TRÍCH ĐOẠN:
Chương trình định cư tù cải tạo (H.O)
Năm 1977, một cựu nhân viên Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại Phi-líp-pin là Khúc Minh Thơ có chồng đi trại cải tạo và hai con còn kẹt ở Việt Nam sang Mỹ định cư. Bà Thơ cùng với một số bạn đồng cảnh ngộ thành lập Hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam (HGĐTNCT) để vận động chính phủ Mỹ can thiệp cho chồng con được thả và cho phép sang Mỹ đoàn tụ gia đình. Những nỗ lực vận động ấy được sự giúp đỡ của ông bà Shep và Hiệp Lowman, một cựu viên chức ngoại giao Mỹ tại Việt Nam, sau có thêm sự ủng hộ của hai Thượng nghị sĩ John McCain và Edward Kennedy, nhưng những cuộc thăm dò từ phía Mỹ không được Việt Nam quan tâm. Năm 1978, chồng bà Thơ được thả nhưng bệnh tật, hai năm sau thi mất. Bà Thơ vẫn tiếp tục vận động cho việc định cư cựu tù nhân chính trị.
Năm 1982, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố Việt Nam sẵn sàng thả hết tù nhân cải tạo nếu Hoa Kỳ chấp thuận cho họ sang Mỹ định cư. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ chỉ định ông Robert L. Funseth, Phụ tá Thứ trưởng, khởi sự các cuộc thương thuyết ở hậu trường. Đây là lúc bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT liên lạc với ông Funseth và chuẩn bi lập danh sách và hồ sơ tù cải tạo. Sau hai năm không có tiến bộ, Ngoại trưởng Mỹ George Schultz thông báo công khai vào tháng Chín 1984 là Hoa Kỳ sẵn sàng đáp ứng đề nghị của Việt Nam bắt đầu bằng việc chấp thuận 10,000 tù nhân cải tạo và gia đình của họ. Dù mong muốn xây dựng quan hệ kinh tế và ngoại giao với Mỹ, Hà Nội vẫn gây nhiều khó dễ cho vấn đề định cư tù cải tạo. Năm 1985, một phái đoàn do cựu thống đốc tiểu bang Iowa cầm đầu sang Việt Nam dể thăm dò khả năng quan hệ song phương, khi nhắc đến đề nghị của ngoại trưởng Schultz thì ngoại trưởng Thạch dứt khoát từ chối. Ông Thạch cho phía Mỹ biết rằng Việt Nam chỉ muốn tiếp tục thảo luận về vấn đề tìm kiếm tù nhân chiến tranh và ngươi Mỹ mất tích (POW-MIA) vì đây mới là quan tâm chính của chính phủ Mỹ cần ưu tiên giải quyết để đôi bên có thể đạt được mục tiêu toàn diện là chấm dứt vĩnh viễn cuộc khủng hoảng tị nạn Đông Dương, bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Một năm sau, Việt Nam công bố chủ trương “đổi mới” và hai bên gặp nhau nhiều hơn và có triển vọng tiến hành khả quan hơn.
Năm 1987, để hậu thuẫn cho những cuộc thương thuyết toàn diện với Việt Nam sớm có hiệu quả, Tổng Thống Reagan chỉ định Đại Tướng hồi hưu John W. Vessey, nguyên Chủ tịch các Chỉ huy trưởng Liên quân, làm Đặc Sứ (special emissary) của Tổng thống phụ trách đối thoại với Việt Nam. Bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT cũng liên lạc với Đai Tướng Vessey để vận động thêm cho tù nhân cải tạo, Vào thời điểm này, một số cựu tù cải tạo sau khi được thả đã vượt biển tới các trại tị nạn và được Mỹ chấp thuận cho vào Mỹ định cư, một số khác đi theo diện đoàn tụ gia đình. Họ tìm đến nhau và thành lập các hội cựu tù nhân cải tạo để giúp đỡ và vận động định cư cho những người bạn tù còn ở lại Việt Nam hay còn kẹt trong các trại tị nạn tạm trú.
