Tuesday, November 16, 2021

. MÔ HÌNH ẤP CHIẾN LƯỢC DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM


Hàn Giang Trần Lệ Tuyền




Khi nói đến Ấp Chiến Lược, thì chỉ những người đã từng sống ở trong các vòng đai của Ấp Chiến Lược vào thời kỳ đầu của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa; NHƯNG, phải có một lương tâm trong sáng, một tấm lòng chân thành, thì họ mới viết lại những gì mà họ đã chứng kiến một cách trung thực.

Vậy, để lớp trẻ sau này, còn biết đến một công trình của người đi trước đã dày công xây dựng; bởi vậy, nên người viết xin phép tác giả Nguyễn Đức Cung để được trích đoạn trong bài:

"Từ Ấp Chiến Lược đến biến cố Tết MậuThân, những hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam" như sau:

1.2. Khu trù mật và Ấp chiến lược.

Trước khi nói đến các cơ cấu trên đây, thiết tưởng cần nhắc đến chính sách Dinh Điền được tổ chức trước đó để thấy rằng các nhà lãnh đạo của nền Đệ Nhất Cộng hòa đã có một cái nhìn xuyên suốt trong Chính Sách An Dân của mình.

 


 

Ngày 17.9.1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký nghị định số 928-NV thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn, ngang hàng với một bộ trong Nội các, do ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Ủy Trưởng. Bên cạnh đó, vì số người Công Giáo di cư gần khoảng 70% trên tổng số tị nạn nên có một tổ chức cứu trợ tư nhân với tên Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư do Giám mục Phạm Ngọc Chi điều khiển. Tổng số dân rời bỏ miền Bắc để vào miền Nam là 875, 478 người và họ được đưa đến Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang, sau đó đi định cư các nơi khác tùy ý họ lựa chọn.

Nói chung đối với hầu hết các cơ chế được tổ chức dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa và một khi đã bị giải thể, hay bị chính quyền kế tiếp coi như là một thứ con ghẻ không hề lưu tâm tới (trong thời Đệ nhị Cộng Hòa) tất nhiên sự kiện đó đã góp thêm rất nhiều yếu tố thuận lợi cho biến cố Tết Mậu Thân, mà rõ ràng nhất là hệ thống khu trù mật và ấp chiến lược được tổ chức và nâng lên thành quốc sách dưới thời Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

 


 

Ngày nay ai cũng biết hệ thống tổ chức Khu trù mật và Ấp chiến lược là sáng kiến rất đỗi lợi hại của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhờ đó mà bọn du kích Cộng Sản đã một thời khốn đốn không hoạt động được gì hữu hiệu. Thật ra việc gom dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lúc đất nước có chiến tranh. Người có sáng kiến tiên khởi về ấp chiến lược có lẽ phải kể đến Tỉnh Man Tiểu Phủ Sứ Nguyễn Tấn (1820-1871), tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1863, Nguyễn Tấn đã áp dụng kế sách đó trong việc đánh dẹp người Mọi Đá Vách, Quảng Ngãi. Một sử liệu của Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục, đã ghi lại như sau:

"Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tỉnh man tỉnh Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư. Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thứ án sát Thái Nguyên, khi ấy quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong 1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Đến đây, chuẩn cho thăng hàm thị độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà. Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước. Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thiếu cho. Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để ở. Các viên phủ huyện phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo (ít dân), thì phái quân đến phòng giữ, ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thử sức dân." [9]

Thành phố đổ nát

Cách đây hơn nửa thế kỷ, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc sách được ban hành như Khu trù mật và Ấp chiến lược, nhằm giải quyết cho công cuộc định cư của gần một triệu đồng bào từ bắc di cư vào Nam, và sau đó, để đối phó với chính sách khủng bố của du kích Cộng sản tái hoạt động ở các vùng nông thôn miền Nam.

Trong cuốn sách Chính sách cải cách ruộng đất Việt-Nam (1954-1994), tác giả Lâm Thanh Liêm đã viết về Khu trù mật như sau: "Khu Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và gom thôn dân vào đấy sinh sống vì ở trong những thôn xóm hẻo lánh, xa cách các trục giao thông, do đó, chính phủ không thể kiểm soát được. Trước sự đe dọa của chiến tranh xâm lược Miền Bắc, Tổng Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện bề kiểm soát họ, đồng thời cô lập họ với "Việt Cộng", giống như cá thiếu nước không thể sống tồn tại được. Mỗi Khu Trù Mật có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tầng cơ sở giống tựa như trường hợp của một thành phố:

* Một khu thương nghiệp (với một ngôi chợ xây cất bằng gạch và tiệm buôn bán).

* Một khu hành chánh (có một chi nhánh bưu điện), xã hội (một Bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa (các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền).

Các Khu Trù Mật được điện khí hóa. Vị trí của chúng được chọn lựa kỹ lưỡng, hội đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển (đất đai trù phú, gần các trục giao thông).

* Khu Trù Mật có thể phát triển nông nghiệp, diện tích đất trồng có thể được nới rộng nhờ khẩn hoang thêm đất màu mỡ, để trong tương lai, các thế hệ trẻ tấn lên trở thành điền chủ.

