Lời Tác giả:
Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa
Không phải chỉ là Tổng thống Ngô Đình Diệm
Việt Nam Cộng Hòa là máu xương 250 ngàn tử sĩ Miền Nam
Đem máu đào tưới thấm Đất Non Sông
Hồn tử sĩ vẫn còn vương trong gió
Đừng lưu manh bôi bác Tổng thống Ngô Đình Diệm
Xóa biểu tượng để triệt hạ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa
Nhằm đánh đồng VNCH với hán ngụy việt cộng
Thủ đoạn đánh tráo khái niệm đã cũ mèm
Không lung lạc được ai, chỉ lộ mặt lưu manh tay sai việt cộng
Đây TINH THẦN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA
Mãi mãi còn lưu lại trên trang thanh sử Việt!
.
Trời vào
thu, tháng mười, bâng khuâng nhớ nghĩ về những ngày tháng tuổi thanh xuân, hăm
hở học hành, xây dựng tương lai.
Ngày 26 tháng 10 năm 1956, chàng trai tuổi mười tám,
đứng trên xe kiệu hoa, mừng ngày thành lập Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, vung mạnh
tay chém rắn ba đầu Phong – Thực – Cộng.
Nhớ ngày học lớp nhứt trường tỉnh, một bữa chánh chủ
tỉnh Thủ Dầu Một Bonami (?) ghé thăm lớp học, bắt lỗi thầy Nguyễn Văn Kia giảng
ngữ pháp tiếng Tây sai. Mặc dầu thầy tranh cãi đỏ mặt, tía tai, nó vẫn cậy
quyền nạt nộ.
Cho nên khi đậu xong tú tài mới xin thi vào Học viện
Quốc gia Hành chánh Sài Gòn, ý muốn tham dự vào nền hành chánh công quyền trong
tinh thần dân chủ dưới nền pháp chế Cộng Hòa, vì công bằng, bình đẳng, không
cậy quyền áp chế người thấp cổ, bé miệng.
Đầu đề bài thi tuyển về nghị
luận thật đơn giản với một câu ngắn gọn:
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa nói: “Học đến tận nơi, hỏi đến tận chốn, hiểu
thật thông suốt, hành thật chu đáo.”
Gã học trò nhà quê đầu óc giản dị, cứ đem những điều cơ bản về thuyết tri hành
hợp nhất của Vương Dương Minh mà viết. Trong ba giờ thi, chỉ viết được bốn năm
trang rồi tịt. Vậy mà rốt rồi cũng đậu được vào học viện nổi tiếng Đông Nam Á
thời ấy.
Chương trình học tập thời ấy thiệt là nặng. Tuy rằng
học về khoa quản trị hành chánh công quyền Âu Mỹ, thầy dạy, trò học vẫn trên
tinh thần truyền thống Á Đông. Thay vì nói, cai trị là tiên liệu, thầy Tôn Thất
Trạch giảng “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu”. Thay vì nói phục vụ công chúng, thầy
giảng thiệt lâu về phục vụ công ích, công thiện.
Năm thứ nhất học lý thuyết. Qua năm thứ hai có những
buổi đi khảo sát các chương trình “Phát
triển Cộng đồng.”
Để chống lại chủ thuyết cộng
sản triệt tiêu quyền tư hữu, VNCH chủ trương Hữu sản hóa đại chúng.
Đầu tiên là chương trình hữu sản hóa tài xế xe Taxi. Ở
Sài Gòn hồi đó, chủ cho thuê loại xe taxi Renault 4 nhỏ như con bọ hung. Chánh
phủ cho nhập cảng loại xe du lịch kiểu mới Dauphine Alpha mới tinh, bán trả góp
cho tài xế lái taxi.
