PART 1:
PART 2:
Câu chuyện tuẫn tiết của Tướng Lê Văn Hưng - Mạnh Kim
Đối diện tôi là một ông già ốm yếu 75 tuổi nhưng còn rất minh mẫn. Nhắc lại chuyện cũ, ông nhớ như in từng chi tiết và thuật lại sống động mạch lạc như thể thời gian vẫn chưa làm hao mòn ký ức ông. Tôi đã ngồi với ông từ 10g30 sáng đến 3g chiều mà câu chuyện vẫn chưa dứt. Ông là Huỳnh Quang Nghĩa, cựu trung úy Chánh văn phòng của Chuẩn tướng Tư lệnh phó Quân đoàn IV Lê Văn Hưng, Quân lực VNCH. Trung úy Nghĩa là nhân chứng mục kích từ đầu đến đuôi cái chết của Tướng Hưng. Câu chuyện được kể dưới đây là những gì được ghi trong hồi ức cá nhân mà trung úy Nghĩa cho tôi xem, cùng những gì ông kể với tôi hôm ấy, 21-4-2016…
“Sau khi nghe tin Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng, Chuẩn tướng bảo tôi (Huỳnh Quang Nghĩa) gọi để nói chuyện với 16 Tiểu Khu Trưởng, yêu cầu ban hành thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Quân đoàn IV. Vùng IV có vẻ chuẩn bị đối phó với tình hình hơn là chấp nhận treo cờ rũ. Khi nghe tin Sài Gòn thất thủ, dân chúng Cần Thơ bắt đầu mua nhanh bán vội để thu xếp về nhà. Khuôn mặt ai nấy đều lo âu. Xe lướt nhanh hơn, người đi bộ gần như chạy, đường phố giống như đang trốn chạy khỏi cơn giông lớn. Sau thông điệp đầu hàng của Tổng thống Minh, mọi liên lạc với Sài Gòn đều bị cắt đứt. Tuy vậy, cho đến trưa, tình hình Cần Thơ cũng như 16 tỉnh miền Tây vẫn yên tĩnh. Các tiểu khu vẫn còn liên lạc tốt với Bộ Tư Lệnh Quân đoàn.
13g, tôi trở vào Bộ Tư Lệnh, cách tư dinh Chuẩn tướng Hưng chừng 300 mét. Tôi thấy chiếc Falcon đen đưa bà Chuẩn tướng cùng hai con rời cổng dinh. Khuôn viên Bộ Tư Lệnh vắng ngắt đến nghẹt thở. Chuẩn tướng đứng nơi hiên tiền đình, nhìn mông lung ra khoảng sân phía trước. Tôi đứng bên trái ông, cách vài bước hơi chếch phía sau, hướng tầm mắt theo ông. Mới vào mùa hè mà cảnh vật như đã thu đông. Trời chiều ảm đạm, thê lương, từng mảng mưa bụi lạnh lẽo thả xuống tàng phượng vĩ nở đỏ ối giữa sân. Chuẩn tướng bất động. Tất cả mang đến cho tôi một cảm giác u buồn, tan tác. Bất chợt, ông quay lại hỏi tôi:
– Cô (bà phu
nhân Chuẩn tướng) đi đâu?
– Thưa, cô đến nhà thờ xin rửa tội.
Thật sự mấy ngày nay tôi thấy có chuyện hơi lạ trong dinh. Tình hình nguy ngập như vậy mà người thợ may riêng không ngớt giải quyết mớ vải vóc mới tinh cho bà Chuẩn tướng cùng thân quyến. Bây giờ bà và các con lại đi lễ. Tôi không thể ngờ được rằng ông bà Chuẩn tướng đã âm thầm bàn bạc chuẩn bị cái chết cho toàn bộ gia đình và bà Chuẩn tướng cũng dọn mình bằng cung cách riêng của bà. Bà muốn khi từ giã cõi đời sẽ cùng con cái được đón nhận là con chiên của Chúa và bước vào áo quan trong bộ đồ mới tinh trong trắng. Vào buổi sáng ngay sau thông điệp của Tổng thống Minh, bà Chuẩn tướng gọi điện thoại sang văn phòng tôi, bảo tìm càng nhiều càng tốt thuốc Valium 5mg…
Đèn phòng vừa bật sáng, tôi giật mình ngó qua khung cửa sổ. Bóng tối đã nhợt nhờ ngoài sân. Phía cuối phòng, bà Chuẩn tướng và gia đình đã ngồi vào bàn ăn. Một người lính phục dịch đặt trên bàn Chuẩn tướng dĩa, muỗng và hai quả trứng gà ngâm trong ly nước sôi. Đó là buổi ăn tối của ông hôm nay. Đang miên man, tôi giựt mình khi điện thoại reo. Nhấc ống nghe, tôi vội chuyển cho Chuẩn tướng khi nhận ra giọng trầm trầm của Thiếu tướng Tư lệnh (Nguyễn Khoa Nam) đầu bên kia. Buông ống điện thoại, Chuẩn tướng thừ người bất động. Lần đầu tiên, tôi nhận rõ nét mệt mỏi tuyệt vọng trên gương mặt ông…
Chuẩn tướng bảo tôi tập hợp toán lính gác để ông nói chuyện. Tiểu đội bảo vệ tư dinh Tư Lệnh Phó xếp thành hai hàng bên hông dinh chỗ khúc sân lối ra vào. Bằng giọng cảm động, chân tình, Chuẩn tướng cám ơn họ vẫn ở bên ông đến giờ phút này và bảo anh em ai muốn rời dinh cứ tùy ý… 10 phút sau Chuẩn tướng gọi tôi lên lầu. Tại đây, tôi thấy ngoài tôi và Thiếu tá Phương, còn hiện diện đông đủ binh sĩ từng phục dịch Chuẩn tướng và gia đình. Chuẩn tướng đứng nơi phòng ngủ, hai cánh tay ghì chặt đứa con gái ba tuổi để đầu cháu tựa vào má ông. Bà Chuẩn tướng đứng cạnh bên. Hai bàn tay măng non cháu bé hồn nhiên lùa trên tóc cha, làm lòa xòa vài lọn tóc rối trên trán Chuẩn tướng. Bức tranh bi thảm ấy khiến lòng tôi ngậm ngùi tê cứng. Bằng giọng tha thiết ân cần, Chuẩn tướng gởi lại bà cùng hai con cho chúng tôi. Ông quả quyết từ giờ cho đến sáng sẽ không có gì xảy ra, bảo chúng tôi cố gắng hộ tống bà Chuẩn tướng và hai đứa bé về Sài Gòn rạng sáng ngày mai 1-5. Trước đó, ông đã thuyết phục bà phải sống để nuôi con chứ không thể giết con bằng ý định tự sát cả gia đình như ban đầu.