* Khu Trù Mật có thể phát triển thương nghiệp và các lãnh vực dịch vụ khác, cùng phát triển các tiểu thủ công nghệ liên hệ với ngành nông nghiệp địa phương.

* Nhờ Khu Trù Mật, chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: cư trú tập trung cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều đầu tư hơn hình thức cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v...)

Khu Trù Mật là nơi bảo vệ dân chúng chống lại chiến tranh xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việc kiểm soát dân chúng trong Khu Trù Mật, chính quyền địa phương còn trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến Khu Trù Mật thành một "tiền đồn", ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.

Bởi vậy các Khu Trù Mật thường được thiết lập tại các địa điểm có tính cách chiến lược, dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành đai an ninh. Đồng thời Khu Trù Mật cũng là thị trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000 m 2, để xây cất một ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà. Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh."

Sử gia Robert Scigliano, thuộc viện đại học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội tuyên truyền phản đối chính sách Khu trù mật vì ngoài việc ngăn chặn Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, các Khu trù mật được xây dựng ở những vùng chiến lược chẳng hạn dọc theo một con đường chính hay một trục thủy lộ gây trở ngại rất nhiều cho việc chuyển quân của Cộng Sản".

Và kế đến, người viết cũng xin phép tác giả Trần An Phương Nam: Gia đình CB/XDNT Bắc Cali, để cũng được trích đoạn trong bài:

“Từ quốc sách Ấp Chiến Lược đến chương trình Xây dựng Nông Thôn" như sau:

"Khi thành lập công cụ xâm lược mang tên Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam" (MTGPMN) vào tháng 12 năm 1960. Cộng Sản Hà Nội quyết tâm thực hiện giai đoạn khởi đầu trong sách lược thôn tính miền Nam qua mặt trận du kích chiến, trọng tâm của mặt trận này là “lấy nông thôn bao vây thành thị” nói cách khác là chúng muốn kiểm soát địa bàn nông thôn, tranh thủ nhân tâm người dân nông thôn để lợi dụng lòng yêu nước của họ ngõ hầu buộc họ phải cộng tác, nuôi dưỡng, che chở cho du kích quân cộng sản. Kế tiếp là chúng sẽ dùng nông thôn làm bàn đạp để tấn công, tiến chiếm các thành phố để cướp chính quyền. Thoạt tiên kế hoạch xâm lược miền Nam của cộng sản Hà Nội là như vậy, chúng mong muốn thôn tính miền Nam chỉ cần sử dụng mặt trận du kích chiến mà thôi, không cần sử dụng đến các mặt trận khác như trận địa chiến hay vận động chiến v.v...

Nắm vững được sách lược của địch. Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược, đây quả là một đối sách đúng đắn và vô cùng lợi hại của chính quyền lúc bấy giờ, việc thi hành đối sách này đã làm cho từ bọn đầu sỏ chóp bu ở Hà Nội đến bọn công cụ tay sai MTGP ở miền Nam phải điêu đứng, hoang mang. Bởi vì mục tiêu căn bản của Quốc Sách Ấp Chiến Lược là tách rời du kích quân sự cộng sản ra khỏi nhân dân nông thôn, không cho chúng bám dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở và hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô lập hoàn toàn để chúng phải chọn lựa, một là ra hồi chánh, hai là bị tiêu diệt. Tất cả các Ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố bao quanh, các cổng chính ra vào được canh gác đúng mức tùy theo địa thế, mỗi Ấp đều có từ một đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, ban ngày người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ mặt muốn vào Ấp phải qua thủ tục kiểm soát chặt chẽ, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại, tuy nhiên các trường hợp cấp thiết của dân chúng vẫn được giải quyết. Ngoài ra, các Ấp Chiến Lược đều có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp vào Ấp. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở tại phụ trách. Ấp Chiến Lược được tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng và tự phát triển.

Quốc Sách Ấp Chiến Lược thực hiện rất hiệu quả, công việc tát nước để bắt cá, mặt trận du kích chiến của cộng sản bị ngưng trệ, du kích quân và hạ tầng cơ sở của chúng gần như không chốn dung thân, chủ trương bám dựa vào người dân bị bẻ gãy từ trứng nước. Tóm lại, Quốc Sách Ấp Chiến Lược đang trên đà thăng tiến và tỏ ra hữu hiệu thì bất ngờ bị hủy bỏ bởi chính những người có quyền cao chức trọng trong chính thể VNCH. Thật đáng tiếc vô cùng!"