IRAC bắt đầu quan tâm đến vấn đề vận động định cư tù cải tạo năm 1982 khi Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố sẵn sàng thả hết tù cải tạo nếu Mỹ chấp nhận cho tất cả được sang Mỹ định cư. IRAC ủng hộ cuộc vận động của Hội GĐTNCT và các hội khác. Mỗi khi nhận được danh sách và hồ sơ từ các hội cựu tù cải tạo hay từ các trại tị nạn, IRAC đều chuyển đến Hội GĐTNCT ở Virginia là nơi gần Bộ Ngoại giao và có nhiều hội viên tới giúp lập hồ sơ vận động. Chủ tịch IRAC chỉ chính thức quan hệ với ông Funseth từ 1984 để theo dõi tin tức sau khi Ngoại trưởng Schultz công bố chấp thuận đề nghị của Ngoại trưởng Thạch. Đồng thời, IRAC cũng liên lạc chặt chẽ với văn phòng TNS John McCain, lập hồ sơ của một số nhà văn, nhà báo tên tuổi bị cầm tù để nhờ ông can thiệp với chính phủ Việt Nam. Năm 1986, sau khi tham dự Hội nghị Toàn quốc Lãnh đạo Cộng đồng Đông Dương do IRAC triệu tập tại Đại học Georgetown, Washington DC, ông Funseth mới thật sự có những cuộc tham khảo với chủ tịch IRAC về vấn đề tù cải tạo và triển vọng thương thuyết với Việt Nam. Trước mỗi lần gặp, IRAC đều có soạn talking points và tài liệu liên quan để ông Funseth tùy nghi sử dụng. Khi ong Funseth chuẩn bị vòng đàm phán chung kết vào tháng Bảy 1989, chủ tịch IRAC đã thu xếp một cuộc gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao giữa ông Funseth và phái đoàn đại diện Trung tâm Văn Bút Việt Nam Hải ngoại khi đó do nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn làm chủ tịch và nhà thơ Viên Linh, tổng thư ký. Ngoài ông Ngạn đến từ Canada và Viên Linh từ California còn có hai hội viên là nhà văn Trà Lũ (Canada) và nhà báo Chử Bá Anh (Virginia). Trước đó, IRAC đã yêu cầu hội Văn Bút tổng hợp một danh sách đầy đủ các nhà văn, nhà báo đã và chưa được thả để ông Funseth trao cho nhà câm quyền Việt Nam trong ngày ký kết bản thỏa thuận định cư tù cải tạo. Sau 30 phút trao đổi tin tức và ý kiến, cuộc đàm đạo được tiếp tục trong bữa ăn trưa được ông Funseth khoản đãi tại phòng ăn riêng của Bộ Ngoại giao.
Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (Hình: tác giả cung cấp).
Khi được tin Tổng thống Reagan chỉ định Đại Tướng John Vessey làm Đặc Sứ đối thoại với Việt Nam, chủ tịch IRAC đã viết thư cho Đại Tướng trước ngày ông lên đường qua Việt Nam, thông báo về cuộc vận động của IRAC về các vấn đề tị nạn liên quan tới việc giải quyết vấn đề POW-MIA và thả tù nhân chính trị như những điều kiện tiến đến quan hệ bình thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chủ tịch IRAC thỉnh cầu Đại Tướng đưa những vấn đề này vào nghị trình thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam.
Khi trở về Mỹ, trong thư gửi chủ tịch IRAC ngày 12/8/1987, Tướng Vessey cám ơn ông đã cung cấp những thông tin và tài liệu cơ bản giúp cho phái đoàn Mỹ có thể nêu lên các vấn đề tù nhân chính trị, trẻ em lai Mỹ và chương trình ODP với Việt Nam. Ông cho hay “chúng tôi đã nêu lên những vấn đề này, một cách riêng tư, trong cuộc thảo luận.” Kết quả là “Việt Nam tái xác nhận ý định của họ là xúc tiến chương trình Ra đi Trật tự (ODP) và tin tưởng sẽ có tiến bộ về vấn đề trẻ em lai, nhưng họ không tỏ ra tích cực về những vấn đề tù nhân chính trị. Các nhà thương thuyết của họ duy trì quan điểm là vấn đề này không phải là một vấn đề nhân đạo.” Vị Đặc Sứ của Tổng thống Mỹ thông báo cho phía đối thoại biết rằng chính phủ và quốc hội Mỹ đều quan tâm đến vấn đề định cư tù chính trị và vấn đề này vẫn sẽ được nêu ra trong những lần gặp gỡ sau.