Bất ngờ, ông quát bảo tất cả trở xuống dưới lầu, chỉ còn mình tôi và bà Chuẩn tướng. Lúc đó khoảng 8g30 tối 30-4. Bên trong phòng ngủ, khi nụ hôn vĩnh biệt của bà Chuẩn tướng vừa kịp đặt lên má chồng, ông vội đẩy bà ra phía ngoài và đóng nhanh cánh cửa. Lúc quay lại, còn thấy tôi trong phòng, ông thảng thốt: “Nghĩa! Mày đi ra!”. Vừa nói ông vừa nắm tay tôi lôi về phía cửa. Tôi bệu bạo: “Cho tôi ở lại cùng Chuẩn tướng…”.
Sự dứt khoát của nghiêm lệnh hàng ngày trong giây phút xúc động mãnh liệt làm giọng Chuẩn tướng lạc đi. Ông cố đẩy tôi ra cửa. Sự va chạm ngắn ngủi đầy bi thương ấy khiến tôi có cảm giác như thỏi nam châm đang cố rút khỏi thanh sắt. Ôi! Cái chết hoàn toàn được sắp đặt trước, lần đầu tiên trong đời tôi mới chứng kiến. Tôi chợt bật khóc và cùng bà Chuẩn tướng quỳ xuống trên nền cửa bên ngoài. Bên tai còn vọng nghe tiếng rít khô khốc của tiếng then cài. Mọi sự diễn ra không đầy một phút sau. Tiếng nổ chát chúa vang lên sau cánh cửa. Tôi hoảng hốt bật dậy và kêu lớn khi thấy ba bốn cái đầu đang nhớn nhác nhìn lên từ dưới chân cầu thang: “Con dao, lấy con dao cạy cửa mau!…”.
Người tài xế tên Giêng cầm con dao to nhọn vội vàng chạy lên. Mọi người ùa vào phòng. Tôi bàng hoàng khóc ngất. Tất cả cũng khóc và chạy đến chỗ giường ngủ của Chuẩn tướng. Ông nằm ngửa trên tấm nệm drap trắng, hai cánh tay buông ngang, khuy cổ và ngực áo bung ra, máu tươi nhuộm thắm ngực trái chiếc thun trắng bên trong. Có lẽ Chuẩn tướng đã ngồi ở thành giường, một tay cởi hai khuy áo trên, tay kia đưa nòng khẩu Colt 45 ấn vào tim…
Tôi còn nhớ lúc ông đảm nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 21, một buổi chiều sau giờ nghỉ việc, tôi theo ông thả bộ và dừng lại nơi nhà nghỉ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh. Không biết đang nghĩ gì, ông cười cười quay lại nói với tôi: “Mày còn nhớ không, lúc ở Trung đoàn, tuy ở bất kỳ vùng hành quân nào, trước khi đi ngủ, Đồng hoặc mày đều gọi về Chương Thiện để tao nói chuyện với cô (bà phu nhân Chuẩn tướng). Ở mặt trận An Lộc cũng vậy, tối nào tao cũng gọi về Lai Khê nói chuyện với cổ”. Chuẩn tướng nói thêm: “Lúc đó (nếu An Lộc thất thủ), tao chợt nghĩ nếu tao bắn vào đầu chắc cô mày không dám nhìn mặt, nên tao đã quyết ý có gì thì sẽ bắn vào tim”.
Viên đạn oan nghiệt đã xuyên chính xác qua tim. Đứa con trai đầu lòng Lê Uy Hải khi đó vừa tròn sáu tuổi nhặt đầu đạn đưa mọi người xem, rồi mím môi, khép năm ngón tay giữ chặt. Nhìn cử chỉ ấy, tôi nghĩ tuổi thơ ngây dại của cháu đã trôi qua mất kể từ buổi tối hôm ấy rồi. Trước đó một tiếng, một anh trai và một em gái ba tuổi còn đùa giỡn trên tấm nệm cao su đặt dưới nền gạch cạnh phòng cha, hai đứa bé không hề hay biết lát nữa đây vành khăn tang trắng sẽ phủ lên tuổi ấu thơ hồn nhiên của chúng… Với tôi, âm hưởng Tướng Hưng vẫn vang vọng lại hồn tôi rõ ràng từng lời, nhức nhối như từng vết dao đâm: “Nghĩa, tùy mày. Tao đã quyết định cuộc đời của tao! Chuẩn tướng, Thiếu tá hay Trung úy không là gì cả, cái quan trọng là có sống nhục được hay không!”