Trên đây, là những trích đoạn đã viết về Ấp Chiến Lược, của hai vị tác giả Nguyễn Đức Cung và Trần An Phương Nam; riêng người viết bài này, trước đây, cũng đã có viết qua bài: Những Mùa Xuân Qua có một đoạn về Ấp Chiến Lược như sau:

Mô hình của một Ấp Chiến Lược:



Tại quê tôi, ấp chiến luợc là những vòng đai có hai vòng rào gai rừng, ở giữa hai vòng rào là những giao thông hào sâu quá đầu nguời, rộng hơn hai mét, do dân làng cùng nhau đào, dưới lòng giao thông hào có cắm chông làm bằng những gốc tre già đã được vót nhọn, sắc, có ba cạnh. Còn vòng rào là những tấm gai cứng nhọn, có bề rộng hai mét, bề cao hơn hai mét được ghép lại. Chúng tôi xin nhắc rằng: Vì để bảo vệ tánh mạng và tài sản của chính gia đình của mình nên mọi người dân quê đều hưởng ứng, họ rất vui vẻ với công việc này. Đặc biệt là lớp thanh niên, với những nụ cười, tiếng hát với nhau trong lúc cùng nhau thực hiện Ấp Chiến Luợc. Ngoài ra, dân lành còn dùng những chiếc thùng thiếc, loại thùng đựng dầu hỏa, hoặc thùng gánh nước đã bị hỏng, đem đục lỗ, cột dây thừng nhỏ đuợc tết bằng những sợi mây rừng; ban đêm sau 20 giờ Chiến Sĩ Dân Vệ đóng cổng ấp lại, rồi họ đem giăng dọc theo bờ rào Ấp Chiến Luợc và các lối đi ở bìa vuờn, để ngăn bước chân của Việt cộng nằm vùng ban đêm thường lẻn xuống giết hại dân lành và cuớp gạo, muối của dân mang lên rừng để sống. Bọn trẻ như chúng tôi thì khoái đi giăng thùng lắm, chúng tôi đòi Chiến Sĩ Dân Vệ phải cho chúng tôi đi theo, giăng thùng xong chúng tôi còn trông cho có ai đó, hoặc con vật gì nó vướng dây để được đánh mõ còn nếu được "la làng" thì càng thích hơn nữa.

 


Tôi vẫn nhớ mãi về những năm tháng ấy thật vui, tôi nhớ dân quê tôi còn "phát minh" ra phong trào đánh mõ và la làng. Ngoài các trạm gác đêm của các Chiến Sĩ Dân Vệ, thì nhà nào cũng sắm ra nhiều chiếc mõ tre; mỗi khi có tiếng thùng đổ thì mọi nguời đánh mõ ba hồi một dùi; nghĩa là đánh ba hồi dài, sau đó đánh một tiếng, còn nếu thấy có bóng dáng nguời xuất hiện thì đánh mõ hồi một; nghĩa là đánh một hồi rất gấp, rồi kèm theo chỉ một tiếng. Lúc đó mọi nguời không ai được đi lại phải chờ cho các Chiến Sĩ Dân Vệ kiểm tra xem tại sao thùng đổ, nếu là Việt cộng nằm vùng xuất hiện, thì các Chiến Sĩ Dân Vệ sẽ tri hô và mọi nguời đồng thanh la làng: “Cộng sản bớ làng, cộng sản bớ làng”; sau đó, dân làng tay cầm chiếc gậy có sợi dây thừng cuộn ở phía trên, tay cầm đuốc sáng trưng để vây bắt Việt cộng. Chính vì thế, mà tôi nhớ người dân đã bắt được bốn cán bộ VC nằm vùng, nhưng tôi chỉ nhớ tên hai nguời là Duơng Đình Tú và Đỗ Luyện, cả hai đuợc đưa ra tòa sau đó họ ra Côn Đảo, đến khi trao trả tù binh họ chọn con đường ra Bắc. Còn nếu do một con chó thì họ sẽ la to: "Bà con ơi! chó vướng thùng, đừng đánh nữa", thì dân làng họ mới thôi đánh mõ.

Một kỷ niệm mà không phải riêng tôi, mà có lẽ còn hai "nạn nhân" trong cuộc chắc chắn khó quên: Ấy là vào một đêm có đôi tình nhân đã hẹn hò nhau ở bìa vuờn, chắc họ đã ra đó lúc chưa giăng thùng, nên đến khuya khi họ quay về nhà, chẳng may họ đã vướng phải dây và thùng thi nhau đổ, khi các anh Dân Vệ kiểm tra thì có bóng hai nguời họ hô: “Đứng im”; lúc ấy có tiếng cả hai xưng tên và nói: "Tụi em đây, xin các anh đừng bắn". Nhưng lúc ấy, dân làng đã đèn đuốc sẵn sàng, hai nguời mắc cỡ quá nên đứng im không dám nhúc nhích trông rất tội nghiệp. Sau đó, đôi tình nhân ấy không hiểu tại sao họ lại chia tay. Bây giờ hai nguời đều có gia đình riêng, ở cùng làng đã có cháu nội, ngoại. Cô gái vướng thùng năm xưa hiện nay lại là chị chồng của em gái tôi.

Tôi vẫn nhớ hoài những đêm vui kỷ niệm; ngày ấy, đêm nào bọn trẻ con trong làng cũng trông mong cho có ai đó, hay con chó, con mèo vướng thùng để được đánh mõ, vì cả làng đều đánh mõ hòa với tiếng trống ở các trụ sở thôn làng, nghe thật vui tai, chúng tôi đứa nào cũng thích, cũng đòi cha mẹ sắm cho những chiếc mõ thật tốt, kêu thật to. Chúng tôi thích đánh mõ, đánh dai lắm, cho đến khi các Chiến Sĩ Dân Vệ đã la to lên: "Chó vướng thùng, bà con ơi đừng đánh mõ nữa" các anh cứ la, còn chúng tôi thì vẫn cố đánh thêm mấy hồi nữa, vì mấy khi thùng đổ để được đánh mõ đâu.



