Khởi đi từ việc quân Pháp đã cho tàu chiến đến gây hấn và đánh chiếm nước ta vào thế kỷ 19 và những nhà ái quốc đã hô hào duy tân tự cường, nâng cao dân trí để cùng đấu tranh dành lại độc lập cho đến khi Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Cộng sản áp đặt lên đất nước ta, gây nên cuộc nội chiến giữa những người quốc gia yêu chuộng tự do và những người Cộng Sản chủ trương bành trướng chủ nghĩa duy vật, làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng. Kết quả là ngày Quốc hận 30-4-1975 và sự có mặt của gần 2 triệu người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay. Vì không thể sống chung với chế độ Cộng Sản độc tài, họ đã bỏ hết nhà cửa tài sản, bỏ cả quê hương mồ mả tổ tiên, bạn bè, người thân v.v. để vượt biển đi tìm tự do. Cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền vẫn được tiếp tục nhằm xóa bỏ chế dộ Cộng Sản tại Việt Nam.
Trong biến cố 30 tháng 4, 1975, Cộng Sản VN đã thắng về quân sự, nhưng chúng không thắng được chí khí bất khuất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và toàn thể nhân dân Miền Nam. Vì thế chúng đã lập ra các nhà tù cải tạo để giam giữ, hành hạ những người đã phục vụ cho chế độ VNCH trước đây. Chúng đã đày đọa anh em chúng ta tận những nơi rừng thiêng nước độc ở miền Bắc. Ðói rét, bệnh hoạn, xa gia đình, xa quê hương, một số anh em đã bỏ xác trong các trại tù tập trung cải tạo, một số sống sót sau hàng chục năm bị ngược đãi, đã được trở về trong cảnh gia đình tan nát, đất nước lầm than.
Nhờ sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc, của các quốc gia yêu chuộng tự do và nhất là các phong trào đấu tranh cho nhân quyền trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, nên sau 15 năm dưới chế độ CS, một số các cựu sĩ quan, viên chức của chế độ VNCH cùng với gia đình đã được đoàn tụ với thân nhân ở nước ngoài hoặc được định cư tại Mỹ.
Thực tế đã cho chúng ta thấy rõ, chủ nghĩa CS đã đem lại cho Việt Nam một nền kinh tế suy sụp, dân chúng phải sống trong cảnh nghèo đói, bị áp bức. Nền luân lý, đạo đức, văn hóa của tổ tiên hoàn toàn bị suy đồi, con người sống với nhau không còn tình cha con, tình vợ chồng, tình làng xóm nữa, mà đã trở thành những kẻ gian dối, phản bội, hận thù giai cấp, duy vật, mất niềm tin vào Thượng Ðế, vào các tôn giáo nhất là đạo thờ kính ông bà tổ tiên.
Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng ta không quên công lao và xương máu của chiến sĩ đồng bào đã đổ ra vì tự do, độc lập và để ngăn chận chủ nghĩa CS vô thần.
Trong số những anh hùng vô danh đó, có một số người đã được báo chí, sử sách nêu tên như các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ và một số sĩ quan, binh sĩ đã lấy tấm thân đền nợ nước, thà chết vinh hơn sống nhục, đã tự tử không chịu đầu hàng, không chịu trao thân cho kẻ thù bắt bớ, giam cầm, tù tội. Tuy thân xác họ ngày nay đã ra tro bụi, nhưng tên tuổi của họ, tinh thần của họ vẫn còn sống mãi trong sử sách, sống mãi trong lòng mọi người.
Cứ mỗi lần kỷ niệm ngày quốc hận 30 tháng 4, báo chí, đài phát thanh và qua các cuộc họp mặt của đồng bào trong các buỗi lễ, các cuộc meeting, người ta lại nhắc nhở đến họ, vinh danh họ.
Người xưa thường nói: "Sinh vi tướng, tử vi thần" nghĩa là khi còn sống làm tướng chỉ huy quân đội, khi chết trở nên thần thánh được nhân dân tôn thờ). Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Ðại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung v.v. là những anh hùng trong sử sách Việt Nam, tuy đã chết nhưng vẫn còn được sùng kính như những vị thần thánh của các tôn giáo. Họ là những vị thần của dân tộc Việt Nam và sẽ phù hộ cho chúng ta trong cuộc tranh đấu chống xâm lăng, chống CS, đem lại tự do, thanh bình và thịnh vượng cho dân tộc.
Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng ta hãy nhớ đến một số các vị anh hùng đã chứng tỏ tinh thần bất khuất trước kẻ thù, đã nêu gương trung liệt đối với tổ quốc và đồng bào. Hôm nay, chúng tôi xin được phép nói về "Ngày Quốc Hận 30-4" bằng nhắc lại cuộc sống và những giây phút cuối cuộc đời của những vị tướng đã hy sinh mạng sống mình để chứng tỏ lòng trung thành với tổ quốc bất khuất trước kẻ thù:
Thiếu
Tướng Nguyễn Khoa Nam (23.9.1927 -- 1.5.1975)
Tư Lệnh Quân Đoàn IV
Ông là một người xuất thân từ một dòng họ danh giá ở đất Thừa Thiên (Huế), tổ tiên từ đời nầy qua đời khác có công giúp chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc Nam tiến, đánh dẹp loạn lạc, đem lại thái bình cho dân chúng. Sử sách còn nhắc đến Quan Nội Tán Nguyễn Khoa Ðăng có công phá được giặc cướp ở Truông Nhà Hồ qua câu ca dao mà dân gian thường truyền tụng:
"Yêu em, anh cũng muốn vô,
Sợ Truông nhà Hồ, ngại phá Tam Giang"
Ðó là lời người con trai ở Ðàng Ngoài nhắn gởi cho người con gái ở Ðàng Trong và người con gái đáp lại:
"Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ Nội Tán dẹp yên".
Nguyễn Khoa Nam lớn lên là một người con hiếu thảo, đạo đức, một học sinh tốt, một sĩ quan có tinh thần trách nhiệm. Ông ở bất cứ đơn vị nào cũng được anh em binh sĩ và cấp chỉ huy kính phục. Với nhiều công lao trên các chiến trường, từ thiếu úy ông đã được thăng dần lên tới Thiếu Tướng và được làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, bộ chỉ huy đóng tại Cần Thơ, chịu trách nhiệm bảo vệ khu vực Miền Tây (Ðồng bằng sông Cửu Long) là nơi dân cư đông đúc, ruộng đất phì nhiêu, là một vùng chiến lược quan trọng.
Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương rồi trốn chạy ra ngoại quốc, cụ Trần Văn Hương cũng từ chức vào trao quyền lãnh đạo quốc gia cho Ðại Tướng Dương Văn Minh. Dương Văn Minh đã phản bội lại lời cam kết bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tuyên bố đầu hàng CS mà không có một nỗ lực chiến đấu nào mặc dầu quân đội vẫn còn, lãnh thổ vẫn còn, chưa mất hết tất cả. Trước lệnh buông súng đầu hàng của Dương Văn Minh, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã bình tĩnh, tập họp quân đội dưới cờ, thông báo tình hình. Sau đó ông đã ngồi tại văn phòng tư lệnh, dùng súng tự sát để trở về với tổ tiên anh hùng, cương quyết không để cho tấm thân làm tướng phải bị sỉ nhục bởi quân thù.
Tất cả sĩ quan, binh lính và đồng bào nghe tin đó đều không cầm được nước mắt. Tướng Lê Văn Hưng, Tự Lệnh Phó cũng đã tự tử theo vị chỉ huy của mình để tỏ rõ cái chí bất khuất của một vị tướng lãnh anh hùng của quân đội VNCH. (Ghi chú của Tòa Soạn: Theo các nhân chứng và tài liệu đáng tin cậy, Tướng Hưng tự sát TRƯỚC Tướng Nam. Căn cứ vào bài viết của Bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng thì ông tự sát hồi 8 giờ 45 tối 30/4/75, lúc đó Tướng Nam còn sống, có gọi điện thoại chia buồn và an ủi. Sách Nguyễn Khoa Nam cho biết Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát vào khoảng 7 giờ sáng ngày 1/5/75).