Trung úy Huỳnh Quang Nghĩa cho tôi biết thêm, đám tang Tướng Hưng được tổ chức theo nghi lễ quân đội VNCH, và sáng ngày 1-5, ông được mang về mảnh đất quê nhà Cái Răng để chôn vội. Đó là mảnh đất chứ không phải khu nhà riêng của Tướng Hưng và là tài sản còn lại duy nhất của Tướng Hưng. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp hiển hách kể từ khi gia nhập quân lực VNCH năm 1954 đến khi chết, Tướng Hưng chưa từng có căn nhà riêng nào. Sau 1975, mảnh đất có mộ Tướng Hưng rơi vào tay một thiếu tá “thắng trận”. Khoảng trước năm 2000, ngôi mộ bị sụp lún, gia đình Tướng Hưng được báo cho biết. Bà Hưng từ Mỹ âm thầm về cải táng và mang tro cốt chồng theo.
Tôi cũng gặp cô con gái của Tướng Hưng, chị Lê Ánh Tuyết, con của người vợ đầu (bà Nguyễn Xuân Mai). Chị Tuyết (sinh năm 1954) hiện tá túc nghèo khổ cùng bà mẹ già 85 tuổi trong một căn nhà ở Gò Vấp mà chủ nhà không lấy tiền thuê. Cụ bà đã lẫn, không còn biết và nhớ gì. Do mẹ chị Tuyết và Tướng Hưng sớm ly dị nên ký ức chị Tuyết về cha mình không nhiều, chỉ nhớ rằng cha luôn chu cấp đều đặn cho mẹ con chị.
Quanh câu chuyện Tướng Hưng, Trung úy Huỳnh Quang Nghĩa có nhờ tôi cải chính giùm ông một ngộ nhận nhỏ. Khi chết, trong mình Tướng Hưng có hai chiếc quẹt Zippo. Một chiếc được bà Hưng lấy làm kỷ vật; chiếc kia do ông Nghĩa giữ. Năm 1998, ông Nghĩa tặng cái Zippo ấy cho ông anh rể thứ ba được bảo lãnh đi Pháp. Ông Nghĩa còn giữ thêm cái gạt tàn. Đó là cái gạt tàn của Sư đoàn 21 do Tiểu đoàn 21 tiếp vận làm từ vỏ đạn 115 ly, có đính phù hiệu Quân đoàn IV và phù hiệu Sư đoàn 21, để trên bàn làm việc của Tướng Hưng. Khi ông Nghĩa đi “học tập cải tạo”, cha của ông, vì sợ, nên đục bỏ hai miếng đồng phù hiệu Quân đoàn IV và Sư đoàn 21. Khoảng năm 1998 hoặc 1999, khi ông anh rể thứ tư từ Mỹ về thăm, ông Nghĩa lại tặng di vật ấy. Trở về Mỹ, bác này trao cái gạt tàn cho một viện bảo tàng Quân lực VNCH ở California, nhưng không rõ vì lý do gì, cái gạt tàn lại được ghi là di vật của Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Mạnh
Kim
25-4-2016 (tức 19-3 Âm lịch, ngày giỗ Chuẩn tướng Lê Văn Hưng)
Nguồn:
https://www.facebook.com/nguyen.manhkim/posts/10154432499959796
Tết Mậu Thân là một hành động dã man, diệt chủng mà Việt Cộng đã để lại trong lòng mọi người dân, nhất là thân nhân của những người đã bị Cộng Sản thảm sát, chôn trong những nấm mồ tập thể, bắt đi mất tích hoặc thủ tiêu ở đâu đó không tìm được xác, điển hình là tại TP Huế và tỉnh Quảng Trị cũng như khắp nơi trên toàn miền Nam VN (tức lãnh thổ VNCH trước đây) là một nỗi kinh hoàng, một niềm uất hận nghẹn ngào, một món nợ mà con cháu phải đòi kẻ sát nhân phải trả bằng máu! Đã 40 năm qua (1968-2008), nhưng phía Cộng Sản không tỏ ra có một chút hối hận, không một lời xin lỗi trái lại chúng còn tổ chức kỷ niệm chiến thắng Mậu Thân. Một cuộc chiến thắng giữa những người có súng với người tay không, giữa một võ sĩ hạng nặng với một em bé trên võ đài!? Những người vô tội trong đó có các nhà tu hành, sinh viên, học sinh, những người buôn bán và cả những công chức nghỉ phép ở nhà ăn Tết với vợ con. Họ đã chấp hành nghiêm chỉnh chính sách 12 điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tự động trình diện học tập tại địa phương rồi họ bị đem đi thủ tiêu, chôn sống, giết tập thể hoặc mất tích không biết bị vứt xác nơi nào? Như thế mà gọi là chiến thắng được hay sao? Thật là mỉa mai. Chúng ta nhắc nhở cho mọi người “đừng quên Tết Mậu Thân”, nhắc nhở cho các thế hệ sau này đừng bao giờ tái diễn những hành động diệt chủng, dã man, tàn bạo như thế (không có một lý lẽ nào có thể giải thích, bênh vực, biện hộ cho hành động dã man của Cộng Sản trong Tết Mậu Thân..
