Thursday, May 6, 2021

Hồi Ký “Tù cải tạo” của Đại Tá Nguyễn Huy Hùng K1 Võ Bị (Part 1-2 The End)

 


TIỂU SỬ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY HÙNG

-Phật tử, Pháp danh KHIẾT CHÂU,

-Sanh vào ngày Saint Patrick’s Day, cuối thập niên 20, Thế kỷ 20, tại Thị xã LẠNG SƠN, Bắc phần Việt Nam. (nơi có di tích lịch sử ẢI NAM QUAN).

-1945, gia nhập Phục Quốc Quân hoạt động bí mật.

-5 tháng 7 năm 1947, gia nhập Vệ binh Bắc Kỳ.

-1 tháng 6 năm 1949, tốt nghiệp Thiếu úy, Khoá 1 (Khoá Bảo Ðại) Trường Võ bị Quốc Gia Việt Nam. Bổ nhiệm về Tiểu đoàn 2 VN cùng ngày, tại HÀNỘI.

-1950, du học bổ túc Sĩ quan chuyên nghiệp tại Pháp.
-1956, Thiếu tá, du học Truyền Tin tại Hoa Kỳ.
-1957, Giám đốc Trường Truyền Tin, Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức.
-1961, Chỉ huy phó Viễn Thông, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực việt Nam Cộng Hoà.
-1965, Trung tá, Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Trung ương Ðịa phương quân và Nghiã quân QLVNCH.
-1970, Ðại tá Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị QLVNCH, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến.
-1975, Tù nhân chính trị trong các Trại tập trung của Cộng sản Việt Nam, 13 năm (từ sau 30 tháng 4 năm 1975 cho tới 13 tháng 2 năm 1988).
-Tháng 8 năm 1992, định cư tỵ nạn Cộng sản tại Liên Bang Hoa Kỳ.

LỜI MỞ ÐẦU

Thời gian tiếp tục quay, những dấu vết lịch sử ghi trên không gian cũng phai mờ dần theo luật biến hoá sinh diệt của Tạo hoá, nhưng không bao giờ bị xoá mờ trong bộ não của con người, cho đến khi phổi ngưng thở, tim ngừng đập, mắt nhắm, tay xuôi trở về với cát bụi.

Trong suốt 13 năm ở trong các trại tập trung, bạn bè đồng tù, trong đó có cả các vị Tuyên úy Quân đội như Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Ðại đức, đều yêu cầu Tôi, sau khi ra tù hãy ghi lại hết sự thực gian khổ nhục nhằn, mà Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã dành cho chúng tôi, những người đã cả gan cằm súng chiến đấu chống lại Cộng sản quốc tế mà CSVN làm tay sai. Ðể cho Nhân dân Thế giới và đồng bào Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng thấy được mặt thật quỷ quyệt, tàn bạo vô nhân đạo, giả nhân nghiã của CSVN, đối với những ai không chịu theo đường lối chính trị chuyên chính vô sản bạo tàn của bọn chúng.

Từ khi được cùng gia đình tới Hoa Kỳ, định cư theo diện H.O. (Humanitarian Operation) tỵ nạn Cộng sản đến nay cũng được 8 năm, rất nhiều các bạn trẻ con các gia đình di tản trước 30-4-1975, hoặc được sanh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ sau 30-4-1975, không biết gì về biến cố đen tối này của dân tộc Việt Nam, đã yêu cầu Tôi kể cho họ nghe, rồi lại yêu cầu ghi chép để phổ biến rộng rãi cho mọi người, cùng thấy được mặt thật của CSVN mà đề phòng khỏi bị cám dỗ lôi cuốn.

Tôi suy nghĩ đắn đo mãi mà chưa muốn thực hiện. Không phải vì Tôi sợ CSVN hay tay sai của họ có mặt khắp nơi trả thù, mà vì muốn chờ xem những lời cam kết đổi mới của CSVN, sau khi cái nôi CS quốc tế là Liên sô tan rã hoàn toàn, có sẽ đem lại được gì tốt hơn cho Dân tộc Việt Nam như CSVN đã rêu rao không?