Trọng đại hơn là sách lược Quốc gia “Người cày có ruộng” hữu sản hóa giới nông dân. Chánh phủ truất hữu ruộng của
điền chủ trả bồi thường bằng công khố phiếu, bán cho mỗi hộ nông dân ba mẫu trả
góp. Về sau thời Đệ nhị VNCH nhận thấy như vậy chậm chạp không theo kịp tình
hình biến chuyển mau lẹ nên cấp miễn phí thay vì bán trả góp.
Về các chương trình phát triển cộng đồng, ngoài Miền
Trung có Hợp Tác Xã Sịa, tỉnh Thừa Thiên nổi tiếng với nhà máy xay lúa lớn,
hiện đại phục vụ xay xát cho nông dân cả vùng Quận Phong Điền.
Khu Trù Mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, Cần Thơ nức tiếng
thời ấy là biểu tượng cho chương trình phát triển nông thôn.
Cộng sản thường rêu rao: quân dân như cá nước nhằm xu
mị lợi dụng dân tiếp tế, che chở cho du kích vc ẩn núp quấy phá. Để cô lập bọn
chúng VNCH tiến hành sách lược “Ấp
chiến lược”. Đệ nhất VNCH nổi tiếng
Đông Nam Á về chính sách chống du kích này. Vì vậy mà cộng sản Bắc Việt phải xẻ
dọc Trường Sơn đưa bộ đội vào Nam chiến đấu trực tiếp.
Từ năm 1955 đến 1959 là những năm Miền Nam ổn định và
phát triển mạnh mẽ. Hệ thống giáo dục mở rộng trên nền tảng Nhân bản – Dân tộc
– Khai phóng vừa vun bồi truyền thống dân tộc vừa phát triển kiến thức khoa
học, kỹ thuật.
Đến cuối năm 1960, tình hình bỗng nhiên đột biến. Đầu
tiên là một nhóm nhân sĩ thường được kêu là nhóm Caravelle (tên một nhà hàng
lớn trên đường Catinat) ra tuyên cáo đòi cải tổ chánh phủ.
Đêm 10 rạng 11 tháng 11 năm 1960, một lực lượng binh
chủng Nhảy dù tấn công bót Catinat tức là trụ sở Tổng nha Công an. Một tiểu
đoàn tấn công thẳng vào Dinh Độc Lập tức Phủ Tổng thống. Tình hình vô cùng nguy
ngập: Cầu Bình Lợi bị một đại đội Nhảy dù của Trung úy Đào Văn Lượng phá sập
một nhịp để ngăn chặn Sư đoàn 5 về giải cứu. Ở Phú Lâm, một đại đội Dù thiết
lập nút chặn để ngăn chặn lực lượng Thiết giáp từ Quân khu 5 Cần Thơ về cứu
viện. Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã mưu trí
liên lạc với các đảng phái chủ mưu đảo chánh hứa hẹn sẽ hội họp để thảo luận về
việc thành lập chánh phủ Liên hiệp Đoàn kết Quốc gia. Trong khi ấy, Đại đội
Liên binh phòng vệ dinh Tổng thống đã hết đạn, giá súng, đưa Tổng thống vào chỗ
ẩn trú chờ lực lượng Dù vào tiếp thu dinh Độc Lập. Bỗng nhiên lực lượng Dù
ngưng tấn công và án binh bất động. Đó là do mấy người làm chánh trị cơ hội mắc
kế hoãn binh của Ngô Tổng thống nên ra lịnh ngưng bắn.
Hừng sáng ngày 11/11/1960, đoàn xe Thiết giáp từ Quân
khu 5, Cần Thơ kéo về giải cứu bị một Đại dội Dù ngăn chặn ở Phú Lâm. May đâu
viên Trung úy Đại đội trưởng mới nhậu nhẹt với Thiếu tá Trần Cửu Thiên, Tỉnh
trưởng Cần Thơ trong buổi lễ khao quân mấy bữa trước nên giải tỏa hàng rào chặn
cho vị này thông qua. Đoàn Thiết giáp thừa thế vượt qua nút chặn, tiến vào giải
vây dinh Độc Lập.
