NHỮNG GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG CỦA TT. NGÔ ĐÌNH DIỆM
(Thằng Bờm)
Thằng Bờm đã gặp người lính già ấy vào một buổi tối mùa đông mưa gió sụt sùi ở một căn flat trọ ở Melbourne. Người lính già ở một mình. Gọi là người lính già bởi tuổi ông đã già, riêng tuổi lính tính sơ sơ chỉ 28 năm. Râu tóc đã bạc, nhưng bộ pháp vẫn còn ung dung vững chãi, giọng nói vẫn còn sang sảng như chuông đồng, nụ cười vẫn ngạo nghễ, tinh thần vẫn oai phong, tráng kiện, cốt cách giản dị, hào sảng, rất chịu chơi, rất lính và rất kỷ luật quân đội.
Tâm sự Người Lính Già: Khóc Cho Một Lãnh Tụ
63 tuổi đời, 36 vết thẹo kéo dài từ đầu đến chân, có cái đỏ hỏn, có cái lõm sâu, có cái nhăn nhúm chằng chịt… Vừa vuốt ve những vết thương, ông vừa luận: “Đã khá nhiều người bảo đó là kỷ niệm của một thời để yêu. Người khác cho đó là dấu tích của hận thù, là báo hiệu của thần chết, là huân chương của một cuộc chiến tranh giữ nước…” Chỉ tấm thẻ bài vẫn còn đeo lủng lẳng trên cổ, ông nghẹn ngào: “Gia tài của tao đó, lẽ sống của tao cũng đó. Tao đã mang nó suốt 28 năm đi lính và suốt 15 năm mất nước, và sẽ còn tiếp tục mang cho đến phút cuối cùng của cuộc đời. Nó chính là tao, chính là những chiến hữu của tao, chính là những chiến binh đã ngã xuống ngoài chiến trường, nó là KBC, là quân lực VNCH…”
- Mày thấy đó! Sau hơn 28 năm cầm súng đánh nhau với giặc, bỗng dưng tao bị mất nước.
- Trong suốt 63 năm, cuộc đời tao đã 5 lần phải bật… khóc. Một con người ngang dọc như tao mà cũng biết khóc cũng là lạ. Lần thứ nhất khóc cho cha, thứ nhì khóc cho một mối tình, thứ ba khóc cho một lãnh tụ, thứ tư khóc cho một người lính, và lần thứ năm là mới hôm qua đây thôi, tao phải khóc cho thân phận nổi trôi của tao, của người tỵ nạn trên đất Úc.
Trong các vết thương, không vết thương nào đau dai dẳng như vết thương lòng. Tao nhức nhối, tao khổ sở, tao căm hờn đến suốt mấy năm trời, Nó chỉ thật sự chấm dứt vào sáng ngày 2-11-1963, khi tao tận mắt chứng kiến cái chết của cổ TT Ngô Đình Diệm. Cái chết bi thảm oan nghiệt của một lãnh tụ, và tao một lần nữa đã không thể cầm được nước mắt. Tao đã khóc! Đúng ra, đời tao, tao cóc coi ai là lãnh tụ. Tánh tao là phè, ngang ngược đã quen, thế nên trong đời, ngoài việc thờ phượng Đức Phật và thờ bố, tao đếch có coi ai ra gì. Với tao, ai cũng thế thôi, cũng có bằng đó cái đầu, bằng đó cái tay và bằng đó cái chân, chứ nào có nhiều hơn tao cái gì?
Tao nghĩ tao đi lính là để trả thù nhà, đền nợ nước, chứ có phải vì ông kẹ, ông lãnh tụ nào đâu. Ngay cả khi ông Diệm về chấp chính, lòng tao cứ thản nhiên, không mảy may xúc động. Ông không về thì ông khác về. Ông không làm thủ tướng thì ông khác làm thủ tướng. Trong suốt 9 năm dưới triều đại uy nghi của ông, tao chớ có bao giờ đứng lên ngoác mồm ra hát bài… suy tôn Ngô Tổng thống “Ai bao năm vì sông núi quên thân mình. Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do...” Nhìn lại trong dòng sử Việt, thiếu gì người vì sông núi quên thân mình, thiếu gì người vì nước mà tranh đấu cho tự do, chứ đâu phải chỉ có mình ông Diệm mà phải đem ông ấy ra suy tôn. Chưa hết, nào là “Ngô tổng thống muôn năm.” Sao lại muôn năm? Muôn năm có nghĩa là hơn một ngàn năm. Con người ta sống thọ lắm chỉ được trăm năm. Rán gân cổ lên mà tung hô chúc tụng thì cũng không cướp quyền tạo hoá được. Nếu định ám chỉ là danh thơm của ông sẽ lưu truyền đến muôn năm thì cũng đúng là nói phét. Ông đã chết đâu, ông đã làm xong việc đâu mà biết ông thơm hay thối để dựa vào đó mà bốc hay chửi. Ôi, hát với hò cái kiểu như vậy chẳng khác gì hại ông, cho ông uống viên thuốc độc bọc đường. Cũng chỉ vì cho là như thế nên thế giới giữa tao và ông Tổng thống nó nhạt nhẽo, nó xa lắc xa lơ. Tao chưa bao giờ được nhìn con người thật của ông, ngoại trừ một lần thoáng thấy ông xa xa, tay đang cầm ba-toong, đầu đội mũ nỉ, mặc com lê xám đang đi kinh lý tại thị xã Đông Hà.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Đầu năm 1963. Chán đời. Tao đâm đơn xin sang ngành thiết giáp và được cử đi học khoá chuyên môn về binh chủng này. Mãn khoá, lãnh Sự vụ lệnh về một đơn vị thiết vận xa tại Bến Cát, Bình Dương, thuộc quyền sở hữu của SĐ5 mà Tư lệnh là Đại tá Nguyễn Văn Thiệu. So với ông Tư lệnh này thì đường binh nghiệp của tao có điều… rùng rợn. Khi tao là Trung sĩ thì ông đang là dân. Khi tao lên Thượng sĩ thì ông ra trường Thiếu úy. Và bây giờ ông là Đại tá thì tao vẫn là… Thượng sĩ. Đấy, đời kỳ quái như vậy bố ai mà hiểu được.
Trưa 1.11.1963, chi đoàn thiết giáp của tao được lệnh xếp hàng về Sài Gòn, nói là để tăng cường bảo vệ thủ đô. Qua một lần kinh nghiệm, tao biết lại giở trò với nhau đây. Thua keo nầy nữa thì có hy vọng từ Thượng sĩ lên một phát trở thành… Binh sĩ. Chẳng sao. Đã từ lâu tao không còn thiết tha gì với cái lon nữa rồi, nó bạc bẽo quá, nhớ nó làm chi cho tủi.
Đến Sài Gòn, chi đội được chia ra làm 2 toán. Toán thứ nhất hợp lực với quân bạn đánh dinh Gia Long. Toán thứ nhì, có tao, làm vòng đai an ninh cho Bộ Tổng Tham Mưu, nơi đặt bản doanh của quân đảo chánh. Thế là đêm đó mặc cho thiên hạ bắn nhau chí choé ở bên ngoài, tao ghếch súng ngồi dựa lưng vào thành xe tăng ngẫm nghĩ chuyện đời. Thấy đời chán bỏ mẹ, đánh đấm cho lắm thì cũng là quân ta bắn quân mình.
Đảo chánh thắng thì mấy cha nội chóp bu thành người hùng cách mạng để có ghế mới, lon mới, địa vị phe phẩy, tiền bạc rủng rỉnh và oai quyền hét ra lửa. Thua thì các đấng dông cha nó ra ngoại quốc, để bổng chốc thành chính khách lưu vong. Chỉ khổ cho mấy thằng lính, chẳng được cái đếch gì mà lại lãnh trọn đòn thù thay cho xếp.
Khi trời vừa sáng tỏ thì đồng hồ chỉ 6 giờ 15 phút. Lời hiệu triệu phát ra từ một chiếc máy transitor vang lên đều đặn: “Quân đội đã đứng lên làm cách mạng để lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và hiện đang làm chủ tình hình mọi nơi trên toàn lãnh thổ cũng như tại Dinh Gia Long, cứ điểm cuối cùng của nhà Ngô, đã hoàn toàn lọt vào tay quân cách mạng. Trung tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh QĐ2 kiêm Tư lệnh Vùng 2 Chiến thuật, vừa đánh điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.”
Tao chợt nghe tiếng nói vu vơ của một thằng lính:
- Thế ông Diệm đâu?
Một giọng khác văng vẳng:
- Hãy cầu nguyện cho ông ta!
Vừa lúc ấy toán của tao được lệnh di chuyển. Khẩu lệnh cho biết đây là cuộc hành quân phối hợp. Ai cũng ngỡ là đi tăng viện cho một chốt nào đó. Khi lọt ra khỏi cổng chính Tổng Tham Mưu, tao thấy lực lượng gồm có 3 chiếc jeep đi đầu. Chiếc tiên phong có tướng Mai Hữu Xuân và 3 cận vệ. Chiếc thứ nhì gồm đại tá Dương Ngọc Lắm cùng hai đại úy Nguyễn Văn Nhung, Dương Hiếu Nghĩa. Chiếc thứ ba chở 4 người, trong đó có đại úy Phan Hoà Hiệp. Tiếp theo sau là 2 xe M113, tao thủ thế ở chiếc thứ nhì. Và cuối cùng là 2 GMC chở đầy nhóc lính tráng, vũ khí trang bị đầy đủ.
Nửa giờ sau xe chạy vào Chợ Lớn, khi gần tới một ngôi nhà thờ, đoàn xe đi chậm lại, lính từ 2 GMC nhảy túa xuống, nhanh như cắt toả ra đứng thế thủ, mỗi người một gốc cây. Khoảng chục người khác cũng lăm lăm đứng gác chung quanh các cửa hông nhà thờ. Xe của tướng Mai Hữu Xuân chạy lòng vòng rồi de đít lại, đậu xa tít mãi bên kia đường.
Hai xe jeep chở các quan lớn lượn quanh một vòng rồi tiến vào sân chính diện ngôi nhà thờ. Hai chiếc M113 cũng dọt lẹ theo. Sau cái phất tay của đại tá Lắm thì đoàn xe ngừng lại. Đại tá Lắm bước xuống, rồi đại uý Nhung, Nghĩa, Hiệp cũng hăm hở bước xuống. Lúc ấy tao chợt thấy đại tá Lắm đưa mắt nhìn vào thiết vận xa của tao, rồi đưa tay ngoắc một cái, tao cũng chẳng hiểu ông ta ngoắc để làm gì.
Do phản ứng tự nhiên, tao nhanh nhẹn nhảy xuống xe chạy lại. Còn cách ông Lắm hai bước, tao giật mình đánh thót một cái vì thấy trên bậc thềm trước nhà thờ có 4 người bước ra. Người đi đầu đúng là Tổng thống Ngô Đình Diệm, sau ông là ông Nhu, còn 2 người kia tao không biết. Ông Lắm bước tới mấy bước, đứng nghiêm trước mặt ông Diệm, tay phải đưa lên chào. Vì đang ở tư thế gần nhất nên tao nghe rõ mồn một cuộc đối thoại ngắn ngủi giữa 2 người:
Đại tá Lắm: Thừa lệnh Trung tướng Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng chúng tôi đến đón Cụ và ông Cố vấn.
Ông Diệm: Ông Minh và ông Đôn đâu hè?
Đại tá Lắm: Thưa Cụ, hai ông đang làm việc ở Tổng Tham Mưu.
Ông Diệm: Thôi được. Thế tôi và ông Cố vấn cùng đi xe kia với ông.
Đại tá Lắm quay người lại chỉ vào xe M113 của tao:
- Thưa Cụ, xin mời Cụ lên xe này cho.
Thật ra cho mãi lúc tới nhà thờ cha Tam và khi tận mắt nhìn thấy ông Diệm tao mới biết công tác của đoàn xe là đi đón ông Diệm và cho đến lúc này tao bàng hoàng, không thể nghĩ được rằng một ông Tổng thống, dù là Tổng thống bị đảo chánh, lại được người ta đón bằng một chiếc xe tăng… Ngày xưa hành quân bắt được Việt cộng, khi giải về hậu cứ thì cứ tốt nhất cũng tông nó lên chiếc GMC chứ không chơi cái trò đút vào xe bọc thép.
Khi nghe ông Lắm nói xong, bấy giờ tao thấy nét mặt ông Diệm rất bình thản, đôi mắt ông bỗng ngước lên nhìn quanh mọi người, nhìn tới ông Lắm cúi đầu xuống, nhìn tới tao, tao cũng cúi mặt xuống.
Chao ôi! Gần 30 năm rồi, đến hôm nay tao vẫn còn nhớ như in cái nhìn ấy, cái nhìn trong ánh mắt rất hiền từ, rất bao dung, rất nhẫn nhục, và tao nhớ ngày xưa mẹ tao cũng có cái nhìn như thế khi tiễn tao lên đường nhập ngũ. Nhìn xong ông Diệm vẫn im lặng.
Riêng ông Nhu khẽ nhíu mày, lên tiếng:
- Không thể đón Tổng thống bằng chiếc xe như vậy. Để tôi liên lạc với ông Đôn, ông Đính coi xem.
Đại tá Lắm khẽ nhún vai:
- Tôi không biết. Đây là lệnh của Trung tướng Chủ tịch.
Hướng về ông Diệm, đại tá Lắm giơ tay lên chào trong tư thế nghiêm rồi quay người bước ra. Đại úy Nhung bước lên mấy bước, không chào hỏi gì cả, tay chỉ về thiết vận xa, miệng oang oang:
- Xin mời hai ông lên xe ngay cho.
Mặt ông Nhu đỏ bừng, giọng nói rất quyết liệt:
- Không được. Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng được, nhưng còn Tổng thống?
- Ở đây không còn Tổng thống nào cả, các ông là tù binh. Chúng tôi được lệnh bắt các ông.
Đại úy Nhung vừa nói xong thì có 2 quân nhân đến sau lưng Tổng thống Diệm, một người cầm tay phải, một người cầm tay trái đẩy ông về phía trước. Bất giác ông Nhu quay người lại, hai tay ông đưa lên nắm vai 2 quân nhân kéo về phía sau, ông nói như quát:
- Để yên! Không được nhục mạ Tổng thống!
Hỗn độn xảy ra trong chớp nhoáng, tao đứng đực người ra vì không biết phải làm sao. Đại úy Nhung luýnh quýnh rút súng ngắn bên hông ra, mũi súng chĩa thẳng vào người ông Nhu rồi đưa qua đưa lại chĩa vào ông Diệm, xong lại chĩa vào ông Nhu.
Đột nhiên, bằng một cử chỉ rất nhanh, tao thấy ông Diệm bước lên 2 bước, đứng chắn trước mặt ông Nhu, đôi mắt ông nhìn thẳng vào người đại úy Nhung, giọng ông cất lên rất gọn, rất đanh thép:
- Bỏ súng xuống!
Đại úy Nhung run run khẩu súng trong tay chợt thõng xuống, ngưng trong giây lát, rồi được đút vào bao. Ông Diệm quay đầu xuống nói với ông Nhu:
- Lính nó không biết gì… Đừng chấp… Ta đi thôi.
Ông Nhu vượt qua ông Diệm, bước đi trước, ông Diệm đi sau, đi qua nữa là 2 người lạ mặt (sau này mới biết đó là tùy viên Đỗ Thọ và Linh mục Jean). Đại úy Nghĩa chạy nhanh đến trước M113, miệng nói lớn:
- Hạ bửng xuống! Hạ bửng xuống!
Cửa sau xe kêu rè rè và từ từ mở xuống. Trong hầm xe đồ đạc lỉnh kỉnh, nào bi đông nước, nào ca sắt muỗng sắt. Tùy viên Đỗ Thọ chạy lại đưa ông Diệm chiếc cặp đen. Tay trái ông Diệm vừa sờ vào chiếc cặp thì đại úy Nhung chạy tới giật mạnh một cái, chiếc cặp da nằm gọn trong tay đại úy Nhung. Đại úy Dương Hiếu Nghĩa đẩy nhẹ Đỗ Thọ sang một bên rồi chỉ vào nền nhà thờ:
- Anh này lên trên kia.
Lúc ấy tao vẫn đứng ngoài, vẫn nhìn trâng tráo, vẫn đứng yên như phỗng đá. Giây phút ấy tao chẳng hiểu tao nghĩ gì, có cảm giác gì, chỉ thấy nó có cái gì lạ lùng quá, khó hiểu quá. Năm bảy người lính đang vây quanh ông Diệm ông Nhu để phụ đưa 2 ông vào lòng xe. Đại úy Nhung trợn mắt, nhìn ngang nhìn ngửa, bỗng thấy tao hình như tư thế không giống ai, ông ta la lên:
- Ủa, thằng này đứng làm gì đây?
Tao chạy vội vào phía sau xe M113. Vừa lúc đó tao nghe thấy tiếng nói rất rõ của một Hạ sĩ xạ thủ đại liên:
- Dạ dạ, Tổng thống cứ bước lên, đã có con đỡ bên hông rồi… Ê mày, nhẹ nhẹ thôi, coi chừng làm đau Tổng thống.
Cánh cửa xe M113 từ từ đóng lại, tao tự nhiên thấy người mình nặng như chì, leo lên xe 2 lần đều trượt xuống. Lần thứ 3 mới hì hục lên được. Đứng bên cạnh tao lúc đó là 2 anh hạ sĩ xạ thủ đại liên. Tao vừa thở hào hển vừa nói:
- Sao không để 2 ông ấy đi xe jeep cho tiện, đút vào đây làm chi cho cực?
Anh Hạ sĩ ghé vào tai tao, giọng nói lạnh như tiền:
- Ông ngu bỏ mẹ đi ấy. Nếu người ta muốn “đón” thì đi bằng xe jeep. Còn muốn “giết” thì còn gì kín đáo hơn là hầm chiếc xe này.
Nghe xong tao bất giác lạnh từ xương sống lên tới đầu. Giết? Sao lại giết? Có gì mà đến nỗi phải giết? Đối phương đã đầu hàng, đã xin chịu thua, nhất là đã chỉ chỗ cho mình đến mà đưa người ta đi. Vậy thì cách chức, đuổi cổ người ra khỏi nước đã là nhục lắm rồi, cớ chi mà phải giết? Nghĩ tới đó tao thấy kinh hoàng, thấy hoảng hốt, thấy rõ ràng rằng đi đón người theo cái cung cách ấy thì đúng là đem đi “làm thịt”.
Đồng thời, một cảm giác khác làm tao tê điếng, run rẩy cả người khi nhớ ra rằng tao đang “ngồi” trên đầu một vị Tổng thống. Quả thực tao chỉ muốn co giò nhảy mẹ nó xuống đất, rồi muốn ra sao thì ra.
Chiếc M113 rú lên từng hồi, rồi rầm rộ rời nhà thờ cha Tam, chạy đến đường Đồng Khánh. Khi tới đường Nguyễn Trãi thì tao thấy đoàn xe đâu mất hết. Ngoài chiếc M113 của tao chở Tổng thống Diệm và ông Nhu, chỉ còn một chiếc xe jeep chạy đầu. Xe này tao biết chắc như bắp là xe của tướng Mai Hữu Xuân lúc đi, nhưng bây giờ thì ông ta biến đi đâu mất, trên xe ngồi đứng 5, 6 người, súng ống chỉa lên trời, lựu đạn đeo lủng lẳng xem đến là hùng dũng. Hết đường Nguyễn Trãi, xe tiến vào đường Võ Tánh và ngừng ngay trước trụ sở Tổng Nha Cảnh sát Quốc Gia.
Hôm ấy Tổng Nha CSQG không còn một bóng dáng cảnh sát. Đâu đó chung quanh các ngả đường, trước trụ sở toàn là anh em binh sĩ của Sư Đoàn 5, súng lăm lăm cầm tay canh gác rất cẩn mật. Từ trong một xe jeep khác chạy ra, trên xe có một Đại tá, ông ta chỉ tay lên chiếc xe của tao rồi ra lệnh:
- Xuống! Xuống hết! Tất cả ở ngoài đứng chờ lệnh, chỉ có chiếc xe này được chạy vào với một tài xế và… anh kia.
Theo tay chỉ thì anh kia là anh chàng Hạ sĩ xạ thủ đại liên. Bảy người trên xe nhảy xuống cùng với tao. Anh em bên chiếc xe jeep chạy đầu chung số phận… là ở bên ngoài ngắm cảnh.
Đúng ra, lúc này tao cứ ngỡ đến đây là hết. Giết hay giam ông Diệm thì chắc hẳn là nơi này. Tao định bụng chờ một tiếng đồng hồ mà không có lệnh lạc gì thì dù về nhà ngủ một phát cho quên cái sự đời. Mà nào ngờ, 20 phút sau, chiếc M113 lại lù lù chạy ra, tới cửa nó chạy chậm lại để chúng tao đu lên. Rồi a lê hấp xe rú lên vọt chạy như ma đuổi.
Xe chạy ngược lại đường Võ Tánh rồi quẹo phải, đến đường Cộng Hoà. Tao nhìn chàng Hạ sĩ, thấy mắt nó dại đi, mặt tái mét, mười ngón tay như muốn co rúm lại. Tao thì thầm bên tai nó:
- Ông Diệm ông Nhu đâu?
- Ở dưới.
- Sao rồi?
- Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện.
- Còn ông Diệm?
- Ông bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào thùng xe.
- Chết hay sống?
- Không biết.
- Người ta là ai?
- Không biết.
Xe tao cùng chiếc xe jeep chạy qua đường Pétrus Ký thì tới ngã rẽ Hồng Thập Tự, bên kia là Lý Thái Tổ, đường Hùng Vương, bên trái là đường Nguyễn Hoàng, thì gặp lại đoàn xe của Đại tá Lắm, Đại úy Nguyễn Văn Nhung – Phan Hòa Hiệp – Dương Hiếu Nghĩa, gồm 2 xe jeep và một M113, hai GMC, chở đầy nhóc binh sĩ. Mới thoáng qua thì cuộc gặp gỡ tưởng là vô tình, nhưng tao đoán trước là có bố trí sẵn. Thế là đội hình mau chóng được xếp lại.
Xe đại tá Lắm đi đầu, kế là xe tao, sau đó xe của đại úy Nhung… Tao quay đầu lại thì thấy mấy chiếc kia hình như đang bị khựng lại vì bị dân chúng ùa ra hoan hô. Tuy nhiên, ba chiến xe dẫn đầu cứ chạy. Qua ngã tư Cao Thắng – Hồng Thập Tự, khoảng bên hông bệnh viện Từ Dũ thì tạm ngừng lại, vì bên kia chạy ngược chiều là đoàn xe nhiều chiếc của tướng Mai Hữu Xuân. Lúc đó có một số đồng bào thấy lạ nên đổ xô đến. Tướng Xuân xuống xe đứng bên này đường.
Ông nhìn về xe đại úy Nhung, ra tay trái 3 lần đưa lên 2 ngón tay, rồi đưa tay phải qua khỏi đầu, ngón tay trỏ được duỗi ra co vào đến 4 lần (giống như bóp cò súng).
Lúc ấy tao chẳng hiểu ông Tướng chơi cái trò gì, chỉ thấy đại úy Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào. Đoàn xe của tướng Xuân chạy đi thì 3 chiếc xe bên này cũng lăn bánh. Mới chạy được một quảng ngắn thì phải ngừng vì có đoàn xe lửa sắp chạy qua.
Trong giây phút chờ đợi, đột nhiên đại úy Nhung từ trên xe jeep bên hông xe M113 nhảy sang xe tao. Miệng hét:
- Xuống! Xuống!
Tao cóc đoán được chuyện gì. Bảo xuống thì tao nhảy xuống. Mấy thằng khác cũng xuống theo. Chân vừa chạm đất, tao bỗng nghe nhiều tiếng súng nổ. Âm thanh không chát chúa, chỉ nghe văng vẳng, vì không phải nổ ở bên ngoài mà nổ ở trong lòng chiếc thiết vận xa. Tao biết chuyện gì đã xảy ra. Tao ngửa cổ nhìn lên trời, trời cao xanh thăm thẳm. Tao cắn chặt môi cố ngăn những giọt nước mắt không chảy ra để thấy tâm hồn như bị chẻ đôi, để thấy cõi lòng như đang trải qua cơn giông bão tang thương thê thảm nhất cuộc đời.
Người lính già châm điếu thuốc thứ mười, qua làn khói mờ mịt, trông dáng dấp, khuôn mặt và tư thế ngồi của ông như bức tượng “Thương Tiếc” ngày nào trước nghĩa trang quân đội. Ông tâm sự với Thằng Bờm giọng đều đều như kể chuyện:
- Mày đã đọc nhiều sách báo viết về những giây phút cuối cùng của ông Diệm. Tao cũng có đọc một số, đọc để thấy thiên hạ bị lừa đến một nửa. Thật ra các tác giả không ai lừa người đọc, vì chính họ cũng bị lừa, và họ chỉ biết sự thật có phân nửa, để rồi mọi người chỉ biết một cách đại khái rằng ông Diệm ông Nhu bị bắt ở nhà thờ cha Tam và trên đường giải về Bộ Tổng Tham Mưu thì bị đại úy Nhung bắn ở đường Hồng Thập Tự.
Nhưng nếu mọi người tinh ý một chút, một chút thôi, thì sẽ có ngay một dấu hỏi, vì qua tấm hình do phóng viên ngoại quốc chụp được khi ông Diệm Nhu bị bắn chết thì hai ông BỊ TRÓI giật cánh khuỷu và trên đầu ngoài những vết đạn lỗ chỗ, thì trên người còn đầy những vết dao đâm. Như thế thì hai ông BỊ TRÓI ở đâu? Bị ĐÂM ở đâu? Nếu không phải là cái thời gian 20 phút ở trụ sở Tổng Nha Cảnh sát Quốc Gia thì còn ở chỗ nào nữa?
Tiếc thay chỉ không quá 8 người biết được rằng trên đường về, chiếc xe định mệnh chở một vị Tổng thống còn được lệnh ghé qua bộ chỉ huy cảnh sát ấy! Và hỡi ơi, nếu thực đúng như lời anh chàng Hạ sĩ xạ thủ đại liên, thì cả 2 ông Diệm Nhu đã bị thanh toán tại nơi này, thì đại úy Nhung cũng “bị lừa” ông ta chẳng qua chỉ là con vật tế thần cho các xếp lớn dùng mẹo đổ vấy lên ông cái tội đã dám bắn một Tổng thống, nhằm giấu đi cái bản mặt và đôi tay đẫm máu của họ. Ôi, đời đểu giả thật!
SOURCE: Fb ĐẤT MẸ - Minh Anh Jessica
.
CHUYỆN ÔNG THIỆU
(Hoàng Long Hải)
Các nhà
viết Sử không thể hoàn toàn căn cứ qua những gì trên những lời Đồn Đãi để viết
thành Sách, nhưng trên thực tế, nhiều khi những lời Đồn ấy lại chính xác hơn
những gì viết ra trên giấy trắng mực đen. Sở dĩ có lời Đồn Đãi là vì có
người muốn che giấu, nhất là giới thống trị. Để bảo vệ quyền lợi, bọn thống trị
chỉ muốn khoe khoang những cái gì chúng cho là hay và giấu biệt những gì xấu
xa, tàn bạo.