 

Hậu quả của việc phá bỏ Ấp Chiến Lược:

Mùa xuân năm 1964, quê hương tôi không còn thanh bình nữa; bởi lúc ấy, Nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã sụp đổ. Ấp chiến lược bị phá bỏ, vì như mọi người đều biết, từ thưở xa xưa tổ tiên chúng ta ở thôn quê quanh vườn người ta thường trồng tre, gai làm bờ rào, còn nhà thì có bờ dậu có cửa ngõ, làng thì có cổng làng, mục đích để phòng gian, như bài thơ "Cổng Làng" của Thi sĩ Bàng Bá Lân đã viết:

"Chiều hôm đón mát cổng làng

Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi

Đồng quê vờn lượn chân Trời

Đường quê quanh quất bao người về thôn

Ráng hồng lơ lững mây son

Mặt trời thức giấc véo von chim chào

Cổng Làng rộng mở ồn ào

Nông phu lững thững đi vào nắng mai"

Như vậy, từ thưở xa xưa, tổ tiên của chúng ta đã từng xây dựng Làng, có Cổng Làng mà mỗi đêm thường được đóng, để bảo vệ dân làng, và mỗi ngày khi: "Mặt Trời thức giấc véo von chim chào" thì "Cổng làng rộng mở ồn ào" để cho những "Nông phu

lững thững đi vào nắng mai"; huống thay là trong thời chiến tranh, lúc cái "Mặt trận giải phóng miền Nam" do cộng sản Hà Nội cho ra đời, thì những kẻ vì ngu xuẩn hay cố tình kia lại ra lệnh phá bỏ Ấp Chiến Lược, là phá bỏ mọi trở ngại, khó khăn để cho Việt cộng đánh chiếm các làng thôn một cách dễ dàng.

Tôi đã chứng kiến những ngày Xuân 1964, đầy khói lửa, hoang tàn, từng đoàn người bồng bế, hoặc gánh con thơ chạy trốn, dân quê tôi họ đã biết rất rõ về cái gọi là “Giải phóng miền Nam “ vì cũng những người trong làng trước kia họ biết rõ là đảng viên cộng sản, sau đó họ biệt tích, rồi một ngày họ bỗng dưng từ trên núi trở về lại tự xưng là "Giải phóng miền Nam", nên dân quê tôi đã phân biệt Quốc, Cộng là hễ ở trên núi xuống là cộng sản, chúng nói gì họ cũng không nghe, thấy bóng dáng cộng sản đâu là họ đều cõng - gánh con thơ tìm đường chạy trốn.

Kể từ đó, khi Ấp Chiến Lược bị phá bỏ, thì quê tôi, quận Tiên Phước gồm 15 xã, mà việt cộng đã chiếm hết 11 xã, chỉ còn có 4 xã nằm chung quanh quận lỵ, mà chẳng có xã nào còn nguyên vẹn, vì xã nào cũng mất một vài thôn; riêng xã Phước Thạnh, tức làng Thạnh Bình-Tiên Giang Thượng, gồm có 7 thôn, nhưng Việt cộng đã đánh chiếm mất 6 thôn, chỉ còn 1 thôn Đại Trung, nằm bên bờ Tiên Giang Hạ.

Và với những gì tôi đã viết trước đây, là hồi ức của một thời thơ ấu không hề biết thêu dệt; nghĩa là viết một cách vô cùng trung thực, thấy sao nói vậy, nhớ đâu viết đó, chứ không phải là văn chương.

Vì vậy, một lần nữa, người viết muốn lập lại là chỉ mong ước để cho lớp trẻ sau này còn biết đến một công trình của người đi trước đã dày công xây dựng.

Pháp quốc, 20/10/2011

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 SOURCE:

https://www.aihuubienhoa.com/a2899/mo-hinh-ap-chien-luoc-duoi-thoi-tong-thong-ngo-dinh-diem

oOo

Trích đoạn bài viết:

"Chính sách nông thôn thời Việt Nam Cộng Hòa"

Tác giả: Lạp Chúc Nguyễn Huy

 

A. Khu trù mật Vị Thanh

Chính TT Diệm tham dự lựa chọn địa điểm và có sáng kiến xây dựng khu trù mật Vị Thanh để biểu lộ quyết tâm thành thị hóa nông thôn của tổng thống. Ngày 12 tháng 3 Năm 1960, tổng thống đích thân đến khánh thành khu trù mật.

 

Tại sao chọn địa điểm Vị Thanh?

Xã Vị Thanh là giao điểm của một hệ thống giao thông quan trọng nối các tỉnh miền Hậu Giang. Vị Thanh nằm trên:

– tỉnh lộ 31 chạy ngang qua tỉnh Kiên Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên.