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (27.3.1933 -- 30.4.1975)
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV
Sinh năm 1933 tại Hóc Môn, Gia Ðịnh, xuất thân từ trong một gia đình trung lưu, nhưng gương mẫu đạo đức, được cha mẹ giáo dục nên người trung, tín, hiếu, để. Là học sinh giỏi tại trường Trung Học Huỳnh Khương Ninh, Ða Kao, Saigòn, lớn lên trong cảnh chiến tranh, ông nhập ngũ theo lệnh tổng động viên năm 1954 trước hiệp định Genève (20-4-1954), tốt nghiệp sĩ quan và phục vụ quân đội dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm từ 1954 đến 1963 chỉ huy từ đại đội đến tiểu đoàn. Năm 1967, ông chỉ huy Trung Ðoàn với cấp bậc Trung tá, năm 1968 lên Ðại Tá, năm 1971 tư lệnh sư đoàn 5. Năm 1972 ông có công bảo vệ tỉnh Bình Long, giải tỏa áp lực Việt Cộng bao vây tỉnh nầy và được báo chí thời đó gọi là "anh hùng tử thủ Bình Long-An Lộc", tiêu diệt hàng chục ngàn lính Việt Cộng. Năm 1973 tư lệnh sư đoàn 21 Bộ binh ở miền Tây. Năm 1974 ông làm Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV dưới quyền tướng Nguyễn Khoa Nam.
Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi được tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Việt Cộng, các tướng ra đầu hàng hoặc chạy trốn, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lịnh vùng IV tự tử, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng trở về nhà gặp vợ con và bạn bè, sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, ông đã tự tử tại tư dinh của Phó Tư Lệnh Quân Ðoàn vào lúc 8 giờ 30 tối hôm đó để lại một người vợ và bốn ngươi con, ba gái, một trai.
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1927 -- 30.4.1975)
Tư Lệnh Quân Đoàn II
Xuất thân từ một gia đình trung lưu tại miền Bắc Việt Nam. Sau khi học hết chương trình Trung học, ông tình nguyện vào trường võ bị Ðalat, là trường đào tạo sĩ quan hiện dịch, mãn khóa với cấp bực thiếu úy và được chọn vào binh chủng nhảy dù, một binh chủng thiện chiến của quân đội. Năm 1954, trong lúc tình hình chiến sự rất sôi động tại các chiến trường miền Bắc, ông được thả dù xuống căn cứ Ðiện Biên Phủ, nơi có khoảng hai mươi ngàn lính Pháp Việt đang trấn giữ và bên ngoài có khoảng 60.000 lính Việt Minh đang bao vây tấn công. Tại đây ông được thăng Trung Úy tại mặt trận. Ngày 7 tháng 5, 1954, căn cứ Ðiện Biên Phủ bị Việt Minh chiếm, ông và các sĩ quan, binh sĩ bị Cộng Sản bắt làm tù binh. Sau hiệp định Genève 20-7-1954, nhờ sự can thiệp của Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Ðông Dương can thiệp, ông và các bạn được trao trả và được trở về miền Nam.
Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng của Lực Lượng Ðặc Biệt do Ðại Tá Lê Quang Tung chỉ huy. Sau 1963, ông được đưa ra Quảng Ngãi giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ binh. Năm 1966, ông được thuyên chuyển về Huế làm Tư Lệnh Phó cho Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng tại Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Sau Tết Mậu Thân 1968, ông làm Tư lệnh biệt Khu 44 tại Ðồng Tháp Mười, năm 1970, ông trở về Huế làm Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ binh với cấp bậc Chuẩn Tướng, sau đó được thăng Thiếu Tướng. Sau các trận đánh của VC vào vùng giới tuyến Quảng Trị mùa hè 1972, ông được về làm Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Quang Trung gần Saigon, sau đó lại về làm Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng núi rừng Cao Nguyên miền Trung.