Các chế độ chuyên chính thường giống nhau ở chỗ đó. Sau khi các tay độc tài
nhắm mắt rồi, chuyện “ Thâm Cung Bí Sử ” mới được bật mí. Báo cáo của
Khrushchev trong đại hội đảng CS Liên Xô lần thứ 25 làm thế giới kinh ngạc, hồi
ký về Mao của BS Lý Chí Tuy làm người ta thích thú. Ngạc nhiên hay vui thích là
vì người ta đọc, đọc vì tò mò, nhất là lịch sử những nước “ huê dạng ” như Tây,
Tàu.
Hồi đầu thập niên 60, giới “ người đọc ” miền Nam thích thú với loạt bài “ Thanh
Cung 13 triều ” trên nhựt báo Tự Do Saigon. Tiếp theo là những “ Thâm Cung Bí
Sử ” khác nữa, của “ Cậu Cẩn ”, “ Bà Nhu ” và dài dài giới cầm miền Nam sau đó.
Sau 1975, người Việt Nam lại thích và buồn cười về những câu chuyện “ Mặt Thật
” của cha già dân tộc. Té ra cũng chỉ là những câu chuyện tầm thường của những
con người tầm thường : “ trâu già ưa gặm cỏ non ”, cỏ Tây, cỏ Tầu, cỏ Nga và cả
cỏ vùng sâu, vùng cao của những “ Nụ cười sơn cước ”.
Trần Phú Trắc, khóa 21 Bộ Binh Thủ Đức, sĩ quan Tiểu Đoàn 5 Dù, con bà Bảy Phận, chị ruột Tổng thống Thiệu, bạn thân với “ Hùng móm ”, - con út của Mẹ tôi – trong binh chủng Dù. “ Hùng móm ” hy sinh ở chiến trường Quảng Trị ngày 14 tháng 7 năm 1972.
Trắc là ngưởi may mắn sống sót sau chiến tranh, trình diện “ đóng tiền đi ở tù
” ngày 25 tháng 6 năm 1975. Tôi cũng vậy. Ba ngày sau, chúng tôi bị chuyển lên
Trảng Lớn. Nghe tôi là anh của “ Hùng móm ”, Trắc tìm, nhận nhau như là anh em.
Trong cuộc đời tù dài dằng dặc, từ Trảng Lớn, đi Nam Giao, về Suối Máu, ra Xuân Lộc; dù Trại A, Trại B, Trại C, Trại Cây, Trại Đá, Trại Đồi Phượng Vĩ, Trắc và tôi, - Trời đư đất đẩy - hay “ Trời thương ”, hai anh em chúng tôi bao giờ cũng có nhau, khi cố nuốt củ khoai mì sượng, khi rau muống, rau lang, khi phá rừng làm rẫy, khi phá đất trồng mì, khi cả hai cùng nghe tin mẹ qua đời, anh em cùng nhau chan hòa mồ hôi nước mắt, - theo đúng nghĩa đen của nó - cũng như những đêm nằm bên cửa sổ nghe tiếng mưa rơi, và cũng không ít khi nằm ngắm trăng treo ngoài cửa, để nhớ về đủ thứ, thèm đủ thứ và thích… đủ thứ.
Bảy năm Trời sống bên nhau, nằm sít bên nhau có khi chưa đầy gang tấc, biết bao nhiêu tâm sự đổ đầy tai nhau, từ chuyện riêng tư, chuyện tình yêu, chuyện gia đình, chuyện bà con thân thuộc và cả chuyện “ Anh Tám Thẹo ” như chúng tôi thường gọi đùa. Xin tha lỗi. Thế gian vẫn thường “ Gần chùa gọi bụt bằng anh ”.
Có lần tôi nói với Trắc, “ moi ” là người tò mò. Tò mò cho biết, biết rồi, nhưng “ Để riêng tây như có chỗ không đành ”, lỡ như mai kia còn sống sót, “ moi ” sẽ viết lại vài chuyện thâm cung của “ Anh Tám Thẹo ”, “ nhà ngươi có buồn chăng ? ”
Trắc nói
từ tốn. Chuyện đời mà anh. Dù anh có viết thành chuyện của ông Tám hay không,
thiên hạ rồi cũng biết. Trong đời, có ai giấu ai cái gì với đời được. “ Xin anh
cứ tự nhiên ”.
Câu chuyện ấp ủ từ những ngày trong tù, đến nay đã năm mươi năm. Tiếc chi nữa
mà tôi không viết ra, như để kể lại với nhau những lời tâm sự trong những ngày
lao lý, không phải vì thương hay ghét ông Thiệu, lại càng không phải vì bà
Thiệu mới qua đời. Qua rồi một tấn tuồng đầy đau xót của dân tộc, của kẻ lưu
vong. Đúng hơn. Đây là một tấm lòng đối với “ Hùng móm ” vị quốc vong thân, với
Trắc đang sống những ngày cuối đời đâu đó ở quê người.
Một tấm lòng, chỉ một tấm lòng mà thôi, như Mẹ tôi thường dạy.
hoànglonghải
HUYỆT ĐẾ VƯƠNG
Khoảng
cuối thập niên 70, báo chí Saigon một dạo rộ lên bàn luận về câu nói, - nhân
một dịp nào đó, - của ông Thiệu là phải được huyệt đế vương mới
làm Tổng Thống. Lúc ấy tôi đã bỏ cục phấn, đi cầm súng, lòng không ưa gì mấy
ông Tướng Tá, cứ cho rằng “ Thời thế tạo anh hùng ”, mà có anh hùng gì cho cam,
chẳng qua “ Sống lâu lên lão làng ” súng đạn “ chê ”…
Còn như với giới chính trị gia, báo chí chê là “ xa-lông ”, dùng phe đảng để
làm “ Con cò mà ( mò ) ăn đêm ” chớ có tinh thần gì đâu !
Bấy giờ ông Tướng, ông Tá nào cũng nghĩ rằng mình có thể làm Thủ Tướng, làm Tổng Thống dễ như chơi. Một lần đảo chánh… là xong. Phạm Văn Đính, lúc đó mang lon Thiếu Tá, làm Quận Trưởng Quảng Điền, tới chơi nhà bạn học cũ là Nguyễn Thành Hương – sau nầy làm chánh sở giáo dục Phú Yên – nói thiệt mà chơi : “ Kỳ làm Thủ Tướng được, tao làm Thủ Tướng cũng được vậy ”. Tiếc cho Đính, năm 1972, đem Trung Đoàn của y mà đầu hàng Việt Cộng ở giới tuyến.
Về việc “ huyệt đế vương ”, tôi cứ nghĩ, ông Thiệu khôn ghê. Trong tình hình đảo chính lung tung ở Saigon như hồi đó, chẳng qua ông Thiệu tung tin “ huyệt đế vương ” chỉ để giữ cái ghế của ông mà thôi. Mấy tay ưa đảo chánh hãy suy nghĩ lại đi. Ông Thiệu có “ huyệt đế vương ” nên mới được cái chức Tổng Thống, ai không có “ huyệt đế vương ” thì đừng hòng.
Mấy năm sau, khi ở trong tù Cộng Sản, tò mò hỏi Trắc – người tôi đã giới thiệu ở phần trên – Trắc phủ nhận câu chuyện “ huyệt đế vương ”. Tính lại, mãi khi ông Thiệu làm Tổng Thống mấy năm, năm 70 hay 71 gì đó, thân sinh ông Thiệu, cụ Nguyễn Văn Trung, mới qua đời ở Saigon, làm đám ma ở đường Tú Xương, Saigon, an táng ở Nghĩa Trang Mạc Đỉnh Chi. Khi Nghĩa Trang nầy bị Việt Cộng bắt giải tỏa, chị ông, bà Bảy Phận - Nguyễn Thị Phận - dời mộ cha về Ninh Thuận, làm chi mà có chuyện “ huyệt đế vương ” trước khi ông Thiệu làm Tổng Thống.
Có lần tôi nói với Trắc : “ Báo chí nói ông Thiệu cũng như Tướng Tá miền Nam, một số hay tin tướng số nhảm nhí. “ Moi ” lại nghĩ, chuyện “ huyệt đế vương ” của ông Thiệu chỉ là mánh lới tuyên truyền. Theo “ ông ” nghĩ, ông Thiệu có tin tướng số không ? Người ta bảo việc chi ông Thiệu cũng hỏi cụ Kỹ mà ”.
- “ Tui chưa từng thấy cụ Kỹ trong dinh Tổng Thống. Người ta đồn dzậy thôi. Trong gia đình, ông Thiệu hay khen bà Thiệu có số “ vượng phu ích tử ”. Từ khi ông cưới bà, đời ông lên hương. Tui không rõ ông Thiệu nói thiệt hay “ nịnh vợ ”. Có một dịp tết, ông Thiệu đánh “ xì lác ” với gia đình, con cháu. Ông làm cái. Sau khi ông “ dở ” hết bài của mọi người rồi, ông cười nói, đại ý : " Tao nói rồi, như thằng Nguyên – ông Nguyên ngồi chơi chung – làm sao mà làm Tổng Thống được ? Vợ tao nầy, “ làm quan cho chồng ”, tao làm Tổng Thống đây nè. Số vợ tao mà ”. Xong, ông lấy ba con bài của ông, quẹt xuống dưới bàn, chỗ chân bà Thiệu, xong cười to : “ Bài tao nè. Ăn hết nè. Có bả, chi tao cũng được hết ”.
Ai cũng cười. Trong gia đình, ông Thiệu thường vui đùa với mọi người.
Có lần tôi nói với Trắc :
- “ Theo “ moi ” nghĩ, đời người ta có lên hương hay không là do Thời, Thế và Cơ. Thời là do giặc giã hay thái bình. Thế là động lực thúc đẩy, Cơ là nền tảng, là cái Gốc của con người ta. Gốc đó là tài ba, khôn ngoan, mưu trí, xảo thuật... Ai đời đi lên thì do cái cơ của người ta. Ông Thiệu làm Tổng Thống, trước hết, ông phải có cái Cơ của ông, ông có cái nền tảng của ông, rồi nhờ Thời thế mà đi lên. Dù “ Thời thế tạo anh hùng ”, nhưng người ta không có cái Cơ, cái nền tảng thì cũng trớt hướt luôn.
- “ Anh nói đúng đó. Hôm mới vô trại, thằng “ chính trị viên ” trại nó nói gì anh nhớ không : “ Thằng Thiệu cũng là thằng giỏi đấy. Không giỏi sao thằng Mỹ chọn nó làm Tổng Thống được ”.
- “ Bạn nghĩ đúng không ? ” Tôi hỏi.
- “ Tôi kể chuyện nầy anh nghe. Năm 1965 hay khoảng đó, đang làm Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị, ông Thiệu được lệnh đi học ở trường Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, bên Mỹ. Toán du học gồm mấy ông Trung Tá, Đại Tá, ông Thiệu. Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Lễ làm trưởng đoàn. Bấy giờ Đại Tướng Maxwell Taylor làm Chỉ Huy Trưởng trường nầy. Maxwell Taylor đặc biệt lưu ý ông Thiệu, có gọi ông Thiệu lên văn phòng ông Đại Tướng. Về sau, khi ông Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, làm Tổng Thống là lúc ông Taylor đang làm Đại Sứ Mỹ tại Saigon. Anh có nghĩ có phải đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên không ? ”
- “ Trong đường lối chính sách của Mỹ, không có chuyện tình cờ - Hazard, “ mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm ”. Họ chuẩn bị sắp đặt đâu đó cả. Mười năm, hai mươi năm nữa: Nước Mỹ đi tới đâu, quân đội Mỹ phát triển tới đâu, tàu bay, hỏa tiễn Mỹ được chế tạo tới đâu… và chuẩn bị ai sẽ là người lãnh đạo nước Mỹ, ai lãnh đạo chư hầu, tay sai Mỹ là ai, nước nào… Đừng có nghĩ Mỹ “ tới đâu hay đó ” “ ông ” ơi…
- “ Tui không nghĩ tới đâu hay đó. Ngay khi du học bên Mỹ hồi đó, ông Thiệu có tên trong sổ rồi… ”
- “ Thân phận nhược tiểu là vậy đó ông. Trước 1954, bọn tư bản Mỹ đã có kế hoạch “ xử dụng nhân lực ” các nước Đông Dương rồi. Sá chi ông Thiệu ”.
Thật ra, gốc gác của ông Thiệu cũng không phải ở Ninh Thuận. Theo lời Trắc kể, ông cụ thân sinh ông Thiệu, thuở còn trẻ là một kép Hát Bội – hồi đó cải lương chưa “ phát triển và thịnh hành ” như sau nầy. Đây là một gánh nhỏ, di chuyển bằng ghe, từ xã nầy qua huyện kia, mỗi nơi vài ba đêm, kiếm sống qua ngày, như kiểu “ Hát Bội Giữa Rừng ” trong “ Hương Rừng Cà Mau ” của Sơn Nam. ( Anh ) kép hát bỏ quê ở Cái Bè hay Cai Lậy gì đó, theo nghiệp cầm ca. Thế rồi khi ghé lại hát ở làng Tri Thủy, nghiệp tổ không bền, ( anh ) kép hát, không biết có bị một “ tiếng sét ái tình ” nào nữa không, lìa xa đam mê thời trai trẻ, bỏ gánh lấy vợ, lập nghiệp ở làng vợ luôn. Về sau, khi làm Tổng Thống rồi, ông Thiệu có cho người về Cái Bè / Cai Lậy tìm “ nguồn gốc ” của thân phụ ông, nhưng không tìm được gì. Ai mà còn nhớ một chàng thanh niên, bỏ nhà ra đi khi còn trẻ, cha mẹ dòng dõi như thế nào. Anh em ông Thiệu đành chịu thua. “ Thời gian thường đổi nhớ ra quên ” – thơ Hà Liên Tử nói vậy mà hay.
Nhưng đất Ninh Thuận, làng Tri Thủy của ông Thiệu thì có nhiều cái lạ. Đây là “ điểm Cuối ” sự tồn vong của một dân tộc. Các triều đại Chiêm Thành – có lúc rất vẻ vang – chấm dứt ở nơi nầy. Năm 1832, vua Minh Mạng đổi tên Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận, các ông vua Chàm được đặc ân đổi sang quốc tính – thành họ Nguyễn .
Về sự việc nầy, tôi có viết trong bài nói về phong thủy đất Ninh Thuận.
“ Năm 1793, phiên vương Thuận Thành là Tá ( gọi theo Tiền Biên ; tên Chăm : Po Tithun da parang ) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại. Nguyễn Ánh cho tướng người Chăm của phe mình là Thôn Bá Hú ( tức Nguyễn Văn Hào, gọi theo Tiền Biên, tên Chăm : Po Lathun da paguh ) làm Chánh Trấn Thuận Thành và trong năm 1794 đặt chế độ chánh trấn và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương.
“
Năm 1832, nhân dịp có cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở
phía Nam người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhưng không thành công. Chính quyền tự trị
hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng Đế Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt
quan lại cai trị trực tiếp. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức chấm
dứt.
Nước Chiêm Thành chấm dứt ở nơi nầy.
Còn cái tận cùng thứ hai ?
Không phải do ở cụ Trần Văn Hương hay ông Đại Tướng Dương Văn Minh. Khi ông Thiệu bước xuống khỏi cái ghế Tổng Thống là lúc nước Việt Nam Cộng Hòa coi như xong. Còn ông Thiệu may ra mọi sự còn đôi chút. Ông Thiệu đi rồi là hết. 21/4/75, ông Thiệu từ chức, nhưng chưa rời khỏi Việt Nam thì Mỹ và các chính khứa Saigon hè nhau “ bứng ” ông Thiệu đi cho được. Còn ông Thiệu là còn chống Cộng. Bứng ông Thiệu đi để còn nói chuyện với phe bên kia – Người ta hy vọng hảo huyền như thế đấy. Mỹ cũng muốn Việt Cộng vô cho lẹ đi. Để lâu, lộ âm mưu hết. Đâu có giống như bên Afghanistan, Mỹ chạy làng là có thông báo trước. Còn ở Việt Nam là lường gạt. Mỹ lường gạt quân đội VNCH, Mỹ lường gạt người dân miền Nam. Hồi đó có ai nghe Mỹ tuyên bố gì đâu. Chỉ có một số “ thức giả ”, đoán biết – đoán biết chớ không nghe Mỹ nói gì, hay đám làm chó săn cho Mỹ – Mỹ sẽ bỏ nên lo chạy trước làng, hay chuẩn bị để chạy trước làng. Họ thuộc hạng ăn trên ngồi trốc, cần thì sẵn phương tiện để “ dọt ”, đem luôn cả một “ bầy ” nữ ca sĩ đi theo, để giữ bí mật rằng đã dùng đám nầy làm tình báo, theo dõi mấy ông Tướng Tá, chính “ chị ” gia, bàn chuyện âm mưu đảo chánh. Nữ ca sĩ dễ khai thác đám dại gái nầy nhứt.
Ông Thiệu
người Ninh Thuận. Bằng cách suy nghĩ nào đó, nơi nầy cũng là nơi chấm dứt Việt
Nam Cộng Hòa.
Điềm trời
Trước khi vào làng Tri Thủy, khách đi đường phải dùng phà để qua sông. Khi ông Thiệu làm Tổng Thống rồi, công chánh cho xây một cây cầu để “ Tổng Thống về thăm quê cho tiện ”. Sau 1975, cầu ấy đã cũ hư, chính quyền mới xây lạ cây cầu mới. Mới đây, tôi cũng đã đi qua cây cầu mới nầy. Nghĩ cũng “ buồn tình đời ”. Quê hương ông Thiệu, tôi tới chơi thì được, còn như ông Thiệu có muốn về thăm quê thì không được. Vậy thì làm Tổng Thống để làm gì nhỉ ? Bên Mỹ nầy, sau nội chiến 1861-65. Có bao giờ, nhân loại, các dân tộc hoặc ngay khi cả trong cùng một dân tộc, lại thù hận nhau đến như thế ? Nói chi xa, ngay như bản thân mình, gặp thằng Việt Cộng là phải nổ súng ngay, không nhanh tay thì nó giết ta. Một dân tộc lạ kỳ. Hễ gặp nhau, không chào mừng mà phải nhanh tay giết nhau, coi nhau như kẻ thù không đội trời chung.
Lý do ? Lê Duẫn giải thích rất rõ : “ Kẻ nào không theo ta là kẻ thù của ta ”. Ta theo Cộng Sản, là cùng phe với Cộng Sản. Nhưng giả tỉ như ta không theo Cộng Sản, ta cũng không theo phe Quốc Gia, ta không theo phe Tự Do, không đứng về phía Thế Giới Tự Do, ta chỉ là người dân thường, thì ta vẫn cứ là kẻ thù của Cộng Sản, bởi vì theo như Lê Duẫn “ dạy ” cho người Cộng Sản ở câu nói trên “ không theo ta ” là “ kẻ thù của ta.” Một người, một nhóm người, một đảng phái, tuyên truyền, vận động, cổ xúy dân tộc phân ly, chia rẽ, giết chóc lẫn nhau mà nói là có công, là vĩ đại, là vinh quang… thì khó hiểu thật. Nói như cách của Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, - thì nhìn ngược lại, - ai có công đoàn kết dân tộc, bảo vệ dân tộc, chống ngoại xâm là tội lỗi hay sao ?
Đó là nhìn vấn đề trên bình diện dân tộc
Trên bình diện văn hóa thì sao ?
Đó là một nền văn hóa mềm, hiền hậu, thương người. Văn hóa chữ Nhân của Khổng,
Từ Bi - Hỉ Xả của Phật, không phải một thứ văn hóa cứng như vùng chung quanh
Địa Trung Hải, lấy hận thù làm đầu và giết nhau không gớm tay như trong các
cuộc Thập Tự Chinh.
Đem cái văn hóa cứng ấy, truyền thụ, giáo dục cho những dân tộc trưởng thành, hấp thụ văn hóa mềm, quả thật không những sai đường mà còn đi ngược chiều dân tộc. Trong viễn tưởng đó, tội lỗi của người Việt theo Cộng Sản không phải là nhỏ.
Trở
lại câu chuyện Phong Thủy làng Tri Thủy có gì đặc biệt ?
Bên kia sông là làng Tri Thủy.
Ngay đầu
làng là Bãi Đá Dao: Bài đã lớn, giữa là hòn đá dao. Tảng đá hình mũi dao, chĩa
thẳng lên trời, thẳng góc với mặt đất 90 độ. Bên kia Bãi Đá Dao, qua một cái
vịnh nhỏ cũng lại là một hòn đá lớn, hình thù xấu xí nên người ta gọi là Đá Mặt
Quỷ
Có phải Đá Dao biểu tượng cho cái tốt. Vậy thì Đá Mặt Quỉ tương trưng cho cái
xấu ? Hòn Đá Dao đứng thẳng, mạnh mẽ là ở cái thế cái tốt chế ngự cái
xấu.
Nguyễn Văn Tiếp, cựu Thiếu Tá, Chánh Sở Tâm Lý Chiến, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Vùng 2, cùng trại tù Cải Tạo với tôi, L3/ T3 Trảng Lớn, kể cho chúng tôi nghe rằng hồi 1975, trước khi “ đứt phim ”, ông được lệnh đi Ninh Thuận điều tra vụ “ sâu bò qua đường ” có hay không, thực hư như thế nào. Tiếp kể : Anh đã phỏng vấn vài tài xế, chụp hình những dấu tích, và cũng lấy làm lạ, tại sao một sự kiện lạ lùng như thế mà có được.
Thấy hòn đá bị nghiêng, thấy sâu bò thành hàng dài, người dân Tri Thủy, dân Phan Rang và cả người miền Nam bỗng sợ: Đá Mặt Quỷ thắng thế, có nghĩa quỉ sẽ dậy, có nghĩa là Cộng Sản sẽ thắng. VNCH sẽ thua… Nước sẽ mất ?
Đúng là một điềm trời về một chuyện gì đó trọng đại sắp xảy ra, nếu đó không phải là ngày miền Nam sụp đổ, một cuộc đi dân vĩ đại sắp xảy ra…
Ninh Thuận không phải là tỉnh cuối cùng của L’ Empire d’ Annam. Phan
Thiết giành mất ngôi vị đặc biệt của nó. Tuy vậy, người ta vẫn coi nó như là
điểm tận cùng của một cái gì đó “ buồn nhiều hơn vui ” : Tận cùng của đất nước:
Trường Sơn, và cũng có thể là hành trình cuối cùng của một dân tộc. Bóng người
đã khuất. Hình ảnh dân tộc chỉ còn là “ Muôn ma Hời sờ soạn dắt nhau đi. ”
Thành ra, ấn tượng về Ninh Thuận không phải sống mà là chết : Tháp Chăm Pô-Klong, núi non hùng vĩ và biển đẹp: Ca Ná, Ninh Chữ, không mang vẻ sống như Phan Thiết mặc dù Phan Rang là cửa ngõ ra biển của Cao Nguyên.
Tám Mọi
Đất nước như thế thì con người thế nào ?
Theo quan điểm thông thường thì đất sinh ra người. Người xưa từng nói “ địa linh nhân kiệt ”. Khó mà không cho rằng Ninh Thuận không phải là đất “ địa linh ” ?
Tôi không nói rằng ông Thiệu không phải là nhân kiệt. Điều đó để người nào biết ông Thiệu tự suy nghĩ lấy. Tôi không muốn tôi là người cầm cờ chạy hiệu cho ai. Thời trẻ bon chen qua rồi. Xông pha kiếm tiền nuôi vợ con đã qua rồi, cần gì nữa để phiền lụy tấm thân.
Phan
Rang có nhiều gia đình nổi tiếng giầu có, chỉ là giàu có thôi. Về các mặt khác,
không có gì đáng khen ngợi cả. Quan văn không lớn. Quan võ chỉ đáng cầm cờ cho
Từ Hải. Nếu không có ông Thiệu, chắc gì Phan Rang đã có người đeo sao trên
cổ áo.
Nhưng anh em ông Thiệu thì khác.
Tôi nói “ anh em ” ông Thiệu, tức là không nói riêng gì một mình ông ta. Bố mẹ ông Thiệu không giàu nên khi còn trẻ, việc học hành của anh em ông không được suông sẻ. Ông Nguyễn Văn Hiếu, người anh cả, khi còn nhỏ không được đi học. Mãi khi hơn mười tuổi, ra Phan Rang “ ở ” nhà bố mẹ ông Ngô Xuân Tích, - sau nầy thời ông Thiệu, làm Chủ Tịch Giám Sát Viện – thấy ông Hiếu thông minh quá, gia đình nầy mới giúp ông Hiếu đi học. Tuy đi hoc trễ, ông Hiếu vẫn học giỏi và nhanh. Ông được du học ở Pháp và tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa. Ông là một viên chức cao cấp trong chính quyền “ Quốc Trưởng Bảo Đại ”, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Đài Loan thời ông Thiệu làm Tổng Thống. Người thứ Sáu – Sáu Kiểu, Nguyễn Văn Kiểu – cũng là một nhân vật nổi tiếng thời hậu Ngô Đình Diệm.
Ở đây là chuyện của Tám Mọi.
Ông Thiệu thứ Tám - nhà có 7 anh chị em. Tám là Út. Điều lạ của Tám :
Bình thường, khi thức, tim ngươi ta đập bình thường; khi ngủ, tim đập chậm lại. Ông Thiệu ngược lại, khi ngủ, tim ông Thiệu đập nhanh hơn. Ông Thiệu vốn dĩ đã đen, tim đập nhanh, da lại đen hơn, “ đen như mọi ”, nên trong nhà cũng như trong làng ai cũng biết chuyện đó. Ông Thiệu “ chết ” cái tên “ Tám Mọi ” là vì vậy. Đem chuyện ấy hỏi Trắc, Trắc nói : “ Tui ở trong nhà mà anh. Cả làng ai cũng biết, cũng gọi Tám Mọi, nên chẳng ai thắc mắc ”. Tôi cười : “ Moi ” thắc mắc, “ moi ” cho đó là sự lạ ”. Rồi tôi đọc câu thơ của Hàn Mặc Tử : “ Chàng ơi, chàng ơi. Sự lạ đêm qua, mùa xuân tới mà không ai biết cả ”. Tôi cải chính ngay, sợ bọn tù ngồi chung quanh hiểu lầm: Ông Thiệu có sự lạ, nhưng ông có là mùa Xuân hay không là chuyện của lịch sử. Trắc nói: “ Khi ông Thiệu thăm Đại Hàn, Tổng Thống Phác Chính Hy tò mò muốn xem, nhưng không được ”.
Tám Mọi được cái lì.
Tôi hỏi Trắc, báo chí hồi đó gọi ông Thiệu là “ Tổng Lì ” – Có nghĩa là ông Tổng thống ngồi lì, - Có không ?
Trắc hỏi ngược tôi :
- “ Anh nghĩ ông Thiệu có lì không ? ”
- “ Ngồi lì cái ghế Tổng thống thì chưa thấy rõ. Báo chí nói ổng muốn sửa Hiến Pháp để ngồi lì “ Tổng Thống muôn năm ”. “ Moi ” không nghĩ ông ta muốn như thế.
