnh
mình tạo ra cũng đủ để tôi cảm thấy "vui" trong cái "buồn"
của kẻ cầm bút". Tác phẩm của Ông được độc giả đón nhận nồng nhiệt: Tập
truyện “Chuyện Của Huệ” phát hành năm 1968 và “Tiếng Thì Thầm” in cuối năm 1972
lúc Ông không còn nữa!
Với bản tính
bộc trực, ngay thẳng và không chịu khuất phục bất cứ áp lực phi lý nào, cho nên
ra trường được chọn đi ngành Quân Báo, nhưng thường xuyên thay đổi đơn vị. Ông
đã từng cãi tay đôi với Trưởng phòng 2 Sư đoàn vì chỉ trễ phép mấy ngày lúc về
dự đám tang người thân. Trong Bản Cáo phó ghi Ông tử trận trên Đại lộ Kinh
Hoàng, làm nhiều người tưởng Ông được thuyên chuyển từ Saigon ra Sư đoàn 3BB!!!
Căn cứ vào
năm sinh 1938, có thể nhà văn Doãn Dân nhập ngũ vào khoảng đầu thập niên 60,
nhưng chúng ta không có nhiều thông tin về giai đoạn này, cho đến khi đọc bài
viết "Kỷ niệm với Doãn Dân" của nhà văn Võ Hồng trên báo Văn ngày
17/4/1973: “Tôi gặp anh Doãn Dân lần đầu vào đầu năm 1968. Lúc bấy giờ anh làm ở
BTL/SĐ22 tại Qui Nhơn và chẳng biết nhân dịp nghỉ phép hay đi công tác, anh và
một số anh em văn nghệ lái xe vào thẳng Nha Trang. Khi được giới thiệu, tôi cảm
động cầm tay anh là bởi nhiều năm trước tôi có đọc mấy truyện của anh trên Bách
Khoa, tôi yêu cái không khí lãng đãng, nhẹ nhàng, cái uyển chuyển, ngập ngừng rất
tinh vi trong truyện của anh.”
Ngoài ra,
còn có một nhân chứng đặc biệt khác vừa là bạn Văn, vừa là thượng cấp của Ông
đã ghi khá đầy đủ nhiều khía cạnh trong bài viết "Định Mệnh", tháng 2
năm 2011.
Nhà văn Văn
Nguyên Dưỡng tức Thiếu tá Nguyễn văn Dưỡng - nguyên là quyền Chỉ huy trưởng
Trung tâm Quân Báo P2/TTM, tháng 6/1968- được cử đi học khóa Tình báo Cao cấp tại
Hoa kỳ. Khi về nước bị điều ra đặt thuộc quyền sử sụng P2/SĐ22 (mà Ông cho là bị
đi đày), được bố trí làm phụ tá Trưởng phòng và cấp một căn phòng cạnh gia đình
Trung úy Trần Doãn Dân trong cư xá Sĩ quan. Vừa là đồng sự, láng giềng, và là
dân văn chương, nên hai người rất tâm đắc, thường thù tạc với nhau. "Doãn
Dân người miền Bắc, chừng mực, ít nói, cũng không hay cười, nhưng khi trò chuyện
thì dường như anh muốn trút bớt bầu tâm sự nặng trĩu trong lòng...anh cũng thường
băn khoăn về những người có tài mà bất khả trong xã hội hay anh muốn nói về
thân phận mình, một người ôm hoài bão lớn nhưng chưa nhìn thấy tương lai".