Sau hiệp định Paris 1973, Việt Cộng lợi dụng quân Mỹ rút, đã tăng cường xâm nhập quân lính, xe tăng từ Bắc vào Nam theo đường Trường Sơn và dọc biên giới Lào đã tạo áp lực nặng nề cho vùng cao nguyên Pleiku, Ban mê thuột. Năm 1974, Việt Cộng đánh chiếm tỉnh Phước Long và vùng Ba Biên Giới Việt-Miên-Lào, tháng 3, 1975, Việt Cộng tấn công vào thị xã ban Mê Thuột đồng thời chiếm Quảng Trị. Trước tình hình đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái khỏi Pleiku để giữ vùng Duyên Hải. Quyết định sai lầm đó đã khiến cho cả một quân đoàn VNCH tan rã, hàng triệu cán bộ, công chức và gia đình cũng như đồng bào phải bỏ nhà cửa, tài sản chạy thoát thân, gây nên tình trạng hỗn loạn toàn miền Trung.
Nhân đà thắng lợi đó, Cộng Sản Hà Nội ra lệnh đem quân ào ạt tiến vào miền Nam...Ngày 30 tháng 4, 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đang nằm điều tri tại bệnh viện Ðồn Ðất (Grall) Saigòn, nghe tin Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trốn ra khỏi nước, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh và Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tướng lãnh, sĩ quan, các cấp chính quyền, dân chúng mạnh ai nấy chạy thoát thân, ông quyết định tự tử để trọn lòng trung với quốc gia. Trước mặt vợ con, bạn bè ông đã nói lời từ giả, căn dặn mọi người đừng hợp tác với CS, sau đó ông uống thuốc độc tự tử, không để cho CS bắt ông lần thứ hai. Vợ con, bạn bè của ông, những người đã chứng kiến giây phút đau lòng đó không ai là không cảm thương cho một vị tướng khi sa cơ thất thế, chỉ có đem cái chết đền nợ non sông mà thôi.
Sau khi ông chết rồi, Việt Cộng đã tịch thu hết nhà cửa, tài sản của ông khiến cho vợ con phải cảnh không nhà của, tiền bạc, đành tìm đến nương tựa bà con bạn bè rất nhục nhã. Người biết chuyện, không ai mà không thương mến ông.
Thiếu Tướng Trần Văn Hai (1927 -- 1.5.1975)
Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB
Xuất thân từ một gia đình trung lưu, sau khi học hết Trung Học, tình nguyện vào quân đội, trải qua các đơn vị được tiếng là một người tư cách, gương mẫu, tận tụy phục vụ cho quốc gia. Ông cũng có tác phong một người cách mạng, ngày từ tuổi trẻ ông đã gia nhập đảng Ðại Việt để tranh đấu giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, xây dựng cho đất nước một chế độ tự do dân chủ.
Ông đã từng giữ các chức vụ Tỉnh Trưởng, Tư Lệnh Biệt Ðộng Quân và Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Trải qua các chiến trường, ông chứng tỏ là một cấp chỉ huy có khả năng và trong sạch. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền ai cũng thương và phục ông.
Ngày 30 tháng 4, 1975, sau khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và Việt Cộng trên đường tiến vào Saigòn, ông trở về nhà tắm rửa sạch sẽ, thay áo quần mang đầy đủ quân phục, huy chương và quân hàm Thiếu Tướng, rồi cho gọi vợ con, thân nhân lại, nói rõ ý định và tự tử bằng súng. Trước khi chết, ông cũng đã chuẩn bị chỗ nằm xứng đáng với danh giá của một vị tướng. Ðược tin đó, bà con bạn bè cũng như nhiều người đã từng phục vụ dưới quyền ông rất thương tiếc và chạy đến thăm viếng. Cùng với cái tang của đất nước, gia đình ông cũng chịu một đại tang của người chồng, người cha, người anh đã sống cuộc đời trong sạch, gương mẫu đạo đức, nêu cao tiết nghĩa, trung thành với quốc gia dân tộc. Những hạng người như thế, trên đời nầy đã dễ gì có được.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ (22.8.1933 -- 30.4.1975)
Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB
Sinh trưởng trong một gia đình Nho học, danh giá tại thị xã Sơn Tây, dòng họ Lê nhiều người đỗ đạt, đã từng giữ chức vụ lớn trong chính quyền quốc gia như Trung Tướng Lê Nguyên Khang v.v...