- “ Ông ta là nhà Độc Tài nửa mùa, không phải muôn năm ”, Trắc nói.
- “ Tại sao “ ông ” nghĩ thế ? ”
Trắc trả lời :
- “ Giới chính trị quanh ông Thiệu, ai cũng nói, ông Thiệu chấp nhận đối lập thì muôn năm gì nữa. Đối lập không cho ông ta ngồi lâu, huống gì muôn năm ”.
- “ Còn ngồi lì ? ”
- " Đó là chuyện mấy ông Sư ở chùa Theravada. Chùa Miên nầy ở trên đường Trương Minh Giảng. Mấy chục ông thầy chùa tới biểu tình ngồi lì tại bãi cỏ trước dinh Độc Lập. Ông Thiệu nhờ ông Nguyễn Cao Thăng ra giải quyết nhưng mấy ông sư nầy sợ, không chịu nói chuyện với ông Thăng ".
- “ Sao lại sợ ? ”, Tôi hỏi ?
- “ Ông Thăng là tay “ du thuyết ” giỏi. Ông đánh bại hết các đối thủ, bằng mọi cách. Tiền là mua được hết. Ông Thăng lại là tay “ phú gia địch quốc ”, ai cũng sợ, riêng gì mấy ông Sư Theravada. Không chịu thương thuyết thì thôi, ông Thiệu cứ để cho ngồi. Mấy ông Sư ngồi lì. Ông Thiệu cũng lì, coi ai lì hơn ai. Mấy ông thầy chùa Theravada ăn / ỉa tại chỗ, riết rồi lặng lẽ ra về. Xong một màn đấu tranh lì ”.
- “ Ông Thiệu có tính lì từ nhỏ ? ”, Tôi lại hỏi.
- “ Hồi xưa, bà ngoại tôi làm nghề cho vay. Ai không trả, bà ngoại sai Tám Mọi đi đòi. Người ta chưa trả được, bảo : “ Mày về đi. Mai tao đem tiền tới ”, Tám Mọi nói: “Tui không về đâu. Má tui rầy chết. Dì ( hay thím hay gì đó ), tới nói với má tui. Tui mới dám về ”.
Vậy là ông ngồi lì nhà người ta, khi nào người ta chịu tới hẹn nợ với mẹ ông, ông mới thôi. Làng Tri Thủy, ai không biết cái tính lì của Tám Mọi.
- “ Bình dân hỉ ? Lì là cá tính của người bình dân ”, Tôi nói.
- “ Bình dân là cá tính, có người nói là tính khôn khéo của ông Thiệu. Năm mới “ đậu ” chức Tổng Thống, ổng “ vinh qui bái tổ ”. Dân làng đón ông từ bến đò. Ông Thiệu bắt tay, nắm tay từng người, cười nói : “ Anh Tư, ( hay chị Năm… Ông nhớ tên từng người ), nói: “ Tui là Tám Mọi, về thăm bà con… đây nè…”. Ai ai cũng vui mừng đón Tổng Thống, đến nỗi ngoại giao đoàn đi theo cũng ngạc nhiên về sự bình dân, thân mật của ông với dân làng. Sáng hôm sau, khi ông Thiệu chuẩn bị về Saigon, có anh hàng xóm, đứng bên kia hàng rào, gọi sang: “ Chú Tám. Chú về mà không sang thăm tui ”. Ông Thiệu xin lỗi, rồi qua thăm người hàng xóm, trước khi lên xe rời làng.
Trắc buồn buồn kể :
- “ Cái tình xóm làng của ông Thiệu làm ba tui chết oan. Ba tui trước kia có theo Việt Minh. Trước 1954, ông bỏ kháng chiến về làng cũ sống đời dân thường. Khi ông Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, một hôm về thăm làng. Trên đường đi, ông Thiệu gặp ba tui. Ông Thiệu đứng lại chào hỏi. – Ba tui là Anh Rể của ông Thiệu. – Bỗng trời đổ cơn mưa, hai người vào núp trong ngôi trường tiểu học bên đường. Mấy hôm sau, ba tui bị Việt Cộng bắt, nghe tin bị họ thủ tiêu, mặc dù hai ông chú ruột tui – Trần Phú Mười, Trần Phú Mười Một, (1) - theo Việt Cộng đều làm to. Thật sự, ba tui bị tụi nó giết oan. Hai anh em gặp nhau thăm hỏi chớ có nói gì về việc chống Cộng, chống càng gì đâu ”.
- “ Ông ” có oán gì ông Thiệu không ? ”
- “ Oán gì ? ”, Trắc hỏi.
- “ Vì ông Thiệu mà ba “ ông ” bị Việt Cộng giết ”, Tôi nói.
- “ Ba tui có bị ông Thiệu giết đâu. Việt Cộng giết ông mà. Nghĩ sâu hơn, giữa ông Thiệu với ba tui chỉ có tình anh em, không có hận thù. Khi ông Thiệu đi lính Quốc Gia, thì ba tui theo Việt Minh. Việt Minh hay Cộng Sản, dạy ba tui hận thù người Quốc Gia. Còn Quốc Gia có dạy chúng ta hận thù người Cộng Sản đâu. Mình còn “ chiêu hồi ” nữa mà anh. Có oán thì tui oán Cộng Sản ”.
- “ Vậy là oán Cộng Sản ? ”
- “ Bọn mình ở tù với nhau hơn 5 năm rồi mà anh. Anh biết tính tui, không ưa hận thù ai, không muốn ghét a. Hai thằng chú tôi đều là Cộng Sản gộc ở Thuận Hải cả đấy. Không ưa thì tôi không chơi. Bản tự khai của tui, không có tên hai thằng đó, không khai quan hệ gì cả. Vậy là xong ”.
- “ Ông ” cũng là người nhân hậu như ông Thiệu. Ông Thiệu nhân hậu, người bạn của “ moi ” nhận xét về ông Thiệu như vậy đấy ”
- “ Bạn anh nói sao ? ”, Trắc hỏi.
- “ Moi ” có người bạn làm trong văn phòng cố vấn của ông Thiệu. Có lần “ moi ” hỏi ông ấy: Báo chí phê phán ông Thiệu tham nhũng dữ vậy mà anh chịu làm việc trong Phủ Tổng Thống với ông ta. “ Ông ” biết ông bạn “ moi ” trả lời sao không ” ?
- “ Trả lời sao ? ”, Trắc hỏi.
- “ Ông ta bảo, “ Ông Thiệu là người nhân hậu. ”
- “ Đúng đấy anh Hải. Ông Thiệu là người nhân hậu ”.
- “ Cậu ông thì ông khen. Em của mẹ mà ”, Tôi đùa.
- “ Không đâu anh. Ông Thiệu có tính tốt, tính xấu. Để tui kể anh nghe. Tui là cháu ổng mà. Nhưng anh biết, tui rất vô tư, công bằng ”.
Trắc kể tiếp :
- “ Năm tui học lớp Đệ Nhứt, cùng vài đứa bạn rủ nhau đạp xe từ Phan Rang lên Đà Lạt chơi. Nửa đường, gặp cây cầu, dưới là suối nước trong veo, bèn rủ nhau xuống tắm chơi, “ đường xa, tắm mát ”. Gặp ông Thiệu đi ngang – ông đang làm Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị - Ông dừng lại, cho mỗi đứa hai chục - cộng chung năm đứa là một trăm. Tui chê ít. Ông cười nói : “ Tao ở lính, không có giàu ”. Tính ông thương con cháu, nhưng tiết kiệm lắm ”.
- “ Hồi đó nghèo, sau nầy giàu ”, Tôi nói.
- “ Làm Tổng Thống, ông vẫn vậy anh à. Tết, con cháu vô phủ Tổng Thống chúc tết hai ông bà. Ông lì xì mỗi đứa hai trăm, cháu gái cũng như cháu trai. Tụi tui chê ít. Ổng cười : “ Làm Tổng Thống không phải để làm Giàu. ”
Tôi kể :
- “ Ông Thiệu có ở Huế một thời gian, nay nhiều người còn nhắc tới ông ”.
- “ Tốt hay xấu ?, Trắc hỏi.
- “ Đừng lo. Ông Thiệu không phải là người ưa làm việc xấu ”, Tôi trả lời.
- “ Ông Thiệu có thời làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ”.
- “ Không phải. Thời còn đi học, trước 1945. Hồi đó ông thuê nhà ở phía trên dốc Nam Giao, học ở Pellerin ”.
- “ Nhà ông ngoại tui đâu có giàu mà thuê nhà cho con ở đi học. Tui nhớ rồi. Theo lời ông Thiệu kể là chuyện là như thế nầy. Hồi đó dân Phan Rang ra học Huế cũng đông. Ông bèn thuê một căn nhà, năm bảy người ở chung, nấu ăn chung cho đỡ tốn. Ông Thiệu đứng ra gom tiền trả tiền nhà, “ đi chợ nấu cơm ”, thành ra ông tiết kiệm được tiền cho cha mẹ. Mẹ tui khi kể chuyện ấy, mắt đỏ hoe vì thương em. Ông Hiếu đi trước, rồi giúp các em. Anh em đùm bọc nhau như người Việt Nam mình đó anh ”.
- “ Cũng là chuyện của “ moi ” đó Trắc. Mười bốn tuổi, “ moi ” trốn nhà vô Huế “ tha phương cầu học ”, ngày làm học trò, tối làm thầy giáo gõ đầu mấy đứa con nít tiểu học, kiếm cơm ăn. Đời học sinh nghèo buồn lắm ông à ”.
- “ Anh biết không ? Ông Thiệu rất người ” Trắc nói.
- “ Chuyện gì ? ”, Tôi hỏi.
- “ Buồn cười lắm anh. Một hôm, ông Thiệu ngồi xem TV. Ông Kỳ xuất hiện trên màn hình, cười cười, nói nói, bộ râu kẽm nhúc nhích. Ông Thiệu nói: “ Xem cái miệng thằng Kỳ, giống như lỗ đít người ta ”. Ngồi bên cạnh ông, tui cười thầm. Đúng là “ mặn mất ngon, giận mất khôn ”, chớ tui không hổn láo với ông Thiệu. Tui nghĩ: Tổng Thống mà nói miệng Phó Tổng Thống như thế thì miệng Tổng Thống giống cái gì”.
Tôi nói :
- “ Ông Thiệu tức giận ông Kỳ là đúng đấy. Mỗi người mỗi thời. Ông Kỳ từng làm lãnh đạo miền Nam ba, bốn năm, múa may thế cũng đủ rồi, tiếc gì nữa mà còn thọc gậy bánh xe ông Thiệu. Ai không giận ”.
Một lúc, tôi nói tiếp :
- “ Ông Thiệu biết mình biết người lắm đấy. Khoảng 1972, ông Thiệu mời ông Nguyễn Văn Hai, lúc ấy đang làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Huế vào Phủ Tổng Thống nói chuyện gì không biết, đóng cửa phòng 3 giờ đồng hồ, “ nội bất xuất, ngoại bất nhập ”. Không ai biết hai ông nói chuyện chi: Cải tổ chính phủ, cải cách xã hội, cách mạng giáo dục... Bấy giờ ông Thiệu đang bị vây bủa với nhiều khó khăn... Nhưng sau đó ông Hai không nhận một chức vụ gì cả”.
- “ Tui có biết chuyện đó ”, Trắc nói.
- “ Ông Thiệu kể lại ? ”, Tôi hỏi.
- “ Không. Nhưng có lần ông Thiệu nói: “ Dân Huế chỉ có thể làm cách mạng, không làm chính trị được ”.
- “ Có lẽ dân Huế chịu ảnh hưởng những “ nhà Cách Mạng ” Phan Bội Châu, Hỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Võ Bá Hạp... với các ông vua Thành Thái, Duy Tân, nhất là ông Duy Tân ”.
- “ Có mấy người Huế, khi ông làm to, nhờ cậy ông việc gì đó, ông không từ chối ”.
- “ Moi ” cũng nghe nói vậy ”, Tôi nói tiếp.
Khi tui chuẩn bị nhập ngũ, đến thăm ông, ông bảo: “ Con trai là phải hào hùng ”. Vì vậy, khi tui ra trường Bộ Binh, tui đi Dù. Mẹ tui thấy tui đội mũ đỏ, mẹ tui khóc, nói với ổng: “ Chị chỉ có một thằng con trai. Lỡ nó chết sớm, sau nầy ai hương khói cho chị ? ”. Ông Thiệu phải nói trại: “ Mũ đỏ nầy là lính của tui, của Phủ Tổng Thống, không phải lính Dù ”. Thành ra bọn tui, con cháu ông, đi lính toàn là “ dân đánh đấm ”, không đứa nào nhờ ông để khỏi đi tác chiến cả. Sau nầy, biết tui đi Dù, mẹ tui khóc hoài, ông mới rút tui ra khỏi Dù ”.
- “ Ông là dân Phan Rang, tui muốn hỏi ông một điều. Phan Thiết thì giàu có, phát triển, trong khi Phan Rang thì nghèo, coi như vùng đất chết ? ”
- “ Tui cũng nghĩ như anh, nhưng cũng chịu, không giải thích được ”.
- “ Đà Lạt là nơi ăn uống vui chơi. Hải sản chở từ Phan Rang lên Đà Lạt, phải ngắn hơn từ Phan Thiết lên Đà Lạt không ? Vậy mà Phan Rang không mở mang như Phan Thiết được. Bộ ông Thiệu, Tỉnh Trưởng Ninh Thuận không có con mắt nhìn như mình sao ? ”
- “ Ông Thiệu biết chớ anh. Những năm ông làm Chỉ Huy Trưởng trường Võ Bị, ông về thăm Phan Rang hoài mà. Còn như ông Đại Tá Tự là con nhà nòi mà anh. Dở sao được.
- “ Ông Tự là con trai nhà cách mạng Trần Văn Thạch phải không ? ”
- “ Ông Thiệu chọn ông Tự làm Tỉnh Trưởng Ninh Thuận là chọn lựa kỹ lắm. Nhóm Troskist miền Nam nầy toàn trí thức học bên Tây về không. Cỡ như Tạ Thu Thâu giỏi hết chỗ chê. Cộng Sản sợ lắm, đem giết trước mọi người ”.
- Nhưng “ moi ” vẫn bị ám ảnh về Ninh Thuận, đất tận cùng. Tận cùng Vương Quốc Champa. “ Muôn ma Hời sờ soạn dắt nhau đi.” Đất ma quái “ ông ”, sống làm sao được.
- “ Chiến tranh anh à. Chiến tranh, chỉ có giết nhau mà thôi.
( Tôi vẫn nhớ lời Trắc nói vậy: Chiến tranh. Nhưng năm 2016, về Phan Rang, đi dọc bãi biển Cà Ná, Ninh Chữ... Biển đẹp thế mà đất nước vẫn vậy. Dân tình có khá giả nhờ hòa bình, nhưng phát triển thì không. Linh hồn oán hờn của các ông vua Chàm, Chế Mân, Chế Củ vẫn còn đâu đây, trong tiếng gió hú ban chiều hay tiếng sóng gầm lúc nửa đêm... )
- “ Báo chí nói ông Thiệu hay khoe ông có Chân Mạng Đế Vương ”, Tôi hỏi Trắc.
- “ Trong gia đình, vừa chơi vừa thiệt, ông Thiệu thường nói vậy. Một lần nhân dịp tết, - ngày Tết, ông Thiệu hay bày đánh bài cào, nhân dịp con cháu đến chúc Tết. Có lần, ông được bài – thường thì ông hay được bài – xì lác - hốt trọn – ông nói đùa khi có ông Nguyên ngồi bên cạnh : “ Tui nói rồi. Có Chân Mạng Đế Vương mới ăn trọn như tui. Thằng Nguyên thua được chi cũng không làm Tổng Thống như tui được ”. Ông Nguyên là em rể Tổng Thống, chồng người em gái bà Thiệu.
Ông Nguyên làm Giám Đốc Hải Long Công Ty – công ty độc quyền phân bón. Báo chí phanh phui, lên án ông Thiệu bao che. Thượng Viện điều tra. Điều tra xong, Thượng Nghị Sĩ Trần Trung Dung đem nguyên hồ sơ vào “ ăn sáng” với ông Thiệu. – Ông Thiệu thường tổ chức “ ăn sáng” với một số “ nhân vật cao cấp ” để nói chuyện riêng. Khi ông Trần Trung Dung đưa tập gồ sơ điều tra cho ông Thiệu coi, ông Thiệu cầm hồ sơ để sang phía bên kia, xa chỗ ông Trần Trung Dung, nói: “ Có đáng gì đâu. Mấy ông phải hiểu tui, để cho tui yên ”. Sau đó, ông Trần Trung Dung ra về, với hai bàn tay không. Tập hồ sơ điều tra về vụ Hải Long công ty, bị giữ lại trong Phủ Đầu Rồng.
Tôi có hỏi anh HVX, người “ dựng ” lên đảng Dân Chủ cho ông Thiệu, làm trong văn phòng “ phụ tá Ngân ”, về câu chuyện trên của Trắc, và hỏi thêm “ Không phải tiền bạc là do các tỉnh trưởng “ đóng hụi chết ” cho ông Thiệu ”.
Anh HVX cười, trả lời mạnh bạo :
- “ Làm chi có chuyện đó ”.
- “ Vậy thì Tỉnh trưởng là của ai ?
- “ Ông Thiệu thường chia quyền. Các Tướng Tư Lệnh Vùng chọn Tiểu Khu Trưởng, tức là chọn Tỉnh Trưởng, nên thường có chuyện lôi thôi xảy ra. Tai tiếng nhứt là Tướng Toàn ở Vùng 2, Tỉnh Trưởng là đệ tử ruột của Tướng Toàn. Tướng Nghi thì mang tiếng ở vùng 4, nhất là vụ ông già Lê Văn Duyện ở Bến Tranh. Đứng đắn nhất là Tướng Trưởng ở Vùng 1. Vụ “ Đại Tá Gỗ ” tới tai Tướng Trưởng nên Trung Tá Đỗ Kỳ được lệnh nắm ngay ghế Tỉnh Trưởng tỉnh Quảng Trị.
Anh HVX còn kể, mỗi khi các Tỉnh Trưởng về họp với Tổng Thống để nhận chỉ thị, - như trong các cuộc bầu cử chẳng hạn. Trong khi đang họp thì Đại Tá Cầm đi lấy tiền đâu đó, đem về chi cho các Tỉnh Trưởng, mỗi người trên dưới mười triệu - con số thường là mười triệu – Các Tỉnh Trưởng nhận tiền về địa phương thi hành việc gì đó do Tổng Thống giao phó.
Tôi nói :
- “ Tui tưởng ngược lại chớ, mỗi lần về là phải đóng hụi chết cho Tổng thống chớ ”.
Anh X. không trả lời tôi, lại nói :
- “ Có lần ông Thiệu giải thích: Không đưa tiền cho tụi nó, - tụi nó là các ông Tỉnh Trưởng đấy - tụi nó về địa phương mượn danh Tổng Thống để làm tiền dân, kêu gọi quyên góp để làm việc nầy, việc kia cho Tổng Thống ”.
Kể chuyện đó lại với Trắc, tôi nói :
- “ Thật “ moi ” cũng không ngờ có “ chuyện lạ ” như thế. Hồi “ cậu Cẩn ” còn làm Lãnh Chúa, các Tỉnh Trưởng không những phải đóng tiền mà còn đóng hươu, nai, trăn, rắn cho “ sở thú ” của “ cậu ” nữa.
- “ Ông Thiệu “ tinh ranh ” lắm anh, ông biết mấy cha Tỉnh Tưởng mượn danh ông mà làm tiền dân. Nhiều vụ cũng kẹt, ông Thiệu không làm gì được, như vụ Đại Tá Kh., Thị Trưởng Đà-Nẵng.
- “ Vụ đó “ moi ” cũng biết, khi ông Lâm Sĩ H. đóng cho Đại Tá Kh. ba trăm ngàn, Đại Tá Kh. nói: “ Đây là phần của tui, còn phần của ông Tướng nữa... ”
Có lần tôi hỏi Trắc, cũng như anh HVX., tiền tham nhũng của ông Thiệu lấy từ đâu ra ? Không rõ. Tuy vậy, có lần Trắc nói với tôi, báo chí thường không nắm vững “ thâm cung bí sử ” nên viết bậy. Tôi hỏi Trắc việc gì điển hình nhứt, Trắc kể :
- “ Chuyện ông Trang Sĩ Tấn tính làm rể ông Thiệu chẳng hạn, làm gì có. Ông Tấn tính làm rể ông Nguyên, nhưng cũng không đi tới đâu. Bên ông Nguyên không chịu vì không “ môn đăng hộ đối ”. Chuyện nầy chỉ viết vậy thôi, viết nữa mất lòng.
Ông Thiệu là người nhân hậu, hiền hay thậm chí nhu nhược ?
Người ngoài nhìn vô, sáng hơn chăng ? Cũng không hẵn như vậy. Người Tây, người Mỹ, dù họ có bác ái - bác ái Công Giáo – cũng không giống với Từ Bi, Hỷ Xả của Phật, lại giống với cái Tâm, “ tấm lòng ”, với Trời của người Việt Nam. “ Không trời ai ở với ai. ” cả ông ta với vợ ông, điều mong ước là . Câu chuyện do TS Nguyễn Tiến Hưng kể sau đây, nói lên điều họ mong muốn, như mọi người Việt Nam bình thường, không phải do Chúa biểu ban hay lời Phật dạy:
Có lần ông Thiệu hỏi người Mỹ nghĩ thế nào về ông, chúng tôi nói về một hai khía cạnh: Khen có, chê có, rồi thêm: “ Tôi nghe một Tướng Mỹ nói là Tổng Thống nhu nhược ”. Ông Thiệu hỏi tại sao ? Tôi trả lời là ông ấy nói:“ Tổng Thống không cương quyết đủ để ra lệnh tử hình khi cần thiết để làm gương ”. Ông nhìn tôi giây lát rồi chậm rãi nói: “ Suốt đời, tôi đã tránh không có cái nợ máu ”.
Xét ra thì trong suốt thời gian 10 năm ông lãnh đạo, thực sự đã không có tội nhân nào phải ra pháp trường. Trên bàn thờ nhà bà Thiệu ở Newton, Massachusetts, vẫn còn treo một cái bảng với phương châm do chính ông viết rồi cho người thêu chữ thật to “ Đức Lưu Quang ” ( Ánh sáng của đạo đức tồn tại mãi ). Bà luôn chỉ vào đó mà dạy con cái phải ăn ở cho có đức.
“ Để đức
cho Con ” là ước nguyện của bậc cha mẹ Việt Nam trong cuộc sống hằng ngày.
Ước nguyện đó đã có từ ngàn xưa, trong truyền thống đạo đức và văn hóa của
người Việt. Nó không thuộc về một tôn giáo nào cả, dù đạo Phật, Cao Đài,
Hòa Hảo hay đạo Chúa, mà chính truyền thống dân tộc, như tôn giáo truyền thống
đang tồn tại trên dải đất nầy, và không thuộc tôn giáo nào, nếu tôn giáo đó
thiếu vắng văn hóa truyền thống của người Việt Nam.
hoànglonghải
Mười/ M. một/ 2021
.
CUỘC ĐẢO CHÁNH 1/11/1963
Phạm Bá Hoa
Lời
trần tình
Kính thưa quí vị,
Trước khi bắt đầu tôi rất đắn đo, vì muốn ghi lại sự kiện trung thực ít nhất cũng là trung thực với tôi về những gì mà tôi biết và những gì mà tôi làm, tất nhiên là khó tránh khỏi những đụng chạm đến quí vị, đặc biệt là đối với Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, và Đại Tướng Nguyễn Khánh.
Riêng với Đại Tướng Khiêm và Đại Tướng Viên, là hai vị mà tôi luôn ghi nhớ nghĩa ân, bởi vì tôi không có một thân nhân hay một bạn bè nào quen biết khi bước vào quân ngũ năm 1954. Cho đến cuối năm 1961, đang trong trách nhiệm Trưởng ban hành quân/Phòng 3 Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tôi được cử giữ chức Chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn mà Đại Tướng Khiêm lúc đó là Đại Tá Tư Lệnh. Từ đó cho đến ngày cuộc chiến ngưng tiếng súng trong nỗi tức tưỡi của hằng triệu quân nhân dưới lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, và những lá quân kỳ từng tung bay trong hào quang chiến thắng, tôi có môi trường thuận lợi tiếp xúc với nhiều vị Tướng lãnh cũng như nhiều giới chức trong cơ quan lập pháp, hành pháp, và các cơ quan kinh tế.
Tôi biết có những vị gần như mai danh ẩn tích từ khi đến Hoa Kỳ sau ngày đất nước vào tay cộng sản 30/4/1975, nhưng tôi xin phép được nhắc đến quí vị trong tập sách, và tôi chỉ nói đến quí vị ở khía cạnh quí vị là những vị lãnh đạo Quốc Gia, lãnh đạo Quân Lực, chớ tôi không nói đến những riêng tư của quí vị. Tôi xin tôn trọng phần riêng tư đó. Về những gì tôi viết vào đây, có thể có sự kiện nào đó mà quí vị cho là không chính xác, nhưng theo tôi, tôi thấy đã đủ thận trọng trong cách nhìn của tôi khi viết những trang sách nhỏ này. Biết đâu, có những điều mà tôi nói lên được sự thật liên quan đến quí vị mà nhiều chục năm qua chính quí vị cũng chưa biết đến, và cũng có thể tôi làm sáng tỏ được điều gì đó đối với dư luận dù rằng quí vị cho là có hay không có cũng chẳng sao.
Thế hệ chúng ta đã học nhiều bài học quí báu từ trong lịch sử, và vận dụng vào bổn phận công dân trong trách nhiệm bảo vệ quốc gia. Rồi đây, những thế hệ sau chúng ta, cũng cần đến lịch sử mà thế hệ chúng ta sẽ là một phần quan trọng trong đó, và quí vị là thành phần quan trọng hơn hết trong giai đoạn lịch sử 1954 - 1975.
Lịch sử một dân tộc không thể tự nhiên mà có. Muốn có được lịch sử, tôi nghĩ, sau chặng đường phục vụ quốc gia dân tộc, mỗi người trong bất cứ lãnh vực nào của xã hội, cần viết lại trên giấy trắng mực đen về những hiểu biết xác thực của mình trong từng phạm vi trách nhiệm lúc đương thời, và viết với một trạng thái tâm hồn thật bình thản. Từ đó, những nhà viết sử gom góp lại, chọn lọc, phân tách, đánh giá, và tạo nên những dòng sử qua từng giai đoạn thăng trầm của đất nước. "Tiếng thơm muôn đời hay lời sỉ nhục lưu mãi trong sử sách", không phải người này tạo cho người kia, hay ngược lại, mà mỗi người trong xã hội tự tạo cho chính mình qua những nghĩ suy, những phương tiện diễn đạt, và trong những môi trường hành động.