Khoảng tháng
9/1969, Thiếu tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 thăng cấp Trung tá được điều lên
làm Trưởng phòng 2/QĐ2, Thiếu tá Nguyễn văn Dưỡng thay Ông. Trong chỗ thân tình
đã có từ trước, Trung úy Dân đã gặp riêng Thiếu tá Dưỡng để trình bày nguyện vọng
muốn đổi về Saigon. Ông Dưỡng nói: "... Tôi nói với Doãn Dân là tôi sẵn
sàng giúp chuyển đơn với hảo ý là nên thuyên chuyển về Trung ương, biết anh giỏi
Anh ngữ, tôi khuyên anh nên xin về một trong hai Trung tâm hỗn hợp Việt Mỹ là
CICV (Combined Intelligence Center Vietnam) hoặc CDEC (Combined Document
Exploitation Center), anh nghe tôi làm đơn về CDEC và không bao lâu sau, cuối
năm 1969, anh được toại nguyện...Làm việc ở Saigon đến đầu năm 1972, Doãn Dân mới
thuyên chuyển ra đơn vị nào đó ở vùng hỏa tuyến chính tôi không thể nào biết được.
Dĩ nhiên cần tìm hiểu vì sao Doãn Dân bị thuyên chuyển ra khỏi Saigon và tử trận
tại Quảng Trị? Ai đưa đi và lý do gì?”.
Những ngày
cuối tháng 4/1972, tình hình Quảng Trị trở nên xấu đi, sau hai tuần lễ bổ sung
quân số và tiếp tế lương thực đạn dược, ngày 27/4, địch quân tung toàn bộ lực
lượng tấn công chiếm Đông Hà, rồi Lai Phước, Ái Tử...! Để toàn dân và toàn quân
thấy những khó khăn và sự chiến đấu kiên cường của các đơn vị QL/VNCH tại mặt
trận này, ngày 29/4/72, Cục Điện ảnh thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị đã gởi
một nhóm phóng viên do Trung tá Nguyễn Thượng Thọ tức nhà văn Lê Huy Linh Vũ dẫn
đầu đã đến Thành Cổ Quảng Trị, nhóm đã có những thước phim nóng hổi về cuộc quần
thảo giữa chiến xa ta và địch trên cầu Thạch Hãn, của các chiến sĩ Biệt Động
Quân, những loạt pháo của Cộng quân vào thị xã và phỏng vấn Chuẩn tướng Vũ văn
Giai. Trong lúc bất ngờ, nhà văn Lê Huy Linh Vũ đã gặp Đại úy Trần Doãn Dân và
ghi lại cụ thể trong cuốn "Ba ngày cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Tướng Vũ văn
Giai"...
Tôi nhảy xuống
một hầm trú ẩn khá rộng, trước mắt là một vị Đại úy- một Đại úy tại mặt trận,
nhưng vóc dáng nho nhã, không nón sắt, tóc không chải, áo bỏ ra ngoài, chân đi
dép, tay đang hí hóay trên một xấp giấy... tôi nghĩ chắc đây là một nhà văn hay
ký giả gì đó, tôi lên tiếng:
- Đại úy viết
cho báo nào vậy?
Nghe câu hỏi
của tôi, ông trả lời:
- Xin lỗi
Trung Tá, ông xuống bất ngờ, nên tôi không biết, tôi viết cho Bách Khoa, nhưng
ít thôi vì không có thì giờ
- Thôi,
chúng mình là dân cầm bút, nên dẹp cấp bậc đi, gọi nhau anh em được rồi.
- Xin cho biết
bút danh là gì?
- Tôi là Trần
Doãn Dân, khi viết ký tên là Doãn Dân
- Còn tôi là
Lê Huy Linh Vũ, điện ảnh quân đội. Tôi dắt một toán phóng viên lên đây làm
phóng sự chiến trường Quảng Trị đây nè.
- Ồ, hân hạnh
quá! Tôi có đọc sách và xem cuốn phim về Tết Mậu Thân tại Huế của anh, hôm nay
mới vinh dự được gặp.
Doãn Dân hỏi:
- Độ này có
viết gì nhiều không?
- Không, có
nhiều điều rắc rối, nên hai năm nay tôi không viết gì cả.
- Vậy sao
hôm nay có mặt ở đây?