– kênh lớn thương mại Xà No nối Cà Mau, Phong Dinh và Chợ Lớn. Nhờ có kênh Xà No, Cái Nhum, Ông Cai, người dân ở Vị Thanh có thể lui tới được các vùng bán đảo Cà Mau và đặc biệt với vùng sình lày U Minh.

Vì vị trí giao thông, thương mại và chiến lược ngăn chận xâm lăng cộng sản mà địa điểm Vị Thanh được chọn để sẽ trở thành một tỉnh lỵ kiểm soát kinh tế, chính trị trên bán đảo Cà Mau.

 

Thành lập

Sau khi quyết định chọn Vị Thanh, đầu năm 1960, chính phủ phái đến Vị Thanh mấy trăm công chức và thanh niên tự nguyện làm công việc lên đất nền nhà, đào mương rãnh dẫn nước, khai hoang cỏ dại, vét sình lày, chia lô đất… Đồng thời chính phủ trợ cấp 1 100 000VN$ để hoàn tất dự án sau:

-100 000VN$: thiết kế đồ án khu trù mật;

-100 000 VN$: mua thuốc men và tổ chức công tác cộng đồng;

– 600 000 VN$: xây trường học, một bệnh xá, nhà hộ sanh;

-300 000 VN$: máy phát điện, đào giếng bằng khoan máy.

Ngoài ra chính phủ cho vay dài hạn số tiền 400 000VN$ để xây cơ sở hành chánh và chợ.

Sau khi xây dựng xong hạ tầng cơ sở, chia lô… chính phủ khuyến khích các nông dân sống rải rác ở sâu trong vùng sình lày nước đọng miền rừng sát đến định cư tại khu trù mật.

 

Quyết tâm của TT Diệm

Ngày 12 tháng 3 năm 1960, TT Diệm đích thân đến khai mạc khu trù mật. Từ ngày đó, cộng sản gây áp lực bằng pháo kích, khiến một số dân bỏ đi. Để tỏ quyết tâm thực hiện quốc sách trù mật, ngày 24 tháng 12 năm 1961, tổng thống ký sắc lệnh số 244 NV thành lập tỉnh Chương Thiện, tỉnh lỵ là khu trù mật Vị Thanh. Tiếp theo, tổng thống chỉ thị bộ chỉ huy sư đoàn bộ binh đồn trú thường trực tại đó. Hai biện pháp trên khiến an ninh trở lại, dân chúng an tâm ở lại làm ăn và thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại một cách nhanh chóng. Theo thống kê của tỉnh , năm 1972 dân số đã tăng lên 24 391 so với 18 824 người năm 1961, hoạt động kỹ nghệ có 15 nhà máy xay lúa, 2 máy in, 4 máy sản xuất nước đá, 1 lò gạch…

Khó khăn chính yếu của khu trù mật là hệ thống thoát thủy (kênh, rạch, cống rãnh nghẹt vì bùn) nên gây ra bệnh sốt rét. Năm 1969, chính quyền xây cất bệnh viện Lê Hữu Sanh trang bị một phòng thí nghiệm nghiên cứu ngừa bệnh sốt rét và tiêu diệt muỗi anophèles.


Chợ tại khu trù mật Vị Thanh (hình Sở Thông Tin năm 1960)



(A) (B)

Bản đồ xã Vị Thanh trước (A) và sau (B) khi thành lập khu trù mật

 



Trạm y tế tại khu trù mật Vị Thanh (hình Sở Thông Tin năm 1960)

 

 

B. Vùng trù mật Ba Thê

Năm 1959, xã Vọng Thê (quận Huệ Đức, tỉnh An Giang) được chọn làm địa điểm vùng trù mật Ba Thê gồm 3 khu trù mật: khu trù mật An Long bao dưới chân núi Ba Thê, khu trù mật Hạc Phong bao quanh núi Tượng và khu trù mật Thạch Lâu bọc núi Chóc.

 

Địa thế thiên nhiên và cơ cấu điền địa

Xã Vọng Thê nằm trong vùng trũng thấp, đất phèn, cấy lúa nổi. Mùa nước lớn, mực nước dâng cao đến 3m có thể làm thiệt hại vụ mùa lúa nổi. Mùa nắng khô ráo, nước giựt, cỏ vàng khô cháy, lác đác trâu tìm bóng mát bên gốc cây gáo sơ rơ, đất sét nứt nẻ và mao dẫn chất phèn lên mặt đất làm hại vụ mùa.

Bốn ngọn núi nhỏ : núi Ba thê, núi Tượng, núi Trọi và núi Chóc trấn giữ vùng trù mật Ba Thê. Núi Ba Thê gồm Ba Thê lớn cao 210m, dưới chân có chợ của An Long và Ba Thê nhỏ nơi đồn trú văn phòng quận Huệ Đức (1959).

Xã Ba Thê rộng 21 347 Ha gồm :

– đất truất hữu theo dụ số 57: 2 292Ha,

– đất thuộc điền chủ pháp Noblet: 446Ha,

– công điền: 2 286 Ha,

– công thổ :14 093 Ha,

– thổ cư: 122 Ha.

– diện tích còn lại là rừng tràm.