Nhưng cho tới nay, sau 25 năm CSVN độc quyền “một mình một chợ múa gậy vườn hoang”, không ai cản trở, thế mà cái Chế độ Xã hội Chủ nghiã thường được CSVN khoa trương là ngàn lần tốt đẹp hơn Chủ nghĩa Quốc gia Tư bản, đã không đem ấm no hạnh phúc đến cho Dân tộc Việt Nam. Trái lại, Quốc gia Việt Nam vẫn trong tình trạng lạc hậu chậm phát triển, bị Quốc tế xếp vào hàng các nước nghèo đói nhất Thế giới. Dân chúng không có bất cứ một tự do căn bản nào của con người trong một nước có chủ quyền độc lập, còn bị bóc lột sức lao động một cách tinh vi, tàn bạo, dã man hơn cả các thời Phong kiến, Thực dân xa xưa bóc lột nông nô. Riêng chỉ có các Lãnh tụ và Ðảng viên của Ðảng CSVN, tùy theo thứ vị quyền lực đang nắm giữ, trở nên giầu có ăn tiêu phung phí xa hoa, chẳng khác nào các nhà Ðại Tư Bản trong Thế giới Tự do, vẫn từng bị CSVN lên án là bọn Ðế quốc Tư bản bóc lột giới lao động.

Trắng trợn hơn nữa, CSVN còn ngoan cố đánh bóng và thần thánh hoá, những việc làm tội lỗi của chúng đối với Dân tộc suốt hơn nửa Thế kỷ 20 vừa qua, và gán cho những người chống đối Cộng sản là phản quốc, bán nước, làm nô lệ cho ngoại Bang để cầu vinh. Trong khi những bí mật chính trị trong thời gian qua vừa được tiết lộ, đã chứng minh rõ ràng Hồ Chí Minh và bọn CSVN mới chính là nhóm tay sai ngoại bang, tàn phá quê hương, giết hại đồng bào Việt Nam, để chiếm độc quyền cai trị Dân tộc theo Chế độ Cộng sản chuyên chính của Liên sô nay đã tan rã.

Chế độ Cộng sản chuyên chính độc tài, độc đảng của Liên sô đã bị chính nhân dân Nga hủy diệt, vào những năm cuối thập niên 1980 đầu thập niên 1990, để tái lập chế độ chính trị quốc gia theo mô thức Cộng Hoà đa đảng của Liên Bang Hoa Kỳ, với cái tên mới “Liên Bang Nga”.

Một số đảng viên kỳ cựu của Ðảng CSVN, theo Hồ chí Minh từ thuở ban đầu, nay thấy được những sai trái tội lỗi của Ðảng, đã phản tỉnh can đảm lên tiếng phê bình xây dựng, theo tinh thần Dân chủ mà Ðảng rêu rao. Lập tức bị Ðảng thi hành kỷ luật khai trừ, bắt bớ hạch sách, cô lập theo dõi, làm khó dễ đủ đường. Nhiều người đã bị kết án tù hoặc bị giam cầm cải tạo vô thời hạn.

Vì thế, Tôi quyết định không chờ đợi nữa, phải bắt tay vào viết ngay “HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM”, để đáp ứng lời yêu cầu của những người muốn biết mặt thật của CSVN, nhưng chưa có may mắn sống dưới sự cai trị của Bạo quyền CSVN.

Mặc dù biết mình không có khả năng của một văn sĩ hay thi sĩ. Nhưng là một nhân chứng của dòng lịch sử Việt Nam, trong suốt ba phần tư sau của Thế kỷ 20, đã cùng đồng bào của mình trải qua bao sóng gió phũ phàng của chiến tranh giành độc lập, tranh chấp giữa hai ý thức hệ Cộng sản và Nhân bản Quốc gia, ngay trên đất nước. Tôi vẫn thấy cần phải cố gắng hết sức mình, ghi lại một cách chân tình, mộc mạc, trung thực, những gì Tôi đã chứng kiến, bản thân đã phải chịu đựng. Ðể đóng góp vào kho tài liệu sự kiện đã xẩy ra tại Việt Nam trong Hậu bán Thế kỷ 20, cho các thế hệ sau Tôi tham khảo, biết được sự thật không bị bóp méo như các dữ kiện của bọn CSVN đã cố tình tạo ra và phổ biến, với dụng ý giành phần phải cho chúng trước sự phán xét của Dân tộc Việt Nam và dư luận Thế giới.