Cả tiểu đoàn Nhảy dù của Đại úy Trần Văn Hai lẫn đám
thanh niên, sinh viên do các đảng phái xách động biểu tình trước dinh Tổng
thống đều bị Thiết giáp đẩy lui và rút chạy.
Về sau xảy ra câu chuyện về khí phách của những nhân
vật đảng phái đứng đàng sau vụ đảo chánh bất thành: Khi bị bắt vào Nha An ninh
Quân đội, BS Phan Quang Đ Thủ lãnh Đại Việt khóc lóc tỷ tê. Thiếu tá Nguyễn
Bạch Ngọc, ủy viên Chánh phủ Tòa án Quân sự Mặt trận Vùng 3 sau này, khi ấy là
tùy viên hầu cận Tổng thống Ngô Đình Diệm thuật lại thái độ của Tổng thống về
cái chết của lãnh tụ Quốc dân đảng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: Khi được tin
Nhất Linh tự tử, Tổng thống thật buồn phiền, than thở, làm sao mà khổ thân làm
vậy! Chỉ chịu khó ít bữa là mọi việc được giải quyết, làm sao mà phải tự vẫn!
Và suốt mấy hôm, tổng thống còn tỏ vẻ phiền muộn.
Nội vụ chỉ diễn ra trong một
đêm, hậu quả tác động vào vận nước thật lớn lao:
Từ ngày ấy về sau, uy thế VNCH suy yếu không bao giờ phục
hồi lại được!
Nhân khi nội bộ tranh chấp, giặc cộng thừa cơ nổi
dậy: Phát “Đồng Khởi Bến Tre” định chiếm tỉnh lỵ Trúc Giang ra mắt cái tổ chức
bù nhìn việt gian gọi là Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. May nhờ Thiếu tá
Phạm Ngọc Thảo, Tỉnh trưởng Kiến Hòa, vốn gốc kháng chiến Bến Tre, mưu trí tổ
chức phản nội tuyến, bẻ gãy đồng khởi của “chị ba Định”, tư lịnh phó cái gọi là
lực lượng quân sự GPMN, đánh cho đồng khởi te tua không còn manh giáp.
Việc này vừa yên, việc khác kế tiếp: Dù đồng khởi
thất bại, tháng 12 năm 1960, vc vẫn cho ra mắt Mặt trận GPMN ở Tân Biên, Tây
Ninh, từ đó mở rộng chiến tranh đánh phá Miền Nam. Mở đầu là trận đánh úp hậu
cứ Sư đoàn 13 ở Trảng Sụp, Tây Ninh vào dịp Tết 1961.
Tôi có duyên nợ với Khu Trù Mật Vị Thanh – Hỏa Lựu.
Năm 1961, khi đi thực tập ở Cần Thơ, thỉnh thoảng được tháp tùng Thiếu tá tỉnh
trưởng Trần Cửu Thiên đi thăm khu vực này. Sau một năm làm việc tại Phủ ĐUTUTB,
tháng 4, 1963 được bổ nhiệm Trưởng ty Nội An kiêm Đặc trách Ấp Chiến Lược Tỉnh
Tân Lập Chương Thiện mà tỉnh lỵ là Khu Trù Mật Vị Thanh ngày trước.
Ba năm về trước, Khu trù mật Vị Thanh chỉ có một nhà
lồng chợ nhỏ tương đương với ngôi chợ của một quận lỵ trung bình. Dọc theo bờ
kinh Xà No chỉ có một dãy phố trệt. Giờ đây khu chợ đã có thêm mấy dãy phố lầu,
xem ra cũng có phần thị tứ như một tỉnh lẻ, mặc dầu là giữa đồng ruộng mênh
mông, sát cạnh rừng U Minh vc như rươi.
