Vũ Tiến Quang sinh ngày 30 thánh 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là Hạ Sĩ Ðịa Phương Quân Vũ Tiến Ðức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Ðức bị trúng đạn tử thương khi tuổi vừa mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với 2 con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang, 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Ðức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hòa có đăng bài: "Ngôi Sao Sa Trường, Thượng Sĩ Sữa: Trần Minh - Thiên Thần U Minh Hạ".
Bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường Minh về phục vụ tại Tiểu Ðoàn Ngạc Thần (tức Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 31, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh). Mà Tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nẩy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: "Mình phải như anh Minh".
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì ... nguy lắm! Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là Ðịa Phương Quân thì không được. Minh từ chối:
- Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Ðã không giúp bà Ðức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Ðức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3 Tiểu Khu Chương Thiện, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu Tá Lê Minh Ðảo, Tiểu Khu Trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Ðảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Ðức, xin Bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang. (Ghi chú: Thiếu Tá Lê Minh Ðảo hồi 1974 được thăng Thiếu Tướng, giữ chức Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Sau biến cố 1975, ông bị tù một thời gian dài. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1966, Thiếu Tá Ðảo giữ chức Giám Ðốc Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn 4 và Vùng 4 chiến thuật. Bấy giờ tôi có dịp thăm Cần Thơ, được ông tiếp tại căn nhà tranh nổi bên sông, rồi ông đánh đàn cho nghe. Tôi mắc nợ ông món nợ văn nghệ từ hồi đó đến giờ mà chưa trả được. Nếu tính cả lời, chồng chất lên, e không trả nổi).
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân mà không phải thi. Bà Ðức thân dẫn con đi Vũng Tầu trình diện. Ngày 2/9/1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhẩy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao cho đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh và học Anh Văn. Trong lớp, môn Anh Văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết Ðệ Lục mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói chuyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo Sư Việt Văn của Quang là Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:
"Nhân sinh tư cổ thùy vô tử,
Lưu thủy đan tâm chiếu hàn thanh."
(Người ta sinh ra, ai mà không chết. Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử.)
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, Thánh Tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Ðô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Báo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu đậm.
Suốt các niên học từ 1969 - 1974, mỗi kỳ hè được phép hai tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đành anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể chuyện chiến trường cho nghe. Một số ông anh uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một chuyện động trời, đến nỗi Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, Bộ Tư Lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu truyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Ðỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Ðược phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều... cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào các ông cũng dẫn Quang theo.
Trong một cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Ðơn vị Quang theo là Trung Ðội Trinh Sát của Trung Ðoàn 31. Trung Ðội Trưởng là một Thiếu Úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là Thiếu Úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung Ðội tiến vào trong làng thì lọt trận địa phục kích của Trung Ðoàn chủ lực miền, tên Trung Ðoàn U Minh. Trung Ðội bị một Tiểu Ðoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được 10 phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung Tâm Hành Quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nả vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường tại các quân trường Hoa Kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học những phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nả vào trận địch, nhiều rockets (hỏa tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới 7 viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có 4 vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không Quang đã ô hô ai tai rồi. Viên thứ bẩy trúng... chim. Viên đạn chỉ sớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung Tá J. F. Corter, Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn được Trung Ðội Trưởng Trinh Sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hummer chết lúc 11:15 giờ mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung Tá J. F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Ðúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì "Không có tư cách mà lại chỉ huy." Nhưng các vị sĩ quan trong Sư Ðoàn 21, Trung Ðoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường mang cấp bậc Trung Sĩ. Quang nộp đơn xin về Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về Tiểu Ðoàn Ngạc Thần, tức Tiểu Ðoàn 2, Trung Ðoàn 31, Tiểu Ðoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thật.
Trung Ðoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi) . Các cựu Thiếu Sinh Quân trong Tiểu Ðoàn 2 - 31 dẫn Quang đến trình diện Anh Hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau. Cẩn đuổi tất cả tùy tùng ra ngoài để anh em tự do xả xú bắp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
- Ê! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
- Dạ, đạn Việt Cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
- Móng tay tao, đâu phải vuốt?
- Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng... thì vuốt của anh phải sắc lắm!
- Hồi đó suýt chết, thế bi giờ mày ra trận có sợ không?