Tình hình Huế và Thừa Thiên trước Tết Mậu Thân 1968
Mấy tháng trước Tết Mậu Thân, tình hình ở tỉnh Thừa Thiên có vẻ sôi động. Trong thời gian vận động bầu cử Dân Biểu hạ Nghị Viện nhiệm kỳ 1967-1971, tháng 9 và tháng 10, 1967, tôi đã đi nhiều nơi trong tỉnh, qua khắp các quận, tiếp xúc với nhiều anh em nhờ vận động đồng bào ủng hộ cho tôi trong cuộc bầu cử. Nhờ vậy, tôi mới có dịp tìm hiểu về tình hình quân sự ở đây. Tôi nghe anh em nhắc đến một số tên Việt Cộng xuất hiện ở vùng này, vùng khác.
Tôi có đem chuyện đó nói lại với một số Quận Trưởng tôi quen và nhất là thảo luận với hai ông Nguyễn Minh Truật (phụ trách An Ninh Quân Đội tại Khu 11 Chiến Thuật ở Huế) và ông Đoàn Công Lập (Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên). Căn cứ vào sự xuất hiện của một số cán bộ, bộ đội VC, các cơ quan chuyên môn về an ninh tình báo có thể biết tên các đơn vị VC xuất hiện.
Tại quận Phú Lộc, phía Nam tỉnh Thừa Thiên, Việt Cộng xuất hiện quấy phá nhiều nơi, thỉnh thoảng pháo kích vào các đồn, căn cứ của quân đội VNCH trogn quận, đánh các trụ sở xã,v.v Sư Đoàn 1 Bộ Binh do Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy đã điều động chiến đoàn Dù của Thiếu tá Đào Văn Hùng mở cuộc hành quân trong vùng Phú Lộc nhưng vì Việt Cộng khéo dấu quân nên không phát hiện được gì. Trong lúc đó, tin tình báo cho biết khu rừng thuộc quận Hương Trà (bắc Thừa Thiên) xuất hiện nhiều điện đài. Sư Đoàn 1 cũng cho hành quân vùng sông Bồ, nhưng cũng không có đụng độ. Tuy nhiên trong các cuộc hành quân trong vùng này quân đội ta đã bắt được một số súng ống và dụng cụ giải phẫu chôn giấu của Việt Cộng. Những dụng cụ này hoàn toàn mới.
Ngoài ra còn bắt được những mô hình để nghiên cứu hành quân trong đó VC đã phác họa địa thế gồm thành luỹ, hào sâu và chuẩn bị thang leo vô thành. Các dụng cụ y khoa đó, theo nhận xét của bên quân y thì có thể phục vụ cho cấp quân đoàn. Do những dữ kiện đó, nhiều người nghĩ rằng Việt Cộng có thể đánh Huế. Nhưng Tứơng Ngô Quang Trưởng thì nhận định rằng VC có thể đánh quận Hương Trà hoặc đánh vào một vị trí quân sự nào đó thuộc bắc Thừa Thiên. Tường Trưởng không ứơc tính rằng VC có thể đánh Huế.
Trước Tết Mậu Thân Sư Đoàn 101 của Hoa Kỳ hành quân bắt được một chuẩn úy VC, y khai đang thực tập đánh Huế. Tin Phòng Nhì và An Ninh Quân Đội cũng cho biết VC có thể đánh Huế. Hai ngày trứơc Tết, Trưởng Ty Cảnh sát Thừa Thiên là Đoàn Công Lập báo cáo có đặc công VC xâm nhập vào thành phố trong dịp Tết.
Khi bày tỏ sự lo lắng của cá nhân tôi và một số người rằng VC có thể đánh Huế vào dịp Tết Mậu Thân, Trung Tứơng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh vùng I Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Huế (trứơc Tết Mậu Thân một hôm) đã cho tôi biết Quân Đoàn có tăng cường phòng thủ Huế hai đơn vị lính nhảy dù thiện chiến. Hai đơn vị này đã được Tướng Ngô Quang Trưởng bố trí ở quận Quảng Điền cách Huế 15 cây số về phía Bắc và phía Nam phi trường Phù Bài cách Huế 17 cây số. Do đó, khi VC tấn công vào thị xã Huế thì hai dơn vị này đều ở ngoài thành phố.