Hy vọng lòng nhiệt thành của Tôi, sẽ được chư độc giả bỏ qua cho những thiếu sót về sưu tập tin tức tài liệu, cũng như kỹ thuật cú pháp hành văn, thơ.

Viết “HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM”, Tôi cũng muốn dành riêng để tặng, và tỏ lòng biết ơn sâu xa của Tôi đối với Vợ và các Con nay đã là Công dân Hoa Kỳ, về những hy sinh lớn lao cao quý của họ. Trong suốt thời gian mười mấy năm trời sau 30-4-1975, Vợ Con đã phải kiên nhẫn chịu đựng mọi cay đắng nhục nhằn, sống dưới sự cai trị của Bạo quyền Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, để hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất cho Tôi sống còn, đến khi được tha ra khỏi Trại tập trung của CSVN. Lại còn phải lo phần tài chánh cần thiết, để hoàn tất được mọi thủ tục xin đi định cư tỵ nạn Cộng sản trên đất nước Hoa Kỳ, đầy tình người và giầu lòng bác ái này.

“HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM” cũng được viết ra để tỏ lòng biết ơn sâu xa của Gia đình chúng tôi, đến Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, cùng tất cả các Quốc gia có chân trong Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, đã tham gia áp lực Liên sô, Trung cộng, buộc tay sai của họ là CSVN phải thả chúng tôi. Những người Việt Nam đã liên tục chiến đấu mấy chục năm trời, ngăn cản làn sóng xâm lăng bành trướng của Cộng sản Quốc tế trên đất nước Việt Nam thân yêu của mình, nên bị CSVN giam cầm đầy đọa, tiêu diệt lần mòn theo Chính sách Lao động cải tạo tư tưởng do Hồ chí Minh nghĩ ra, trăng trối lại cho bè lũ đàn em thi hành.

Thoạt nghe “Lao động cải tạo tư tưởng”, ai cũng cho là một chính sách vô cùng nhân đạo. Nhưng có là nạn nhân của chính sách, mới thấy nó độc ác tàn bạo vô nhân đạo gấp trăm ngàn lần chính sách xử bắn hay xử chém của Phong kiến, Thực dân cũ. Vì phương châm thực hiện của nó theo lời chỉ dạy của Hồ Chí Minh là : “-Ðừng giết chúng nó, hãy dùng chúng nó làm công cụ sản xuất cho Xã hội, bắt chúng nó làm cho chúng nó ăn, đầy đọa cho chúng nó chết lần chết mòn vì kiệt sức nơi rừng thiêng nước độc, thâm sơn cùng cốc, thì ai mà biết được.”

NGUYỄN HUY HÙNG.

Quận Orange, Nam California, Ngày 30-4-2000.

CHƯƠNG 1

30 THÁNG 4 NĂM 1975, NGÀY QUỐC HẬN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Vì áp lực của Hoa Kỳ cắt viện trợ nên ngày 21-4-1975, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu phải từ chức, nhường cho Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay. Trước khi bàn giao, Tổng Thống Thiệu đã xuất hiện trên màn ảnh của đài vô tuyến truyền hình Saigon, nói chuyện để giã biệt quốc dân đồng bào miền Nam Việt Nam, với những lời nghẹn ngào phân bua là bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội.

Ðến lượt tân Tổng Thống Hương cầm quyền, vẫn tiếp tục bị áp lực, nên ngày 25-4-1975, cũng lại phải tuyên bố từ chức, và yêu cầu Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà đề cử người thay thế.

Ngày 27-4-1975, một số Dân cử trong Quốc hội chưa di tản, họp nhau lại thảo luận sôi nổi đến tối, và đi đến quyết định cuối cùng là ủy quyền cho Ðại tướng Dương văn Minh làm Tổng thống, để tiếp xúc với Việt cộng tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến.