Tôi nói về nhiệm vụ Ty Nội An là nhằm góp thêm chút
ít ý kiến về cái gọi là “Pháp Nạn 1963” dẫn tới sự sụp đổ thảm thương của nền
Đệ Nhất VNCH. Phòng quan trọng của Ty Nội An là Phòng Chánh trị Sự vụ. Nơi đó
tập trung các chỉ thị về an ninh do trung ương đưa xuống và các báo cáo về an
ninh do các cơ quan an ninh và các Quận trong tỉnh báo cáo về. Nghĩa là cơ quan
phổ biến các chỉ thị của trung ương để thi hành và tổng hợp tình hình an ninh
trong tỉnh để báo cáo về Bộ Nội vụ. Do đó, trưởng ty Nội An biết rõ tình hình
của Phật giáo đồ ở địa phương. Về các huấn thị của chánh phủ, không có mật lịnh
nào về đàn áp Phật giáo. Trái lại là nhiều huấn thị liên tiếp lệnh cho tỉnh
trưởng giải thích cho các giới tôn giáo về lập trường của chánh phủ trên căn
bản tuyên cáo giữa Ủy ban liên bộ của chánh phủ và Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật
giáo.
Cho nên câu chuyện pháp nạn nếu có, chỉ xảy ra ở Sài
Gòn và Huế do mưu đồ chánh trị của Mỹ và cộng sản dàn dựng qua trung gian của
nhóm Ấn Quang chớ chẳng phải pháp nạn Phật giáo gì hết trơn.
Vì vậy mà khi cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963 xảy ra,
quân chính ở cái tỉnh lẻ kế bên rừng U Minh ngơ ngác không biết vì sao sự thể
lại xảy ra như vậy!
Cũng nói cho rõ, bọn việt cộng đâu có giỏi giang gì,
trong khi các đơn vị quân đội được lịnh phe đảo chánh án binh bất động, tỉnh lỵ
Chương Thiện hầu như bỏ ngõ, đến nỗi tỉnh trưởng phải đem hết Shotgun Ấp chiến
lược và đạn dược ra phát cho công chức tự tổ chức phòng thủ cơ quan và Ty Nội
An tổ chức một đoàn tuần tiểu bảo vệ tỉnh lỵ. Vậy mà đám địa phương quân vc
trong rừng U Minh sát bên không làm ăn gì được.
Ngày nay, mọi sự đã sáng tỏ, những oan khuất của Vị
Đệ nhất Tổng thống VNCH đã được bạch hóa.
Cũng xin thêm một đoạn khi nói về Đệ nhất VNCH chỉ
bắt đầu từ ngày ban hành Hiến pháp ngày 26 tháng 10 năm 1956 xem ra không được
đầy đủ.
Có lẽ nên nhấn mạnh về ngày 7 tháng 7 năm 1954 mà sau
này thường ghi nhớ là ngày Song Thất tức là ngày Thủ tướng Toàn quyền Ngô Đình
Diệm trình diện nội các, chính thức chấp chánh trong tình hình hầu như tuyệt
vọng:
-Ngày 20 tháng 7 Hiệp ước
Genève chia đôi Đất nước.
-90 ngày kế tiếp chánh phủ
tân nhiệm phải tiếp nhận hơn 900 ngàn đồng bào Miền Bắc lìa bỏ mồ mả tổ tiên
trốn chạy cộng sản vào Nam tìm Tự do.
-Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng
Tham Mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia bất tuân lịnh Thủ tướng.
-Các giáo phái Cao – Hòa –
Bình rục rịch khởi loạn.
-Pháp ngầm gây khó khăn, ám
trợ Bình Xuyên gây loạn ở Thủ Đô Sài Gòn.
-Người Mỹ thấy vậy cũng toan
tính rút lại sự yểm trợ chánh phủ Ngô Đình Diệm.
Chỉ đến khi, Thủ tướng và
nhóm thân cận, bằng quyết tâm và mưu trí, lật ngược được thế cờ thì Pháp mới
chịu buông tay và Mỹ mới tích cực yểm trợ.