Để cung cấp đất ruộng cho vùng trù mật, chính phủ trưng dụng:

– 270 Ha công thổ và đất tư nhân cải bộ thành công sản quốc gia,

– 250 Ha của 90 chủ điền Miên và Việt.

 

Kênh đào

Dưới triều nhà Nguyễn, năm 1818, quan Thoại Ngọc Hầu cho đào kênh Thoại Hà (từ núi Sập đến Rạch Giá) và kênh Mướp Văn. Thời Pháp cho đào kênh Ba Thê chạy qua Ba Thê (12 cây số) và nối với kênh Thoại Hà và kênh Mướp Văn ở chợ An Long . Công trình dẫn nước rửa phèn, mở rộng thủy lộ đã thu hút nông dân và các điền chủ trồng cấy lúa nổi.

Chung quanh núi Ba Thê, một kênh đào tay để rút nước vào mùa mưa nhưng khô cạn vào mùa nắng khô.

Kênh núi Chóc nối với kênh Ba Thê tới Ba Dầu trước đào tay rồi được nha Thủy Nông soáy vét.

Kênh núi Tượng (6 cây số) đào năm 1959 gồm kênh vòng đai từ kênh Ba Thê bọc quanh núi Tượng rồi đâm trổ ra chợ Ba Thê.

Kênh núi Trọi do điền chủ đào xưa kia để thoát thủy và chuyên chở lúa.

Khi bắt đầu lập khu trù mật, chính phủ cho đào tay rồi xáng vét lại các kênh nhỏ trong lòng khu trù mật dài 1500m.


(A) (B)

Xã Vọng Thê trước (A) và sau (B) khi thành lập vùng trù mật

 

 

Lý do chọn Xã Vọng Thê

Lý do kinh tế và quân sự đã đưa đến quyết định chọn địa điểm vùng trù mật Ba Thê.

Trong thời kỳ chiến tranh (1945-1954), các đại điền và nhiều đất ruộng bỏ hoang, không thoát thủy vì phù sa bít kênh rạch nên một lớp phèn dày phủ trên mặt đất. Chính phủ muốn tập trung dân để tái canh, khẩn hoang rừng tràm và biến nơi hẻo lánh này thành một thị tứ giống như khu trù mật Vị Thanh.

Mục đích quân sự là chiếm cứ các ngọn núi nhỏ làm pháo đài kiểm soát cả một vùng sình lày rộng lớn và nơi trú ẩn cộng sản trong khu rừng tràm.

 

Thành lập

Tháng 10 năm 1959, sau khi đã mở rộng đường giao thông thủy bộ, dự án vùng trù mật Ba Thê đươc thực hiện gồm ba khu trù mật: An Long, Hạc Phong và Thạch Lâu.

Khu trù mật An Long. Đây là khu trù mật lớn nhất trong vùng tập trung:

– 508 lô đất làm nhà (mỗi lô rộng 40/60m), bọc tựa vào chân núi Ba Thê,

– công sở, trường học, công trường, hồ nước, 10 giếng đào, ký nhi viện, vườn ương cây, máy phát điện…

Khu trù mật Hạc Phong có 192 lô nhà bọc quanh núi Tượng và 101 lô nằm dưới chân núi Trọi. Mỗi lô rộng 40/75m.

Khu trù mật Thạch Lâu, nằm trong ấp Vọng Đông, có 106 lô đất (mỗi lô rộng 25/60m) bọc quanh núi Chóc.

Năm 1969, vùng trù mật Ba Thê sát nhập với xã Vọng Thê và trở lại quyền kiểm soát quân đội quốc gia nên chúng tôi có thống kê năm 1973 của xã Vọng Thê như sau:

– dân số: ấp Vân Hiệp A chỗ chợ An Long có 553 nhà, 3665 dân; ấp Trung Sơn: 168 nhà, 976 dân; ấp Tân Tây: 458 nhà, 2622 dân.

-giáo dục: một trường trung học, ấp Tân Hiệp A (1 sơ cấp), ấp Tân Tây (1 tiểu học, 2 sơ cấp), ấp Trung Sơn (2 sơ cấp), Vọng Đông (4 sơ cấp), Hạc Phong (2 sơ cấp), Hai Trân (1 sơ cấp).

-y tế: 1 tiểu bệnh xá, 2 trạm hộ sanh, 2 trạm dự trữ thuốc tây.

-kinh tế: dân chuyên sống về nông nghiệp sạ lúa nổi vào mùa mưa, đào mương lên líp cao 2m làm vườn trồng rau cây trái, mùa khô vào rừng tràm khai thác gỗ, đi làm công, cày gặt, lòi lúa vì diện tích đất khả canh do chính phủ phát quá nhỏ.

 

Khó khăn

Khác với khu trù mật Vị Thanh, vùng trù mật Ba Thê gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, khác biệt sắc dân, tôn giáo…

Diện tích khu gia cư và canh tác quá nhỏ (0,24Ha ở Ba Thê, 0,3Ha ở núi Tượng), đất thấp không phát triển được vườn rau, cây trái, mỗi năm chỉ làm một mùa lúa nổi, năng xuất thất thường, không có thủ công nghệ, mùa khô thất nghiệp thì vào rừng tràm lấy gỗ, đào đìa bắt cá lại bị cộng sản ngăn cản.