Sáng sớm ngày 28-4-1975, ký giả Huy Vân (bút hiệu của Trung úy Nguyễn Trung Hoà, đã chết trong trại tập trung Tân Lập, Vĩnh Phú, Bắc Việt, năm 1978) Chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, đã trình cho Tôi (Chủ nhiệm) biết là, có nguồn tin chính xác từ giới thân cận Tướng Dương văn Minh cho hay, hôm nay ông Minh sẽ dùng trực thăng đi thị sát mặt trận Long Khánh, để bí mật tiếp xúc với người đại diện của Cộng sản Bắc Việt.

Buổi chiều cùng ngày 28-4-1975, ông Minh làm lễ nhậm chức, chỉ có mặt 2 vị Ðại sứ Hoa Kỳ và Pháp tham dự. Tối 28-4-1975 ông Minh tuyên cáo trên làn sóng đài phát thanh Saigon, yêu cầu Ðại sứ Hoa Kỳ rút hết nhân viên D.A.O. ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, để ông ta dễ thương thuyết với Cộng sản về giải pháp đình chiến.

Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, do Tổng thống Minh bổ nhiệm, xuất hiện trên màn ảnh của đài vô tuyền truyền hình Saigon, kêu gọi quân sĩ vững tâm duy trì kỷ luật tiếp tục chiến đấu, sau khi đã bầy tỏ những lời khinh chê các Tướng, Tá, hèn nhát bỏ quân đào ngũ trốn chạy như chuột.

Ngày 29-4-1975, trực thăng của Hoa Kỳ từ Hạm đội 7 đang hoạt động tại ngoài khơi Thái Bình Dương, bắt đầu dồn dập liên tục bay vào Saigon bốc người di tản, và chấm dứt vào tảng sáng 30-4-1975.

Saigon trong những ngày cuối tháng 4-1975 được đặt trong tình trạng giới nghiêm, tất cả các báo ngưng hoạt động, riêng chỉ có Nhật báo Tiền Tuyến vẫn phát hành hàng ngày, để gửi qua Cơ quan chuyển vận thuộc hệ thống Tiếp vận Quân đội chuyển đến các đơn vị. Việc này thực hiện được là nhờ Trung tướng Trần văn Trung Tổng Cục Trưởng Chiến tranh Chính trị, chỉ thị Cục Tâm lý chiến in hàng đêm, và chuyển sang Tiếp vận gửi đi. Ðại tá Phan Trọng Thiện, Cục Phó Cục Tâm Lý Chiến được lệnh tiếp xúc với Tôi làm việc này. Sau 30 tháng 4, Ðại tá Thiện cũng phải đi tập trung cải tạo. Chúng tôi cùng phải chuyển qua nhiều trại. Ðến năm 1982 đang ở trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá (nơi có trại Thanh Cầm mà CSVN đã dự tính đem tất cả vợ con tù cải tạo, đến cùng chồng định cư vĩnh viễn ở nơi vùng rừng núi Trường Sơn đó), thì Tôi được chuyển về trại Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải, Nam Việt, còn anh Thiện bị chuyển ra vùng Nam Hà, Bắc Việt. Sau khi định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Tôi có dịp gặp lại anh Thiện, trong một kỳ họp mặt anh em Hội ái hữu Chiến tranh Chính trị Hải ngoại tại quận Orange, Nam California, nên biết được anh Thiện định cư tại Connecticut, Hoa Kỳ.

Chiều ngày 29-4-1975, đường phố Saigon bỗng dưng nhộn nhịp như vỡ chợ, mặc dù vẫn còn lệnh giới nghiêm. Xe dân sự, xe quân sự đua nhau chạy ngược chạy xuôi vội vã. Người ta đi tìm đến các điểm tập trung theo giấy thông hành di tản riêng quy định từ trước, để chờ trực thăng Mỹ bốc đi. Ðầy nghẹt xe cộ và người bu đông trước Toà Ðại sứ Mỹ ở đường Thống Nhất, và tại Bến Bạch Ðằng cuối đường Tự Do, khu gần Bộ Tư lệnh Hải Quân QLVNCH.

Khu Thị Nghè gần Tân Cảng, đồ hộp thực phẩm đủ loại lấy ở các kho của Mỹ đổ bán đầy đường, rẻ mạt, người ta tranh nhau mua về tích trữ. Những khu có các chung cư người Hoa Kỳ di tản, người ta ùn ùn kéo nhau vào hôi đồ đạc tự do, trước sự chứng kiến của Cảnh sát.