Nhờ vậy, chánh phủ toàn quyền Ngô Đình Diệm mới tiến
hành được cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, thiết đặt bước đầu
tiên cho việc xây dựng nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Cũng ghi thêm ra đây một chi tiết về sự tuyên truyền về cái gọi là gia đình trị và kinh tài cần lao.
Gần đây, tình cờ được đọc bài ký sự của Giáo sư Lê Tấn Lộc thuật lại cuộc đối đáp của Cố vấn Ngô Đình Nhu với hai sinh viên thiên cộng về hai vấn đề kể trên trước cuộc tiếp tân ở Viện Pháp-Việt (Institut Franco – Vietnamien) Paris:
“May mắn thay, lòng tin tưởng vào khả năng đối đáp của vị Cố vấn Tổng Thống VNCH trước những câu hỏi hóc búa của hai sinh viên ‘yêu nước’– yêu XHCN! – trong khuôn viên Institut được đền bù xứng đáng.”
-Thưa ông Cố vấn, sinh viên yêu nước thứ nhứt hỏi. Xin ông vui lòng xác nhận hay phủ nhận chuyện ông cho chuyển ngân bất hợp pháp hai tỷ đô-la sang một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Có phải ông định dùng số tiền này kinh tài để củng cố chế độ “gia đình trị” do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ xướng chăng?
Có tiếng vỗ tay lét đét từ phía “cò mồi” do các phần tử “yêu nước” gài.
Ông Cố vấn chờ tiếng vỗ tay chấm dứt, điềm tĩnh trả lời:
-Có! Chúng tôi có một ngân khoản ở Thụy Sĩ. Nhiều hơn con số anh đưa ra. Tôi không tiết lộ con số chính xác vì nó liên quan tới An Ninh Quốc Phòng. Đó là một ngân quỹ bí mật. Muốn sử dụng phải hội đủ 5 nhóm mật mã của 5 vị trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia mà tôi là một thành viên. Có lẽ anh ở ngoại quốc quá lâu, nên không theo dõi hiện trạng đất nước. Người Mỹ đang áp lực chúng tôi theo đường lối chính trị của họ. Chúng tôi không muốn hoàn toàn lệ thuộc vào họ, đánh mất chủ quyền quốc gia. Nên quỹ bí mật này nhằm đảm bảo sự độc lập của chúng tôi trong việc điều hành quốc sự... Hy vọng tôi đã trả lời thỏa đáng điều anh thắc mắc...
Cử tọa không vỗ tay rầm rộ, nhưng gật gù tán thưởng. Sinh viên “yêu nước” bẽn lẽn rời khuôn viên Institute
–Thưa ông Cố vấn, sinh viên “yêu nước” thứ hai sừng sỏ “chất vấn” tiếp: Ông vẫn chưa trả lời dứt khoát Tổng Thống Ngô Đình Diệm có áp dụng chế độ “gia đình trị” tại miền Nam không?
Lại có tiếng vỗ tay lét đét!
–Như ông bạn anh vừa hỏi tôi, tôi nghĩ rằng anh cũng đã xa quê hương rất lâu. Tôi xin tóm lược hiện tình đất nước từ ngày Ngô Tổng Thống về chấp chánh đến nay, để đặt câu hỏi ngược lại với anh:
Giả thử anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm, về nước năm 1954 khi thực dân Pháp còn tiếp tục khuyến khích các phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm trợ, xúi giục các giáo phái có thành tích bất hảo như thổ phỉ đánh phá quân đội quốc gia, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm tiêu diệt anh, nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có nhau vì đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên là cật ruột, anh có cảm thấy gần như không cách chi anh không hành sử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng?
Sinh viên “yêu nước” thứ hai âm thầm lủi mất.
Vậy đó, tư cách của Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đáng mặt sĩ phu Việt Nam yêu nước là như vậy đó!