- À, ngồi
chơi xơi nước lâu cũng chán; vả lại, quan trên nhớ tới kêu vào giao việc, nhà
binh mà, bảo đi thì đi, chỉ đâu đánh đó.
- Vậy là lần
này gặp may nha, tha hồ quay mà chẳng cần dàn dựng gì cả, quay được nhiều chưa?
- Cũng kha
khá, cảnh dân chạy loạn, địch pháo, chiến xa ta và địch quần nhau
- Vậy chừng
nào về, đường bộ à?
- Ngày mai,
bằng trực thăng..
- Vậy à, nếu
tôi được về với anh thì hay biết mấy
- Khó gì,
anh cứ lên Khối Chiến tranh Chính trị xin một chỗ chắc được thôi, ưu tiên cho
báo chí mà
- Nhưng tôi
có phải là báo chí đâu
- Vậy anh ở
đây với tư cách gì?
- Tôi là ĐẠI
DIỆN PHÒNG 2/ QĐI. Anh xem tôi như thế này mà họ cho tôi làm Phòng 2, chẳng
khác gì bắt mèo ăn cứt, mình chỉ thích viết lách văn nghệ, chứ có muốn phỏng vấn
tù binh đâu. Vì thế, họ tống đi cho khuất mắt, điều lên đây tăng cường cho
P2/SĐ3, nhưng ở đây thừa người ra đấy, họ có thèm xài mình đâu, thành ra cứ thất
tha thất thểu, xin về họ không cho, nếu có thể được, anh giúp kéo tôi về Cục
Tâm lý chiến thì hay biết mấy.
Tôi bảo:
- Thân tôi
lo chưa xong, nhưng mà tôi nêu tên một số bạn tôi ra đây, anh xem có quen
không, họ có thể giúp được.
Tôi kể Tạ Tỵ,
Nguyễn Đạt Thịnh, Văn Quang, Phạm Huấn.. Doãn Dân đều lắc đầu, nhưng đến khi nhắc
đến Đặng Trần Huân thì mắt anh sáng lên và bảo:
- Đặng Trần
Huân bây giờ làm ở Cục Tâm lý chiến à, làm sao liên lạc được với nó?
- Có gì đâu,
anh cứ viết một lá thư, tôi sẽ mang về trao tận tay
- Được, tối
nay anh em mình sẽ gặp nhau ở Câu lạc bộ, tôi sẽ viết. Mình có một đêm dài, bạn
văn gặp nhau, tha hồ tâm sự...
- À, mà anh
đang viết gì đó?
- Một truyện
dài, đời một anh lính ba gai, nhưng cũng là một anh hùng. Cốt truyện này tôi mới
thai nghén trong mấy ngày ở đây, anh xem mới một tuần mà tôi viết được 100
trang đây nè, tối mình gặp nhau, tôi sẽ tóm lược câu chuyện cho anh nghe...
Tôi xuống Câu
lạc bộ thì Doãn Dân đã có ở đó. Thấy tôi, anh kêu tên... Với giọng hậm hực và
căm phẫn, Doãn Dân nói nhiều về những nhà văn trong quân đội, chỉ một số ít được
giao công việc thích hợp, còn phần nhiều thì lang bang, không được ở những nơi
dúng mức, đúng chỗ, những công việc chẳng liên quan gì đến văn nghệ. Như trường
hợp của anh, một người cầm bút mà không được viết văn, lại làm Phòng 2. Làm văn
nghệ, không những không được khuyến khích mà còn xem như một trọng tội, một cái
cớ cho cấp trên hành hạ, chèn ép... Anh ước mong được về Cục Tâm lý chiến, giữ
bất cứ nhiệm vụ nào cũng được, miễn có một chỗ yên thân để viết.