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ là con đầu trong một gia đình gồm hai em gái cùng mẹ và một em trai cùng cha khác mẹ, hiện còn ở Việt Nam. Ông gia nhập quân đội và được đưa vào học trường Ðập Ðá Huế, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy (1951), về phục vụ tại tiểu đoàn 19 BVN dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Ðỗ Cao Trí (sau nầy là Trung Tướng), lên đại úy được đi làm quận trưởng Bến Cát (Bình Dương) sau lên đến Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5, năm 1972 Phụ Tá hành Quân cho Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc. Ông là người đầu tiên dùng M.72 hạ xe tăng của Việt Cộng tại mặt trận Bình Long An Lộc, từ đó binh sĩ mới thêm tin tưởng trong việc sử dụng loại vũ khí mới nầy. Sau đó được thăng cấp Ðại tá về làm tư lệnh phó Sư Ðoàn 21, bị thương trong khi ngồi trên trực thăng quan sát hành quân, máy bay bị bắn rơi, gãy chân phải nằm bệnh viện. Khoảng 1974 về làm Tư lệnh Sư Ðoàn 5 thay tướng Trần Quốc Lịch.
Trung Tá Văn, Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Ðoàn 5, đã kể lại cho ông Lê Nguyên Hoàng (anh con bác của Tướng Lê Nguyên Vỹ) giờ phút cuối của chuẩn tướng như sau:
Ngày 30 tháng 4, 1975, khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng thì chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ đã họp Bộ Tham Mưu và các trưởng phòng lại và nói với anh em rằng:"Mặc dầu có lệnh trên, nhưng tôi cương quyết không đầu hàng. Tôi sẽ có cách tự xử trí riêng đối với tôi. Anh em ai lo thân nấy, chạy được thì chạy". Trong khi bên ngoài, Việt Cộng bắc loa kêu gọi đầu hàng nhưng ông vẫn bình tĩnh và ra lệnh cho nhà bếp tổ chức một bữa tiệc rượu mời anh em. Sau khi ăn uống no say, ông đứng dậy đi vào phòng bên cạnh. Lát sau có tiếng súng nổ, mọi người chạy vào thấy ông ăn mặc quân phục tề chính, mang huy chương và quân hàm chuẩn tướng nằm chết trên giường. Ông đã dùng súng bắn xuyên cằm lên đầu, tự tử. Tất cả sĩ quan đều có mặt khi Việt Cộng vào, tướng Việt Cộng thấy như vậy đã nói :"Ðây mới xứng đáng là con nhà tướng".
Anh em xin đem chôn tại sân bộ tư lệnh bên cạnh cột cờ, nhưng Việt Cộng không cho. Cuối cùng phải đem chôn trong vườn cao su, ở ngoài đồn.
Trong lúc chiến trận xảy ra thì vợ con của ông đã chạy theo dòng người di tản ra ngoại quốc. Hai ngày sau khi ông chết, người vợ của Trung Tá Tuân (quận trưởng Bến Cát, là anh ruột bà Lê Nguyên Vỹ) đi gặp Việt Cộng, nói dối là vợ của ông Lê Nguyên Vỹ, xin nhận xác chồng về chôn. Bà con đã đào mộ, lấy xác đem về chôn ở Hạnh Thông Tây, có lập bia mộ rõ ràng. Năm 1987, bà mẹ của ông ở Bắc vào cùng ông Lê Nguyên Hoàng đi cải táng, lấy cốt của chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ đem thiêu để mang về thờ ở từ đường họ Lê tại quê nhà ở Sơn Tây. Ông Lê Nguyên Hoàng đã quan sát kỹ thấy sọ của chuẩn tướng có vết đạn xuyên qua.
Chúng tôi viết lại mấy dòng nầy, qua lời kể của ông Lê Nguyên Hoàng hiện đang sinh sống tại thành phố Garden Grove, California.
Nhân ngày quốc hận 30 tháng 4, chúng tôi xin đốt nén hương tưởng niệm các bậc anh hùng "sinh vi tướng, tử vi thần" và những sĩ quan, binh sĩ cũng như những người yêu nước và đồng bào vô tội đã chết trong ngày 30 tháng 4, 1975 và trong suốt cuộc chiến từ 1945 đến nay. Sau ngày 30-4-1975, máu của những người yêu nước vẫn còn đổ ra trong các cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Gương trung dũng của quí vị là gương sáng cho muôn đời noi theo.
Nguyễn Lý Tưởng
.
No comments:
Post a Comment