Nhân ngày kỷ niệm Đệ nhất VNCH 26 tháng Mười, viết đôi dòng tưởng nhớ công đức tiền nhân, về một thời Miền Nam tự do, no ấm, tương đối thanh bình với một nền Cộng Hòa non trẻ xây dựng trên nền tảng Dân Tộc – Nhân bản, hướng về một xã hội Việt Nam công bình, nhân ái, phát triển và thịnh vượng.
Nguyễn Nhơn
(Một môn đệ Quốc gia Hành chánh theo truyền thống Học – Hiểu – Hành)
Tinh thần Dân tộc – Nhân bản trên Hiến Pháp Đệ nhất VNCH
Gần đây, nhiều tác giả trong nước cổ xúy nguyên lý
“Tam Quyền Phân lập” trong việc thiết đặt nền tảng Hiến Pháp.
Đã từ lâu, nguyên lý tam quyền phân lập hiến định đã
trở thành nguyên lý cổ điển trong việc thành lập Hiến pháp.
Ít người biết Hiến Pháp Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa
1956 đã được thiết dựng trên nguyên lý PHÂN NHIỆM thay vì phân quyền cổ điển.
Nguyên lý Phân Nhiệm nhấn
mạnh vào ý niệm: Chủ quyền Quốc gia thuộc về Toàn dân. Quốc
dân ỦY NHIỆM các nhiệm vụ hiến định cho các chức chưởng, định chế Quốc gia chớ
không phải các định chế Quốc gia ban bố quyền cho toàn dân.
Về nguyên lý NHÂN BẢN, lời mở đầu Hiến pháp Đệ nhất VNCH long trong ghi: “Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người
mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như
trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc gia.”
Nhân dịp kỷ niệm ngày ban hành Hiến pháp Đệ nhất VNCH
26 tháng 10, 1956, xin ghi lại đôi dòng về tinh thần Dân tộc – Nhân bản của nền
Đệ nhất VNCH.
Tinh thần Dân tộc – Nhân bản của nền Đệ nhất VNCH
Trích: “Tinh
Thần Cộng Hòa vẫn tồn tại.”
Mặc dù Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại nhưng sinh
họat và tinh thần Cộng Hòa đã ăn sâu vào cách suy nghĩ của người miền Nam.
Tinh thần này đã được truyền cho thế hệ tiếp nối và
lan tỏa khắp nơi. Trong nước tại miền Nam các thế hệ đi trước đã kể cho con em
họ về lịch sử của họ và của Việt Nam Cộng Hòa.
(VIỄN TƯỞNG VỀ CHÍNH THỂ CỘNG HÒA
CHO VIỆT NAM. Nguyễn Quang Duy)
Ngày 26 tháng 10, 2015, ngày kỷ niệm 59 năm thành lập nền Đệ Nhất Việt
Nam Cộng Hòa.
Ngày ban hành Hiến Pháp, đạo luật tối thượng thiết
đặt nền tảng, kỷ cương cho Đất nước. Dù bị nạn thực dân - cộng sản qua phân,
trong ý thức, tình tự dân tộc, Quân – Dân – Chánh Miền Nam vẫn nhìn nhận: Lãnh
thổ Việt Nam Cộng Hòa chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, Độc lập – Thống
nhất, bất khả phân.
Lời Mở đầu Hiến pháp lẫm liệt
viết:
Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia
và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật
cường của toàn dân đảm bảo,
Và Điều 1 minh thị xác định:
Việt Nam là một nước Cộng Hòa, Độc lập, Thống nhất,
lãnh thổ bất khả phân.
Đó
là tinh thần Dân tộc theo truyền thống Bình Ngô Đại cáo:
“Như
nước Việt ta từ trước vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn Hà cương vực đã chia, phong
tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên hùng cứ một phương.”
Về yếu tính Nhân bản, hiến
pháp cũng long trọng cam kết:
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự
phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời
sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc gia;
Điều 12
Đời tư, gia đình, nhà cửa, phẩm giá, và thanh danh
của mọi người dân phải được tôn trọng.