Tôi không dám nghĩ đây là một sử liệu, nhưng tôi cố gắng ghi chép đúng theo trí nhớ của tôi, để các sử gia may ra tham khảo được đôi điều trong khoảng thời gian nghiêng ngã của đất nước, mà thuở đó, quyền lực nằm trong tay quí vị. So với ấn bản lần 1, lần 2, và lần 3, ấn bản lần 4 này có vài sắp xếp lại về cách trình bày và bổ túc thêm một số chi tiết, vì 1.600 trang giấy học trò mà tôi lén lút viết lại trong thời gian bị giam ở trại tù Nam Hà trên đất Bắc, lén lút gởi về gia đình cất giữ, và khi đoàn tụ với gia đình tôi vẫn tiếp tục viết, đến nay tôi đã nhận đầy đủ từ Việt Nam gởi sang. Cùng với những sự kiện mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng từ năm 1970 đến năm 1975, và cựu Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1965 đến năm 1975, hai vị cho tôi biết thêm nhân khi vợ chồng tôi đến Virginia hồi đầu tháng 9 năm 2003, thăm hai vị và gia đình. Đó là những số sự kiện mà tôi không biết hoặc có biết nhưng không biết rõ, đồng thời hai vị có hỏi tôi một vài sự kiện mà hai vị không biết rõ. Sau đó, vào tối ngày 21 tháng 10 cùng năm (2003), cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm từ Virginia điện thoại xuống tôi ở Houston, Texas, nói chuyện gần 2 tiếng đồng hồ, ông cho tôi biết thêm một số chi tiết nữa, và tôi có hỏi ông về trường hợp Trung Tá Phạm Ngọc Thảo trong cuộc đảo chánh ngày 19 tháng 2 năm 1965. Và tôi được khuyến khích bổ túc vào ấn bản 4 này.
Xin quí vị vui lòng, và trân trọng kính chào quí vị.
Houston, năm 1994, bổ sung năm 2001, 2002, và 2003.
Phạm Bá Hoa
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, Phật tử thành phố Huế biểu tình trước đài phát thanh đòi được treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản, đã bị đàn áp bằng bạo lực gây thiệt hại nhân mạng.
Vài ngày sau đó, Thượng Tọa Thích Tịnh Khiết, vị lãnh đạo tối cao của Phật Giáo đã gởi bản Tuyên Ngôn lên chánh phủ, trong đó, Phật Giáo đòi được hưởng chế độ ngang hàng với Thiên Chúa Giáo. Chánh phủ đã bắt giam nhiều chức sắc lãnh đạo của Phật Giáo tại nhiều nơi, nhất là tại Huế.
Trung tuần tháng 6/1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức, trụ trì một ngôi chùa nhỏ vùng Phú Nhuận (Sài Gòn), đã tự thiêu tại góc đường Lê văn Duyệt và Phan đình Phùng, trung tâm thủ đô Sài Gòn, trước các ống kính của rất nhiều nhà báo Việt Nam và ngoại quốc. Rồi sau đó, lần lượt thêm bảy tám vụ tự thiêu nữa tại các tỉnh. Không khí chính trị sôi sục với những cuộc mít tinh biểu tình của đông đảo sinh viên học sinh, đồng bào -nhất là đồng bào Phật tử- lác đác có cả Quân Nhân viên chức và Cảnh Sát nữa. Nhiều phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình ngoại quốc -nhất là Hoa Kỳ- đến Việt Nam ghi nhận và đánh giá tình hình.
THIẾT QUÂN LUẬT
Trước khi hết giờ làm việc chiều ngày 20/8/1963, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, gọi tôi vào văn phòng:
- Tối nay, chú với mấy chú văn phòng làm việc tại đây. Chú cho mấy chú luân phiên về dùng cơm rồi trở lại ngay. Chú cần hỏi gì thêm không? -
- Có cần ngủ lại đây không, thưa Thiếu Tướng? -
- Có thể không cần. Sẽ có lệnh sau -
Đây là lần đầu tiên kể từ khi cầm quyền vào tháng 7/1954, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh bộ Tổng Tham Mưu ban hành lệnh thiết quân luật trong phạm vi thủ đô Sài Gòn để Cảnh Sát cùng mật vụ bao vây các chùa, tìm bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang, vị sư được xem là lãnh đạo Phật Giáo. Nhưng với sự trợ giúp của nhân viên trong tòa đại sứ Hoa Kỳ, Thượng Tọa đã vượt rào vào khuôn viên tòa đại sứ và được phép tạm trú nơi đây.
Thế là, từ đòi hỏi trong bản Tuyên Ngôn không được giải quyết, đến các vụ tự thiêu để phản đối chánh phủ, rồi đến vụ nhà cầm quyền vây bắt hụt Thượng Tọa Thích Trí Quang, dần dần đẩy Phật Giáo đến cuộc tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động tại hầu hết các tỉnh miền Trung và một số tỉnh miền Nam, đã làm cho tình hình chung của Việt Nam Cộng Hòa trở nên tệ hại hơn bao giờ hết, kể từ sau Hiệp Định Đình Chiến Genève năm 1954.
Đấy là phản ứng quyết liệt của giáo hội Phật Giáo và Phật tử trên toàn quốc.
Với một tình hình như vậy, đã làm cho hầu hết các nước trong khối Tự Do, kể cả Hoa Kỳ là quốc gia ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mạnh mẽ nhất, đều phản đối chính sách tôn giáo trong hành động đàn áp bắt giữ các chức sắc Phật Giáo và Phật tử Việt Nam. Trước dư luận quốc nội lẫn quốc tế, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khó mà biện minh chính sách kỳ thị tôn giáo, cho dù lệnh cấm treo cờ Phật Giáo cũng như lệnh dùng bạo lực trực tiếp hay không trực tiếp do Tổng Thống ban hành cũng vậy. Vì thuở ấy, quyền lực rất lớn trong tay hai em của Tổng Thống là ông Ngô Đình Nhu "Cố Vấn Chính Trị" và ông Ngô Đình Cẩn "Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung".
Ông Ngô Đình Diệm, được Quốc Trưởng Bảo Đại mời về Việt Nam vào giữa năm 1954 và nhận chức Thủ Tướng ngày 7/7/1954. Thật ra thì Quốc Trưởng Bảo Đại cũng không bằng lòng cho lắm khi giao chức Thủ Tướng cho ông Diệm, nhưng vì không có cách lựa chọn nào khá hơn. Với lại từ trong hậu trường, ông Ngô Đình Diệm đã được Hoa Kỳ ủng hộ.
Ông Bảo Đại là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã bị Việt Minh cộng sản cưỡng bách thoái vị vào mùa thu năm 1945. Đến năm 1949, chánh phủ Pháp đưa về Việt Nam (từ Pháp) nhận chức Quốc Trưởng do Pháp "đề cử" dù là có những cuộc hội họp của các nhà chính trị Việt Nam như là sự vận động với Pháp, để giúp cho cuộc chiến tranh xâm lược lần hai của thực dân Pháp khả dĩ có màu sắc cuộc chiến tranh nội bộ của Việt Nam, mà nước Pháp có mặt để "giúp đở"(!) Việt Nam chống cộng sản. Với chức vụ cao nhất nước cho dù bị giới hạn quyền hành, nhưng ông đã không tận dụng thực dân Pháp để vừa xây dựng quốc gia non trẻ vừa chống lại chủ nghĩa cộng sản đang bắt rễ tại Việt Nam, mà ông lại sống nhàn nhã trên đất Pháp nhiều thời gian hơn là có mặt trên quê hương Việt Nam đầy sóng gió!
Trong khi đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm dựa vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, ông bắt đầu có những chống đối Quốc Trưởng, và đặc biệt là ông đã không tuân lệnh Quốc Trưởng gọi sang Pháp nhận lệnh. Thủ Tướng Diệm vội vã xúc tiến tổ chức cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 23/10/1955. Kết quả là cựu hoàng Bảo Đại bị truất phế khỏi chức Quốc Trưởng, và Thủ Tướng Diệm trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam từ ngày 26/10/1955. Từ đó, ngày này được chọn làm ngày Quốc Khánh hằng năm. Tiếp sau, Tổng Thống Diệm công bố: "Việt Nam là một nước Cộng Hòa", và danh xưng của Việt Nam là "Việt Nam Cộng Hòa".
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong những năm đầu cầm quyền, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập bang giao. Ông đã ổn định được cuộc sống cho non một triệu người từ miền Bắc chạy trốn chế độ cộng sản trước khi chúng tiến vào các thành phố trên đất Bắc theo Hiệp Định đình chiến Genève 20/7/1954. Hiệp Định này chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà trên địa thế là sông Bến Hải với cầu Hiền Lương. Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chế độ độc tài do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ dân chủ tự do. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng đã cải thiện được tình hình kinh tế xã hội trong mức độ khả quan.
Về quân sự. Theo sự cố vấn của phái bộ quân sự Hoa Kỳ, quân đội đã được tổ chức lại và phát triển từ cấp Tiểu Đoàn lên cấp Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân Đoàn, trên căn bản quân đội trong chiến tranh qui ước. Mọi dụng cụ chiến tranh trang bị cho quân đội, đều do Hoa Kỳ cung cấp.
Về chính trị. Ông đã thành công đáng kể trong nổ lực ôn hòa lẫn sử dụng võ lực trong mục đích đem lực lượng võ trang của Bình Xuyên, của Hòa Hảo, và Cao Đài về hợp tác hoặc giải thể. Lực lượng võ trang Phật Giáo Hòa Hảo và Cao Đài, là hai lực lượng chống cộng sản quyết liệt.
Đó là sự thành công bước đầu không ai phủ nhận được. Nhưng, dần đần về sau, chế độ dưới quyền Tổng Thống đã thể hiện tính cách "gia đình trị", bởi vì ngoài Tổng Thống ra, còn có:
- Thứ nhất, em trai Ngô Đình Nhu trong chức vụ Cố Vấn Chính Trị, và vợ ông Nhu là bà Trần Lệ Xuân, rất nhiều quyền lực trong tay vì Tổng Thống Diệm vẫn còn độc thân.
- Thứ nhì, em trai Ngô Đình Cẩn trong chức vụ không hề có trong tổ chức quốc gia là Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, ông sống độc thân. Là người không có văn bản bổ nhiệm nhưng lại có toàn quyền đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên/Huế, Quảng Nam Đà Nẳng, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Quyền lực của ông có thể xem như "vị sứ quân" của 5 tỉnh này.
- Thứ ba, anh trai Ngô Đình Thục, Tổng Giám Mục địa phận Vĩnh Long, về sau là địa phận Huế. Tuy là chức sắc trong tôn giáo, nhưng tiếng nói của ông ảnh hưởng rất lớn đối với công việc chánh quyền mà các em của ông nắm giữ.
-Thứ tư, em trai Ngô Đình Luyện, Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Anh quốc, được xem là người ít dính dáng đến những tệ hại mà các anh của ông gây ra trên quê hương.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hai em của ông là Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, đã lần lượt dẹp các tổ chức chính trị đối lập bằng cách "thanh toán" các nhà chính trị trong những tổ chức đó.
Rồi đến sự lộng hành của bà Trần Lệ Xuân -em dâu ông- tại các diễn đàn quốc tế cũng như quốc nội, đặc biệt là trong thời gian xảy ra cuộc đàn áp Phật Giáo nhiều nơi trên toàn quốc, bà đã nhiều lần tuyên bố công khai với vẻ miệt thị và tàn nhẫn khi nói đến những vụ tự thiêu của các nhà sư phản đối chánh quyền, bà gọi đó là "các nhà sư nướng thịt người thì cứ để họ nướng..."
Những sự kiện đó đã đưa người dân từ ủng hộ chánh phủ lúc đầu, dần dần trở nên bất mãn, đến mức căm thù chế độ mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người trách nhiệm chính.
Vậy, sự kiện đàn áp Phật Giáo ngày 8/5/63 và những hành động tệ hại tiếp theo, là nguyên nhân quốc nội dẫn đến cuộc đảo chánh 1/11/63. Tôi nói "nguyên nhân quốc nội", vì theo tôi, còn có "nguyên nhân quốc tế" nữa.
ĐẢO CHÁNH
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, ngày lễ "Các Thánh Tử Đạo", quân đội được nghỉ buổi sáng. Khoảng 7 giờ sáng, chuông điện thoại nhà tôi reo:
- Đại Úy Hoa tôi nghe -
- Chú đến nhà tôi ngay -
- Vâng. Tôi đến ngay, thưa Thiếu Tướng -
Đó là Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Nhà tôi và nhà ông cùng ở trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cách nhau khoảng vài trăm thước. Ông ở khu nhà lầu, tôi ở khu nhà trệt.
- Chào Thiếu Tướng -
- Chú lấy ghế ra sân với tôi -
Hoàn toàn khác lạ với mỗi lần tôi đến nhận lệnh, nên tôi nghĩ ngay đến một vấn đề gì đó phải là quan trọng lắm, bởi thường khi chỉ ngồi trong nhà. Thiếu Tướng Khiêm và tôi cùng ngồi ở góc sân sát hàng rào:
- Chú nghe đây. Lệnh mà tôi sắp cho chú là lệnh tối mật, nếu chú tiết lộ thì chú bị đứt đầu trước tôi. Chú không được nói với bất cứ ai, kể cả vợ chú và chú Có. Chú nghe rõ chưa? -
- Tôi nghe rõ, thưa Thiếu Tướng -
"Chú Có" mà Thiếu Tướng Khiêm vừa nói là Trung Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Khiêm từ năm 1960. (Trung Úy Có nói ở đây, trùng họ tên lẫn chữ lót với Đại Tá Nguyễn Hữu Có. Năm 1975, Trung Úy Có là Đại Tá, Phụ Tá Võ Phòng/Phủ Thủ Tướng).
- Hôm nay, tôi và một số vị Tướng Lãnh đảo chánh ông Diệm. Và những việc sau đây chú phải làm xong trong buổi sáng. Thứ nhất, đây là danh sách mời dùng cơm trưa tại câu lạc bộ (bộ Tổng Tham Mưu). Thức ăn do chú sắp xếp. Nhớ, các vị được mời phải có mặt tại câu lạc bộ đúng 12 giờ hoặc trước đó chút ít. Thứ nhì, đây là danh sách mời họp tại phòng họp số 1 (tầng trệt trong toà nhà chánh). Yêu cầu các vị này có mặt tại phòng họp chậm nhất là trước 1 giờ trưa. Đúng 1 giờ, chú cho lệnh Quân Cảnh khóa cửa lại và không ai được ra vào bất cứ vì lý do gì khi chưa có lệnh tôi. Cả hai danh sách này, nếu chú không liên lạc được với bất cứ ai hoặc có gì trở ngại thì chú trình ngay cho tôi. Đến đây chú rõ chưa? -
- Vâng. Tôi rõ, thưa Thiếu Tướng -
- Và thứ ba. Chú tổ chức an ninh chu đáo khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu, bằng cách sử dụng Đại đội 1 Quân Cảnh (của Tổng Tham Mưu) và các thành phần an ninh của Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu. Tất cả các cổng đóng lại, tuyệt đối không được mở, riêng cổng số 1 (tức cổng chánh), bất cứ ai ra hay vào đều phải trình tôi. Lệnh của tôi xong, chú có gì cần hỏi không? -
- Thưa Thiếu Tướng, lý do mời họp tôi phải nói thế nào để không bị ngờ vực? -
- Tùy chú. Nhớ, chỉ một chút sơ hở là chú đứt đầu đó. Thôi, chú vào văn phòng làm việc đi -
Khuôn viên trại Trần Hưng Đạo có các cổng số 1 hướng ra giao lộ Võ Tánh và đường Cách Mạng, cổng số 2 và số 5 hướng ra đường Võ Tánh, cổng số 10 hướng ra đường Cách Mạng, cổng số 3 và số 4 hướng ra đường Võ di Nguy.
Đảo chánh. Đây là lần thứ hai mà tôi nghe thấy trong đời binh nghiệp. Lần thứ nhất, xảy ra vào nửa đêm về sáng ngày 11/11/1960, lúc đó tôi đang học lớp tham mưu tại trường Đại Học Quân Sự, tọa lạc trong khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu. Nhóm lãnh đạo cuộc đảo chánh thất bại vì không được sự ủng hộ của các vị Tư Lệnh đại đơn vị. Đại Tá Trần Thiện Khiêm, Quyền Tư lệnh Quân Khu 5 kiêm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đưa quân từ Sa Đéc và lực lượng Sư Đoàn 7 Bộ Binh từ Mỹ Tho về đẩy lui lực lượng đảo chánh. Đại Tá Nguyễn Chánh Thi -Tư Lệnh Nhẩy Dù- và các sĩ quan trong thành phần lãnh đạo đảo chánh, đã dùng phi cơ vận tải quân sự C.47 bay sang Nam Vang -thủ đô Cam Bốt- xin tị nạn chính trị.
Và lần đảo chánh này, dù muốn hay không muốn, tôi cũng phải can dự vào cho dù là can dự như một sĩ quan thừa hành tin cậy. Lệnh tối mật mà tôi vừa nhận quả là bất ngờ và phải thi hành trong thời gian cấp bách, với lại dù diễn đạt như thế nào đi nữa thì tôi cũng là người chịu ơn Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, cho nên tôi không hề nghĩ cũng như không kịp nghĩ đến điều sắp thi hành là sai hay đúng, và nên hay không nên làm. Bởi Thiếu Tướng Khiêm không hề biết tôi và ngược lại tôi cũng chưa một lần phục vụ dưới quyền ông, cho đến khi ông về nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21Bộ Binh tại Bến Kéo tỉnh Tây Ninh vào đầu tháng 2/1960, thay thế Trung Tá Trần Thanh Chiêu bị cách chức sau vụ Trung Đoàn 32 Bộ Binh bị quân cộng sản đột kích lúc 3 giờ sáng ngày 29/1/1960 tại Trãng Sụp, cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 6 cây số về phía bắc, gây tổn thất nặng nề về vũ khí với một số tổn thất nhân mạng. Lúc đó, tôi đang là Trung Úy, trưởng ban hành quân/phòng 3 Sư Đoàn.
Vài tháng sau đó, Sư Đoàn được lệnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm chuyển xuống Quân Khu 5, hoạt động an ninh vùng Đồng Tháp Mười. Bộ tư lệnh Sư Đoàn trở lại nơi đồn trú cũ là quận lỵ Sa Đéc. Đến giữa năm 1960, Đại Tá Khiêm được Tổng Thống cử giữ chức Quyền Tư Lệnh Quân Khu 5 tại Cần Thơ kiêm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh tại Sa Đéc, thay Đại Tá Nguyễn Văn Y chuyển về trung ương. Tháng 4/1961, lãnh thổ quân sự được tổ chức lại thành 3 Vùng Chiến Thuật do 3 Quân Đoàn trách nhiệm. Quân Đoàn I/Vùng I Chiến Thuật tại Đà Nẳng, bao gồm 5 tỉnh cực bắc duyên hải. Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật tại Pleiku, bao gồm các tỉnh Cao Nguyên và các tỉnh duyên hải phía nam. Quân Đoàn III lâm thời/Vùng III Chiến Thuật tại Sài Gòn, bao gồm các tỉnh vùng đất chuyển tiếp miền nam và trọn vùng đồng bằng Cửu Long. Những tháng cuối năm 1961, tôi được thăng cấp Đại Úy và được cử giữ chức Chánh văn phòng tư lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh mà vị Tư Lệnh là Đại Tá Trần Thiện Khiêm. Sư Đoàn đã chuyển sang đồn trú tại Cần Thơ và trách nhiệm Khu 33 Chiến Thuật, cũng gọi là Khu Chiến Thuật Hậu Giang. Ngày 6/12/1962, Đại Tá Trần Thiện Khiêm thăng cấp Thiếu Tướng, đồng thời được cử giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/Bộ Tổng Tham Mưu, thay Thiếu Tướng Nguyễn Khánh lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật. Chức vụ "Tham Mưu Trưởng Liên Quân" là chức vụ mới thành lập, trước đó chỉ là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Ngày 17/12/1962, tôi thuyên chuyển theo Thiếu Tướng Khiêm về Bộ Tổng Tham Mưu, và từ ngày đó, tôi giữ chức Chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Vì vậy mà tôi thi hành nhiệm vụ tối mật này một cách tích cực.
Trở lại việc thi hành lệnh của Thiếu Tướng Khiêm. Đầu tiên, tôi gọi Trung Úy Nguyễn Hữu Có và các nhân viên vào văn phòng. Trung Úy Có có trách nhiệm liên lạc với quản lý câu lạc bộ lo bữa ăn trưa. Tiếp đó là điện thoại đến Đại Đội 1 Quân Cảnh (trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu):
- Tôi, Đại Úy Hoa đây. Anh cho tôi nói chuyện với Trung Úy Phụng (Nguyễn Thúc Phụng) Đại đội trưởng -
- Vâng. Đại Úy chờ một chút - Hạ sĩ quan trực trả lời.
- Chào Đại Úy, tôi Phụng đây. Đại Úy đang ở đâu đó? -
- Chào anh. Tôi đang ở văn phòng. Anh Phụng à, trong vòng 3 tiếng đồng hồ tới đây, anh có thể tập trung tất cả anh em hay ít nhất cũng là tối đa quân số của Đại Đội được không? -
- Dạ được -
- Vì vấn đề an ninh trong trại Trần Hưng Đạo hôm nay, anh phải cố gắng hết sức nghe anh. Khi tập họp xong hoặc chậm lắm là 10 giờ 30, anh điện thoại lại tôi để nhận lệnh chi tiết. Anh có gì cần hỏi thêm không? -
- Có chuyện gì vậy Đại Úy? -
- Lệnh của Thiếu Tướng như vậy chớ tôi không biết gì hơn anh đâu. Thôi nghe. Anh lo phần anh, tôi còn vài việc khác nữa. Chào anh -
Tôi mời Thiếu Tá Luông (Nguyễn Văn Luông), Chỉ Huy Phó Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đến văn phòng. Thiếu Tá Luông, năm 1958 là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 35 Bộ Binh/Sư Đoàn 12 Khinh Chiến, đồn trú tại Kon Tum. Lúc đó, tôi là Trung Úy, trưởng ban 3 kiêm trưởng ban 5 Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn này. Thì ra Thiếu Tá Luông đã nhận lệnh của Thiếu Tướng Khiêm rồi, nhưng tôi vẫn nói thêm chi tiết về an ninh:
- Thưa Thiếu Tá, với Đại Đội Quân Cảnh thì tôi đã điện thoại cho Trung Úy Phụng rồi. Xin Thiếu Tá đúng 1 giờ trưa, đóng tất cả các cổng lại và đưa lực lượng bảo vệ đến bố trí ngay lúc đó. Cổng số 2, 3, 4, 5, và 10, tuyệt đối không mở cho đến khi có lệnh. Riêng cổng số 1, lệnh của Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng là bất cứ giới chức nào muốn ra hay vào, xin Thiếu Tá hoặc trưởng toán Quân Cảnh điện thoại vào tôi và chờ tôi trình Thiếu Tướng -
- Vấn đề an ninh tòa nhà chánh, anh lo hay tôi lo? -
- Thưa Thiếu Tá, tôi phụ trách. Để cho rõ ràng, an ninh trong phạm vi trại Trần Hưng Đạo thì Thiếu Tá trách nhiệm, riêng phạm vi tòa nhà chánh tôi lo. Về lực lượng, xin Thiếu Tá cho tôi 2 chiếc Thiết Giáp AM/M8 lên tăng cường cho tôi cùng với 2 tổ đại liên đặt trên nóc tòa nhà chánh. Xin nhắc lại, tất cả mọi việc chỉ được thực hiện ngay trước lúc 1 giờ trưa. Xin Thiếu Tá vui lòng chỉnh lại đồng hồ để có giờ thống nhất. Thiếu Tá còn cần gì không? -
- Để tôi về lo ngay cho kịp. Chào anh nghe -
- Chào Thiếu Tá -
Lần lượt tôi điện thoại các vị trong danh sách 1, tức là danh sáchmời dùng cơm nhưng thật ra là quí vị trong nhóm đảo chánh, mà hầu hết các vị này đều biết trước. Kế tiếp, tôi mời các vị trong danh sách 2, tức danh sách mời họp nhưng thật ra sẽ bị giữ để cách ly với cuộc đảo chánh. Vì trục trặc với hai vị trong danh sách 2, tôi điện thoại đến Thiếu Tướng Khiêm:
- Trình Thiếu Tướng, tôi Hoa đây. Tôi đã điện thoại xong, nhưng có trở ngại là không liên lạc được với Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền (Tư Lệnh Không Quân) và Đại Tá Hồ Tấn Quyền (Tư Lệnh Hải Quân). Theo người nhà của hai vị ấy cho biết, thì Đại Tá Hiền đang trên không trình Sài Gòn-Đà Lạt, tôi có dặn người nhà trên đó khi Đại Tá Hiền đến nơi thì điện thoại về tôi gấp. Còn Đại Tá Quyền thì người nhà nói có lẽ đã đi lễ nhà thờ, nhưng tôi gọi đến nhà thờ Đức Bà nhờ người tìm mà không gặp. Tôi sẽ cố gắng nhưng không chắc là tôi sẽ thực hiện được, thưa Thiếu Tướng -
- Chú ráng tìm hai ổng, phần tôi, tôi cũng tìm cách liên lạc -
- Vâng. Chào Thiếu Tướng -
Đến đây xin mở ngoặc để nói thêm về Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Tối ngày 6/9/2003, trong lúc dự tiệc cưới tại Washington DC, vợ chồng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Bỗng dưng ông Thoại nhắc đến vụ 1/11/1963, vì sau ngày Đại Tá Quyền bị giết ông nghe người nhà Đại Tá Quyền nói là có một sĩ quan nào đó ở Tổng Tham Mưu điện thoại mời Đại Tá Quyền đi họp không biết điều đó có đúng không? Vì nếu đúng thì có thể là Đại Tá Quyền không bị giết nếu ông ấy đi họp, dù rằng tối hôm ấy tôi được biết nếu có đi họp cũng bị cách ly với cuộc đảo chánh, nhưng cách ly có thể thoát chết. Thế là tôi lên tiếng:
- Thưa Anh, người mời Đại Tá Quyền hôm ấy là tôi. Người cầm ống nói đã trả lời cho tôi là Đại Tá Quyền có thể đã đi nhà thờ, nhưng sau đó tôi đã hai lần điện thoại đến nhà thờ nhưng không tìm thấy Đại Tá Quyền.
- Đại Tá Quyền chưa đến giờ đi nhà thờ nên trong sân tennis với tôi - Anh Thoại quay hẳn sang tôi và tiếp:
- Khi ông Lực, sĩ quan tùy viên, đến mời Đại tá Quyền lên Thủ Đức dự tiệc mừng sinh nhật của Đại tá Quyền do anh em Hải Quân tổ chức trên đó, có lẽ thấy Đại tá Quyền chần chừ nên ông Lực nói tiếp:
- Đại Tá ráng đi vì anh em muốn dành cho Đại Tá sự bất ngờ nên không trình trước với Đại Tá-
Rồi Đại Tá Quyền có vẻ nể nang nên lên xe đi. Và sau đó thì bị ông Lực giết chết. Nếu như người nhà điện thoại đến sân tennis báo tin Tổng Tham Mưu mời đi họp, rất có thể là Đại tá Quyền không bị giết như vậy -
Xin đóng ngoặc, và trở lại hoạt động trong văn phòng tôi.