Khoảng 10 giờ ngày 30-4-1975, Dương văn Minh tuyên cáo qua làn sóng Ðài phát thanh Saigon, ra lệnh cho binh sĩ buông súng thôi không chiến đấu nữa, đợi Cách mạng vào bàn giao. Tôi rời Toà báo lái xe chạy sang Tổng cục, không thấy Trung tướng Trung, theo lời nhân viên văn phòng cho biết, Trung tướng được lệnh gọi sang họp bên dinh Tổng Thống.

Tôi lên xe chạy về đón vợ con tìm đường thoát xuống miền Tây, hoặc tìm tầu di tản. Bến Khánh Hội, bến Tân Cảng, không còn tầu. Ðường qua cầu Bến Lức đi miền Tây, đầy nghẹt xe hơi đủ loại đậu nối đuôi nhau dài hàng cây số. Ðường đi Vũng Tầu còn giao tranh nguy hiểm không đi được. Vô kế khả thi, Tôi đành chở vợ con vào trú tạm nhà người quen ở ngay khu bến xe Lục tỉnh, gần Viện Hoá Ðạo, sẵn sàng đón nhận tất cả những điều tồi tệ nhất sẽ đến với mình và vợ con mình.

Khoảng 4 giờ chiều 30-4-1975, không biết từ đâu về, bao nhiêu là đàn ông lực lưỡng nhào lên ngồi đầy trên tất cả các chiếc xe đò đi miền Tây, miền Ðông, nằm ụ tại đó từ những ngày bắt đầu giới nghiêm đến giờ, và yêu cầu các chủ xe chở họ đi miền Tây hoặc miền Ðông. Trong xe hết ghế, người ta ngồi đầy cả trên nóc xe. Hỏi ra mới biết là quân nhân thuộc Trung đoàn đóng ở cầu Bến Lức, đường đi Long An. Sau khi nghe lệnh Dương văn Minh yêu cầu buông súng đợi bàn giao cho Cộng sản, họ đã vứt bỏ quân trang vũ khí xuống sông, rời đơn vị đi tìm đường về quê quán với gia đình, chớ không đợi bàn giao cho Cộng sản như lệnh của ông Tướng phản bội chiến hữu, phản bội nhân dân miền Nam.

Cũng trong lúc đó, từ các ngõ hẻm, một số dân đi theo mấy anh Nhân dân Tự vệ mặc quần áo đen, cột mảnh băng vải đỏ nơi tay áo, lăm lăm cây súng, ùn ùn kéo nhau ra, trèo đại lên các xe GMC quân đội bỏ bên đường, lái đi hôi của tại các Kho hàng của Quân tiếp vụ QLVNCH ở phiá sau Chợ Cá Trần quốc Toản.

Một nhóm khác, gồm đôi ba Nhân dân tự vệ mặc quần áo đen, mang súng của VNCH cấp, cùng mươi lăm người dân lao động khác đeo nơi tay áo trái băng vải đỏ (những người Cách mạng 30 tháng 4), hô hoán kéo nhau ra Bình bông ngã 7, căng biểu ngữ và cờ nửa xanh nửa đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa (cờ quân giải phóng miền Nam), đợi đón mừng giải phóng quân vào Thành phố.

 Khoảng 5 giờ thì có 1 đoàn xe Molotova, chở mỗi xe chừng dăm bẩy anh Giải phóng quân, mặt non choẹt, xanh lét, búng ra sữa, dáng sợ sệt, ngồi bệt dưới sàn xe, tựa lưng vào nhau, tay ôm chặt khẩu AK của Cộng sản, quay mặt ngơ ngác nhìn lên các tầng lầu 2 bên phố mà đoàn xe chạy qua. Ðứng trên lầu cao nhìn xuống, thấy chẳng khác nào những con ếch ngồi trong đáy thùng thiếc mà người ta đem ra chợ bán vậy. Trông thật đáng tội nghiệp, chẳng thấy tý hào khí nào của những anh hùng giải phóng, kiêu hãnh như các anh Cán bộ Cộng sản Bắc Việt cả.

Big MINH (1) hàng, thế là xong

Nghe lời tuyên cáo mà lòng nát tan.