Về vấn đề Dân chủ, ngày nay, sống dưới chế độ độc tài
toàn trị việt cộng quá lâu, giới trẻ may nhờ cuộc cách mạng truyền thông điện
tử, tìm thấy được ý niệm căn bản về thể chế dân chủ, thường nêu cao định chế
Tam Quyền phân lâp, Dân chủ pháp trị, Đa nguyên, đa đảng.
Ít người biết rằng, hai nền Việt Nam Cộng Hòa đã từng
vượt lên trên quan niệm phân quyền hiến định. Và đã long trọng thiết đặt yếu
tính “Dân chủ Phân nhiệm” trên cả hai bản Hiến pháp VNCH:
Điều 2: Chủ quyền thuộc về
toàn dân.
Điều 3: Quốc dân ủy nhiệm vụ
hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân
cử.
Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt.
Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hòa.
Điều này thật trọng yếu nhằm bảo đảm tính chất dân
chủ vững chắc và có thực chất của thể chế VNCH khi xác định: Chủ quyền thuộc về
toàn dân. Quốc dân “ủy nhiệm vụ” cho các chức chưởng, định chế quốc gia thực
hiện nhiệm vụ do quốc dân giao phó chớ không phải tự thân các chức chưởng, định
chế ấy ban bố quyền hạn cho toàn dân.
Hiện tại, tương quan giữa các ngành Hành pháp – Lập
pháp – Tư pháp Hoa Kỳ vẫn đặt trên căn bản “Cân bằng Quyền lực” (Balance of
Powers). Năm mươi tám năm về trước, Hiến pháp VNCH đã đặt định “Hoạt động của
các cơ quan hành pháp và lập pháp” phải được điều hòa. “Nghĩa là các ngành hoạt
động điều hành công việc quốc gia có bổn phận phải thu xếp ổn thỏa để cho bộ
máy nhà nước hoạt động được điều hòa, không để va chạm rối loạn, chớ không chỉ
tiêu cực cân bằng quyền lực.”
Một Quốc gia VNCH non trẻ, được thiết dựng trên căn
bản trội yếu về hiến chế và điều hành giữa thời chinh chiến điêu linh mà đã đạt
được một số thành tựu đáng kể như vậy cũng là niềm hãnh diện cho sĩ phu Miền
Nam nước Việt.
Hơn thế nữa, những ngày cuối cùng của Miền Nam, trong
khi giặc cộng kéo gần đến dưới chân thành, sĩ phu Miền Nam vẫn còn thao thức
hội thảo đặt vấn đề: Dân chủ Pháp trị hay Đức trị? Là Phụ mẫu chi dân hay dân
chi phụ mẫu?!
Hỡi ôi, nền VNCH như đứa bé mới học đi vừa vững chân
trên nền Dân chủ Pháp trị đã chực chạy lên Dân chủ Nhân bản và tiến đến mức cao
xa Đức trị!
Hai nền VNCH non trẻ ấy, như tuổi thanh xuân mơ mộng,
hăm hở tiến vào nền văn minh thời đại thật đáng yêu.
Còn như ngày nay, giữa thời kỳ chủ nghĩa xã hội đen
tối, chỉ một nền Cộng Hòa Tam quyền phân lập đơn sơ, khiêm tốn vẫn chỉ là “một
viễn tưởng” ở ngày mai, nghĩ cũng thật là thảm cho Đất nước và Dân tộc!
Nguyễn Nhơn
SOURCE:
oOo
Trích đoạn bài viết:
"Chính sách nông thôn thời Việt Nam Cộng Hòa"
Tác giả: Lạp Chúc Nguyễn Huy
A. Khu trù mật Vị Thanh
Chính TT Diệm tham dự lựa chọn địa điểm và có sáng kiến xây dựng khu trù mật Vị Thanh để biểu lộ quyết tâm thành thị hóa nông thôn của tổng thống. Ngày 12 tháng 3 Năm 1960, tổng thống đích thân đến khánh thành khu trù mật.