Điện thoại reo:
- Đại Úy Hoa tôi nghe -
- Phụng đây Đại Úy. Tôi tập trung Đại Đội xong rồi, Đại Úy có lệnh gì cho tôi? -
- Cám ơn Anh, và đây là chi tiết: Ngay bây giờ, anh sẳn sàng tại chổ 3 Tiểu Đội và tôi sẽ điều động công tác trong chốc lát. Điều quan trọng là 3 Tiểu Đội này phải di chuyển ngay tức thì khi có lệnh. Phần còn lại của Đại Đội, anh liên lạc với Thiếu Tá Luông (Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu) để nhận lệnh. Anh cần biết gì thêm không? -
- Dạ không Đại Úy -
- Xin anh đừng rời xa điện thoại nghe anh Phụng. Chào anh -
Chuẩn bị bữa ăn hôm nay, Trung Úy Nguyễn Hữu Có chu toàn trách nhiệm mặc dù anh không biết tại sao lại có bữa ăn bất thường này. Bữa ăn trưa hôm nay rất quan trọng, nhưng không quan trọng về thực khách mà là quan trọng ở chổ ngụy trang cho buổi họp mặt tối mật của các vị trong nhóm lãnh đạo đảo chánh quân sự. Tôi nói ngụy trang, vì trong vòng 3 tuần lễ trước ngày này, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm thường có những buổi tối đi đâu đó mà tôi không biết chính xác mặc dù hệ thống liên lạc đặc biệt giữa tôi tại nhà, với toán cận vệ trên xe theo sau xe Thiếu Tướng mỗi khi ra khỏi nhà, chúng tôi giữ liên lạc thường xuyên nhưng vẫn không bám sát được vị trí của ông. Điển hình trong một tối, xe bắt đầu rời nhà Thiếu Tướng Khiêm, tôi được thông báo và mở máy liên lạc ngay. Một lúc sau:
- Hồng Hà. Hồng Hà. Bắc Bình gọi. Trả lời -
- Hồng Hà tôi nghe 5/5. Có gì cho tôi. Trả lời -
- Tôi dừng xe ở đường 45 (ám danh của đường Kỳ Đồng), Bông Hồng đã có xe khác đón nhưng không rõ đi dâu, tôi chỉ được lệnh chờ tại chổ. Nghe rõ trả lời? -
- Tôi nghe 5/5. Thi hành lệnh. Giữ liên lạc với tôi. Trả lời -
- Nghe rõ -
Xin nói thêm. Chữ "trả lời" ở cuối mỗi câu khi liên lạc vô tuyến là điều qui định khi học về Truyền Tin trong trường quân sự. Chữ này cũng có nghĩa "đến đây là hết câu".
Hồng Hà là danh hiệu của tôi. Bắc Bình là danh hiệu của toán an ninh. Và Bông Hồng là danh hiệu của Thiếu Tướng Khiêm. Tất cả chỉ dùng trong hệ thống liên lạc an ninh này mà thôi.
Một buổi tối khác. Thiếu Tướng Khiêm cũng đi một cách bí mật như vậy, trong lúc tôi tự đặt ra những giả thuyết và phân tích để tìm giả thuyết có thể chấp nhận được về hoạt động bất thường đó, thì chuông nhà tôi reo:
- Đại Úy Hoa, tôi nghe -
- Trung Tá Đường đây, tôi có gọi đằng tư dinh Thiếu Tướng Khiêm để ông Cố Vấn (Ngô Đình Nhu) nói chuyện với Thiếu Tướng nhưng không gặp. Ông Cố Vấn bảo tôi nói với anh và anh trình lại Thiếu Tướng Khiêm là tình hình Sài Gòn lúc này phức tạp lắm, bọn Việt Cộng tung những tổ đặc công vào nội thành, chuyên ám sát các tướng lãnh và các sĩ quan cao cấp. Ông Cố Vấn dặn Thiếu Tướng không nên ra khỏi nhà sau giờ làm việc. Đó là lệnh, anh rõ chưa? -
- Thưa Trung Tá, tôi nghe rõ -
- Chào anh -
Đó là Trung Tá Phạm Thư Đường, Chánh văn phòng ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Đến giờ phút này (tức giờ phút nhận lệnh của Trung Tá Đường) thì tôi hiểu rằng, chẳng phải ông Cố Vấn lo cho những người dưới quyền, mà chính là ông muốn theo dõi những người dưới quyền ông có hành động gì có thể "phản trắc" đối với anh em ông hay không, vì tình hình ngày càng tồi tệ thêm và tự nó đã lung lay chiếc ghế cầm quyền của Tổng Thống lẫn của ông Cố Vấn. Cũng vì vậy mà trong thời gian xảy ra sự đối đầu của Phật Giáo với Chánh Phủ, dư luận từ các nhà chính trị đối lập về kế hoạch Bravo 1 của ông Cố Vấn Nhu, theo đó ông Cố Vấn Nhu dự định thực hiện cuộc đảo chánh giả để phát hiện và triệt tiêu những ai chống đối chế độ, không phải là không có cơ sở.
10 phút trước 1 giờ 00, tôi nhắc Thiếu Tá Luông chuẩn bị đóng các cổng cùng lúc với việc điều động lực lượng tăng cường cho các cổng. Mặt khác, tôi kiểm lại các vị trong danh sách 2. Và cho đến lúc này, vẫn còn thiếu Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền và Đại Tá Hồ Tấn Quyền.
Ngay lúc trước 1 giờ 00, tình hình trong trại Trần Hưng Đạo nói chung và tòa nhà chánh nói riêng, như sau:
- Tất cả các cổng số 1, 2, 3, 4, 5, và 10, đều đóng lại và lực lượng canh gác được tăng cường trước sự ngạc nhiên của các quân nhân thường trực. Chi Đội Thiết Giáp bố trí đằng sau tòa nhà chánh và 2 khẩu đại liên đã sẳn sàng trên sân thượng.
- Bãi đậu xe hai bên hông tòa nhà chánh, mỗi bên có 1 Tiểu Đội Quân Cảnh túc trực. Tiểu Đội Quân Cảnh thứ 3, tập trung an ninh tầng lầu 2, bên cánh phải (tính từ trong tòa nhà chánh nhìn ra võ đình trường), nơi đó là văn phòng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, cũng là bản doanh của quí vị lãnh đạo đảo chánh.
Trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, rất đông các vị trong danh sách mời ăn trưa sau khi xong ở câu lạc bộ, như: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng vì Đại Tướng Lê Văn Tỵ đang dưỡng bệnh, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, cùng các vị Tướng Tôn Thất Đính, Trần Tử Oai, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, ..... Đại Tá Đỗ Mậu -Giám đốc Nha an ninh quân đội- Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan,......
Trong khi đó, văn phòng tôi và văn phòng Trung Úy Có, các sĩ quan tùy viên và hạ sĩ quan cận vệ, kẻ ngồi người đứng chật cả phòng, vì mỗi vị Tướng ít nhất cũng có 3 hay 4 người đi theo, nhất là trong tình hình này.
Đúng giờ G, tức 1 giờ trưa ngày 01 tháng 11 năm 1963.
Cửa phòng họp số 1 đóng lại, 2 Quân Cảnh đứng gác bên ngoài. So với danh sách "mời họp" vẫn còn thiếu Đại Tá Hiền và Đại Tá Quyền.
Hướng Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống (góc đường Thống Nhất-Cường Để-Hồng Thập Tự) và khu vực Phủ Tổng Thống -tức dinh Gia Long- súng bắt đầu nổ.
Trong văn phòng Thiếu Tướng Khiêm -bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng- âm thanh ồn ào hẳn lên cùng với sự đi lại nhiều hơn, do các vị điện thoại ra lệnh đơn vị này cơ quan khác, chen lẫn với bàn thảo tình hình.
Một lúc sau đó, tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm:
-Thưa Thiếu Tướng, tôi thấy giữ Đại Tá Viên (Cao Văn Viên, Tư lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù) dưới phòng họp không tiện lắm. Xin Thiếu Tướng cho phép tôi đưa Đại Tá Viên lên ngồi ở văn phòng tôi và tôi chịu trách nhiệm -
- Được rồi. Chú đưa Đại Tá Viên lên phòng chú đi -
Tôi quen biết chưa nhiều với Đại Tá Cao Văn Viên, nhưng do bà Trần Thiện Khiêm nói lại, theo đó thì Thiếu Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Khánh, và Đại Tá Viên rất thân nhau, nhất là khi ba vị này là sĩ quan cấp úy và cùng chiến đấu ở mặt trận Na Sản trên đất Lào trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp. Và ba gia đình này cũng thân nhau từ đó, vì có nhiều thời gian sống chung nhau ở Hà Nội trong khi các ông cùng ở mặt trận. Do đó, tôi thấy cần giúp Thiếu Tướng Khiêm tránh điều khó xử đối với người bạn thân của ông bằng cách "giải thoát" Đại Tá Viên ra khỏi phòng "tạm giữ". Nguyên nhân chỉ là vậy.
Đại Tá Cao Văn Viên, năm 1960, đang giữ chức Tham Mưu Trưởng Tham Mưu Biệt Bộ/Phủ Tổng Thống, Lúc đó là Trung Tá. Ngay sau cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960, ông được thăng cấp Đại Tá và nhận chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù đang khuyết, vì Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đã chạy sang Cam-Bốt tị nạn chính trị khi đảo chánh thất bại. Cũng vì vậy mà ông (Đại Tá Viên) bị xếp vào thành phần tín cẩn của Tổng Thống Diệm, và bị giữ chân trong phòng họp số 1 cách ly với cuộc đảo chánh đang diễn tiến.
Đến đây xin mở dấu ngoặc để nói thêm về cựu Đại Tướng Cao Văn Viên. Cũng nhân dịp dự tiệc cưới ngày 6/9/2003 nêu trên, tôi có đến nhà thăm cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, sau đó dùng cơm tối với cựu Đại Tướng Cao Văn Viên tại nhà người bạn. Cựu Đại Tướng Viên nói rằng:
- Những điều Anh (tức tôi) nói trong quyển sách của Anh về tôi là đúng, nhưng có những điều khác mà Anh chưa biết
- Rất đúng, thưa Đại Tướng. Tôi chỉ viết lại những gì mà tôi biết thôi, cho nên câu chuyện không tròn trịa được - Tôi trả lời, và cựu Đại Tướng Viên nói tiếp:
- Trước khi Anh mời tôi lên ngồi văn phòng Anh, có người xuống gọi tôi lên văn phòng gặp ông Minh (tức Trung Tướng Dương Văn Minh, cấp bậc lúc bấy giờ), để nghe ổng nói là ổng đảo chánh Tổng Thống Diệm, rồi ổng hỏi tôi nghĩ sao? Tôi trả lời là chuyện lớnnhư vậy mà bây giờ Trung Tướng mới nói với tôi thì tôi đâu có quyết định được. Lúc ấy sĩ quan tùy viên của ông Minh lăm le khẩu súng về phía tôi như sẳn sàng bắn tôi. Tôi cũng nhắc lại với Anh là trước đó, tôi với một ông Đại Tá mà tôi giấu tên (theo tôi biết thì đó là Đại Tá Lê Quang Tung, Chỉ Huy Trưởng Sở Khai Thác Địa Hình, tên gọi ngụy trang của cơ quan mật vụ) cùng gọi lên gặp Trung Tướng Minh, nhưng vừa ra khỏi ‘phòng họp’ thì ổng bị còng tay dẫn đi và đã bị giết sau đó. Còn tôi cũng bị còng nhưng mới còng vào một tay thì Thiếu Tướng Đính (Tôn Thất) chợt thấy, ổng bảo tháo còng ra, và sĩ quan đó dẫn tôi lên gặp ông Minh như tôi vừa nói. Tiếp đến mới nối vào chuyện của Anh mời tôi lên ngồi ở văn phòng Anh -
Xin đóng ngoặc lại.
Khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ sau, điện thoại reo:
- Đại Úy Hoa tôi nghe -
- Thưa Đại Úy, có Thiếu Tá Trần Cửu Thiên vô phòng Tổng Quản Trị lãnh huy chương, và bây giờ xin ra cổng - Đó là lời của trưởng toán Quân Cảnh ở cổng số 1.
- Anh chờ tôi đầu máy -
Tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm nhưng Trung Tướng Dương Văn Minh lạnh lùng:
- Anh đem vô nhốt luôn cho tôi -
- Vâng -
Xin nói thêm. Tất cả các vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đều có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, nên mỗi khi tôi trình điều gì với Thiếu Tướng Khiêm, các vị khác đều nghe. Do vậy mà Trung Tướng Minh ra lệnh giữ Thiếu Tá Thiên trong khi Thiếu Tướng Khiêm chưa có phản ứng.
Một lúc sau, tôi gặp Thiếu Tá Thiên trong phòng vệ sinh có Quân Cảnh đi kèm, ông Thiên trừng mắt với tôi và không nói một lời cho dù tôi chào ông đến hai lần. Thiếu Tá Thiên rất được sự tín nhiệm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu sau khi Thiếu Tá Thiên được đánh giá là xây dựng thành công "khu trù mật" Vị Thanh-Hỏa Lựu thuộc tỉnh Phong Dinh (lúc bấy giờ chưa thành lập tỉnh Chương Thiện). Thiếu Tá Thiên là đảng viên đảng Cần Lao Nhân Vị mà ông Cố Vấn Nhu là lãnh tụ. Vì vậy mà Thiếu Tá Thiên -trong một chừng mực nào đó- đã xem thường ngay cả với Đại Tá Khiêm khi Đại Tá Khiêm đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh/kiêm Khu 33 Chiến Thuật, chỉ vì Đại Tá Khiêm không phải là đảng viên, cũng không phải là Thiên Chúa Giáo.
Lúc 3 giờ chiều:
- Đại Úy Hoa tôi nghe -
- Tôi là Hiền đây anh Hoa. Anh trình Thiếu Tướng xem bây giờ tôi đến còn kịp họp không? -
- Xin lỗi, Đại Tá đang ở đâu đó? -
- Tôi đang ở bộ tư lệnh Không Quân -
Đấy là Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân.
- Xin Đại Tá vui lòng chờ đầu máy, tôi vào trình ngay -
Tương tự như khi tôi trình với Thiếu Tướng Khiêm về trường hợp Thiếu Tá Thiên, trình xong, Thiếu Tướng Khiêm chưa có phản ứng thì Trung Tướng Minh ra lệnh:
- Kêu qua nhốt luôn -
- Vâng -
Tôi báo cho Quân Cảnh phụ trách cổng số 1, mở cổng, và hướng dẫn Đại Tá Hiền vào phòng họp, gọi cho đúng là "phòng tạm giữ".
Đến lúc này thì điện thoại tôi reo liên hồi, hết ông Tỉnh Trưởng này đến vị Tỉnh Trưởng khác, hỏi thăm tình hình tại thủ đô ra sao? Nhóm đảo chánh có những vị nào? Có địa phương nào gọi về ủng hộ chưa? Các vị tư lệnh Quân Đoàn Sư Đoàn có ủng hộ không? ..v..v.. Tất cả những câu hỏi chỉ nhằm mục đích tìm hiểu thêm tình hình, để các vị ấy quyết định ủng hộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Thế thôi. Do vậy mới có thêm nhu cầu chuyển ngay các bản văn của địa phương ủng hộ Hội Đồng sang đài phát thanh Sài Gòn để loan tin kịp thời. Thế là tôi có thêm đường giây điện thoại trực tiếp với đài phát thanh và hầu như tất cả những bản văn ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của nhiều vị Tỉnh Trưởng, đều do tôi gợi ý. Và khi vị ấy đồng ý là tôi chuyển đến đài phát thanh qua điện thoại luôn. Nghĩa là từ lúc ông Tỉnh Trưởng đồng ý ủng hộ đến khi loan tin trên làn sóng, chỉ trong vòng 3 đến 5 phút thôi.
Hể có người ủng hộ thì cũng có người không ủng hộ, đó là lẽ đương nhiên. Theo lệnh Thiếu Tướng Khiêm, tôi chuyển đến Truyền Tin: Hệ thống kiểm thính sẽ "chận bắt" trên làn sóng vô tuyến, các công điện gởi về Phủ Tổng Thống và trình lên văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân ngay. Còn trên hệ thống điện thoại viễn liên ngang qua tổng đài điện thoại Cộng Hòa trong khuôn viên bộ Tổng Tham Mưu, phải thu băng các cuộc đàm thoại, ghi chép lại và trình lên vào mỗi đầu giờ.
Bây giờ xin mời quí vị cùng tôi rời bộ Tổng Tham Mưu để lên Biên Hòa, theo chân Sư Đoàn 5 Bộ Binh do Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Tư Lệnh. Những thông tin về hoạt động của Sư Đoàn này liên quan đến ngày đảo chánh 1/11/1963, do Đại Tá Lộ công Danh -năm 1963 là Thiếu Tá- trưởng phòng 3 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, kể lại cho chúng tôi nghe vào năm 1981 khi bị giam chung ở trại tù chính trị Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh, miền bắc Việt Nam. Chuyện kể như thế này:
"Khoảng trung tuần tháng 10/1963, Đại Tá Thiệu đã làm cho bộ tham mưu Sư Đoàn, nhất là các sĩ quan phòng 2 và 3 rất ngạc nhiên. Lệnh hành quân ban hành trong thời gian thật ngắn, bộ tham mưu phải vất vã lắm mới thi hành xong những công tác tham mưu trong việc điều động 1 Trung Đoàn Bộ Binh cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, và Công Binh Chiến Đấu. Khi tất cả sẳn sàng để sáng mai tấn công, thì Đại Tá Thiệu ra lệnh ngưng cuộc hành quân này và lập tức điều động lực lượng sang vùng khác.
Tuần lễ sau đó, lại chuẩn bị một cuộc hành quân khẩn cấp để rồi đến giờ chót lại thay đổi vùng hành quân, cũng là khẩn cấp! Chính Phòng 2 -phụ trách tình báo- cũng không hiểu vì sao lại chuyển vùng hành quân mà Phòng 2 chưa ghi nhận sự hiện diện một lực lượng nào của Việt Cộng ở đó cả.
Ngày 30 và 31/10/1963, lại chuẩn bị hành quân vào căn cứ địa Bời Lời. Đây là một căn cứ quan trọng của quân cộng sản, cho nên lực lượng tham dự gần 2 Trung Đoàn Bộ Binh, 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh, lực lượng Thiết Giáp và Công Binh. Đêm 31 rạng ngày 1 tháng 11 năm 1963, lệnh của Đại Tá Tư Lệnh là chuyển toàn bộ các đơn vị xuống hành quân vùng Phước Tuy (trên đường Sài Gòn-Vũng Tàu). Bộ tham mưu muốn điên đầu vì những thay đổi mà chính các sĩ quan trách nhiệm điều động và yểm trợ hành quân, cũng không sao hiểu nổi.
Sáng 1/11/1963, các đơn vị, thay vì di chuyển về hướng Vũng Tàu như lệnh hành quân đã định, thì được lệnh dừng lại ở ngã ba xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn-Vũng Tàu, chờ lệnh mới.
Đến 1 giờ trưa, lệnh mới được ban hành: Theo đó, các đơn vị chuyển hướng về Sài Gòn. Ngoài lực lượng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, còn có một lực lượng Thiết Giáp xuất phát từ Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp (đồn trú ở Bà Rịa) cùng tiến quân. Vào buổi chiều thì bản doanh Sư Đoàn và 1 bộ chỉ huy Trung Đoàn đặt tại trường đại học sư phạm, đại lộ Cộng Hòa, trong khi lực lượng của Sư Đoàn đã chiếm giữ các vị trí ấn định trong phạm vi thủ đô Sài Gòn.
Lại xin mời quí vị, chúng ta dành thêm chút thì giờ xuống Quân Đoàn IV tại Cần Thơ, nhưng trước khi xuống Cần Thơ, đến ngã ba Trung Lương mời quí vị tạt vào Mỹ Tho quan sát Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại đây. Tư Lệnh Sư đoàn là Đại tá Bùi Đình Đạm. Sư Đoàn phụ trách Khu 41Chiến Thuật gồm 4 tỉnh bờ bắc Sông Tiền là Kiến Hòa, Kiến Tường, Định Tường, và Long An, gồm cả Đồng Tháp Mười. Vì Đại Tá Đạm được xem là thành phần tín cẩn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa Đại Tá Nguyễn Hữu Có từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho, khống chế Đại Tá Đạm để cầm chân Sư Đoàn tại chổ.
Xuống thẳng Cần Thơ, bản doanh bộ tư lệnh Quân Đoàn IV. Trung Tá Huỳnh Văn Tồn đã xuống bộ tư lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật, với nhiệm vụ thuyết phục Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nhưng không thành công, ông áp dụng biện pháp dự liệu trước là uy hiếp Thiếu Tướng Cao án binh bất động.
Năm 1962, Đại Tá Huỳnh Văn Cao là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại Mỹ Tho, được thăng cấp cấp Thiếu Tướng ngày 5/12/1962, trước Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm một ngày dù rằng hai Sắc Lệnh thăng cấp cùng một ngày ký. Điều đó có nghĩa là Thiếu Tướng Cao thâm niên hơn Thiếu Tướng Khiêm một ngày, và trong quân đội vấn đề thâm niên là rất quan trọng về mặt chỉ huy. Không có gì khó hiểu khi biết rằng Thiếu Tướng Cao là đảng viên đảng Cần Lao trong khi Thiếu Tướng Khiêm vừa là khác tôn giáo vừa là người ngoài đảng.
Quân Đoàn IV được thành lập ngày 1/1/1963, và Tổng Thống Diệm cử Thiếu Tướng Cao giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn này từ ngày ấy.
Xin mời sang Sa Đéc tiếp xúc với Sư Đoàn 9 Bộ Binh. Đại Tá Bùi Dzinh, Tư Lệnh Sư Đoàn và Trung Tá Đoàn văn Quảng, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Trung Tá Quảng trách nhiệm khống chế Đại Tá Dzinh và giữ chân Sư Đoàn tại chổ. Năm 1961 và 1962, Trung Tá Quảng là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh trong khi Đại Tá Trần Thiện Khiêm là Tư Lệnh. Do vậy mà lệnh của Thiếu Tướng Khiêm được Trung Tá Quảng thi hành một cách tích cực. Nhưng theo cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, thì trách nhiệm khống chế Đại Tá Bùi Dzinh án binh bất động Sư Đoàn 9 Bộ Binh là do cựu Đại Tá Nhan Minh Trang -lúc đó là Thiếu Tá- theo lệnh Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng từ Sài Gòn xuống Sa Đéc thi hành.
Đại Tá Bùi Dzinh và Đại Tá Trần Thiện Khiêm cùng học lớp "chỉ huy tham mưu" tại Hoa Kỳ năm 1959, cùng trở về Việt Nam và cùng nhận chức tại Sư Đoàn 21 Bộ Binh vào tháng 2/1960, khi Trung Tá Trần Thanh Chiêu bị cách chức. Đại Tá Khiêm Tư Lệnh, Đại Tá Bùi Dzinh Tư lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Đại Tá Bùi Dzinh, rất đượcTổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu tín nhiệm. Sư Đoàn 9 Bộ Binh thành lập tại Qui Nhơn, và Tổng Thống Diệm cử ông vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. Sau đó, Sư Đoàn 9 Bộ Binh được lệnh chuyển toàn bộ vào hoạt động vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bây giờ xin mời quí vị trở về Bộ Tổng Tham Mưu.
Trước 5 giờ một chút, tôi trình nhắc Thiếu Tướng Khiêm về trường hợp Đại Tá Quyền -Tư Lệnh Hải Quân- Thiếu Tướng Khiêm cho biết là Đại Tá Quyền đã bị sĩ quan tùy viên của ổng bắn chết trên Thủ Đức rồi.
Lúc 5 giờ chiều:
- Đại Úy Hoa tôi nghe -
- Chào anh Hoa. Tôi là Đại Úy Bằng đây. Anh mời Thiếu Tướng Khiêm tiếp chuyện với Tổng Thống -
Đại Úy Bằng là sĩ quan tùy viên tín cẩn của Tổng Thống Diệm, thường trực ở văn phòng Phủ Tổng Thống.
- Vâng. Anh chờ tôi đầu máy -
Tôi vào trình Thiếu Tướng Khiêm và nhấc ống nói trao cho ông:
- Mời Thiếu Tướng tiếp chuyện với Tổng Thống -
Thiếu Tướng Khiêm chưa kịp nhận ống nói thì Trung Tướng Minh chụp lấy ngay. Tôi không nghe Tổng Thống Diệm nói gì mà chỉ nghe Trung Tướng Minh:
- Chúng tôi chỉ chấp nhận cho ông đi ngoại quốc như một người bình thường -
- ........................
- Không -
Tiếp đó, Trung Tướng Minh nói với các vị có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm sau khi ông dằn ống nói xuống vị trí:
- Ổng đòi đi như một Tổng Thống, tôi không đồng ý -
Lúc đó trong phòng im phăng phắc, chừng như cách giải quyết của Trung Tướng Minh đem lại niềm suy nghĩ cho các vị ấy thì phải. Tôi nhìn vào thái độ của các vị mà nghĩ như vậy.
Điện thoại lại reo và đầu giây bên kia vẫn là Đại Úy Bằng mời Thiếu Tướng Khiêm tiếp chuyện với Tổng Thống. Tôi lại vào:
- Trình Thiếu Tướng, Tổng Thống muốn nói chuyện với Thiếu Tướng -
Cũng như lúc nảy, Trung Tướng Minh chụp ống nói lên và đặt xuống máy:
- Không cần nói chuyện với ổng -
Tôi trở ra phòng và trả lời Đại Úy Bằng:
- Rất tiếc là Trung Tướng Minh cắt đường giây rồi. Chào anh -
Khoảng 6 giờ chiều. Một buổi họp ngay trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, cũng là bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Ngoài các vị có mặt ở đây từ lúc trưa, tôi thấy có thêm Trung Tá Mai của Không Quân (dường như là Đỗ Khắc Mai) mà mấy phút trước đây Quân Cảnh cổng số 1 điện thoại cho tôi biết. Buổi họp ngắn gọn này quyết định: "Không Quân phải chuẩn bị càng nhiều phi tuần khu trục càng tốt, nếu đến 7 giờ sáng mai (2/11/1963) mà Tổng Thống Diệm chưa đầu hàng thì đánh bom xuống dinh Gia Long trong khi Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp sẳn sàng xung phong sau khi Không Quân đánh bom xong".
Phải nói rằng, lúc bấy giờ trên nét mặt của các vị biểu hiện ít nhiều lo âu, bởi bên đảo chánh với dấu hiệu thành công chưa nhiều, trong khi bên bị đảo chánh cũng chưa có dấu hiệu gì nhiều về sự thất bại, tuy chưa có vị Tư Lệnh đại đơn vị nào lên tiếng ủng hộ Tổng Thống.