Khoảng 20 tháng 12 năm 1967, trước lễ Giáng Sinh mấy hôm, VC đã tấn công vào xã Thủy Phước (làng Công Giáo Phủ Cam) thuộc quận Hương Thuỷ bên cạnh Thành phố Huế. Chúng xâm nhập từ nghĩa địa phía sau núi Ngự Bình và phía Tây tới (lầu Jérard). Chúng bắn B.40 vào làm một số người chết và bị thương, một số nhà dân bị cháy. Trước đó, vào mùa Xuân 1966, khi có cuộc tranh đấu của Phật Giáo chống “chính phủ Thiệu-Kỳ” xảy ra ở Huế (danh từ này do nhóm tranh đấu thường dùng) thì có một lực lượng không rõ quân số bao nhiêu, vào buổi trưa, đã bắn vào Phủ Cam cũng từ hướng này. Nhân lễ Giáng Sinh năm 1967, lúc đó tôi là dân Biểu Hạ Nghị Viện, trở về Huế tham dự với sinh viên. Tôi đã đến Phủ Cam nghiên cứu tình hình và thăm các gia đình nạn nhân. Sau đó tôi đã gửi văn thư xin Trung tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên trang bị cho nghĩa quân xã Thuỷ Phứơc (Phủ Cam) các loại súng lớn như đại liên, súng cối, M 79, M 72 để có hỏa lực mạnh. Tôi đã trình bày với ông Tỉnh Trưởng rằng Phủ cam rất quan trọng vì nếu VC có đánh vào Huế thì đó là một trong những con đường xâm nhập của họ từ hướng núi xuống. Nhưng ông Tỉnh Trưởng quá bận rộn với tình hình quân sự, chính trị lúc đó nên không đáp ứng đề nghị của tôi. Khi có ai đề cập đến vấn đề VC sẽ đánh Huế thì ông Tỉnh Trưởng thường cười và tỏ ra tin tưởng rằng không thể có chuyện đó được. Khi tôi nói chuyện đó với Tướng Ngô Quang Trưởng, ông trả lời rằng ông có đủ lực lượng phòng vệ và đã được Quân Đoàn tăng cường thêm hai đơn vị lính nhảy dù rồi.
Thăm Thượng Tọa Thích Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ
Từ Toà Đại Biểu Chính Phủ trở ra, tôi được ông Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa cho mượn xe để đi thăm và chúc Tết Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh, ở tại chùa Thiên Mụ Huế. Sở dĩ có cuộc gặp gỡ này vào trước Tết Mậu Thân là vì trong chuyến bay từ Sài Gòn ra Huế trước Tết, tôi cùng đi với anh Nguyễn Văn Kim và anh Kim ngồi bên cạnh TT Thích Đôn Hậu trên máy bay. Anh Kim cho tôi biết có TT Thích Đôn Hậu nên tôi đã đổi chỗ cho anh Kim để ngồi nói chuyện với Thượng Tọa từ Sài Gòn ra Huế gần 3 tiếng đồng hồ. Sau đó, Thượng Tọa mời tôi đến thăm chùa vào dịp tất niên. Tôi là người thích nghiên cứu về văn hoá lịch sử nên những cơ hội may được tiếp xúc với các vị cao tăng như Thượng Tọa là điều tôi rất lấy làm vinh hạnh.
Việt Cộng tấn công Quảng Trị tối 30 Tết
Rời chùa Thiên Mụ, tôi trở về nhà thu xếp đồ đạc và cùng người cháu đi Quảng Trị thăm bà mẹ của tôi hiện còn sống ở quê nhà, cách tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 12 cây số, thuộc xã Triệu Thuận, quận Triệu Phong. Chúng tôi di chuyển bằng xe 2 bánh hiệu Suzuki của Nhật. Trước khi ra khỏi nhà, tôi đã cất hết giấy tờ, chỉ mang trong người thẻ sinh viên của Đại Học Sài Gòn mà thôi. Tôi thường làm như vậy đề phòng có chuyện bất trắc giữa đường. Tôi không bao giờ mang theo thẻ Dân Biểu khi đi về miền quê. Ý nghĩ VC sẽ tấn công vào dịp Tết cứ đeo đuổi tôi mãi trên đường đi. Tôi thật không yên tâm về tình hình và cảm thấy như ở đâu cũng có VC đang trà trộn trong dân chúng hay được che chở trong các gia đình trước đây theo phe tranh đấu chống chính quyền quốc gia. Tôi nghĩ rằng VC sẽ rất thuận lợi khi móc nối được những thành phần này.
Ra tới Quảng Trị, tôi ghé vào thăm ông Hoàng Xuân Tửu, cựu Tỉnh Trưởng và hiện là Nghị Sĩ, Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện. Ông Tửu là một người hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị, đã từng tổ chức chiến khu và có biệt tài về quân sự và tổ chức tình báo nhân dân. Ông cho tôi biết, trong vòng một tuần nay, ông nhận được nhiều tin tức của các anh em cơ sở Đại Việt Cách Mạng tại tỉnh Quảng Trị cho biết có sự xuất hiện của nhiều đơn vị VC ở trong tỉnh và ước đoán hướng tiếân quân của chúng là thị xã Quảng trị. Từ 1966, sau khi ông Tửu thôi làm Tỉnh Trưởng Quảng Trị để vào Sài Gòn thì đã mấy lần VC tấn công vào thị xã, phá nhà lao giải vây cho đồng bọn. Do đó, việc ước tính VC có thể tấn công vào thị xã trong dịp Tết không phải là chuyện vô lý. Ông Hoàng Xuân Tửu cũng cho biết ngay lúc đó, ông sẽ đi gặp Đại Tá Nguyễn Ấm, đương kim Tỉnh Trưởng Quảng Trị để thảo luận kế hoạch phòng thủ thị xã.
Chính quyền ra lệnh cấm trại 100% vào đêm giao thừa và bố trí các góc đường phố, các cao ốc đều có cảnh sát trang bị súng tiểu liên và lựu đạn. Những vị trí quân sự thường ngày đều thay đổi, cho binh sĩ dời địa điểm khỏi chỗ cũ và mai phục ở chỗ khác sẵn sàng chờ địch đến.
Ngày 3 Tết, từ Quảng Trị, tôi vào Đà Nẵng gặp Tướng Lãm
Tôi được ông Tỉnh Trưởng cho biết có công điện của Quốc Hội yêu cầu Quân Đoàn I và tỉnh liên lạc mời các Dân Biểu về họp khẩn cấp.