- Nếu khi ra trận, anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
- Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
- Dạ, anh Thời Thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu, uy quyền biết mấy, thế mà một Trung Sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào như không biết tới những người chung quanh. (Ghi chú: Thiếu Tá Thời, cựu Thiếu Sinh Quân, gốc người Huế, tính tình ôn nhu văn nhã, nhưng rất can đảm, hiện ông định cư tại Boston, Hoa Kỳ) .
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Ðợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm Tiểu Ðội Trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm Trung Ðội Phó ngay, dù hầu hết cả Tiểu Ðội Trưởng đều ở cấp Trung Sĩ, Trung Sĩ Nhất, mà những người này đều vui lòng tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng Trung Sĩ Nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Ðỏ. trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải Tiểu Ðoàn Tây Ðô. Ðây là một Tiểu Ðoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam... huấn luyện. Quang đã được Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
"Tây Ðô là Tiểu Ðoàn cơ động của tỉnh cần Thơ. Tiểu Ðoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp Ðại Ðội, Tiểu Ðoàn chúng không hơn các đơn vị khác là bao. Nhưng tác chiến cấp Trung Ðội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba Tiểu Ðội ra, chỉ Tiểu Ðội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai Tiểu Ðội hai bên xung phong. Nếu yếu thế thì chúng lui. Ta không biết đuổi theo thì sẽ dẵm phải mìn, rồi bị hai Tiểu Ðội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong thì dùng vũ khí cộng đồng nả vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mới phản công."
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả Ðại Ðội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút Ðại Ðội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, Thiếu Úy Trung Ðội Trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy Trung Ðội. Trung Ðội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Ðến đây thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
"Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả."
Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Ðại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ Trung Ðội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loat đạn, toàn bộ pòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
- Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu! bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong!
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ trên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Ðến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là Ðảng Bộ và Ủy Ban Nhân Dân của Huyện Châu Thành Cần Thơ. Trong đó có viên Huyện Ủy và viên Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Ðoàn Thị Ðiểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó là Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp Ðệ Ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Ðôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết chuyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý: Ðợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử...
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất. Quân Ðoàn 2 rút lui khỏi cao nguyên, rồi Quân Ðoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29 tháng 4, trung Ðội của Quang chỉ còn 10 người. Tiểu Ðoàn Trưởng, Ðại Ðội Trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Chương Thiện trình diện Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:
- Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội Miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ tẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sàigòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Ðúng lúc đó tại Chương Thiện, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các Quận Trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
"Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu."
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn, vì mất tinh thần. Chỉ còn lại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, có một Ðại Ðội Ðịa Phương Quân cùng nhân viên Bộ Tham Mưu. Ðến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làm sóng cộng quân tràn vào trong Bộ Chỉ Huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng, kiêm Tiểu Khu Trưởng và một Trung Sĩ mới 19 tuổi. Trung Sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên Ðại Tá Chính Ủy của đơn vị có nhiện vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
- Ð.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Ðại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung Sĩ Quang chỉ Ðại Tá Cẩn:
- Thưa Ðại Tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Viên Chính Ủy chỉ những xác chết nói với Ðại Tá Cẩn:
- Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Ð.M, chúng mày sẽ phải đền tội.
Ðại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung Sĩ Quang ngang tàng:
- Ðại Tá có lý tưởng của Ðại Tá. Tôi có lý tưởng của tôi. Ðại Tá theo Karl Marx, theo Lenin; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi... Tôi không gọi Ðại Tá là tên Việt Cộng. Tại sao Ðại Tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của Ðảng Cộng Sản?
Viên Ðại Tá rút súng kê vào đầu Quang:
- Ð.M. Tao hỏi mày, bi giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
- Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Ðại Tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại Tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
- Ð.M. Mày có chịu nhận mày là tên Ngụy không?
- Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là Ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là Ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
- Nếu Ðại Tá có chính nghĩa tại sao Ðại Tá lại dùng lời nói thô tục với tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Ð.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Ð.M. mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Ðộc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cười đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn? (Ghi chú: Nhân chứng quan trọng nhất chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân Bác Sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.)
Cái lúc mà Quang ngã xuống thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ Thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm, Quỳnh Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Ðích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp đi công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp Các Viện Bào Chế Châu Âu (CEP - Coopérative Européenne Parmaceutique). Tôi đem J. M. Bodoret cùng đi. Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sàigòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thi mua tiên cũng được. Giấy phép có, Quỳnh Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiến Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Ðức. Quỳnh Chi muốn bỏ hài cốt Quang-Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạng. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Ðức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
"Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi.
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng"
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng.
Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.¨
Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sỹ
No comments:
Post a Comment