Thiếu Tướng Đỗ cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Vùng I Chiến Thuật ở Đà Nẳng, đã có công điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ngay từ đầu. Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật ở Plei Ku, có thể là lúc đầu còn chần chừ nhưng đến đêm thì có công điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Thật sự nếu ông có chần chừ cũng đúng thôi, vì dù sao thì ông cũng được Tổng Thống Ngô Đình Diệm tín nhiệm khi đưa ông từ Tư Lệnh Quân Khu 5 về giữ chức Tham Mưu Trưởng/Tổng Tham Mưu, và trong cuộc đảo chánh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi ngày 11/11/1960, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh hoàn toàn ủng hộ Tổng Thống. Đến Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật là Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, đang trong thành phần Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng rồi. Còn Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao đang bị khống chế tại bộ tư lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, và Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhẩy Dù, đang bị giữ tại tòa nhà chánh. Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã bị giết lúc trưa. Đại Tá Lê Quang Tung, Chỉ Huy Trưởng Sở Khai Thác Địa Hình -cơ quan mật vụ của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu- cũng bị giết rồi.
Xem chừng Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, lần này không có nhiều cơ may như lần bị Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh cách đây 2 năm, nhưng dù sao thì Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cũng chưa đủ yếu tố để lạc quan về sự thành công của mình. Có lẽ cũng vì vậy mà Thiếu Tướng Khiêm bảo tôi đích thân lái xe về nhà đón vợ và 2 con ông, đưa đến nhà riêng của Thiếu Tướng Lê Văn Kim trên đường Võ Di Nguy, gần khu nghĩa trang giáp ranh với cổng số 3 của bộ Tổng Tham Mưu, tạm vắng mặt tại nhà. Khu này tương đối vắng vẻ. Khi xe trên đường đến nhà Thiếu Tướng Kim, bà Khiêm hỏi tôi:
- Chú Hoa, chú biết ai làm đảo chánh không? -
- Dạ biết. Nhiều vị lắm, có Trung Tướng Minh, Trung Tướng Đôn, Thiếu Tướng Đính, Thiếu Tướng Kim, Thiếu Tướng Xuân, .... đông lắm -
- Nếu có ai hỏi thì chú đừng nói có "nhà tôi" nghe chú -
- Vâng.
Thật ra thì Thiếu Tướng Khiêm không cho gia đình biết những gì mà ông và các vị khác cùng làm, cho nên bà ấy tỏ ra âu lo dự phòng của người đàn bà bình thường vậy thôi.
Trở lại tình hình tại văn phòng, và lúc này vào khoảng giữa đêm.
- Đại Úy Hoa tôi nghe -
- Trung Tá Minh đây em -
Đấy là Trung Tá Nguyễn Văn Minh mà các bạn ông thường gọi là "Minh đờn", Tỉnh Trưởng tỉnh An Giang. Là một vị Tỉnh Trưởng rất được lòng Tổng Thống và ông Cố Vấn. Tôi quen biết với Trung Tá Minh nhiều là trong thời gian tôi giữ chức chánh văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh tại Cần Thơ. Trung Tá Minh có tiếng là sĩ quan xử sự rất khéo với cấp trên và "chơi ngọt" với cấp dưới nếu như cấp dưới đó là thân cận với cấp trên của ông. Dạo đó, cứ mỗi khi ông xuống Cần Thơ là y như rằng, ông ghé cho tôi tí tiền còm kèm theo câu "em cầm lấy uống cà phê chơi" mà tôi có bao giờ uống cà phê đâu.
- Thưa Trung Tá, dường như Trung Tá chưa có công điện ủng hộ Hội Đồng phải không? -
- Tình hình đến giờ ra sao rồi em? -
- Trung Tá theo dõi đài phát thanh thì rõ vì tất cả những thông tin đó là chính xác. Bây giờ tôi thử đọc bản văn ủng hộ Trung Tá nghe, nếu Trung Tá đồng ý thì tôi chuyển sang đài phát thanh ngay, chỉ vài phút sau đó là Trung Tá nghe công điện ủng hộ của Trung Tá và tỉnh An Giang phát đi trên làn sóng đài Sài Gòn ngay-
Thế là tôi đọc bản văn luôn, và Trung Tá Minh đồng ý ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Đến khoảng 3 giờ sáng (2/11/1963), Truyền Tin mang vào công điện của ông Tỉnh Trưởng Lâm Đồng (nay là ấn bản lần thứ 4 mà tôi vẫn không nhớ tên ông). Công điện này gởi Phủ Tổng Thống với nội dung "... Quân Dân Cán Chánh tỉnh Lâm Đồng nguyện ủng hộ Tổng Thống và gia đình, chống lại cuộc đảo chánh của bọn phản loạn .."
Tôi mang vào trình Thiếu Tướng Khiêm. Xem xong, ông trao cho Trung Tướng Minh, lướt qua nội dung, ông lại đưa cho Thiếu Tướng Đính và kèm theo khẩu lệnh:
- "Toa" kiếm người thay thằng này đi - Sở dĩ Trung Tướng Minh trao cho Thiếu Tướng Đính vì tỉnh Lâm Đồng thuộc Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật mà Thiếu Tướng Đính đang là Tư Lệnh.
Vài ngày sau đó, ông Tỉnh Trưởng Lâm Đồng, người gởi công điện nói trên, sau khi từ văn phòng Trung Tướng Khiêm (Thiếu Tướng Khiêm thăng cấp Trung Tướng chiều 2.11.1963) trở ra, ông hỏi tôi với vẻ khó chịu:
- Tôi có gởi công điện ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà tại sao tôi bị cách chức. Anh có biết lý do không?
- Dạ không Thiếu Tá, vì tôi đâu có phải người quyết định mà biết lý do. Nhưng tôi biết là quí vị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng có xem công điện Thiếu Tá gởi về Phủ Tổng Thống, do hệ thống Truyền Tin/Tổng Tham Mưu "chận bắt" tất cả những làn sóng như vậy - Ông ra về chẳng buồn chào trả lại.
Thật ra thì đến gần sáng ngày 2/11/1963, ông có công điện ủng hộ Hội Đồng, nhưng điều đó đã quá trễ. Trong cuộc sống, biết nhận đúng thời cơ là tốt nhất, vì hành động sớm quá hay muộn quá thường là không mang lại kết quả tốt, đôi khi chuốc lấy nguy hại là khác.
TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ GIẾT
Khoảng 5 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, điện thoại reo trong khi tôi đang bận cuộc đàm thoại khác nên Thiếu Tướng Khiêm nhấc ống nói sau mấy lượt chuông reo, và qua cuộc nói chuyện ngắn của Thiếu Tướng Khiêm với các vị có mặt, tôi biết đầu giây bên kia là người thân cận của Tổng Thống, nhưng chưa nghe nội dung. Ngay tức thì, các vị gọi nhau vào họp thật nhanh, tiếc là tôi ngồi phòng ngoài nên chỉ nghe lõm bõm mà thôi dù rằng cửa ngăn giữa phòng tôi với phòng Thiếu Tướng Khiêm mở thường xuyên từ lúc 1 giờ trưa hôm qua. Do công việc đòi hỏi tôi ra vào văn phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân một cách nhanh chóng nên tôi phải sang ngồi ở phòng sĩ quan tùy viên, vì phòng này khi mở cửa thì nhìn thẳng vào bàn viết của Thiếu Tướng Khiêm, nơi đang là bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng. Nghe Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh, tôi mới biết là một phái đoàn do Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân dẫn đầu sẽ vào nhà thờ Cha Tam đón Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu về Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc ấy tôi trông thấy vài vị sĩ quan cấp tá đi vô đi ra phòng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, nhưng không rõ những vị này có được cử trong phái đoàn hay không.
Một lúc sau, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm gọi tôi:
- Chú theo dõi khi đoàn xe đón Tổng Thống và ông Cố Vấn về đến thì hướng dẫn xe đậu ở sân vận động cạnh tòa nhà chánh, cho Quân Cảnh gác chung quanh và không cho bất cứ ai đến gần. Xong, chú lên trình tôi -
- Vâng -
Trong thời gian chờ đợi, các vị bàn thảo với nhau chung quanh vấn đề cách giải quyết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu sao cho ổn vì sợ phật lòng khối Thiên Chúa Giáo lẫn Phật Giáo. Ngay lúc đó, ngoài cửa phòng tôi có một người xin gặp tôi nói là ông được lệnh mang quần áo đến đây để Tổng Thống và ông Cố Vấn đi ngoại quốc. Tôi mời ngồi nhưng thật ra tôi cũng không rõ lệnh này từ đâu. Tôi ngờ rằng lệnh đó xuất phát từ Trung Tướng Đôn vì ông là người hậu thuẫn mạnh mẽ ý kiến đưa Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu xuất ngoại, được hiểu là "lưu vong". Trình xong với Thiếu Tướng Khiêm thì tôi không theo dõi được nữa vì phải xuống lầu đón đoàn xe sắp vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu.
Theo hướng dẫn của tôi, chiếc Thiết Vận Xa M113 vào vị trí, và một tiểu đội Quân Cảnh bao quanh. Tôi trở lên văn phòng:
- Trình Thiếu Tướng, Thiết Vận Xa chở Tổng Thống và ông Cố Vấn đã vào sân vận động và có Quân Cảnh bảo vệ -
- Mình xuống đi - Đó là lời Trung Tướng Dương Văn Minh. Nói xong là ông đứng lên trong khi Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm nét mặt không vui:
- Các "toi" xuống đi, thấy ổng dù sao "moi" cũng bùi ngùi! -
Tuy nói vậy, nhưng khi các vị rời khỏi phòng thì Thiếu Tướng Khiêm cũng từng bước theo sau, và tôi là người tháp tùng sau cùng. Khi xuống đến bậc thang chót của tầng trệt thì Thiếu Tướng Khiêm đứng lại, vì các vị đã dừng chân hành lang bên ngoài, lúc ấy có Thiếu Tướng Xuân và một sĩ quan nữa mà tôi không thấy rõ là vị nào, đang trình bày gì đó với các vị. Bỗng các vị cùng quay vào, Thiếu Tướng Khiêm có vẻ ngạc nhiên:
- Việc gì vậy? -
- Hai ổng chết rồi - Trung Tướng Minh trả lời. Và tất cả cùng trở lên lầu.
Lúc bấy giờ, người Mỹ, từ phòng nhỏ ngay phía sau tấm vách ngăn với bàn làm việc của Thiếu Tướng Khiêm bước ra, Trung tướng Minh cho ông ta biết là ông Diệm và ông Nhu đã chết rồi. Rõ ràng là người Mỹ này tỏ ra bực tức, và một lúc sau ông ta ra về.
Người Mỹ mà tôi vừa nói, tôi không biết tên. Ông ta có vóc dáng trung bình, mặc thường phục, có mặt tại phòng Thiếu Tướng Khiêm từ trưa hôm qua (1/11/1963), nhưng ông ta chỉ ở trong phòng nhỏ đó mà không bước ra phòng các vị Tướng lãnh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng làm việc dù chỉ cách vài bước đi. Ông ta có xách cái cặp bình thường như những cái cặp mà các vị Tướng Lãnh thường xách theo khi đi làm. Về sau tôi nghe nói đó là Trung Tá Conein, cũng có người nói là ông Lansdale. Tôi vẫn không xác định được là ai, nhưng rõ ràng là cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm được một số vị Tướng Lãnh Việt Nam thực hiện dưới bàn tay đạo diễn của Hoa Kỳ hay ít ra cũng được Hoa Kỳ đồng ý. Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng nhận ra được sự kiện ông Ngô Đình Diệm "lên ngôi" là do Hoa Kỳ từ đằng sau, và cũng bởi Hoa Kỳ mà ông Diệm bị "hạ bệ". Nhưng liệu có phải Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy ra lệnh cho vị Tướng Lãnh nào đó của đất nước Việt Nam khốn khổ này giết chết Tổng Thống của họ không? Hay cái chết của Tổng Thống Diệm không có trong dự định của Hoa Kỳ khi họ buộc phải thay người lãnh đạo Việt Nam cho phù hợp với chiến lược đang thực hiện? Ôi, chính trị!
Tôi xin mở dấu ngoặc để viết vào đoạn này những lời mà cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cho tôi biết vào tối 21/10/2003, liên quan đến cuộc đảo chánh ngày 1//11/1963. Ông nói:
- Về việc chú thắc mắc không biết người Mỹ tham dự đảo chánh là ông Conein hay Lansdale, Anh cho chú biết đó là Trung Tá Conein, ổng cũng cùng nhóm với ông Lansdale. Anh nói thêm với chú, ông Conein là trưởng toán sĩ quan Hoa Kỳ đã từng nhẩy dù xuống miền Bắc hồi năm 1945 để giúp ông Hồ đánh Nhật. Lúc đó ai là kẻ thù của Nhật là bạn của Hoa Kỳ. Về phía Hoa Kỳ, ông ta là người biết nhiều về ông Hồ và Việt Minh cộng sản thời đó. Bây giờ Anh nói về cuộc đảo chánh (1/11/1963). Trước ngày đảo chánh, Anh (tức cựu Đại Tướng Khiêm) nói như một điều kiện liên quan đến Tổng Thống Diệm rằng: ‘phải để Tổng Thống bình yên và xuất ngoại’. Lúc đó Trung Tướng Dương Văn Minh đồng ý, Thiếu Tướng Lê Văn Kim cũng đồng ý. Sở dĩ Anh nói Trung Tướng Minh và Thiếu Tướng Kim, vì hai ông này là hai nhóm riêng chớ không phải là một nhóm đâu nghe chú. Khi biết ông Diệm bị giết cùng với ông Nhu, Đại Tá Quyền (Hồ Tấn Quyền) bị giết, Đại Tá Tung (Lê Quang Tung) cũng bị giết, đến em của ông Tung là Lê Quang Triệu cũng bị lừa rồi giết chết. Ông Viên (Cao Văn Viên) thì bị còng tay. Họ hành động lén nên Anh với chú ngồi trên lầu có hay biết gì đâu. Mấy ổng ngồi bên phòng của Đại Tướng Tỵ (Lê Văn Tỵ. Lúc ấy Đại Tướng Tỵ dưỡng bệnh ngoài Vũng Tàu, Trung Tướng Trần Văn Đôn Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng) rồi quyết định với nhau - Ngưng một chút, ông tiếp:
- Chú thấy chưa? Nhóm ông Minh với nhóm ông Kim độc ác quá! Ông Diệm gọi điện thoại bảo cho xe đến đón, tức là ổng đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng? Trước đó, ông Minh ông Kim đồng ý với Anh là để ông Diệm bình yên và lưu vong, tại sao lại giết? Cho nên từ đó Anh bất mãn với ông Minh ông Kim -
(Tôi nghĩ: có lẽ vì sự chia phe chia nhóm này mà khi cử Trung Tướng Trần Thiện Khiêm đi Seoul, Đại Hàn, dự lễ nhậm chức của Tổng Thống Pak Chung Hi (Phác Chánh Hi), để rồi ra quyết định cử Trung Tướng Khiêm giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 3 khi Trung Tướng Khiêm còn ở Tokyo chăng?)
Cựu Đại Tướng Khiêm nói tiếp:
- Có điều là Anh không rõ tại sao Hoa Kỳ loại Tổng Thống Diệm? -
- Thưa Anh, có lúc Em nghĩ: phải chăng Tổng Thống Diệm không đồng ý cho quân bộ chiến Hoa Kỳ lập căn cứ trên đất Việt Nam trong chiến lược Domino làm bức tườnquân sự ngăn chận cộng sản tràn xuống Đông Nam Á mà Tổng Thống Diệm bị loại chăng?-
- Điều này Anh có nghĩ đến, nhưng không biết có còn gì nữa không? Còn việc chú nêu nghi vấn Trung Tướng Minh có phải là người ra lệnh giết ông Diệm ông Nhu không, chú nghĩ coi nếu hổng phải ổng thì ai dám ra lệnh đó -
- Tất nhiên là em nghĩ như vậy, nhưng đây là vấn đề lịch sử, khi em chưa nắm được bằng chứng xác thực về điều em đã nghĩ, thì em không dám khẳng định mà chỉ nêu nghi vấn sau khi phân tách một số sự kiện liên quan thôi. Chính Trung Tướng Trần Văn Đôn trong quyển Việt Nam Nhân Chứng, cũng nêu nghi vấn như vậy Anh Tư. (bà Khiêm thứ tư nên những cộng sự viên chung quanh thường gọi như vậy) -
Những điều mà cựu Đại Tướng Khiêm nói không phải chỉ có thế, và tôi sẽ bổ túc vào những bài những đoạn liên quan trong cuộc chỉnh lý ngày 30/1/1964, cuộc ‘biểu dương lực lượng’ ngày 13/9/1964 dẫn đến sự kiện ông và gia đình lưu vong, đến cuộc đảo chánh ngày 19/2/1965 dẫn đến sự kiện Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong sang Hoa Kỳ tá túc nhà Đại Tướng Khiêm.
Xin đóng ngoặc.
Và liệu nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đảo chánh này là do kế hoạch của chánh phủ Hoa Kỳ, hay bắt nguồn từ chính sách đàn áp Phật Giáo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Tôi nghĩ, nếu không có sự kiện đàn áp Phật Giáo thì Hoa Kỳ cũng bằng cách nào đó để thực hiện cuộc lật đổ, vì nếu không thì mục tiêu thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa không thực hiện được, và như vậy có nghĩa là một "mắt xích" trong chiến lược Domino của họ không hoàn thành.
Phải chăng sự mâu thuẩn giữa chánh phủ với Phật giáo ngày càng tệ hại, lại là cơ hội thuận lợi cho Hoa Kỳ nhập cuộc theo cách của họ? Và cho dù thế nào đi nữa, rõ ràng là họ đã thành công.
Giả thuyết rằng, nếu cuộc đảo chánh không phải bắt nguồn từ Hoa Kỳ, thì liệu quí vị Tướng Lãnh Việt Nam có tự mình quyết định đảo chánh để đem lại sự bình đẳng giữa hai tôn giáo lớn nói riêng, và ổn định tình hình nội bộ nói chung không? Tôi nghĩ, chắc là không. Vì thực hiện một cuộc đảo chánh, đã khó, nhưng được hay không được Hoa Kỳ ủng hộ là điều khó hơn, vì cho dù có thành công mà không được Hoa Kỳ ủng hộ thì sớm muộn gì cũng bị đồng đội lật đổ. Còn nữa, nếu lật đổ thành công rồi, mà chưa chuẩn bị một sách lược lãnh đạo vừa chống cộng sản vừa xây dựng quốc gia, thì quí vị cầm quyền sẽ bị bối rối với những kế hoạch vá víu trong khi tình hình đòi hỏi mục tiêu và đường lối thực hiện phải rõ rệt, dứt khoát, và thực hiện ngay.
Vị Tướng nào đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, và ai là người xuống tay giết hai ông? Hoặc giả là so dự nhầm lẫn nào đó giữa người ra lệnh với người nhận lệnh? Theo bác sĩ Huỳnh Văn Hưởn, Y Sĩ trưởng bệnh xá Tổng tham Mưu lúc ấy (về sau có lúc là Tổng Trưởng Y Tế), người phụ trách khám nghiệm và lau vết thương cho hai ông, thì cả hai ông vừa bị bắn vừa bị đâm bằng lưỡi lê. Hai trong số ít người liên quan trực tiếp đến cái chết của ông Diệm và ông Nhu là Trung Tướng Mai Hữu Xuân và Thiếu Tá (đã thăng cấp) Nguyễn Văn Nhung, cả hai đã chết rồi. Chỉ còn lại cựu Đại Tướng Dương Văn Minh và cựu Đại tá Dương Hiếu Nghĩa, là hai vị có tiếng nói chính xác hơn hết. Chữ "trực tiếp" mà tôi dùng ở đây có nghĩa là người ra lệnh giết, người giết, hoặc người nghe thấy người ra lệnh hay trông thấy người giết. Và liệu cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp có thể là nhân chứng chính xác nữa trong vụ này không?
Xin mở dấu ngoặc. Tôi bổ túc bài này vào tháng 10 năm 2003, thì cựu Đại Tướng Dương Văn Minh đã từ trần trước đó mấy tháng. Vậy, nhân chứng còn lại là cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa. Xin đóng ngoặc lại.
Nếu như Trung Tướng Dương Văn Minh ra lệnh giết thì tại sao khi tôi trình đoàn xe đón Tổng Thống và Cố Vấn về đến, ông lại gọi các vị có mặt cùng xuống gặp hai vị ấy, vì chính ông phải biết việc gì xảy ra rồi chớ? Hoặc cũng có thể là Trung Tướng Minh đã ra lệnh giết nhưng vẫn ra vẻ như không hay biết gì về cái chết của hai ông ấy? Chính trị mà! Trong số các vị có mặt trong phòng Thiếu Tướng Khiêm, tôi không trông thấy nét mặt, cử chỉ, hay thái độ của vị nào biểu lộ một chút gì khác thường giữa các vị với nhau trước khi lần lượt bước xuống thang lầu để gặp Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Hoặc là không ai ra lệnh giết, hoặc là vị nào đó quá kín đáo chăng?
Tôi được biết là khi đoàn xe rời nhà thờ Cha Tam trở về Bộ Tổng Tham Mưu trên chiếc M113 chở ông Diệm và ông Nhu chỉ có Đại Úy Nguyễn Văn Nhung và vài quân nhân trách nhiệm trên chiếc Thiết Vận Xa này, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa ngồi xe Jeep cùng với Đại Úy Phan Hòa Hiệp (cấp bậc trong lúc đảo chánh). Chính Đại Úy Hiệp nói như vậy. Sở dĩ tôi nói đến Thiếu Tá Nghĩa là vì có dư luận cho rằng Thiếu Tá Nghĩa cùng ngồi trên chiếc Thiết Vận Xa M113 với Đại Úy Nhung.
Nếu thật sự Thiếu Tá Nghĩa cùng ngồi trên chiếc Jeep với Đại Úy Hiệp, điều đó cũng chưa đủ yếu tố để loại trừ giả thuyết Thiếu Tá Nghĩa không phải là sát thủ, vì có lúc đoàn xe phải dừng trước cổng xe lửa chắn ngang đường khi xe lửa chạy qua. Đó là khoảng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng cũng đủ cho một sát thủ ra tay. Nhưng cũng không thể căn cứ vào đây mà cho rằng Thiếu Tá Nghĩa là một trong hai sĩ quan đã giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, vì Thiếu Tá Nghĩa là một sĩ quan bộc trực, thẳng tính, rất nhiệt tâm với nhiệm vụ trong binh chủng Thiết Giáp, và chưa hề có tai tiếng gì trước biến cố chính trị này. Đồng ý rằng, Thiếu Tá Nghĩa là một sĩ quan rất can đảm, và khi lâm trận thì vị chỉ huy này không nương tay với kẻ thù, nhưng giết một người không phải là kẻ thù mà người đó lại là một Tổng Thống hay Cố Vấn của Tổng Thống, thì điều đó không phải là điều mà Thiếu Tá Nghĩa hành động như một sát thủ. Nhưng những lý lẽ trên đây cũng chưa đủ để loại trừ giả thuyết "Thiếu Tá Nghĩa là một trong hai sĩ quan thi hành lệnh giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu". Và đối với tôi, Thiếu Tá Nghĩa vẫn là một nghi vấn nhưng mức độ thấp hơn nghi vấn đối với Đại Úy Nhung.
Đối với Đại Úy Nhung. Chính xác là Đại Úy Nhung ngồi trên chiếc thiết vận xa M113 chở Tổng Thống và Cố Vấn. Đại úy Nhung, ít ra là hai lần trước biến cố chính trị này, anh khoe với tôi rằng, mỗi lần anh giết một người thì anh khắc lên báng súng của anh một vạch. Anh đưa báng súng cho tôi xem, lúc ấy có năm vạch khắc theo chiều thẳng đứng ở bên trái báng súng. Căn cứ vào lời nói và dấu tích trên báng súng, tôi cho rằng Đại Úy Nhung là một sĩ quan đã từng giết người nếu không nói là thông thạo thì cũng là quen tay. Xin nói thêm, hành động giết người và hành động bắn chết địch quân ở chiến trường là hai hành động khác nhau. Nhưng như vậy cũng chưa thể kết luận Đại Úy Nhung là sát thủ trong trường hợp này, vì không trông thấy tận mắt và cũng không nghe chính Đại Úy Nhung tự nói về sự kiện đó.
Nhìn vào khía cạnh khác, tôi có nghi vấn cao nhất về Đại Úy Nguyễn Văn Nhung với cái chết của Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu. Đại úy Nhung là sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh, mà tùy viên thì luôn luôn có mặt bên cạnh vị Tướng của mình. Trong trường hợp này, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân cùng đoàn tùy tùng có nhiệm vụ đến nhà thờ Cha Tam (trong Chợ Lớn) đón Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu về Bộ Tổng Tham Mưu, Đại Úy Nhung không có lý do gì để có mặt trong thành phần này cả. Nếu cho rằng, Đại úy Nhung tự ý tháp tùng để sau này khoe với bạn bè là anh đã góp phần trên đoàn xe lịch sử đó đi nữa thì tại sao Đại Úy Nhung -và chỉ một mình Đại úy Nhung- được ngồi trên chiếc Thiết Vận Xa M113 chở Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu? Sự kiện này phải được Thiếu Tướng Xuân chỉ định hay ít ra cũng là đồng ý. Và liệu có phải Thiếu Tướng Xuân tự mình ra lệnh cho Đại Úy Nhung hay là thi hành theo lệnh của Trung Tướng Minh? Tôi nói như vậy vì chỉ có Trung tướng Minh -người đứng đầu nhóm lãnh đạo đảo chánh- mới có thẩm quyền ra lệnh cho Thiếu Tướng Xuân mà thôi. Với lại Đại Úy Nhung là sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Minh thì không vị Tướng nào dám sử dụng Đại Úy Nhung trong nhiệm vụ giết Tổng Thống và Cố Vấn được. Vậy, Đại Úy Nhung có mặt trong đoàn xe "lịch sử" này và một mình ngồi trong xe chở Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, phần chắc phải là do lệnh của Trung Tướng Dương Văn Minh.
Nếu chính xác là Trung Tướng Minh ra lệnh cho sĩ quan tùy viên của mình là một thành viên trong đoàn xe lịch sử này thì lệnh đó có mục đích gì, chẳng lẽ cho Đại Úy Nhung đi theo chơi? Nếu suy như vậy nghe không ổn chút nào. Nhưng đến đây cũng chưa thể quả quyết rằng Đại Úy Nhung là người hạ sát Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bằng súng và lưỡi lê, vì đây là vấn đề lịch sử nên không thể kết luận thủ phạm khi chưa đủ chứng cớ chính xác, mà đương sự đã chết rồi. Thôi thì để anh yên nghỉ!