Tôi liền đi ra phi trường Ái Tử cùng Nghị Sĩ Hoàng Xuân Tửu, Dân Biểu Nguyễn Văn Triển, Dân Biểu Trương Đình Tư. Chúng tôi lên máy bay Mỹ vào Đà Nẵng gặp Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Ngày mùng Hai, Tết Mậu Thân, từ Quảng Trị, chúng tôi đã nói chuyện với Trung Tướng Lãm qua điện thoại, được biết VC đã chiếm Huế, Quân Đoàn chỉ liên lạc được với Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, không có tin tức về Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, có lẽ ông đã bị VC bắt hay đang trốn tránh.
Máy bay cất cánh từ phi trường Ái Tử, thời tiết rất xấu, không nhìn thấy gì ở dứơi mặt đất. Đến Đà Nẵng, ở lại một đêm tại nhà Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, tôi và ông Hoàng Xuân Tửu được Trung Tướng Lãm cho biết tình hình hành quân, những đơn vị còn chiến đấu chưa bị chiếm. Qua điện đài của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, tôi nghe tiếng của Tướng Trưởng xin rút khỏi Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá (Thành Nội, Huế). Nhưng Trung Tướng Lãm trả lời:“Anh cứ ở đó, chờ đợi tôi giải tỏa, sau lưng anh có thằng Đệ (Thiếu Tá Nguyễn Hữu Đệ, Quận Trưởng Hương Trà) và phía bao Vinh có Hải Quân Mỹ, ở Quảng Trị quân ta chiến thắng, sẽ có tiếp viện vào, quân Mỹ ở Phù Bài và quân đội Việt Nam ở Hương Thuỷ, Phú Lộc đang tiến chiếm phía Nam thành phố Huế Ở Đà Nẵng, chúng tôi đánh bật tụi nó ra rồi. Quân ta làm chủ tình hình ” (các chứng nhân hiện còn sống chỉ trừ ông Hoàng Xuân Tửu đã chết trong trại tù năm 1989 mà thôi).
Vinh danh & tưởng nhớ cố Đại tá Nguyễn Hữu Đệ
(Được ghi nhận mất tích 4/1975)
"Củi ông Đạo / gạo ông Đệ"
Tại Đà Nẵng, tôi được ông Đỗ Duy Huỳnh, Trưởng Ty Thông Tin hướng dẫn đến đài Truyề hình của quân đội Mỹ ở núi Sơn Chà để trực tiếp kêu gọi đồng bào tổ chức cứu trợ cho Huế. Lúc đó, tôi được tin đồng bào đang chạy về khu nhà thờ Phù Lương gần Phù Bài lên đến 50.000 người. Tôi cũng được ông Võ Lương, Giám Đốc Cảnh Sát Vùng I ở Đà Nẵng dùng máy liên lạc cho tôi nói chuyện với ông Đoàn Công Lập, Trưởng Ty Cảnh Sát Huế để hỏi thăm tin tức, tình hình ở Huế. Qua đó, tôi biết được một số bạn bè ở Huế còn sống hay đã bị bắt, bị giết.
Ngày hôm sau, chúng tôi lại lên máy bay đi Nha Trang vì phải đón các Dân Biểu ở đó. Tại Nha Trang cũng vừa xảy ra một cuộc giao tranh trong thành phố và quân ta cũng đã đánh bật địch quân ra khỏi thành phố ngay trong vòng một hai hôm. Chúng tôi cũng được tin ở Quảng Ngãi, VC bị thảm bại và tổn thất rất nặng. Các nơi đều báo tin chiến thắng, chỉ có Huế là trầm trọng nhất.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đã chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ CSVN lập ra.
Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc chống Cộng sản xâm lược của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào, Cambodia là đúng. Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm 1968, rồi quay về đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy, sau lên Đại úy rồi trở lại đó hai lần làm việc tại một bộ phận của toà Đại sứ tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt.
Tôi có cơ hội được đi tới nhiều địa phận tại Việt nam, khoảng 44 tỉnh thành, có chỗ chỉ đi ngang qua. Tôi được qua Lào, Cambodia. Sau khi giải ngũ tôi gia nhập Hoover Institution, tôi đã viết cuốn sử quan trọng đầu tiên về “CSVN” (Anh ngữ). Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam. Vì thời giờ có hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bải thuyết trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo, nhất là với các khán thính giả trẻ tuổi. Rằng đa số lập luận “sáng suốt phổ biến” của người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại gần với thần thoại hơn là lịch sử. Tôi chi xin đơn cử hai thí dụ quan trọng:
1- Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là “bất khả thắng”. Chúng ta đứng sai chỗ. Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào đầu thập niên 1970.
(Và khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ cùng với người dân miền Nam).
2- Chuyện gì đã xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có thể thắng. Tôi xin đưa câu nói của người bạn thân Douglas Pike: ông Douglas Pike đã chết, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, ông Pike nói rằng: Tôi tin rằng chúng tôi có thể đã thắng cuộc chiến Việt Nam. Tôi tin rằng trong tương lai lịch sử sẽ nói rằng chúng ta đã thắng. Đó là sự thật! Một số thí dụ sau đây sẽ chứng minh.
Có một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Gs John Lewis Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians nói rằng: Các sử gia hiện tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc chiến quân sự. Nhưng lại thua cuộc phản chiến tâm lý tại Mỹ. Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời, Hà Nội vội vã trở lại đàm phán Paris. Và mọi chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.