Chủ tịch IRAC tiếp tục góp ý với Tướng Vessey, trực tiếp hay qua văn thư, và được vị Phụ tá của Đại Tướng Vessey là Thiếu Tướng Stephen B. Crocker cập nhật tin tức đối thoại với Việt Nam. Như ta đã thấy, cuộc thương thuyết chính thức về vấn đề định cư tù nhân cải tạo do ông Robert Funseth đảm trách, được sự hỗ trợ của Tổng thống Reagan qua những cuộc đối thoại của Đặc sứ John Vessey, rốt cuộc đã thay đổi được thái độ cứng rắn của cộng sản Việt Nam, dẫn đến việc ký kết thỏa hiệp định cư tù cải tạo Funseth-Vũ Khoan ngảy 30/7/1989. Đại tướng Vessey tiếp tục thúc đẩy Việt Nam hợp tác nhiều hơn về vấn đề POW-MIA và chính phủ Mỹ đã tỏ ra hài lòng về những tiến bộ đạt được trong chuyến thăm Washington DC vào tháng 10, 1990 của ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sau phiên họp Đại Hội đồng LHQ tại New York. Mặc dù do áp lực của Trung Quốc, ngoại trưởng Thạch phải từ chức năm 1991 và các cuộc hội đàm Mỹ-Việt bị chậm lại, vấn đề POW-MIA vẫn tiến hành khả quan. Mỹ quyết định bãi bỏ cấm vận năm 1994 và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995.
Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (Hình: tác giả cung cấp).
Cũng trong dịp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tham dự Đại Hội đồng LHQ, Thượng Nghị sĩ Mark Hatfield đã thu xếp một buổi gặp không chính thức giữa ngoại trưởng Thạch và chủ tịch IRAC “để thảo luận về những chương trình nhân đạo.”[9] Thật ra, các vấn đề được đề cập trong cuộc gặp là tiếng nói của công dân Mỹ gốc Việt đối với các nhà làm chính sách của Mỹ về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, vấn đề POW-MIA và bang giao Mỹ-Việt, và triển vọng đóng góp chất xám của nhân tài hải ngoại có thể giúp Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển ở Á châu. Ông Thạch bắt đầu hâm nóng không khí buổi họp bằng việc bày tỏ sự vui mừng có cơ hội đàm đạo với anh em trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về những vấn đề quan tâm chung của đất nước. Ông nói ngay đến sự sai lầm của chính sách “học tập cải tạo” khiến bộ máy chính quyền thiếu nhân sự chuyên môn đủ mọi ngành. Nhiều người tài giỏi bị giam giữ, nhiều nhà khoa học và chuyên gia bỏ nước ra đi gây hậu quả là nhân dân bị nghèo đói và đất nước trở thành tụt hậu. Đáng chú ý là lời ông tự phê bình: “Chúng tôi đánh nhau thì giỏi nhưng quản trị thì quá tồi, không có khả năng phát triển đất nước.” Ông kêu gọi trí thức, chuyên gia ở nước ngoài hãy bỏ qua hận thù quá khứ, “let bygones be bygones” (sic) và trở về giúp nước vì “chúng tôi đã quyết định đổi mới, không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị”. Ông nhấn mạnh rằng đây là nguyên văn câu tuyên bố của ông trước Đại hội đồng LHQ vài tuần trước.