Về tín ngưỡng, thành phần dân số nhiều dị biệt chính trị và va chạm tôn giáo. Năm 1973, xã Vọng Thê có: 4 chùa việt dưới chân núi Ba Thê (2894 tín đồ), một chùa miên tên Kalbobrưk, một trụ sở phật giáo Hòa Hảo (7995 tín đồ), một thánh thất Cao Đài (584 tín hữu), một giáo đường (865 tín đồ), đạo ông bà (470 người).

Chính phủ không tôn trọng được nguyên tắc thành lập khu trù mật. Trước khi thành lập vùng trù mật, năm 1959, 5700 dân sống ở xã Vọng Thê. Chính phủ muốn tăng dân số lên 30 000 người để đáp ứng việc thành thị hóa. Vì đa số dân chúng địa phương sống nghèo nàn hẻo lánh không chịu về định cư tại khu trù mật, từ năm 1959 đến năm 1961, chính phủ phải bỏ nguyên tắc căn bản của quốc sách khu trù mật bằng cách đưa 8500 di dân quê quán miền Trung, 2900 dân di cư miền Bắc đến định cư ở khu trù mật và áp dụng trợ cấp như trong chính sách dinh điền (mỗi gia đình nhận một lô đất đã đắp nền sẵn, 5000 VN$ làm nhà, dự trữ gạo, muối mắm cho 6 tháng).

Vì mục đích tối hậu là thành thị hóa vùng trù mật nên đồ án hoạch định đường xá, kênh đào, nhà cửa theo đường thẳng. Vì vậy, đồ án đã lấn chiếm ruộng đất tư nhân của dân địa phương và gây nhiều bất mãn dù được bồi thường.

Năm 1959, quận lỵ Huệ Đức đặt dưới chân núi Ba thê nhưng phải rút lui từ năm 1963 đến 1969 vì vấn đề giao thông tiếp viện và địa bàn cô lập giữa vùng sình lày rừng tràm, dân thưa thớt. Một số dân chúng đã rời bỏ vì vấn đề an ninh.


Khu trù mật An Long dưới chân núi Ba Thê (Hình Nguyễn Huy, năm 1971)

 

 

Khu trù mật Thạch Lâu kéo dài tới chân núi Chóc

(hình Nguyễn Huy, năm 1971)

 

 

Quang cảnh vùng trù mật Ba Thê

(hình Sở Thông Tin, năm 1962)

 

C. Ấp trù mật

Thành lập ấp trù mật trong trường hợp dân số tập trung không đủ cho một khu trù mật. Trên thực tế, ấp trù mật nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của tình hình chiến sự và hoàn toàn không theo tiêu chuẩn quốc sách khu trù mật. Ấp trù mật nằm ở những vị trí chiến lược, tập trung dân rải rác sống ở những vùng hẻo lánh về sống trong một vòng đai của ấp dưới sự bảo vệ của quân đội quốc gia để cô lập hóa cộng sản tập trung trong vùng sình lày, lau sậy. Chúng tôi lấy ấp trù mật Phú Mỹ làm thí dụ.

Xã Phú Mỹ thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường nằm giữa con đường huyết mạch của đồng bằng Cửu Long (quốc lộ 4) và cánh đồng lau sậy bát ngát, nơi đây là mật khu cộng sản huấn luyện cán bộ, dự trữ binh khí lương thực trong thời kỳ 1945-1954. Sau hiệp định Genève 1954, sự lựa chọn xã Phú Mỹ làm nơi tập kết cán binh cộng sản lui về Bắc Việt đủ nói nên tầm quan trọng vị trí chiến lược của xã Phú Mỹ và lập ấp trù mật Phú Mỹ dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Năm 1959, ấp trù mật Phú Mỹ được thực hiện trong ấp Phú Xuân (xã Phú Mỹ) ở hạ lưu rạch Láng Cát. Ấp tập trung 285 người sống rải rác dọc theo rạch Láng Cát, Láng Cò và ven cánh đồng lau sậy sình lầy.

Mỗi gia đình nhận một lô đất (10/20m), một số tiền 8000VN$ để làm nhà, một số thuốc men cần thiết và lương thực gạo mắm. Chính phủ cất văn phòng quản trị và một trường sơ cấp (3 lớp học). Dân chúng được quyền ban ngày trở về nhà cũ để bắt cá, gặt mùa, nhưng đến chiều tối phải trở về nghỉ trong ấp trù mật được phòng thủ bởi một vòng đai đất cắm chông, gài mìn và dây kẽm gai. Sau 1963, cộng sản phá ấp trù mật, giải tán dân.

Tiếp theo ấp trù mật là quốc sách ấp chiến lược nặng tính cách quân sự nên chỉ được đề cập sơ qua.

 

D. Ấp chiến lược

Trước nguy cơ xâm lăng của cộng sản miền Bắc và để đối phó với tình hình chiến sự, TT Diệm tuyên bố tổ quốc lâm nguy (1961) và ký sắc lệnh số 11 TTP ngày 3 tháng 3 năm 1962 phát động quốc sách ấp chiến lược[2]. Bốn bộ (nội vụ, quốc phòng, giáo dục và cải tiến nông thôn) được phối hợp chặt chẽ nhằm xây dựng quốc sách ấp chiến lược dưới chỉ thị của tổng thống.