Nhưng quốc hội với áp lực của “Phong trào phản chiến” đã thông qua dự luật vào tháng 5-1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện, nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố rằng “Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng vũ khí trị giá vô số triệu đô la”. Đó là sự thật. Việt Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà họ không biết là, Việt Nam không có đạn, không có xăng. không có phụ tùng thay thế. Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe.
Ngay sau khi di tản từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị Viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy khi trở về Mỹ. Ông ấy đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự nhủ: “mình phải cho nó biết tay, phải đấm gục hắn ta và nói cho thế giới biết rằng chúng tôi vừa mới phản bội chính danh dự của mình và bỏ rơi những người đáng yêu VNCH” Nhưng tôi đã tự kìm chế bản thân mình vì làm vậy sẽ ảnh hưởng đến cương vị Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành người hùng. Không phải là việc làm đúng đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là mình đã bỏ rơi cơ hội ấy.
Sau khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam, Trung cộng gia tăng viện trợ cho Hà Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được cho kẹo tụi nó cũng không dám quay lại”. Đó là lý do của sự thất bại tại chiến trường Việt Nam. Quân nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị bại trận, mà thua vì cái gọi là “tự do” của Quốc hội Hoa Kỳ.
Điềm thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất quan trọng. Họ cho rằng Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến “phi lý” tiến hành không lý do chính đáng, do hiểu lầm về vụ đụng độ không đáng kể ở Vịnh Bắc Bộ. Thật sự là ngớ ngẩn.
Tôi đã viết 450 trang trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1976. Tôi đã ghi lại vào tháng 3 năm 1975 rằng CSVN đã quyết định từ Tháng 5-1959 mở ra đường mòn Hổ Chí Minh và gửi vào Nam hàng ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam. Đây là hành động xâm lược quốc tế và vi phạm Hiên chương Liên hiệp quốc. Hoa Kỳ tham chiền để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly, nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Trong cuốn sách “CSVN” xuất bản 1975, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó từ 19-5-1959 ngay ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. 10 năm trước, chúng tôi đã thảo luận tại Đại học LuậtVirginia về vấn đề hợp pháp này. Luật quốc tế và Hiến chương Liên hiệp. Không thể thảo luận nối vì Hà Nội lập luận rằng đó là nội chiến trong miền Nam VN v.v... hãy bỏ qua 1 số điểm vì thời gian có hạn.
Tôi nêu lên hậu quả của việc bỏ rơi VN.
Tôi có thể nói hoài về việc người Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tôi là người đứng ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không giúp đỡ Angola vì sự xâm lăng của Xô Viết. Kết quả nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là không dưới trăm ngàn người. Đến việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết. Sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút lui.
Và lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu, La Tinh rằng tiến hành “đấu tranh võ trang” để cướp chính quyền là hợp lý, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador, Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô số người thiệt mạng vì chuyện đó. Một số lớn súng M16 tịch thu được từ quân phiến loạn El Salvador, căn cứ theo số xê ri là súng của quân đội Mỹ bỏ lại tại chiến trường VN. Hà Nội đã cung cấp cho Xô Viết qua đường Cuba rồi đưa lậu qua El Salvador.
Đối với những người nói chiến tranh VN là phi lý. Họ đã sai. Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là địa dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả quyết định của Hoa Kỳ đối với con người.
“Phong trào của phe phản chiến – đã trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt chiến tranh thì mình sẽ phát huy “nhân quyền” và “hạn chế nạn tàn sát”. Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại khu “Little Sàigon” có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì mà mọi “học giả” Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ ràng.
Trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi chiếm được Miền Nam,TBT Lê Duẩn đã tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng”, chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times tại Luân Đôn đã báo cáo sự thật: CSVN đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù vì họ có quá nhiều tù nhân.
Điều 11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên này hay bên kia”, và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà
Tháng 5 năm 1977, tờ QDND công khai thông báo “triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào XHCN”. Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng”.
Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội VNCH được phép tham gia cái gọi là “Quốc hội Thống nhất” đã tuyên bố: Chế độ CS cai trị bằng bạo lực và khủng bố. Không có tự do di chuyển hay lập hội; không có tự do báo chí, tự do tôn giáo hay... cả quyền tự do có ý kiến riêng... Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi”
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ
Tháng 9 năm 1970, Trưởng phòng Sài Gòn của tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của tôi vào thời ấy - có viết một bài dài về “quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông viết: “Dưới bộ luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại mất tự do nhất Đông Nam Á...”.
Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tự do ấy, tôi thường cầm máy ảnh lang thang trong Sài Gòn vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ.
Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như “Chiến tranh Nhân dân và QĐND” của Tướng VC Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các cuốn sách về Mao Trạch Đông. Sau ngày gọi là “giải phóng”, người Cộng sản chiếm đóng đã “tạm thời” đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng trữ các văn hoá phẩm xuất hiện “dưới chế độ cũ!” đều bị cấm.
TÙ CHÍNH TRỊ
Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam thường nêu ra, là cái gọi là “chế độ phát xít” tại miền Nam đã giam giữ hơn 200 ngàn “tù chính trị”. Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào – tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên.
Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của “lực lượng thứ ba” nhưng có lẽ ông là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông là tìm đâu ra con số “202 ngàn tù nhân chính trị?” Ông ta bảo rằng mình đã hỏi các tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân.
(Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số dự đoán của các câu trả lời). Sự thật thì thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.
Tôi cũng gặp một lãnh tụ khác của “lực lượng thứ ba” là bà Ngô BáThành, người nói rằng định nghĩa của bà về “tù nhân chính trị” có thể gồm cả người như Sirhan. Sirhan, là tay cán bộ người Palestine đã ám sát nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng 6 năm 1968. Mục đích của hắn, bà Ngô Bá Thành giải thích là, “chính trị” khi hắn ám sát một ứng cử viên Tổng thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Rồi còn vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả như sau: ,”… xà lim chôn âm dưới mặt đất với các đống sắt, đồng trên trần thay vì ở dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được …” .”… những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt.”
- “[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người”
Thật ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những chuồng cọp này. Tôi nghĩ rằng tôi hơi cao hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.
Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân - hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn gì đề duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi lả “chuồng cọp”.
Ít nhất, một số cán bộ VC đã từng cáo giác VNCH chuyện “chuồng cọp” biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn để tự mình xem tận mắt và anh ta có vẻ khó chịu – có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hòa ở Sài Gòn.
Vì vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hòa và chưa đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây không là nơi mà mình thích sống nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ biến. Tôi nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy “tiếng gào thét trong đêm vắng” hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân của VNCH.
NGĂN CHẬN TÀN SÁT khi Cộng sản nắm quyền
Bi thảm nhất của những người chống VNCH là lý luận của họ, rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được nạn tàn sát”. Họ sai lầm tới chừng nào. Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hòa Bình) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được “giải phóng” lên tới 643 ngàn.
- Khoảng 100 ngàn bị xừ tử qua quít ngay sau khi Cộng sản chiếm được miền Nam. Qua quít là vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về “tiến trình hợp pháp” hay một toà án.
- Giáo sư Rummel cho rằng 400 ngàn “thuyền nhân” bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ CSVN độc tài và đàn áp đã trùm lên quê hương. Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển - một số là vì tầu quá đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát. Nhiều người tử nạn sau khi bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ số “chết một phần ba” cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự do. Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.
Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị một dấu mốc là “A Better War” - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của VNCH đã chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ CSVN lập ra.
- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đày vào các khu “Kinh Tế Mới” để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48.000 đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về “Trại Cải Tạo” và khu “Kinh Tế Mới” và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm tư liệu chứng minh cho lịch sử. (Phụ chú: Đấy là chưa kể có hàng chục ngàn thanh niên đã bị "nướng" với phong trào "Thanh niên xung Phong" đi làm công tác khai khẩn đất hoang và mặt trận Kampuchia)
CĂM BỐT Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa.
Khi TT Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 đề yểm trợ các đơn vị VNCH, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ biểu tình “phi pháp”.
Thật ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành viên của Nghị định thư” - Protocole States - đã được cam kết bảo vệ chống Cộng sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954.
Mười năm sau, và với tỷ lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép TT Johnson tham chiến tại Đông Dương. quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu “Protocole States” của hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization).
Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết về Khmer Đỏ. Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng nỗi với đồng bào Khmer của họ thật ra chẳng còn là bí mật. Và dĩ nhiên, khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong những mục tiêu chính của tôi là đễ cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt.
Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là đã chết. Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho là có hơn hai triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi mà Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20% dân số toàn quốc.
Một bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm Bốt trên tạp chí Nattonal Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này: “Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý để dùng cho việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thật đắc dụng hơn. Còn về trẻ em thì bọn đồ tể chỉ đơn giản dọng chúng vào thân cây”.
Ông Douglas Pike, người mà tôi hoán đỗi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của các nước không cộng sản ở Đông Dương: “Dù có ước lượng dè dặt nhất, có nhiều thường dân Đông Dương bi tàn sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu... Nỗi khổ đau lên tới mức tột đỉnh chưa từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày chinh chiến”.
Thật bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin rằng cộng đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nếu như ta muốn tìm đến họ và ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng ai có tâm trí để làm, nhưng là điều mà những ai muốn truy tìm sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này - một cách chính xác và cẩn trọng – để người khác sẽ biết rất lâu về sau, khi các nhân chứng cuối cùng không còn tại thế nữa.
Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện đó sẽ lại tái diễn.
Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản khống chế người dân Miền Nam và Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu gì về lịch sử hiện đại.
Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch, tôi xin đề nghị tìm tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là “The Black Book of Communism” - Cuốn thư Đen về Chủ nghĩa Cộng sản”. Do một nhóm trí thức Âu Châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho 80 đến 100 triệu sinh linh.
Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam mà không bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.
Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những người giận dữ về sự bội phản của nước Mỹ của tôi 35 năm về trước, xin cho tôi được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi. Tôi yêu quý Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu.
Nhưng khi đa số Quốc hội Hoa Kỳ phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược, họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản bội sự hy sinh xương máu của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975.
Chúng ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra. Nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần thoại sai lạc này mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội tín. Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ, cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện giành một chút thời gian để học hỏi trang sử này và chia sẻ với người khác. Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy sinh lớn lao của tấm thảm kịch bi đát này sẽ không bị lãng quên đáng tiếc.
Xin cảm tạ quý vị và cầu xin Thượng Đế phù hộ chúng ta.
Tác giả: Giáo sư Robert F. Turner
Trung tâm an ninh Luật Pháp Quốc Gia- Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ.
Nguồn: "vnchtoday.blogspot.com