.
Hệ Thống Tình Báo của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ cũng có 2 hệ thống tổ chức tình báo song hành tại VNCH. Ðó là Trạm CIA Sài Gòn (CIA Saigon Station, Central Intelligence Agency = Cơ quan Trung Ương Tình Báo) nằm trong Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Ban 2 của Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam (J2-MACV).
Trạm CIA Sài Gòn
Trong
thời gian Chiến Tranh Việt Nam, từ 1961đến 1975, Trạm CIA Sài Gòn đã
trải qua các đời Trưởng Trạm (Chief of Station, hay COS) sau đây:
• 1961-1962: William Colby, về sau trở thành Giám Ðốc CIA (Director of
Central Intelligence, hay DCI) 1973-1976
• 1962-1963: John Richardson
• 1963-1965: Peer de Silva
• 1965: John L. Hart
• 1966: John Lapham
• 1966-1968: Gordon L. Jorgensen
• 1968-1972: Theodore Shackley
• 1972-1975: Thomas Polgar
Trạm CIA Sài Gòn không những thu thập tin tình báo về Việt Cộng mà còn theo dõi tất cả các hoạt động của chính phủ VNCH, và, sau khi Hoa Kỳ gửi quân tham chiến tại Miền Nam, soạn thảo và phổ biến những báo cáo hàng tuần về tình hình tại VNCH và cuộc chiến. Loại báo cáo hàng tuần này, với tựa đề là “Situation in South Vietnam,” thường gồm khoảng 20-30 trang với một số bản đồ và biểu đồ, và được thực hiện theo một dàn bài thống nhất như sau: (27)
•
Toát yếu
• Bản đồ Nam Việt Nam
• Tình hình Miền Nam Việt Nam
– Tình hình chính trị
– Tình hình quân sự
– Xây dựng nông thôn
• Bản đồ Bắc Việt Nam
• Các phát triển trong Khối Cộng sản
• Các phát triển tại các nước đệ tam
• Phụ đính:
– Thống kê chiến trường của QLVNCH: số thương vong
– Thống kê chiến trường của QLVNCH: số các cuộc giao tranh và tấn công
của địch
– Các chỉ số kinh tế của VNCH
– Thống kê giá bán lẻ hàng tuần tại Sài Gòn
Ngoài
ra,
Trạm CIA Sài Gòn còn thực hiện rất nhiều công tác an ninh tình báo
khác tại VNCH trong suốt thời gian chiến tranh. Công tác được nói đến
nhiều nhất là Chiến dịch Phượng Hoàng nhằm nhận diện và tiêu diệt
hạ tầng cơ sở của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Việt Cộng) tại nông
thôn Miền Nam. Từ 1965 cho đến 1972, Chiến dịch Phượng Hoàng đã “vô
hiệu hóa” tổng cộng 81.740 cá nhân bị tình nghi là người của Mặt
Trận (28) và
“góp phần tiêu diệt và phá hoại đến 95% cơ sở cách mạng ở một số khu vực tại
miền Nam Việt Nam.” (29)
J2-MACV
Khi Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại VNCH (MACV = Military Assistance Command Vietnam) được thành lập vào tháng 2-1962, sau rất nhiều tranh cãi trong chính phủ của Tổng Thống John F.Kennedy, và đặt dưới quyền chỉ huy của một vị tướng 4-sao, Ðại Tướng Paul Harkins, vai trò của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong việc giúp đỡ chính phủ VNCH chống lại phong trào nổi dậy (counterinsurgency) của Cộng sản tại Miền Nam được nâng lên một tầm quan trọng cao hơn. Lúc đó Phái Bộ Cố Vấn Viện Trợ Quân Sự của Hoa Kỳ tại VNCH (MAAG = Military Assistance Advisory Group dưới quyền chỉ huy của một vị tướng 3-sao, Trung Tướng Lionel C. McGarr) vẫn còn tiếp tục hoạt động thêm một thời gian gần một năm mới bị hủy bỏ và hoàn toàn sáp nhập vào MACV. Tuy nhiên, trong một thời gian hơn 3 năm (từ tháng 2-1962 đến tháng 3-1965), bộ phận J2-MACV chỉ làm nhiệm vụ cố vấn, hỗ trợ và huấn luyện cho hệ thống quân báo của VNCH mà thôi. Ðứng đầu J2-MACV lúc đó chỉ là một sĩ quan cấp Ðại Tá, Ðại Tá James M. Winterbottom, một sĩ quan Không Quân (30).