Đến đây, tôi có câu chuyện ngắn. Hai mươi tám năm sau, vào giữa tháng 11 năm 1991, tôi và một số bạn có dịp dùng cơm tại nhà cựu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu (Orange County, nam California) mà tôi thường gọi ông là "đại ca", vì ông lớn tuổi hơn tôi và thâm niên hơn tôi nhiều. Hôm ấy "đại ca" tôi thuật lại câu chuyện có liên quan đến câu tự hỏi của tôi nêu trên. Chuyện như thế này:
Đầu năm 1991, nhân chuyến ông sang Paris dự lễ cưới của vị Tướng đã một thời là Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội quốc gia Việt Nam trong khuôn khổ quân đội Liên Hiệp Pháp, "đại ca" tôi tổ chức bữa ăn thân mật sau khi được cựu Đại Tướng Dương văn Minh và cựu Trung Tướng Trần văn Đôn nhận lời. Mục đích của bữa ăn là anh Chiêu -bạn thân của hai vị cựu Tướng Lãnh thực khách- muốn giúp hai vị làm hòa nhau mà tình bạn giữa hai ông đã rạn nứt từ sau cuộc đảo chánh 1/11/1963. Theo anh Chiêu thì mục đích đã đạt được, và trong không khí vui vẻ đó, anh có nêu câu hỏi với cựu Đại Tướng Minh:
- Anh có thể cho biết câu "mission accomplie" mà anh Xuân (tức Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân) trình với anh hôm 2/11/1963 có nghĩa như thế nào không? -
- Nhiệm vụ hoàn thành thì báo cáo hoàn thành. Có vậy thôi -
Anh Chiêu chưa chịu thua và hỏi lại, thì cựu Đại Tướng Minh nói:
- Anh hiểu sao thì hiểu -
Câu trả lời "đúng là hiểu sao thì hiểu".
Hết câu chuyện.
Cũng vào cuối năm 1991, người bạn mới quen của tôi ở San Jose, tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành, lúc ấy đang viết cuốn "Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm", tôi có cung cấp cho ông một số dữ kiện cần thiết theo yêu cầu của ông. Ông nói rằng, ông được đọc một tài liệu mà cựu Đại Tướng Minh viết theo lệnh của nhà cầm quyền cộng sản (sau tháng 4/1975), theo đó, cựu Đại Tướng Minh nhận là ông đã ra lệnh giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Nghe thì nghe vậy nhưng thật ra tôi cũng không hiểu là bằng cách nào mà ông bạn tôi xem được tài liệu đó nữa. Với tôi, những gì mà người chiến sĩ chống cộng sản cho dù người đó là một Tổng Thống hay một sĩ quan bình thường, phải viết theo lệnh của cộng sản trong trại tù hay tại cơ quan của chúng, và viết dưới sự hướng dẫn của những tên gọi là cán bộ Công An cho đến khi chúng chấp nhận mà chúng gọi là "đạt yêu cầu", thì không thể xem đó là chính xác được. Vì vậy mà theo tôi, không nên căn cứ vào đó để kết luận cựu Đại Tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, cho dù ông có khai thật với cộng sản cũng vậy. Nhưng dù thế nào đi nữa, với tôi, cựu Đại Tướng Minh vẫn là vị mà tôi đặt nghi vấn cao nhất về người đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
Cuối năm 1963, nhân đến nhà người bạn cùng khóa với tôi để thăm một vị Tướng trước kia phục vụ tại Phòng 7/Bộ Tổng Tham Mưu, và nhân lúc câu chuyện xoay quanh cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963, bạn tôi nói rằng: "Tôi có người bạn thân, trước kia thường chơi quần vợt với Đại Tướng Minh, một hôm Đại Tướng Minh có nói là trước khi chết, ông để lại tập hồi ký cho các con ông. Nếu đúng như vậy thì câu trả lời chính xác chỉ có được khi cựu Đại Tướng Minh an giấc ngàn thu chăng? Năm 2003, cựu Đại Tướng Dương Văn Minh từ trần, nhưng tôi không rõ là ông có để lại cuốn nhật ký như lời bạn tôi đã nói hay không.
Đến cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, định cư tại tiểu bang Washington. Theo tôi, anh Nghĩa là một trong những nhân chứng trong cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 nói chung, và có thể là nhân chứng duy nhất trong vụ giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu nói riêng. Tôi với anh là bạn thân từ năm 1961 khi anh đang là Quận Trưởng quận Bình Minh tỉnh Vĩnh Long. Khi vào tù, chúng tôi bị giam chung buồng trong trại tù giữa rừng già Yên Bái, ăn chung mâm, ngủ sát cạnh nhau trrong nhiều năm liền. Có những lúc nhắc đến ngày 1/11/1963, tôi cố gắng tìm hiểu những nghi vấn về cái chết của ông Diệm và ông Nhu, nhưng không bao giờ anh hé môi nửa lời về điều đó.
Tôi biết anh Nghĩa có nói với Trung úy Đồng, Phòng 3 Tiểu khu Vĩnh Long khi anh là Tỉnh Trưởng tỉnh này, theo đó, "anh biết người giết ông Diệm và ông Nhu, nhưng chưa thể nói được". Tôi tin lời anh Nghĩa, nhưng không biết là lúc nào anh mới nói được. Bởi vì chưa thể nói được, có nghĩa là sẽ nói chớ không phải không nói.
Dưới đây là bài viết của cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, anh gởi tặng tôi một bản do cựu Đại Tá Nhan Minh Trang trao lại. Được sự đồng ý của anh Nghĩa qua đường giây điện thoại vào đầu tháng 11/1998, tôi xin trích phần liên hệ đến cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đưa vào ấn bản lần thứ 3 năm 1998. Với hy vọng phần trích đăng này sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những tin tức về cái chết có tầm vóc lịch sử của hai vị lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa, đã một thời tạo nên tiếng vang quốc nội lẫn quốc tế trong những năm 50 và 60, Tiếng vang tốt hay không tốt, hoặc cả hai, điều đó tùy quí độc giả.
Phần trích thuật bắt đầu
"Tôi có dịp đến Houston khoảng tháng 7/1995, được người bạn tặng cuốn "Đôi Dòng Ghi Nhớ" của anh Phạm Bá Hoa, cựu Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Không như "Lời Trần Tình" quá khiêm nhường của anh, quyển sách tuy không chánh thức là một sử liệu, nhưng nó đóng góp rất nhiều cho các sử gia, vì anh được ở vào một vị trí rất quan trọng trong guồng máy hành chánh và quân sự trong một giai đoạn lịch sử 1960-1968. Những sự việc mà anh ghi lại thật là trung thực, rất đầy đủ từng chi tiết, cũng như anh đã phân tách sự việc rất vô tư, khách quan. Trong quyển sách, anh nói không ít về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm".
"Về sự việc lịch sử này, đã có rất nhiều người hỏi tôi từ sau ngày 2/11/1963 cho tới giờ này (kể cả người Mỹ). Ai cũng muốn biết rõ chi tiết của sự việc đã xảy ra trên chiếc Thiết Vận Xa trong đoàn xe mà cá nhân tôi có trách nhiệm an ninh hộ tống hôm đó. Tác giả quyển "Đôi Dòng Ghi Nhớ" chỉ nêu lên một số dữ kiện, một số suy luận, một số giả thuyết, và nghi vấn chung quanh sự việc nói trên, mà không hề có ý xác quyết ai là người đã ra lệnh và ai là người đã thi hành lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Đây là điểm hoàn toàn khác biệt với một vài quyển hồi ký khác đã được xuất bản mà tôi có dịp đọc".
"Liên quan đến sự việc này, tôi muốn nói đến vài quyển hồi ký mà tác giả đã có nhận xét thiếu chính xác, có khi còn sai lạc hẳn. Sự việc cũng không được phân tách cho đúng lý đúng tình. Có tác giả đã kể lại sự việc mà chính mắt tác giả không mục kích được, tai cũng chỉ nghe lõm bõm diễn tiến mà người thuật cũng không phải người trong cuộc. Hoặc là viết theo một số dữ kiện do quá nhiều người thuật lại theo cái nghe được hay theo lập luận một chiều. Đặc biệt là cựu Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, tác giả " Việt Nam, Một Trời Tâm Sự", ông đã dựa trên lời khai nguyên văn của Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (đúng ra là Thiếu tá) mà ông được đọc sau ngày "Chỉnh Lý 30/1/1964", nên sự việc đó ông viết rất chính xác. Nói rất rõ là ai thi hành lệnh giết Tổng Thống và giết bằng cách nào..."
"Sáng ngày 2/11/1963, Trung Tướng Dương Văn Minh chỉ định Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân và Đại tá Dương ngọc Lắm, vào nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn "đón họ" về đây (Họ, tức Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Về đây, tức về Bộ Tổng Tham Mưu). Tôi có mặt tại chổ, vì tôi cùng Trung Đội Thiết Vận Xa vừa từ dinh Gia Long về tới, và trình Trung Tướng Minh là Tổng Thống và ông Cố Vấn không có trong dinh Gia Long. Do đó, tôi nhận lệnh của Trung Tướng Minh tiếp tục cho Trung Đội Thiết Giáp hộ tống Thiếu Tướng Xuân và Đại Tá Lắm vào nhà thờ Cha Tam "đón họ" (nguyên văn của Trung Tướng Minh). Như vậy, tôi được biết Thiếu Tướng Xuân nhận lệnh trực tiếp của Trung Tướng Minh, nhưng tôi không biết là Thiếu Tướng Xuân có nhận lệnh mật gì của Trung Tướng Minh không. Cũng ngay lúc đó, tôi được Đại Tá Nguyễn Văn Quan -bạn thân của Trung Tướng Minh- cho biết, trong khi tôi xuống dinh Gia Long thì ông Diệm và ông Nhu đã bí mật vào trong Chợ Lớn, và hiện ở nhà thờ Cha Tam. Từ nhà thờ, hai ông đã liên lạc điện thoại với các Tướng Lãnh. Ngay sau đó, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng quyết định dứt khoát, ít nhất là số phận của ông Ngô Đình Nhu, bằng mọi cách phải diệt trừ hậu họa. Thiếu Tướng Xuân, Đại Tá Quan, Đại Tá Lắm, Đại Tá Đỗ Mậu, ... đều có mặt trong cuộc thảo luận để lấy quyết định có tính cách lịch sử nói trên, cùng với Trung Tướng Dương Văn Minh, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Phạm Xuân Chiểu. ..v..v.."
"Tôi cũng được Đại Tá Quan cho biết thêm rằng, Trung Tướng Minh, người chỉ huy cuộc đảo chánh, đã nhanh chóng đưa ra quyết định rất dứt khoát để Hội Đồng lấy quyết định chung. Các vị hiện diện lúc đó, không ai góp thêm ý kiến gì. Lúc đó im lặng được xem là đương nhiên chấp thuận đề nghị của Trung Tướng Minh. Thật ra, từ 11 giờ đêm 1/11/1963, trong lúc tình hình chưa ngã ngủ hẳn, các Tướng Lãnh đã có bàn bạc riêng với nhau trước về số phận của ông Ngô Đình Nhu rồi. Riêng đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì hầu hết đều tán thành cho Người (chữ hoa) đi ra ngoại quốc, không thấy vị nào phát biểu khác hơn. Do đó, khi Thiếu Tướng Xuân nhận lệnh đi đón Tổng Thống là ông biết mình sẽ phải làm gì rồi, ít nhất là đối với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Còn đối với Tổng Thống thì lúc bấy giờ tôi hoàn toàn không biết là Thiếu Tướng Xuân có nhận được mật lệnh gì thêm từ Trung Tướng Dương Văn Minh hay không."
"Đoàn xe khởi hành từ Bộ Tổng Tham Mưu khoảng 6 giờ sáng. Hai xe Quân Cảnh dẫn đầu, xe Jeep của tôi và Đại Úy Phan Hòa Hiệp, kế đó là xe Jeep Thiếu Tướng Xuân rồi xe Đại Tá Lắm, và đoàn xe hộ tống gồm Trung Đội Thiết Vận Xa 5 chiếc (4 xe đi đầu có bộ binh tùng thiết, và xe sau cùng là của Trung Đội Trưởng). Tôi xin nói rõ thêm. Tôi thấy không có dự trù xe nào chở Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu, nên tôi có hỏi Thiếu Tướng Xuân trước khi khởi hành, thì ông nói nhanh và cộc lốc "không cần". Tôi nghĩ, chắc là ông đã có phương cách rồi nên không muốn chúng tôi quấy rầy làm mất luồng suy tính của ông trong lúc ông có mission (nhiệm vụ) quá đặc biệt, có lẽ đặc biệt hơn bao giờ hết trong cuộc đời Cảnh Sát Công An của ông. Trước khi khởi hành, tôi và Đại Úy Hiệp nhìn thấy Đại Úy Nhung ngồi trên một trong bốn chiếc thiết vận xa sau xe Jeep chúng tôi. Đại Úy Hiệp hỏi tôi về sự hiện diện của vị sĩ quan bộ binh lạ mặt này. Tôi giải thích sơ qua, đó là Đại Úy Nhung, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh, và có xác nhận với Đại Úy Hiệp rằng: "Đại Úy Nhung có hỏi tôi để được cùng đi với Trung Đội Thiết Vận Xa. Tôi nghĩ, có lẽ Đại Úy Nhung có nhiệm vụ gì đó do Trung Tướng Minh đích thân giao cho, nên tôi không tiện hỏi vì không liên quan gì đến nhiệm vụ an ninh hộ tống của chúng mình".
"Tôi không muốn nói rõ với Đại Úy Hiệp, nhưng cá nhân tôi đã biết là Đại Úy Nhung được Trung Tướng Minh sai đi theo đoàn xe để thi hành quyết định của Hội Đồng. Quyết định liên quan đến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Quyết định này đã được chuyển thành lệnh và được Trung Tướng Minh trao cho Đại Úy Nhung thi hành. Vì chắc chắn Trung Tướng Minh không còn thấy ai hơn người sĩ quan cận vệ thân tín này để thi hành một công tác đặc biệt, khó khăn và quan trọng nói trên. Tôi dùng danh từ "mật" là vì nếu Trung Tướng Minh có dặn dò điều gì với Đại Úy Nhung thì không một ai trong Hội Đồng nghe thấy được. Và nếu có ra lệnh cho Đại Úy Nhung thi hành quyết định công khai của Hội Đồng, về một mình ông Cố Vấn Nhu hay cho cả hai ông, thì cũng không một ai trong Hội Đồng nghe thấy được. Nhưng tôi khẳng định là Trung Tướng Minh có sai Đại Úy Nhung -tức là đã ra lệnh cho Đại Úy Nhung- và lệnh được đưa ra theo quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Ít nhất là liên hệ đến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Tôi xin nói rõ lại một lần nữa, là chỉ liên quan đến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Vì nếu Trung Tướng Minh không ra lệnh thì không còn ai trong Hội Đồng có đủ thẩm quyền để ra lệnh đặc biệt này? Cũng như nếu không sai Đại Úy Nhung, thì tại sao Đại Úy Nhung lại phải nói với tôi cho anh được ngồi trên chiếc thiết vận xa để được cùng đi vào Chợ Lớn?"
"Nhưng tôi cũng xác định là dù có sai Đại Úy Nhung hay ra lệnh cho Đại Úy Nhung, Trung Tướng Minh cũng là sai mật hay dặn dò mật mà thôi. Như vậy là đến đây, chúng ta không còn thắc mắc gì về người nào đã ra lệnh và lệnh xuất phát từ đâu. Cá nhân hay tập thể Hội Đồng, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, chắc chắn phải biết rõ mật lệnh mà Trung Tướng Minh đã giao cho Thiếu Tướng Xuân. Vì nếu không thì tại sao đích thân ông đến gặp tôi để dặn dò tôi trước khi đoàn xe khởi hành: "Nè, mấy người đừng có nói gì bậy bạ nghe".
"Tôi cũng biết chắc chắn ngay từ lúc bàn thảo kế hoạch sơ khởi trước tháng 11/1963, các vị Tướng Tá trong nhóm lãnh đạo đảo chánh đã có dự trù một giải pháp dứt khoát đối với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Sự dự trù đã trở thành quyết định từ sau 1 giờ trưa ngày 1/11/1963. Đó là truy tố ra tòa và xử ngay trong nước, không cho ra ngoại quốc. Tôi xin lặp lại, sơ khởi là như vậy. Nhưng theo lời Đại Tá Nguyễn Văn Quan (khác với Đại Tá Đặng Văn Quang) nói với tôi, lúc khuya rạng sáng ngày 2/11/196 khi chưa được tin Tổng Thống và ông Cố Vấn rời khỏi dinh Gia Long, đa số trong Hội Đồng không còn ý đưa ông Cố Vấn Nhu ra tòa nữa, mà nhất quyết phải trừ hậu họa bằng mọi cách. Rõ ràng là như vậy. Lúc bấy giờ tình hình chưa ngã ngủ: Dinh Gia Long chưa chiếm được, lực lượng phòng vệ Phủ Tổng Thống chưa buông súng đầu hàng, vì cũng chính ông Cố Vấn được qui trách cho mọi xáo trộn trong nước, làm mất lòng Dân Quân Cán Chánh, ... "
"Riêng đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tuy chưa có quyết định dứt khoát, nhưng qua trao đổi ngoài hành lang thì đa số các vị trong Hội Đồng có ý tán thành một giải pháp ôn hòa. Đó là, để ổng ra ngoại quốc một mình như một dân thường, không được hưởng lễ nghi quân cách của một Tổng Thống. Biện pháp này coi như là một ân huệ đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, theo lời Đại Tá Quan xác nhận lại với tôi, thì Trung Tướng Minh vẫn còn im lặng, chưa có ý kiến".
"Khi được biết Tổng Thống và ông Cố Vấn đã bí mật rời khỏi dinh Gia Long, thì tình hình thật sự có thay đổi trong chiều hướng bất lợi cho hai ông. Khi còn chưa rõ hai ông ở đâu thì Hội Đồng có phần lo âu, vì dù đảo chánh có thành công mà hai ông chạy thoát được thì tình hình chính trị ra sao đây? Chẳng những không có sự ổn định trong tương lai, mà sẽ có một sự chia rẽ có thể dẫn tới tranh chấp quyền lực, nếu không muốn nói là nội chiến ngay tại miền nam Việt Nam! Và nổ lực chống cộng sản sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Nhất là đến giờ này, Tướng Huỳnh Văn Cao ở Vùng IV Chiến Thuật chưa chịu tuyên bố chánh thức trên đài phát thanh đứng về phía Hội Đồng, mặc dầu được yêu cầu nhiều lần. Vùng IV có 3 Sư Đoàn Bộ Binh được kềm giữ trong thế án binh bất động nhờ công của Thiếu Tá Nhan Minh Trang, Thiếu Tá Huỳnh Văn Tồn, và Đại Tá Nguyễn Hữu Có".
"Do đó, từ quyết định ôn hòa trước đó, đã có một số không ít thành viên trong Hội Đồng bắt đầu tỏ thái độ cứng rắn và quyết liệt hơn, nhất là Trung Tướng Dương Văn Minh, linh hồn của cuộc đảo chánh. Ông không muốn thấy ngày 11/11/1960 tái diễn (11/11/1960 là ngày Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh thất bại phải vượt thoát lưu vong). Chúng ta phải thấy được trách nhiệm nặng nề của người chỉ huy cuộc hành quân đảo chánh lúc bấy giờ, mới biết được mức độ lo âu nóng ruột của Trung Tướng Dương Văn Minh như thế nào. Từ đó mới thấy thái độ của Trung Tướng Minh qua đề nghị của Trung Tướng để Hội Đồng lấy quyết định về trường hợp cá nhân của ông Ngô Đình Nhu, dứt khoát, không thể do dự hay yếu mềm được."
"Có người nói là trước khi đoàn xe khởi hành , Trung Tướng Minh đứng trên lầu tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, hướng về Thiếu Tướng Xuân hay Đại Úy Nhung, đưa ra hai ngón tay (ý nói là cả hai người), nhưng tôi xác nhận là hoàn toàn không trông thấy. Tôi biết rõ tính trầm tĩnh và suy tính chính chắn của Trung Tướng Minh, nên tôi chắc chắn là ông không bao giờ có hành động vào phút chót quá lộ liễu như vậy. Nếu có ra lệnh, chắc chắn ông đã có đắn đo suy tính kỹ càng trước rồi, và ông đã phải dặn dò ngay Đại Úy Nhung chớ không bao giờ ông lại ra lệnh để cho người ta thấy dễ dàng như vậy."
"Tôi xin mở thêm dấu ngoặc ở đây. Trước khi khởi hành, tôi có ghé ngang bộ chỉ huy Thiết Giáp hành quân đặt trên chiếc bán xích xa đậu ngay cạnh tòa nhà chánh, báo cho Trung Tá Nguyễn Văn Thiện biết về hướng đi và nhiệm vụ của tôi. Tôi tuyệt đối không nói thêm điều nào, vì Trung Tá Thiện không phải là thành viên của nhóm đảo chánh. Trung Tá Thiện là cán bộ nòng cốt của đảng Cần Lao, là người tín cẩn của Tổng Thống và ông Cố Vấn, nên bị giữ ở phòng họp từ trưa hôm qua (1/11/1963). Tôi xin với Trung Tướng Minh cho tôi lãnh ông ra và tôi hoàn toàn trách nhiệm. Được chấp thuận, và Trung Tá Thiện chỉ huy Thiết Giáp trong cuộc hành quân này. Sau đảo chánh, ông được thăng cấp Đại Tá và giữ nguyên chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp."
"Đoàn xe đến nhà thờ Cha Tam, Đại Úy Hiệp giúp tôi lo bố trí an ninh. Tôi đến gặp Thiếu Tướng Xuân và Đại Tá Lắm để nhận lệnh. Cả hai ông, không ai chịu vào nhà thờ để gặp Tổng Thống và ông Cố Vấn. Tôi không rõ tại sao, dù đó là nhiệm vụ của hai ông, và bảo tôi đại diện Hội Đồng vào mời Tổng Thống và ông Cố Vấn ra xe là được rồi. Tôi vào nhà thờ qua cổng nhỏ bên mặt cổng chánh. Nhưng khi bước vào khỏi cổng khoảng 10 thước, tôi sực nhớ là mình vào một cơ sở tôn giáo không nên mang theo vũ khí. Tôi vội trở ra cổng, cởi súng lục trao cho tài xế của tôi. Lúc này người dân chung quanh thấy có việc lạ, tò mò đứng lố nhố đầy cả ngã ba trước rào sắt của nhà thờ. Binh sĩ cũng không gắt gao cho lắm, và chắc chắn bây giờ người dân đã biết được là Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu đang ở trong nhà thờ này."
"Tôi lại bước vào nhà thờ lần thứ hai, không súng, và vẫn một mình. Tôi không nhìn lại phía sau, nhưng nghĩ bụng là anh em Thiết Giáp ở ngoài rào sắt, chắc cũng đã bố trí theo dõi và an ninh cho tôi, vì biết rằng, tôi vào đây không một tấc sắt trong tay. Tôi mạnh dạn bước tới. Rẽ về tay mặt. Đi tới khoảng 20 thước thì thấy từ phía dãy nhà bên hông phải của nhà thờ có 4 người đi về hướng tôi. Đó là Tổng Thống Ngô Đình Diệm tay cầm gậy, ông Cố Vấn Ngô đình Nhu, và 2 người mặc thường phục. Tôi nghĩ bụng, một trong hai người mặc thường phục có xách chiếc cặp da phải là Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng Thống. Người thứ tư tôi không biết. Mãi sau này tôi mới biết là Đại úy An, sĩ quan cận vệ của Tổng Thống. Tôi nghĩ, chắc là Tổng Thống đã được Hội Đồng báo trước rồi, nên khi nghe thấy xe tới nhà thờ là Tổng Thống đi ra. Tôi đứng lại. Chờ. Nhưng vẫn không để ý xem hai sĩ quan này có võ trang hay không. Và khi Tổng Thống đến còn cách tôi khoảng 3 thước, tôi đứng nghiêm lại, đưa tay lên mũ, chào đúng lễ nghi quân cách, và giữ nguyên tư thế đứng nghiêm đó, tôi nói: "Thưa Tổng Thống, chúng tôi có lệnh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đến đây mời Tổng Thống và ông Cố Vấn về Bộ Tổng Tham Mưu. Có Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đại diện cho Hội Đồng, đang đứng trước cửa chờ Tổng Thống".
"Tổng Thống đứng lại nghe tôi trình bày và có nói một câu ngắn mà tôi nghe không rõ. Sau đó, Đại Úy Đỗ Thọ bảo tôi đi trước, Tổng Thống sẽ theo sau. Nhưng tôi đứng nép qua một bên, mời Tổng Thống đi trước ra hướng cổng nhỏ bên phải. Cả 4 người qua hết rồi, tôi mới lững thững bước theo sau, cách xa độ 3 thước. Dù sao, trong cương vị sĩ quan, tôi vẫn bắt buộc phải giữ lễ độ đối với Tổng Thống dù là trong hoàn cảnh nào. Và đi sau cũng có thể là một hành động phản ứng đề phòng tự nhiên của tôi, chớ hoàn toàn không có ý gì khác. Tôi đinh ninh rằng, Thiếu Tướng Xuân đã phải có mặt trước cổng để hướng dẫn Tổng Thống lên xe về Tổng Tham Mưu, vì đó là nhiệm vụ của ông. Đến cổng rào, vì là cổng nhỏ bên hông nên 4 người phải tuần tự qua cổng. Tổng Thống đi trước, đến Đại Úy Thọ, rồi mới đến ông Cố Vấn, và Đại Úy An. Tôi là người thứ 5 ra khỏi cổng sau cùng".
"Ngay lúc bấy giờ, tôi mới chợt nhận thấy có một chiếc Thiết Vận Xa đậu ngay cổng nhỏ này, cánh cửa sau xe mở rộng, gác nằm xuống sát lề đường. Tôi thấy Thiếu Tướng Xuân và Đại Úy Nhung đã có mặt tại chổ. Không có Đại Tá Lắm. Thiếu Tướng chỉ có bảo Đại Úy Đỗ Thọ trao cho ông chiếc cặp da của Tổng Thống mà Đại Úy Thọ xách. Ông Xuân xách chiếc cặp đi ngay, không nói thêm một lời nào khác ngoài việc khoát tay ra lệnh cho Đại Úy Thọ và Đại Úy An đi theo ông".
"Đại Úy Nhung hướng về phía Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu, nói như ra lệnh: "Mời hai ông lên". Vừa nói vừa chỉ vào cửa Thiết Vận Xa đã mở. Lúc này Tổng Thống và ông Cố Vấn đứng cách cửa Thiết Vận Xa khoảng 1 thước. Tổng Thống không nói lời nào, chưa có một phản ứng nào về thái độ kém nhã nhặn của người sĩ quan mà ông chưa hề biết mặt. Tổng Thống còn đang tần ngần, sững sờ, thì ông Cố Vấn Nhu đã lên tiếng với vẻ mặt bất bình với người nói trên:
- Tại sao lại phải lên xe này? Không còn xe nào khác hay sao? -
- Không có. Vì lý do an ninh, tình hình đang hỗn loạn. Dân chúng đang muốn giết hai ông đó. Hai ông phải lên xe này thôi, để được bảo vệ -
"Đại Úy Nhung có vẻ bực bội vì câu hỏi với giọng kẻ cả, nên vừa trả lời vừa đưa tay ra dấu như có ý đẩy hai người vào Thiết Vận Xa. Nhìn qua nhìn lại không thấy Thiếu Tướng Xuân đâu cả. Đại Úy Thọ và người sĩ quan cận vệ cũng không thấy có mặt. Tổng Thống hỏi:
- Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân đâu? Gọi Thiếu Tướng đến gặp tôi -
- Thiếu Tướng Xuân đã lên xe đi trước rồi -
"Đại Úy Nhung vừa trả lời vừa giục hai ông vào xe. Sau phút ngập ngừng, hai ông phải bước vào xe".