 

Mục đích

Ấp chiến lược theo đuổi mục đích quân sự, kinh tế và cải tiến dân sinh nông thôn. Tuy nhiên, áp lực xâm lăng cộng sản ngày một tăng khiến mục đích chính của ấp chiến lược là quân sự nhằm tạo nên một trường thành ấp chiến lược võ trang chống lại cộng sản.

 

Mục đích quân sự

Áp dụng đường lối «tát nước bắt cá», chống bao vây thành thị, dành thế chủ động, bắt dân chọn chiến tuyến;

-dành thế chủ động bằng thúc đẩy đến chiến tranh có giới tuyến[3],

-phá thế nhân dân của cộng sản, và dồn họ vào thế thụ động tập trung bị bao vây bởi phòng tuyến ấp chiến lược rồi bị tiêu bởi quân đội chính qui, biệt kích quốc gia;

-ép dân chọn phòng tuyến chống cộng và tránh tiếp súc tuyên truyền giả dối.

Mục đích chính trị

Hướng dẫn dân làm quen với thể chế dân chủ bằng cách để dân tự bầu ban trị sự ấp, lập hương ước dựa vào tập tục, lệ làng mà dân muốn[4].

Mục đích xã hội

·         thực hiện bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật không phân biệt giai cấp xã hội,

·         tạo điều kiện thuận lợi cho ấp chiến lược cải thiện và thăng tiến xã hội,

·         trên bình diện xã hội, tôn trọng và ưu tiên tinh thần cộng đồng và định chế xã ấp xưa.

Mục đích kinh tế

Giúp cho ấp chiến lược tiến đến tự phòng, tự quản, tự túc tạo thành một sợi dây xích vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội quốc gia rảnh tay chống xâm lăng.

Sau khi các mục tiêu đươc ấn định, quân, dân, chính học tập chính trị, đường lối của ấp chiến lược để phổ biến và giải thích cho công chúng nhất là cho nông dân. Đồng thời chính phủ tổ chức các nhóm dân tình nguyện đi thực hiện các ấp chiến lược ở nông thôn và kêu gọi dân thành thị cũng như nông thôn hợp tác với chính sách.

Thực hiện

Chính sách ấp chiến lược được tiến hành nhanh chóng là vì cơ cấu của ấp:

·         dân của ấp là dân sống tại chỗ,

·         địa bàn của ấp có thể là một ấp cũ, nhiều ấp tụ lại, nguyên một xã cũ nếu có thể qui tụ lại trong một hàng rào phòng thủ.

 

Công việc thực hiện trải qua 3 giai đoạn.

Giai đoạn 1. Tổ chức hệ thống phòng thủ chiến đấu từ 21 đến 45 ngày. Thực hiện các công tác sau:

– đắp một bờ lũy bằng đất, bên ngoài là đào hào cắm tre nhọn, giăng dây kẽm gai và hầm chông,

– mở một cổng ra vào dưới sự kiểm soát của dân tự vệ võ trang,

– đặt hệ thống báo động trang bị bằng còi tu huýt, thùng hộp sắt trống phát tiếng báo động,

– kiểm tra và thanh lọc dân theo tuổi, tín ngưỡng, khuynh hướng chính trị,

– đoàn ngũ hóa và tập quân sự dân từ 18 đến 45 tuổi để bảo vệ ấp,

– bầu ban trị sự ấp và lập hương ước trong vòng 45 ngày.

Giai đoạn 2. Võ trang tinh thần nhằm kiện toàn dân sự. Huấn luyện chủ nghĩa nhân vị tóm tắt trong ba khẩu hiệu sau:

– tam túc. Hướng dẫn dân ý thức tự túc quản trị hành chánh, tự túc tổ chức kỹ thuật, tự túc tư tưởng về đời sống;

-tam giác. Mỗi người dân tự cảnh giác về sức khỏe, đạo đức và óc sáng kiến;

– tam nhân. Phát triển con người toàn diện về bề sâu (thân tâm), bề rộng (nghĩa vụ và quyền lợi đối với cộng đồng) và bề cao (tâm linh hướng thượng).

Giai đoạn 3. Kiện toàn áp dụng chính sách ấp chiến lược từ trung ương xuống đến địa phương.

 

Thành quả

Theo tài liệu của bộ nội vụ, đến tháng 10 năm 1963, chính phủ đã thực hiện được:

– 11 847 ấp chiến lược[5] trong số đó 8679 ấp đã bầu ban quản trị và 8200 ấp đã lập hương ước,

-8 972 524 dân trong 8 371 ấp sẵn sàng chiến đấu chống xâm lăng.

Tiếc rằng chính sách ấp chiến lược hoàn toàn bị hủy bỏ sau năm 1963.

Source:

http://viethocjournal.com/2018/10/chinh-sach-nong-thon-thoi-vnch-lap-chuc-nguyen-huy/

 

.

 


No comments:

Post a Comment