Ðầu năm 1964, sau khi cuộc cải tổ cơ cấu chỉ huy của MACV được hoàn tất, do đề nghị của Tướng Harkins và được Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara chấp thuận, cấp số của chức vụ Phụ Tá Tham Mưu Trưởng MACV, Trưởng Ban 2 (Assistant Chief of Staff MACV, J2) được nâng từ cấp Ðại Tá lên cấp Tướng.
Ngày 15-1-1964, Chuẩn Tướng Carl A. Youngdale, thuộc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, được cử làm Trưởng J2-MACV và tổng số nhân viên của J2 tăng từ 76 lên 135 người (31).
J2-MACV lần lượt hoạt động dưới quyền chỉ huy của các vị tướng sau đây:
•
Từ 1-1962 đến 7-1965: Chuẩn Tướng Carl A. Youngdale, Thủy Quân Lục
Chiến, hồi hưu với cấp bậc Thiếu Tướng
• Từ 7-1965 đến 5-1967: Thiếu Tướng Joseph A. McChristian, Lục Quân, hồi
hưu với cấp bậc Thiếu Tướng
• Từ 5-1967 đến 5-1969: Thiếu Tướng Philip B. Davidson, Lục Quân, về hưu
với cấp bậc Trung Tướng
• Từ 5-1969 đến 8-1972: Thiếu Tướng William E. Potts, Lục Quân, hồi hưu với
cấp bậc Trung Tướng
Về phần MACV, vì không tán thành chủ trương lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Tướng Harkins có mâu thuẫn lớn với Ðại sứ Hoa Kỳ lúc đó là ông Henry Cabot Lodge, Jr., và sau cùng bị thay thế bằng phó tướng của ông là Trung Tướng (3-sao) William C. Westmoreland, được thăng lên cấp Ðại Tướng (4-sao) vào cùng ngày 1-8-1964 khi được cử nắm giữ chức vụ Tư Lệnh MACV.
Sau khi Hoa kỳ ồ ạt đưa quân bộ chiến vào VNCH năm 1965 (vào cuối năm 1965, quân số Hoa Kỳ tại Miền Nam đã tăng từ 23.000 lên đến 184.000), nhu cầu về tình báo chiến trường (combat intelligence) của MACV gia tăng mãnh liệt. Cấp số của Trưởng Ban J2-MACV cũng được nâng thêm một bậc từ cấp Chuẩn Tướng lên cấp Thiếu Tướng. Thiếu Tướng Joseph A. McChristian được cử thay thế Chuẩn Tướng Carl A. Youngdale từ tháng 7-1965. Về sau những người kế nhiệm Trưởng J2-MACV đều mang cấp Thiếu Tướng: Thiếu Tướng Philip B. Davisdon và Thiếu Tướng William E. Potts.
Cả 3 vị Thiếu Tướng vừa nêu tên bên trên tiếp tục mở rộng và phát triển J2-MACV về cả 2 mặt thu thập và khai thác tin tình báo, đồng thời phối hợp hoạt động rất chặt chẽ với phía VNCH.