Tại sao chọn địa điểm Vị Thanh?
Xã Vị Thanh là giao điểm của một hệ thống giao thông quan trọng nối các tỉnh miền Hậu Giang. Vị Thanh nằm trên:
– tỉnh lộ 31 chạy ngang qua tỉnh Kiên Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên.
– kênh lớn thương mại Xà No nối Cà Mau, Phong Dinh và Chợ Lớn. Nhờ có kênh Xà No, Cái Nhum, Ông Cai, người dân ở Vị Thanh có thể lui tới được các vùng bán đảo Cà Mau và đặc biệt với vùng sình lày U Minh.
Vì vị trí giao thông, thương mại và chiến lược ngăn chận xâm lăng cộng sản mà địa điểm Vị Thanh được chọn để sẽ trở thành một tỉnh lỵ kiểm soát kinh tế, chính trị trên bán đảo Cà Mau.
Thành lập
Sau khi quyết định chọn Vị Thanh, đầu năm 1960, chính phủ phái đến Vị Thanh mấy trăm công chức và thanh niên tự nguyện làm công việc lên đất nền nhà, đào mương rãnh dẫn nước, khai hoang cỏ dại, vét sình lày, chia lô đất… Đồng thời chính phủ trợ cấp 1 100 000VN$ để hoàn tất dự án sau:
-100 000VN$: thiết kế đồ án khu trù mật;
-100 000 VN$: mua thuốc men và tổ chức công tác cộng đồng;
– 600 000 VN$: xây trường học, một bệnh xá, nhà hộ sanh;
-300 000 VN$: máy phát điện, đào giếng bằng khoan máy.
Ngoài ra chính phủ cho vay dài hạn số tiền 400 000VN$ để xây cơ sở hành chánh và chợ.
Sau khi xây dựng xong hạ tầng cơ sở, chia lô… chính phủ khuyến khích các nông dân sống rải rác ở sâu trong vùng sình lày nước đọng miền rừng sát đến định cư tại khu trù mật.
Quyết tâm của TT Diệm
Ngày 12 tháng 3 năm 1960, TT Diệm đích thân đến khai mạc khu trù mật. Từ ngày đó, cộng sản gây áp lực bằng pháo kích, khiến một số dân bỏ đi. Để tỏ quyết tâm thực hiện quốc sách trù mật, ngày 24 tháng 12 năm 1961, tổng thống ký sắc lệnh số 244 NV thành lập tỉnh Chương Thiện, tỉnh lỵ là khu trù mật Vị Thanh. Tiếp theo, tổng thống chỉ thị bộ chỉ huy sư đoàn bộ binh đồn trú thường trực tại đó. Hai biện pháp trên khiến an ninh trở lại, dân chúng an tâm ở lại làm ăn và thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại một cách nhanh chóng. Theo thống kê của tỉnh , năm 1972 dân số đã tăng lên 24 391 so với 18 824 người năm 1961, hoạt động kỹ nghệ có 15 nhà máy xay lúa, 2 máy in, 4 máy sản xuất nước đá, 1 lò gạch…
Khó khăn chính yếu của khu trù mật là hệ thống thoát thủy (kênh, rạch, cống rãnh nghẹt vì bùn) nên gây ra bệnh sốt rét. Năm 1969, chính quyền xây cất bệnh viện Lê Hữu Sanh trang bị một phòng thí nghiệm nghiên cứu ngừa bệnh sốt rét và tiêu diệt muỗi anophèles.
Chợ tại khu trù mật Vị Thanh (hình Sở Thông Tin năm 1960)
(A) (B)
Bản đồ xã Vị Thanh trước (A) và sau (B) khi thành lập khu trù mật
Trạm y tế tại khu trù mật Vị Thanh (hình Sở Thông Tin năm 1960)
Source:
http://viethocjournal.com/2018/10/chinh-sach-nong-thon-thoi-vnch-lap-chuc-nguyen-huy/
.
No comments:
Post a Comment