Tôi hỏi anh
đã viết thư cho Đặng Trần Huân chưa, anh nói chưa và đi tìm giấy bút, nhưng
không có. Tôi bảo anh viết vào cuốn sổ tay của tôi cũng được, viết vào đây sẽ
không thất lạc, tôi sẽ đem về trao tận tay Đặng Trần Huân
Doãn Dân viết
xong trao lại cho tôi và dặn dò với bao hy vọng và ngồi lim dim kể câu chuyện
anh đang viết cho tôi nghe. Dưới ánh đèn leo lét, khuôn mặt anh đẹp quá, như một
đứa trẻ ngây thơ bước chân vào đời. Vẻ đẹp của một người cầm bút mang bao nỗi
niềm ao ước, tin rằng mình sẽ làm được một cái gì khác người!
Vẻ đẹp đó
may cho Doãn Dân, anh đã giữ được vĩnh viễn vì anh đã ra đi!
Lúc tôi về đến
Saigon, rút những tờ giấy ướt đẫm giao cho Đặng Trần Huân, thì anh cho biết
Doãn Dân đã nằm lại trên Đại lộ Kinh hoàng (Nhóm Phóng Viên Điện Ảnh Quân Đội đến
Quảng Trị từ 29/4/72 đến 01/5/72, cuộc nói chuyện giữa hai nhà văn chỉ có thể xảy
ra ngày 29 hoặc 30/4, do đó ghi ngày mất của Ông 29/4/72 là không chính xác).
Như vậy là
chúng ta biết một cách chắc chắn là: Đại úy Trần Doãn Dân, từ CDEC (Trung tâm
Khai thác Tài liệu Hỗn hợp thuộc Phòng 2/TTM được thuyên chuyển ra Phòng
2/BTL/QĐI tại Đà Nẵng, rồi được cử làm Đại diện tại Phòng 2, Sư Đoàn 3. Để bổ sung thêm, chúng ta hãy nghe nhà văn Võ
Hồng kể tiếp: "Cái kỷ niệm gần nhất, kề sát với ngày chết của anh là bức
thư anh gởi cho tôi, hôm tháng 2/1972 từ Đà Nẵng. Tôi biên thư trả lời và viết
địa chỉ của anh lên phong bì. Tôi lúng túng không biết KBC của anh là 4103 hay
4109, tôi dò hỏi xem có ai có người quen làm việc ở Đà Nẵng để biết KBC của
anh, nhưng không có ai cả. Cuối cùng, tôi quyết định viết con số 3. Một tháng
sau, thư bị trả lui…
Ngày
27/4/72, tôi lại nhận được thư của anh và ghi địa chỉ cụ thể là KBC 4109 (Bộ Tư
Lệnh Quân đoàn I). Ba ngày sau, nghe tin anh tử trận!!!”
Mọi người biết
tin nhà văn Doãn Dân chết trên Đại lộ Kinh hoàng, nên đều nghĩ Ông ở Sư đoàn 3
rồi di tản, cũng có người viết Ông bị lãnh nguyên quả pháo... Tuy nhiên, căn cứ
vào việc túi xách của Ông được mang về BTL/QĐI, chúng ta có thể suy luận rằng
Ông bị thương nặng, không thể di chuyển, nên nhờ một người lính nào đó mang hộ
Ông và Ông nằm lại rồi qua đời.
Có điều thắc
mắc của nhà văn Văn Nguyên Dưỡng là lý do Ông rời CDEC vẫn chưa có câu trả lời,
vì không có ai để kiểm chứng! Điều ngạc nhiên nữa là Ông đến P2/BTL/QĐ vào thời
điểm nào cũng không ai nhớ. Tôi đã nhiều lần hỏi các sĩ quan ở đây, nhưng không
ai biết, kể cả tên Ông (Trong lúc đi tìm dữ liệu cho bài viết này, qua một người
bạn, có tiếp xúc được với Cựu Thiếu Tá Phạm văn Đức làm việc tại CDEC từ 1970 đến
1975 cho biết tại Trung Tâm này không có Sĩ Quan nào tên là Trần Doãn Dân cả!).