Với đà phát triển mạnh mẽ đó, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Joseph A. McChristian, đến giữa năm 1967, J2-MACV đã có tổng số nhân viên trên 600 người (32) với một cơ cấu tổ chức như trong biểu đồ sau đây: (33)
Thật ra, số người mà J2-MACV điều động còn cao hơn rất nhiều. Theo tường trình của chính Thiếu Tướng McChristian, các đơn vị tình báo thuộc Lục Quân Hoa Kỳ đặt dưới sự điều động của ông vào tháng 6-1967 đã có tổng số nhân sự từ 102 tăng lên đến 2.466, và tổng số cố vấn (cho các cơ quan tình báo của VNCH) đã từ 218 tăng lên đến 622. Các đơn vị tình báo thuộc Lục Quân Hoa Kỳ nói trên bao gồm các đơn vị sau đây: (34)
•
Ðoàn 525 Quân Báo (525th Military Intelligence Group)
• Ðoàn 149 Quân Báo (149th Military Intelligence Group) có nhiệm vụ Thu
Thập tin)
• Tiểu Ðoàn 1 Quân Báo (1st Military Intelligence Battalion; phụ trách
Yểm Trợ Không Thám = Air Reconnaissance Support) có nhiệm vụ cung cấp
không ảnh cho các đơn vị tác chiến)
• Tiểu Ðoàn 519 Quân Báo (519th Military Intelligence Battalion) cung cấp
nhân sự và yểm trợ cho các Trung Tâm Hỗn Hợp)
Riêng Ðoàn 525 Quân Báo thì chịu trách nhiệm điều động các đơn vị
quân báo sau đây:
• Một đại đội tín hiệu (a signal company) có trách nhiệm chận bắt
truyền tin của các đơn vị địch
• Một phân đội không quân (an aviation detachment) có trách nhiệm thực
hiện và diễn giải các không ảnh về hoạt động của các đơn vị địch
• Ðoàn 135 Quân Báo (135th Military Intelligence Group) phụ trách công tác
phản gián, với các tổ phân phối khắp 4 Vùng Chiến Thuật bên cạnh
các tổ của Cục An Ninh Quân Ðội VNCH)
Phối Hợp Công Tác Tình Báo Giữa VNCH và Hoa Kỳ
Vì khối lượng rất lớn cũng như mức độ phức tạp của tin tức tình báo (cộng thêm sự khác biệt về ngôn ngữ Anh-Việt), và vì cùng chiến đấu chống lại một kẻ địch chung, Phòng 2 Bộ TTM QLVNCH và Ban J2-MACV đã đồng ý thiết lập một số cơ quan và đơn vị tình báo hỗn hợp để chia sẻ tin tức và phối hợp hoạt động. Vị sĩ quan QLVNCH đồng nhiệm với Thiếu Tướng McChristian, Trưởng J2-MACV, là Ðại Tá Hồ Văn Lời, Trưởng Phòng 2 BTTM QLVNCH.
Ðại Tá Hồ Văn Lời, sinh năm 1928 tại Ðịnh Tường, là một sĩ quan hiện dịch thuộc Bộ Binh, tốt nghiệp Khóa 3 Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt (Khóa Trần Hưng Ðạo, năm 1951) (35)
Sự thỏa thuận giữa hai nước đồng minh trong cuộc chiến đưa đến sự hình thành và hoạt động của 4 Trung Tâm Hỗn Hợp về tình báo:
- Trung Tâm Thẩm Vấn Quân Sự Hỗn Hợp (Combined Military Interrogation Center – CMIC)
- Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp (Combined Document Exploitation Center – CDEC)
- Trung Tâm Khai Thác Quân Dụng Hỗn Hợp (Combined Materiel Exploitation Center – CMEC)
- Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam (Combined Intelligence Center Vietnam – CICV).