Chủ tịch IRAC trả lời rằng đa số trí thức hải ngoại sẵn sàng đóng góp khả năng vào những dự án phát triển đất nước nhưng chỉ làm được việc này khi thấy trong nước thật sự thực hiện một lộ trình dân chủ hóa cụ thể, bắt đầu bằng việc trả tự do cho những ngưởi yêu nước bất bạo động còn bị giam giữ. Nhưng mục đích của IRAC gặp Ngoại trưởng Thạch không chỉ để nói lên quan điểm về hòa giải dân tộc mà còn để góp ý về triển vọng bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vấn đề POW-MIA không phải là vấn đề riêng của chính phủ Mỹ mà là mối quan tâm chính của nhân dân Mỹ có thân nhân xa gần, bằng hữu hay đồng bào đã hi sinh hay mất tích trong cuộc chiến. Vì vậy, nhân dân Mỹ, qua các đại diện của họ trong lưỡng viện Quốc hội, sẽ chấp thuận hay ngăn chặn việc chính phủ thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam tùy theo thái độ cư xử của Việt Nam. IRAC khuyến cáo Việt Nam không nên dùng POW-MIA như một lá bài chính trị để mặc cả trong những cuộc thương thuyết mà nên chứng tỏ cho nhân dân Mỹ thấy rằng Việt Nam coi POW-MIA là một vấn đề nhân đạo và thật lòng hợp tác.
Cuộc trao đổi IRAC-Nguyễn Cơ Thạch bao gồm một số chuyện bên lề với những chi tiết riêng tư như khi ông Thạch, người có trình độ học vấn cao nhất trong Bộ Chính trị, kể chuyện trước khi sang Ấn độ nhận chức Tổng lãnh sự, ông đã phải học các nghi thức văn minh như chào hỏi xã giao hay cả đến cách sử dụng dao, nỉa trên bàn ăn. Luật sư Trần Danh San, trong đoàn IRAC, kể chuyện bị bắt đi cải tạo sau khi đứng trước nhà thờ Đức Bà ở Saigon đọc bản tuyên ngôn nhân quyền giống như Hiến chương 77 của Vaclav Havel bên Tiệp Khắc. Có một lúc ông San kéo ống quần lên để ông Thạch thấy vết sẹo lớn ở cổ chân kỷ niệm những ngày bị cùm biệt giam. Khi được thả, ông vượt biển, được tàu buôn Nhật cứu, sau được ông Funseth giúp cho sang Mỹ định cư qua sự vận động của IRAC.
Trở lại chương trình định cư tù chính trị được Việt Nam gọi là chương trình nhân đạo (humanitarian operation), do đó tên tắt H.O trở thành thông dụng. Ngày 31/01/1990, cơ quan định cư tị nạn liên bang ORR tổ chức một buổi hội thảo về chương trình định cư cựu tù nhân chính trị. Trong bài phát biểu của chủ tịch IRAC, ông nói đến tính chất đặc biệt của chương trình này đối với chính phủ, các tổ chức định cư tị nạn và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, phân tích những trở ngại tinh thần và thể chất của những người đã bị hành hạ nhiều năm trong các trại tập trung của cộng sản, do đó họ có những nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng thích hợp. Tất cả cựu tù nhân chính trị phải được coi là tị nạn chứ không phải di dân. Chủ tịch IRAC cũng nhấn mạnh rằng các cựu tù cải tạo từng vượt qua được mọi cực hình và thử thách lớn nhất trong nhà tù cộng sản, nhất là những người trong lớp tuổi tử ngoài 30 đến ngoài 50, chắc chắn sẽ trở thành những phần tử đóng góp cho xã hội Mỹ. Họ chính là “tích sản” (assets) chứ không phải là “tiêu sản” (liabilities) của xứ sở định cư. Ông yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ phải cò ngân sách dành riêng cho chương trình định cư tù chính trị vì đây là thành phần thuộc trách nhiệm lớn nhất của chính phủ và là đối tượng quan trọng đươc thêm vào chương trình ODP hiện hữu.
SOURCE:
.
No comments:
Post a Comment