"Tôi vẫn còn đứng cách đó vài bước bên cạnh cổng nhỏ nhà thờ, nhìn thấy cảnh Thiếu Tướng Xuân đầu trần, không nhìn thẳng Tổng Thống. Thiếu Tướng đã đưa tay nhận lấy chiếc cặp da từ tay Đại Úy Thọ, xong là bước đi luôn về hước xe của ông, không quên ra lệnh cho Đại Úy Thọ cùng người sĩ quan cận vệ theo ông, để mặc cho Đại Úy Nhung đối đáp với Tổng Thống ra sao tùy ý. Tôi cũng nhìn thấy được gương mặt thẩn thờ, ngạc nhiên của Tổng Thống, vẻ bất bình cau có của ông Cố Vấn Nhu, và thái độ nóng nẩy của Đại Úy Nhung. Tôi theo dõi được những câu trao đổi ngắn ngủi nhưng mất bình tỉnh của ông Cố Vấn với Đại Úy Nhung, cũng như sự im lặng chịu đựng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi còn chứng kiến được cảnh hai người lặng lẽ bước vào xe, còn nghe Đại Úy Nhung bảo họ cúi đầu xuống. Đợi cho hai ông vào xe xong, Đại Úy Nhung mới bước vào sau cùng. Và cửa xe từ từ dựng đứng lên, đóng kín lại. ... "
"Ngay lúc bấy giờ, tôi mới kịp nhận ra là trong Thiết Vận Xa không còn một binh sĩ Thiết Giáp nào, ngoại trừ tài xế và phụ tài xế ngồi phía trước. Lúc Đại Úy Nhung bước vào xe, thì rõ ràng tôi chỉ thấy có 3 người trong xe. Đó là Tổng Thống, ông Cố Vấn, và Đại Úy Nhung. Sau này hỏi ra tôi mới biết, trưởng xa và xạ thủ đã được Đại Úy Nhung yêu cầu tạm đi qua xe khác. Tôi bước xuống lòng đường, đi bộ lại gặp Thiếu Tướng Xuân, tôi báo cáo tình hình sau cùng, và đề nghị với Thiếu Tướng cho đoàn xe khởi hành về Bộ Tổng Tham Mưu".
"Tôi bước về xe Jeep củatôi, ra lệnh cho đoàn xe nổ máy và chuẩn bị lên đường. Thứ tự các xe như cũ: Xe Jeep của tôi và Đại Úy Hiệp đi sau 2 xe Quân Cảnh dẫn đường, kế đó là xe Thiếu Tướng Xuân, xe Đại Tá Lắm, theo sau là 4 Thiết Vận Xa đi liền nhau, trong đó, chiếc thứ 3 chở Tổng Thống và ông Cố Vấn với Đại Úy Nhung, tiếp theo là xe chở bộ binh tùng thiết (tức là bộ binh tháp tùng theo Thiết Giáp), sau cùng là xe Trung Đội Trưởng. Đoàn xe đang đi trên đường Hồng Thập Tự, qua khỏi nhà bảo sanh Từ Dũ thì phải dừng lại cổng xe lửa vì sắp có xe lửa chạy qua. Thời gian đoàn xe dừng lại đây khoảng hơn mười phút, chợt tôi nghe có mấy tiếng súng nổ phía sau, vào khoảng giữa đoàn xe. Tôi cho quay đầu xe Jeep lại, chạy dọc theo đoàn xe để xem việc gì đã xảy ra. Đến ngang chiếc Thiết Vận Xa chở Tổng Thống và ông Cố Vấn, tôi thấy Đại Úy Nhung ngồi trên nóc xe và hướng về phía chúng tôi, đưa một ngón tay cái lên làm hiệu (được hiểu là mọi việc tốt đẹp). Tôi vội hỏi:
- Tiếng súng nổ ở đâu? -
"Đại Úy Nhung đưa tay chỉ vào trong xe mà không nói gì. Tôi quay đầu xe lại, tiếp tục trở lên đầu đoàn xe. Lúc đó xe lửa cũng vừa chạy qua xong, cổng chắn ngang đã mở, đoàn xe chúng tôi tiếp tục chạy hướng về Bộ Tổng Tham Mưu. Để được biết rõ ràng hơn, tôi có hỏi Trung Đội Trưởng Thiết Giáp, việc gì đã xảy ra mà có tiếng súng nổ trên chiếc Thiết Vận Xa thứ 3. Tôi được trả lời:
- Phụ tài xế xe thứ 3 có báo cáo cho tôi biết, tiếng súng đó do ông Đại Úy bộ binh ngồi trong xe bắn chết Tổng Thống và ông Cố Vấn rồi -
"Cả tôi và Đại Úy Hiệp đều nghe biết sự việc này qua hệ thống truyền tin Thiết Giáp trên xe chỉ huy của chúng tôi, nhưng tôi vẫn chưa có báo cáo gì về Tổng Tham Mưu vào lúc đó, cả với bộ chỉ huy Thiết Giáp cũng vậy. Riêng tôi, tôi không biết tại sao cả hai ông đã bị bắn chết. Vì cho tới giờ này, cũng như các Tướng Tá thành viên khác của Hội Đồng, tôi vẫn biết là Hội Đồng dù chưa có quyết định nào dứt khoát cho trường hợp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng gần như đã có một sự hiểu ngầm qua trao đổi ý kiến ngoài hành lang bán chánh thức giữa các thành viên của Hội Đồng, thì Tổng Thống được cho xuất ngoại như một người dân bình thường".
"Gặp Trung Tướng Minh và các vị Tướng lãnh ngay lối vào tòa nhà chánh, Thiếu Tướng Xuân báo cáo ngắn gọn rằng:
- Mission accomplie - (nhiệm vụ hoàn thành)
"Trầm ngâm và đăm chiêu, Trung Tướng Minh chưa nói một lời nào sau báo cáo của Thiếu Tướng Xuân, thì Thiếu Tướng Khiêm (Trần Thiện Khiêm) ngay sau đó hỏi nhỏ:
- Việc gì đã xảy ra? -
- Hai ổng đã chết rồi -
"Trung Tướng Minh trả lời ngắn gọn như vậy. Ngay lúc này, tôi có mặt tại chổ, và chợt hiểu. Thì ra câu "nhiệm vụ đã hoàn thành" (mission accomplie) cũng còn có nghĩa là hai ổng đã chết rồi. Rất là rõ ràng. Trung Tướng Minh nói xong, tất cả đều không có một câu hỏi nào khác nữa và cùng nhau trở lên văn phòng, không đi ra chổ Thiết Vận Xa đậu nữa. Tôi cũng đi theo".
" Bước vào đây tôi mới thấy Đại Úy Nhung đã có mặt ở văn phòng của Tham Mưu Trưởng rồi, cũng tức là văn phòng mà TrungTtướng Minh và các Tướng Tá trong Hội Đồng đang tạm sử dụng. Lúc bấy giờ, tôi mới biết thêm là Đại Úy Nhung đã lên đây trước và báo cáo với Trung Tướng Minh trước khi có người lên đây trình đoàn xe đón Tổng Thống đã về đến Tổng Tham Mưu. Đại Úy Nhung chỉ báo cáo riêng cho Trung Tướng Minh mà thôi, và chắc chắn là kín là mật, nên các Tướng Tá trong Hội Đồng, kể cả Thiếu Tướng Khiêm cũng chưa hay biết được việc gì đã xảy ra. Do đó, khi Trung Tướng Minh cùng các Tướng Tá trong Hội Đồng cùng đi xuống sân vận động dự trù để gặp Tổng Thống và ông Cố Vấn, thì chưa ai biết được việc gì đã xảy ra cho Tổng Thống cả. Vừa đến tầng dưới thì gặp ngay Thiếu Tướng Xuân từ ngoài sân bước vào, hớn hở báo cáo (công khai) với Trung Tướng Minh là nhiệm vụ đã hoàn thành".
"Để trả lời câu hỏi: "Việc gì đã xảy ra của Thiếu Tướng Khiêm", Trung Tướng Minh mới buông gọn một câu: "Hai ổng đã chết rồi". Tôi đã kín đáo nhận xét thái độ của các thành viên trong Hội Đồng ngay tại hành lang tầng dưới của tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, ngay sau khi Thiếu Tướng Xuân báo cáo, và sau đó Trung Tướng Minh trả lời ngắn gọn cho Thiếu Tướng Khiêm. Thoạt đầu, tất cả đều có vẻ vui (có lẽ khi biết là đã đón hay bắt được Tổng Thống và ông Cố Vấn về đây rồi), vì ai cũng nghĩ rằng phe đảo chánh ta đã nắm chắc phần thắng 100% mà không còn sợ hậu họa gì nữa, vì hai ông không chạy vuột ra khỏi thủ đô để còn mưu tính chuyện gì khác đâu. Và câu "mission accomplie" cũng được các Tướng Tá trong Hội Đồng hiểu là đã bắt được hai ông về rồi. Đến lúc nghe Trung Tướng Minh trả lời cho Thiếu Tướng Khiêm là cả hai đều đã chết hết rồi thì phần đông đều có vẻ sững sốt, ngạc nhiên, đến độ không nói được một lời nào. Vì cứ y theo quyết định, thì cùng lắm cũng chỉ một mình ông Cố Vấn Nhu mà thôi, tại sao lại là hai người? Ai cũng nghĩ là Tổng Thống sẽ được Hội Đồng cho đi ra ngoại quốc, bây giờ tại sao lại như vậy? Phải giải thích thế nào đây? Riêng Trung Tướng Minh rất là trầm tỉnh, không nói một lời nào với Thiếu Tướng Xuân dù là một lời khen hỏi ủy lạo, chỉ vài lời ngắn gọn cho câu hỏi của Thiếu Tướng Khiêm thôi".
"Sau đó vài hôm, tôi có dịp gặp lại Thiếu Tá Nhung (đã được thăng cấp). Để hết thắc mắc, tôi có gặn hỏi lại sự việc đã xảy ra như thế nào trong chiếc Thiết Vận Xa, thì Thiếu Tá Nhung vừa cười vừa trả lời cho tôi một cách gọn gàng như đã không có chuyện gì quan trọng xảy ra:
- Một người cũng vậy, mà hai người cũng vậy thôi. Hai người cũng khó khăn lắm, nhưng chắc ăn hơn -
- Nhưng làm gì có lệnh cho hai người? - Tôi gợi ý hỏi thêm.
- Vì ông Diệm chống cự lại sau khi ông Nhu bị tôi đâm chết, nên tôi phải thanh toán luôn. Có lệnh cũng được, mà không có lệnh cũng vậy thôi. Cho nó chắc ăn. Lúc đó đâu có đợi lệnh được anh -
"Thiếu Tá Nhung cũng cho tôi biết là anh đã sử dụng dao găm cá nhân của anh, và sau đó bồi thêm cho mỗi người một viên đạn ân huệ. Tôi còn nhớ mãi những câu đối đáp này mồn một, không bao giờ quên. Nhưng không bao giờ dám hé môi nửa lời ... Bí mật quốc gia chăng? Cũng có thể là như vậy, vì Hội Đồng họp báo có tiết lộ điều gì rõ ràng đâu. Cũng không có giải thích điều gì, và cũng không có trả lời bất cứ câu hỏi nào có liên quan đến sự việc này".
"Kết luận. Tôi xin tạm mượn một câu trích nguyên văn của cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn trong quyển "Việt Nam Nhân Chứng": "Tuy lúc đó tôi không nghĩ đến chuyện giết hai ông Diệm Nhu, sau này nhìn lại các sự kiện, tôi cho rằng người nào đó ra lệnh giết này, quả là một người thấy xa. Ông ta không phải ngu dại gì khi làm chuyện đó". Nhưng theo tôi, xét cho cùng, người nào đó cho dù có thấy xa, có ngu dại hay có khôn ngoan gì thì cũng không phải là người thực sự có quyền chủ động, và không thể chủ động gì trong sự việc này. Lý do rất đơn giản và rất dễ hiểu là lúc nào cũng có một bàn tay lông lá của người phù thủy với chiếc đũa thần, luôn luôn có mặt bên cạnh ... đứng trong bóng tối".
Hết phần trích dẫn.
Trở lại phòng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Sau một lúc bàn thảo và viết viết sửa sửa, một bản Thông Cáo được hoàn chỉnh, liền đưa sang đài phát thanh công bố cho toàn dân biết là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã thành công trong mục tiêu lật đổ chế độ độc tài gia đình trị của họ Ngô. Đồng thời cũng loan tin vắn tắt rằng, Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đã tự sát.
Ngay trong buổi sáng hôm nay (2/11/1963), Bộ Tổng Tham Mưu với hằng trăm phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình trong nước ngoài nước, cùng với những vị hoạt động chính trị, ra vào tòa nhà chánh rất nhộn nhịp. Những chiếc xe bóng lộn chạy vào chạy ra như "con thoi" vậy. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra lệnh thả tất cả tù chính trị dù có án hay chưa có án. Hải Quân được lệnh ra trại tù Côn Sơn đón các tù nhân chính trị về thủ đô, dĩ nhiên là không có tù chính trị cộng sản.
Buổi chiều (2/11/1963), trong buổi lễ đơn giản ngay trong phòng Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Trung Tướng Dương Văn Minh, nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thăng cấp Trung Tướng cho các vị: Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, thăng cấp Thiếu Tướng cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu và Đại Tá Nguyễn Hữu Có, cùng nhiều vị cấp Tướng cấp Tá khác.
Trung Tướng Minh ra lệnh mở cửa phòng họp số 1 và các vị bị giữ từ trưa hôm qua được ra về, nhưng đa số các vị này sau đó không còn ngồi lại chiếc ghế tại nhiệm sở của mình mà phải ngồi những chiếc ghế mà báo chí thường gọi là "ngồi chơi xơi nước", hoặc ngồi ghế ở nhà riêng của quí vị ấy.
Đến tối, hằng trăm sinh viên học sinh bị bắt giam trong cuộc tranh đấu cho Phật Giáo, sau khi ra khỏi nhà tù đã vào tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, mang theo đủ thứ thức ăn, nào bánh mì thịt, bánh tây, bánh ngọt, thịt quay, giò chã, cháo cá cháo thịt, .... đãi tất cả những ai có mặt tại đây, từ anh tùy phái, thư ký, đến cận vệ, tùy viên hay chánh văn phòng, và các vị Tướng Lãnh, một bữa ăn rất ý nghĩa trong một không khí thật vui. Phần tôi đã một ngày đêm không chợp mắt và cũng chẳng có thì giờ ăn uống mặc dù vợ tôi có cho mang vào. Giờ đây công việc không đến nỗi vất vã nên thật ngon miệng.
Trong khi Hội Đồng Quân Nhân Cách mạng cùng với các nhân vật chính trị và tôn giáo, thảo luận về thành phần chánh phủ thay thế chánh phủ sụp đổ, thì thi hài ông Diệm và ông Nhu được đưa xuống bệnh xá Tổng Tham Mưu, tọa lạc bên kia đường gần như đối diện với tòa nhà chánh Tổng Tham Mưu, để làm các thủ tục trước khi tẩn liệm và mai táng. Khai tử của hai ông làm tại quận Tân Bình, tỉnh Gia Định, ngang cổng số 2 trại Trần Hưng Đạo, tức Bộ Tổng Tham Mưu. Nghề nghiệp trên tờ khai tử của ông Diệm thì tôi không được đọc, nhưng của ông Nhu ghi là "quản thủ thư viện".
Trung Tướng Trần Văn Đôn ra lệnh cho Trung Tá Nguyễn Văn Luông (vừa thăng cấp) tìm mua hai quan tài tốt nhất, nhưng tìm cả Sài Gòn chỉ có một cái tốt nhất và cái còn lại được xem là tốt nhì. Dĩ nhiên cái tốt nhất dành cho cố Tổng thống Ngô Đình Diệm. Theo yêu cầu của bà Trần Trung Dung, cháu gái gọi ông Diệm ông Nhu là cậu ruột, đưa hai quan tài đến quàn tại bệnh viện Saint Paul trên đường Phan Thanh Giản. Biết được tin đó, học sinh sinh viên vì phẫn uất trong tù đày khi tham gia đấu tranh cho sự công bằng tôn giáo, nên dự định đánh cắp quan tài của hai ông. Tin tức này đến tai bà Dung, và Bà vội vã xin Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển trở vào Bộ Tổng Tham Mưu. Sau cùng, hai quan tài được an táng tạm trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc. Lễ an táng vị nguyên thủ quốc gia và vị cố vấn của ông ngay sau khi bị lật đổ, thật là thê thảm! Phải cử hành lúc nửa đêm để tránh những đụng chạm xô xát với học sinh sinh viên. Trong bóng đêm mù mịt, dưới ánh đèn pha loại nhỏ, ánh sáng chỉ đủ cho công việc hạ huyệt hai quan tài. Có mặt lúc đó, gồm vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung (một thời là Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng dưới quyền Tổng Thống Diệm), Trung Tá Nguyễn Văn Luông (trưởng ban mai táng), tôi, và một số quân nhân của Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu phụ trách an táng. Xong, một biên bản được thiết lập, và toàn bộ hồ sơ được ghép thành một tập dày cùng với hình ảnh từ lúc tẩn liệm đến khi hoàn thành hai ngôi mộ. Hai ngôi mộ thật bình thường. Tôi có giữ một hồ sơ này, nhưng cuối cùng cũng phải thiêu hủy sau ngày chế độ tự do Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ 30.4.1975.
Chánh phủ Nguyễn Ngọc Thơ được Trung Tướng Dương Văn Minh, với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, chức năng Quốc Trưởng tấn phong, trong khi nhiều nhân vật từng được ông Diệm và ông Nhu tin cẩn bị bắt giữ. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, trong ngành hành chánh, là Đốc Phủ Sứ thời Pháp cai trị, nguyên là Phó Tổng Thống của Tổng Thống Diệm, nhưng ông được mời thành lập chánh phủ có lẽ là nhờ vào thành tích khôi phục nền kinh tế trong những năm trước đó, với lại ông cũng chưa bị tai tiếng gì trong dư luận. Tân chánh phủ có màu sắc dân sự dù là có vài vị Tướng Lãnh nắm giữ Bộ Quốc Phòng và Bộ An Ninh (tức Bộ Nội Vụ cũ), nhưng thực chất lãnh đạo quốc gia vẫn là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà Trung Tướng Minh là Chủ Tịch, hành sử chức năng Quốc Trưởng.
Những ngày tiếp theo, các chính khách vẫn ra vào Bộ Tổng Tham Mưu tuy không nhộp nhịp như những ngày đầu, nhưng tòa nhà chánh lúc nào cũng có khách dân sự -nói chung- vào gặp Trung Tướng Minh hoặc Trung Tướng Khiêm.
Chiều ngày 3/11/1963, Đại Tá Đặng Văn Quang, sau khi được điều chỉnh từ Đại Tá tạm thời thành Đại Tá thực thụ, ông nói với Trung Tướng Khiêm:
- Trung Tướng lo thăng cấp cho nhiều người mà Trung Tướng quên thằng Hoa và nhân viên văn phòng. Tụi nó thức với Trung Tướng mấy ngày nay, mà chánh văn phòng của Trung Tướng là cực nhất đó -
- Đúng là tôi không nhớ. Chú Hoa, chú và mấy chú trong văn phòng mỗi chú được thăng 1 cấp. Chú bảo Phòng Tổng Quản Trị làm xong Nghị Định đưa vào tôi trình Trung Tướng Minh duyệt ký -
Thế là tôi được thăng cấp Thiếu Tá từ hôm đó.
Các chức vụ quan trọng tại trung ương ngay sau cuộc đảo chánh thành công, như sau:
- Trung Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, tức Quốc Trưởng.
- Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng.
- Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, vẫn Tham Mưu Trưởng Liên Quân.
- Trung Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trưởng Bộ Anh Ninh kiêm Tư Lệnh Quân Đoàn III/Vùng III Chiến Thuật.
Các chức vụ quan trọng tại địa phương, như sau:
- Trung Tướng Đổ Cao Trí, từ Đà Nẳng lên Plei Ku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II/Vùng II Chiến Thuật , hoán chuyển với Trung Tướng Nguyễn Khánh.
- Trung Tướng Nguyễn Khánh, từ Plei Ku xuống Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Vùg I Chiến Thuật, hoán chuyển với Trung Tướng Trí. Trong khi cuộc đảo chánh chưa phân thắng bại, Thiếu Tướng Khánh chần chừ trong quyết định ủng hộ bên nào, đến gần sáng 2/11/1963 mới lên tiếng ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, và khi thành công ông cũng được thăng cấp Trung Tướng.
- Thiếu Tướng Bùi Hữu Nhơn, Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Vùng IV Chiến Thuật. Đại Tá Nhơn nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh từ trung tuần tháng 12/1962 do Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm bàn giao lại, và chuyển Sư Đoàn từ Cần Thơ xuống Bạc Liêu. Đảo chánh thành công, Đại Tá Nhơn được thăng cấp Thiếu Tướng và nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV thay Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao bị cách chức.
Các chức vụ Tư Lệnh Hải Quân (Đại Tá Hồ Tấn Quyền), Tư Lệnh Không Quân (Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền), Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh (Đại Tá Bùi Đình Đạm), Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh (Đại Tá Bùi Dzinh), Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù (Đại Tá Cao Văn Viên), Tư Lệnh Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (Đại Tá Lê Nguyên Khang), Chỉ Huy Trưởng Sở Khai Thác Địa Hình (Đại Tá Lê Quang Tung, bị giết trong ngày đảo chánh), ..... và Trưởng Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu (Đại Tá Nguyễn Văn Phước), đều bị thay thế. Riêng Đại Tá Cao Văn Viên, chỉ vài ngày sau được trở lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhẩy Dù.
Ngày 8/11/1963, tôi chuyển lệnh của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm sang Bộ Tư Lệnh Không Quân, cấp 1 chiếc trực thăng lên Gò Dầu Hạ (tỉnh Tây Ninh) đón Đại Tá Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn. Trực thăng về đáp ngay trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi dùng xe của Trung Tướng Khiêm ra đón Đại Tá Thi và đưa vào phòng Trung Tướng Khiêm. Hai vị, sau cái bắt tay đã ôm nhau với nụ cười ròn rã. Nhưng liệu đằng sau hai nụ cười đó có phải xuất phát từ tình cảm chân thành hay chỉ là đầu môi? Bởi vì 3 năm trước đây, một vị lãnh đạo cuộc đảo chánh (Đại Tá Thi) và một vị chỉ huy đánh dẹp cuộc đảo chánh đó (Trung Tướng Khiêm), giờ đây lại gặp nhau, bắt tay nhau, cùng nhau cười, nhưng cười vui hay cười gượng!!!
Chính trị, theo tôi, là một loại ngôn ngữ và hành động mà mỗi người hiểu theo cách riêng của mình tùy theo bối cảnh chung, sự kiện riêng, thời gian và không gian của nó. Nói như vậy, hành động như vậy, nhưng không nhất thiết là như vậy. Phải chăng, Trung Tướng Khiêm và Đại Tá Thi đang là như vậy?
Cũng theo tôi, Tổng Thống Ngô Đình Diệm là vị lãnh đạo có bản lãnh chính trị. Ông là người thấy trước sự suy yếu trên chính trường quốc tế của Việt Nam Cộng Hòa nếu như chấp thuận cho Hoa Kỳ thiết lập các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và như vậy cuộc chiến tranh chống cộng sản sẽ mất thế chính trị, trong khi thế chính trị rất là quan trọng nếu không nói là có tính cách quyết định đối với cuộc chiến mà Việt Nam Cộng Hòa đang lâm trận (và điều này đã thật sự xảy ra). Nhưng rất có thể cũng vì ông có tầm nhìn xa như vậy mà ông đã bị lật đổ và bị giết chết? Vì thế mà cái chết của ông vẫn còn là một nghi vấn về người ra lệnh giết ông. Nhất thiết người đó phải là người Việt Nam có thẩm quyền lúc bấy giờ, nhưng liệu có phải chính người ấy tự mình quyết định hay người ấy cũng chỉ là người thi hành lệnh của ai đó đằng sau nữa? Nghi vấn cao nhất của tôi về người duy nhất ra lệnh giết ông Diệm ông Nhu vẫn là cựu Đại Tướng Dương Văn Minh. Giả thuyết rằng, nếu Đại Tướng Minh tự nhận ra lệnh cho Đại Úy Nhung giết ông Diệm, điều đó đúng hay sai tốt hay xấu còn tùy thuộc nhiều yếu tố mà những sử gia sẽ dẫn đến sự phán xét sau này, nhưng nếu Đại Tướng Minh cho là ông thi hành lệnh của Hoa Kỳ chẳng hạn, chúng ta có thể phán xét ngay bây giờ chớ không cần chờ đợi sự phán xét sau này của lịch sử. Nhưng giờ đây, năm 2003, cựu Đại Tướng Dương Văn Minh đã từ trần, xin để ông yên nghỉ!
Mặt khác, Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong hơn 9 năm cầm quyền, vừa chiến đấu chống du kích cộng sản, vừa xây dựng được nền kinh tế non trẻ bước đầu, và năm 1962 đã cân bằng được ngân sách quốc gia. Tổng Thống cũng là người lãnh đạo trong sạch, nhưng ông phải chịu trách nhiệm về mọi tác hại do anh em ông gây ra cho dân tộc, bởi vì ông là Tổng Thống, ông đã không ngăn chận, hoặc ông không đủ can đảm ngăn chận hành động của anh em ông, hoặc là ông xem thường thái độ chính trị của đồng bào dưới quyền ông, nên để mặc anh em ông thao túng!
Phải chăng ưu điểm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù có nhiều, nhưng không bù được khuyết điểm của ông, vì khuyết điểm từ trong trách nhiệm của ông mới thật là cốt lõi của lãnh đạo?
Khi thăm đơn vị quân đội, Tổng Thống Ngô Đình Diệm thường nhắc nhở người lính "chiến thắng ở mặt trận nhưng không nên tỏ ra kiêu căng ở hậu phương, vì như vậy là kiêu binh, mà kiêu binh thì mất lòng dân, mất lòng dân thì không thắng được cộng sản trong cuộc chiến tranh toàn diện này".
Vậy, có phải là Tổng Thống đã vấp phải điều mà ông răn dạy quân đội không?
Nhưng dù sao thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm -và chỉ riêng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thôi- tôi nghĩ, đã để lại nhiều luyến tiếc, thương cảm, thậm chí là ngưỡng mộ, trong các thành phần xã hội, kể cả quân nhân các cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa./.
Phạm Bá Hoa
Dân chúng Mỹ có ác cảm với các chánh phủ quân nhân trên thế giới, nên việc đưa quân nhân lập chánh phủ Nam Việt Nam bị phản ứng mạnh của dân chúng và quốc hội Mỹ khi chiến tranh kéo dài, và chánh phủ Mỹ phải bỏ Nam VN. Ðảo chánh 1963 đưa quân nhân lên nắm quyền đã giết chết ủng hộ của dân Mỹ.
ReplyDelete