Căn cứ vào
nhiều bài viết Tưởng niệm Ông, chúng ta có thể ghi nhận, sắp xếp theo trình tự
để tương đối nắm được những diễn biến vào thời điểm đó:
Tết năm Nhâm
Tý 1972 Ông vẫn còn ở Saigon - theo nhà văn Định Nguyên ghi lại trong bài viết
"Doãn Dân - Cát bụi", thì ngày Mồng Ba Tết (17/2/72), nhà văn Doãn
Dân đã đến thăm. Sau đó cùng với nhà văn Đào Trường Phúc ghé nhà em gái Doãn
Dân ở Thị Nghè và đã gặp cụ thân sinh cùng vợ anh ở đó và theo lời đề nghị của
Ông, đến thăm nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Có lẽ ăn Tết
xong, Ông ra Đà Nẵng liền, vì theo nhà văn Võ Hồng, Ông nhận thư Doãn Dân vào
tháng 2 để mời ra dự tuần lễ Văn Hóa nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, nhà văn Nguyễn
Xuân Hoàng cũng có nhận được lời mời như thế trong thư đề ngày 3/3/72. Có thể
lúc ra Đà Nẵng, Ông đem theo cả gia đình, cần nhiều thời gian để ổn định mọi thứ,
nên chậm vào đơn vị, hơn nữa hình như Ông cũng được nhà văn Duy Lam mời vào Ban
Tổ chức Tuần Văn Hóa dự định tiến hành vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch. Đến khi
trình diện thì nhận Sự Vụ Lệnh ra làm sĩ quan Đại diện tại P2/SĐ3BB??? Câu hỏi
vĩnh viễn bị bỏ ngỏ! Có điều chắc chắn là từ Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn hợp
thuộc P2/TTM, Ông được thuyên chuyển ra Phòng 2/QĐI, chứ không trực tiếp ra SD3
như nhiều người ngộ nhận!!!
Bốn mươi tám
năm đã qua, vóc dáng Ông chỉ còn lờ mờ trong tâm trí tôi, nhưng dòng nước mắt
trên khuôn mặt thất thần đau thương của Chị, với dáng đi thiểu não bước xuống từng
bậc thềm ở Quân Đoàn ngày nào vẫn còn hiện rõ trong tôi khi nhớ đến.
Người lính với
bao gian truân, thảm khốc trên chiến trường, rồi thương tật hoặc phải nằm xuống,
đó là trách nhiệm phải hy sinh hay nói cách khác: Đền xong nợ nước, nhưng vợ
con họ chịu bao mất mát, lâm cảnh bơ vơ, thua thiệt cả đời! Thân phận họ thật sự
đắng cay, vượt quá sự chịu đựng!
Cuộc đời Ông
canh cánh bên lòng những hoài bão làm được điều gì đó cho đời, cho đất nước, cuối
cùng không thực hiện được, ngay cả điều đã sẵn trong tầm tay:
Câu chuyện về
người lính trận viết ra trong cơn binh lửa: Những chi tiết rất thật, cũng theo
Ông về với cát bụi và như nhà văn Văn Nguyên Dưỡng đã viết "Tất cả đều do
định mệnh, định mệnh quyết định số phận từng người".
Qua góp nhặt
từ nhiều bài viết, hệ thống lại để có câu trả lời tương đối rõ ràng về những
ngày tháng cuối đời của Ông.
Ông đi,
không ai biết, đến không ai hay, khi nhắm mắt cũng không ai thấy, gia đình
không có được nắm tro hay huyệt mộ của Ông để lui tới! Có phận đời nào tang
thương nghiệt ngã hơn không? Những dòng chữ muộn màng này như nén hương lòng Tưởng
niệm Đại úy Trần Doãn Dân - một nhà văn, cũng là một chiến hữu mà tôi may mắn
được gặp trong không gian chẳng bình an chút nào...
Xin Ông yên
nghỉ với cát bụi vĩnh hằng....
Lê văn Trạch (P2/SĐ/3BB)
Tháng 4, 2020
No comments:
Post a Comment