Trung Tâm Thẩm Vấn Quân Sự Hỗn Hợp
Công tác thẩm vấn các tù hàng binh và hồi chánh viên được cả 2 phía Việt Mỹ đặt ưu tiên cao trong công tác tình báo hỗn hợp. Các trung tâm thẩm vấn quân sự được thiết lập tại các quân đoàn và sư đoàn. Riêng tại các tiểu khu (tỉnh) thì các trung tâm thẩm vấn được đặt dưới quyền điều khiển CSQG (đơn vị CS đặc biệt của địa phương), nhưng khi cần thì các đơn vị quân báo Việt-Mỹ cũng được quyền sử dụng. Trung tâm thẩm vấn hỗn hợp trung ương (CIMC) được đặt tại Sài Gòn, dưới sự chỉ huy kết hợp của Trung Tá Frederick A. Pieper, Thiếu Tá Lawrence Sutton và Ðại Úy Lâm Văn Nghĩa (36)
Công tác thẩm vấn được thực hiện theo những quy định rất chặt chẽ. Trước tiên là sự phân biệt rõ rệt giữa tù hàng binh và hồi chánh viên. Hồi chánh viên luôn luôn được đối xử một cách thân thiện và đặc biệt hơn, với chủ đích tạo cho họ cảm giác ấm áp, và cho họ thấy rõ là sự “trở về” của họ rất được hoan ngênh. Trong thời gian thẩm vấn, hồi chánh viên cũng được thoải mái, có nhiều tự do hơn. Sau khi chấm dứt thẩm vấn, họ được quyền chọn trung tâm chiêu hồi mà họ muốn về làm việc. Một số hồi chánh viên quan trọng, như Thượng Tá Tám Hà, Chính Ủy Sư Ðoàn 5 (Việt cộng), hồi chánh tại Bình Dương năm 1970, hay Trung Tá Lê Xuân Chuyên, thuộc bộ đội chính quy của Bắc Việt, hồi chánh tại Bình Tuy năm 1967, đã được chính phủ VNCH cử nhiệm vào một số chức vụ quan trọng tại Bộ Dân Vận Chiêu Hồi hay Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (37)
Tuy có phân biệt đối xử, nhưng về nội dung thẩm vấn thì hoàn toàn giống nhau đối với tù hàng binh hay hồi chánh viên, với mục tiêu nhằm khai thác tin tức về 5 lãnh vực sau đây:
•
Lực lượng địch bên ngoài lãnh thổ của VNCH, nghĩa là tại Bắc Việt,
Miên, và Lào.
• Lực lượng địch bên trong lãnh thổ của VNCH.
• Chiến thuật, vũ khí, quân dụng, hạ tầng cơ sở và các hoạt động
tâm lý chiến của địch.
• Phản gián: các kế hoạch và hoạt động phá hoại, cài người (nội
tuyến) vào các cơ sở của VNCH và các quân đội đồng minh.
• Lộ trình, hành lang, và phương thức xâm nhập từ Miền Bắc.
Các báo cáo thẩm vấn thực hiện tại các trung tâm thẩm vấn địa phương phải được đánh giá về mức độ quan trọng của tin tức khai thác được, và sau đó chuyển về trung ương. Các đối tượng thẩm vấn cũng phải được xếp hạng về chức vụ của họ trong hệ thống của địch quân và tầm quan trọng của tin tức mà họ cung cấp. Tùy theo mức độ quan trọng, đối tượng thẩm vấn sẽ được bảo vệ và di chuyển nhanh hay chậm về các trung tâm thẩm vấn ở cấp cao hơn, hay có thể đưa về ngay Trung Tâm Thẩm Vấn Trung Ương tại Sài Gòn. Sau khi thẩm vấn hoàn tất, các tù hàng binh sẽ được đưa ra giam giữ tại trại giam trên đảo Phú Quốc.
Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp
Tài liệu thu thập được của địch cũng là một nguồn tin tình báo rất quan trọng. Cả hai cơ quan quân báo của VNCH (Phòng 2 BTTM) và Hoa Kỳ (J2-MACV) đã đồng ý thành lập Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hơp, đặt trụ sở gần căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt và bắt đầu hoạt động từ ngày 24-10-1966, với trên 300 nhân viên quân sự và dân sự Việt Mỹ.
Tiến trình khai thác tài liệu của địch gồm các giai đoạn sau đây:
•
Phân loại tài liệu
• Ðánh giá tài liệu
• Phiên dịch tài liệu
• Phân phối tài liệu
Trong công tác phân loại, tài liệu của địch được phân ra làm 5 loại như sau:
•
Loại A: cần phải được xử lý
ngay lập tức, ví du một bản kế hoạch của địch nhằm phục kích một
đơn vị bạn, với kết quả được thông báo ngay bằng “đường dây nóng”
(hot line) cho đơn vị bạn.
• Loại B: tài liệu có giá trị
tình báo chiến lược, thí dụ như các giấy ban khen có ghi tên cá nhân
và đơn vị phục vụ, hay các sổ sách ghi chép thành phần, quân số, vị
trí đóng quân của các đơn vị địch; loại tài liệu này sẽ nhanh chóng
được dịch sang tiếng Anh để phổ biến và đánh số tài liệu ngay; phần
lớn tài liệu được xử lý tại Trung Tâm thuộc loại tài liệu này.
• Loại C: tài liệu không có giá
trị tình báo, thí dụ một tấm bản đồ của Châu Phi; loại tài liệu
này sẽ không được xử lý mà chuyển giao ngay cho phía VNCH để tùy
nghi.
• Loại D: loại tài liệu tuyên
truyền, thí dụ một tờ truyền đơn kêu gọi lính Mỹ viết thư cho một
tổ chức phản chiến chẳng hạn; loại này bao gồm cả các loại giấy
bạc của Bắc Việt; loại này cũng không được xử lý tại Trung Tâm, tài
liệu tuyên truyền thì được chuyển giao cho các cơ quan chiến tranh tâm
lý, giấy bạc thì chuyển cho các cơ quan thích hợp.
• Loại E: loại tài liệu về mật
mã truyền tin, loại tài liệu này cũng sẽ không được xử lý tại Trung
Tâm mà chuyển giao ngay cho các cơ quan về SIGINT.
Sau đó, các tài liệu thuộc 2 loại A và B sẽ được chuyển đến một nhóm các chuyên viên cao cấp về tài liệu để họ viết ra các bản tóm lược nội dung cho từng tài liệu. Những tài liệu quá chi tiết sẽ được chuyển đến Ban Dịch Thuật để được dịch sang tiếng Anh toàn văn tài liệu.
Trong suốt thời gian hoạt động, Trung Tâm đã xử lý một số lượng tài liệu rất lớn, lên đến hàng triệu trang. Xin đơn cử một thí dụ để minh họa: nội trong 2 tháng đầu năm 1967, với 2 cuộc Hành Quân lớn của quân đôi Mỹ (Cedar Falls, tháng 1-1967, trong Vùng Tam Giác Sắt; và Junction City, tháng 2-1967, tại Chiến Khu C ở Tây Ninh), gần một triệu trang tài liệu tịch thu được của địch đã được xử lý tại Trung Tâm. Khoảng 10% của tổng số tài liệu này đã được tóm lược hay chuyển dịch sang tiếng Anh và phân phối đến các cơ quan và đơn vị.
Với những trang thiết bị tối tân nhứt của thập niên 1960, trong đó có cả máy in có thể in đến 6.000 trang một giờ, Trung Tâm đã có thể cung cấp, ngay từ đầu năm 1967, mỗi ngày 1.400 cân anh (pounds) tài liệu đã được tóm lược, chuyển dịch và sao chụp. Tất cả các tài liệu đều được chụp vi phim, làm bảng dẫn (indexed) và đưa vào một hệ thống máy tính (IBM 1401) đặt tại Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam (CICV) (38)
Trung Tâm Khai Thác Vũ Khí Hỗn Hợp
Ðối với giới quân sự, thông tin về tất cả các loại quân dụng do địch quân sử dụng được xem là rất quan trọng và cần thiết. Trung Tâm Khai Thác Quân Dụng Hỗn Hợp được thành lập để hai quân đội đồng minh Việt-Mỹ chia sẻ thông tin và kinh nghiệm về vũ khí của địch.
Trung Tâm được giao cho nhiệm vụ thu thập và khai thác tất cả các loại vũ khí và quân dụng của địch. Công tác khai thác bao gồm các mặt: xem xét (observation), xác định (identification), phân tích (analysis), và đánh giá (evaluation). Mục tiêu của công tác khai thác là tìm hiểu cặn kẽ khả năng và giới hạn của vũ khí – quân dụng, thông báo các thông tin này cho các cơ quan và đơn vị có liên hệ để tìm biện pháp đối phó.
Trung Tâm được tổ chức với các đơn vị chuyên môn như sau: (39)
•
Ban Hình Ảnh (Graphics Section): thực hiện và cung cấp các ảnh vẽ và
hình chụp
• Phòng Thí Nghiệm (Laboratory): thực hiện các phân tích hóa học cần
thiết để xác định thành phần của các chất lạ
• Ban Truyền Thông và Ðiện Tử (Communications-Electronics Section): khai
thác tất cả các loại quân dụng có liên hệ đến truyền tin, nhiếp
ảnh, và điện tử
• Ban Cơ Ðộng (Mobility Section): phân tích và đánh giá tất cả các
loại mìn bẫy cũng như các quân dụng và vật liệu về công binh, vận
tải, và xây dựng
• Ban Vũ Khí và Ðạn Dược (Weapons and Munitions Section): xem xét (tháo
ra từng mảnh), phân tách và đánh giá tất cả các loại vũ khí và đạn
dược tịch thu được của địch
• Ban Y Khoa (Medical Section): đánh giá các loại tiếp liệu, thiết bị,
và khả năng về y khoa của địch
• Ban Tiếp Liệu và Thiết Bị Tổng Quát (General Supply and Equipment
Section): phân tích và đánh giá các trang phục, vật dụng cá nhân,
lương thực, các sản phẩm về dầu khí, và các thiết bị hóa học, vi
trùng và quang tuyến của địch.
Tất cả các loại vũ khí – quân dụng tịch thu được của địch từ các đơn vị chiến đấu đều được chuyển về các cấp lữ đoàn hoặc sư đoàn và từ đó chuyển về cho Trung Tâm để khai thác, ngoại trừ các trường hợp cần khai thác ngay tại chổ thì Trung Tâm sẽ gửi các toán cơ động (“Go” Teams) đến để thực hiện công tác này.
Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam
Cả 3 Trung Tâm vừa kể trên đều có một mục tiêu chung là tạo ra một cơ sở dữ liệu trung ương (centralized database), tối cần thiết cho hoạt động hữu hiệu của Trung Tâm Tình Báo Hỗn Hợp Việt Nam (CICV).
Tòa nhà dành cho Trung Tâm được khánh thành ngày 17-1-1967 và Trung Tâm được đặt dưới sự chỉ huy của Ðại Tá Frank I. Schaf, Jr. và Thiếu Tá Cao Minh Tiếp, về nhân sự gồm có tất cả 651 nhân viên Mỹ và 164 nhân viên Việt, với sơ đồ tổ chức như sau: (40)
Trung Tâm hoạt động 24 giờ mỗi ngày với các ca nhân viên luân phiên nhau. Mục tiêu của Trung Tâm là tập hợp, biên soạn và cung cấp tin tình báo về mọi lãnh vực (quân số, diện địa, không ảnh, mục tiêu, vv.) cho các Ban 2 (Tình Báo) của tất cả các đơn vị tác chiến Việt-Mỹ từ cấp Quân đoàn xuống đến cấp Tiểu đoàn.
Với một lực lượng nhân viên đông đảo như vậy, cộng thêm một cơ sở dữ liệu trung ương được tự động hóa (của Bộ Phận Xử Lý Ðiện Tử, sử dụng máy tính tối tân nhứt của thời đó là máy INM 360-30) và chứa đựng các thông tin về mọi lãnh vực đã được thu thập từ những Trung Tâm Hỗn Hợp kể trên và đã được các chuyên viên phân tích và đánh giá, CICV đã có thể hoạt động với hiệu quả cao trong việc cung cấp một cách nhanh chóng và kịp thời tất cả các loại tin tức tình báo cần thiết cho các cơ quan an ninh cũng như các đơn vị tác chiến.
NEXT TO PART 3, PLEASE
.
No comments:
Post a Comment