Thất thần, cổ nghẹn, lệ tràn,

Tim rung loạn nhịp, thời gian đọng chìm.

Bàng hoàng như gẫy cánh chim,

Không gian đảo lộn, khó tìm lối ra.

Thôi rồi ! mất nước mất nhà,

Bao năm chiến đấu bôn ba ích gì?

Sóng lùa Dân chủ trôi đi,

Tự do biến mất còn chi cuộc đời.

Xuôi tay phó mặc ông Trời,

Chờ coi đảng cướp thị oai thế nào.

Xem bầy phản bội ra sao,

Vinh thân hay cũng phải vào ngục đen.

Cộng Hoà Chiến sĩ chẳng hèn,

Lột Quân trang phục vứt bên lề đường.

Tản đi khắp nẻo Quê hương,

Không hàng Việt Cộng, như phường Big MINH.

Saigon, Tháng 5-1975.

Hoa kỳ thường gọi Dương văn Minh bằng Big MINH, để phân biệt với Thiếu tướng Trần văn Minh Tư lệnh Quân khu 1, sau này được thăng Trung tướng, đi làm Ðại sứ đại diện Việt Nam Cộng Hoà tại các nước thuộc Phi Châu.

XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP

 

Chương 2

CHƠI VƠI GIỮA DÒNG SÓNG ÐỎ

 Lúc mười giờ sáng 30-4-1975, qua làn sóng đài phát thanh Saigon, Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng, dâng miền Nam Việt Nam cho Cộng sản Bắc Việt xâm lăng. Ðến tối, Trần văn Chà tướng Việt cộng, Chủ tịch Ban Quân quản Saigon, ra thông cáo cũng đọc trên làn sóng đài phát thanh Saigon, buộc tất cả Quân nhân, Công chức thuộc Chế độ Saigon cũ phải đến nhiệm sở để trình diện kể từ ngày 1-5-1975. Ai không thuộc các đơn vị ở Saigon, phải đến trình diện tại Phường nơi gia đình đang cư ngụ hoặc tạm trú.

Ngày 1-5-1975, Ủy ban Quân quản Saigon tổ chức Mít-tinh mừng ngày Quốc tế Lao động và Thống nhất đất nước, rất lớn tại đường Thống Nhất trước dinh Ðộc Lập. Chắc chắn sẽ có nhiều người hiếu kỳ và bọn “Cách mạng 30 tháng 4” ra đường, nên Tôi quyết định không đi trình diện vào ngày đó. Hơn nữa, Vợ Con tôi cũng khuyên, trong lúc còn hỗn quân hỗn quan, tình hình chưa hoàn toàn ổn định không nên ra đường, e có thể gặp những kẻ xấu đón gió trở cờ, hại mình để lập công với quân Giải phóng thì thiệt thân.

Sau khi nghe lời thông cáo của Trần văn Trà, hai người con lớn của Tôi cưỡi xe đạp đi tìm gặp Hạ sĩ D., một nhân viên làm việc trong Văn phòng của Tôi, nhà cũng ở khu Bàn Cờ gần nơi gia đình tôi đang tạm trú, để tìm hiểu xem gia đình anh ấy có di tản không? Nếu anh ấy còn ở đó với gia đình, thì tìm hiểu xem anh ấy đã đi trình diện chưa? Hạ sĩ D. có nhà riêng 3 tầng ngay bên mặt lộ lớn, giữa trung khu Bàn Cờ. Các tầng lầu để ở, tầng trệt dưới cùng mở cửa hàng bán sách, dụng cụ cắm trại và các loại huy hiệu trang phục cho Hướng đạo sinh. Gia đình anh D. người miền Trung, thuộc dòng gốc theo đạo Thiên Chúa. Cha anh D. có nhiều liên hệ quen thân với các Linh mục đang trách nhiệm các cơ sở dòng tu và Nhà Thờ tại thị xã Vũng Tầu.

Nửa tiếng đồng hồ sau, các con Tôi trở về có anh D. đi theo. Thấy Tôi, anh em ôm nhau mừng rỡ. Vì cùng là Huynh trưởng Hướng đạo, nên xưa nay chúng tôi vẫn đối xử với nhau không theo cung cách cấp bậc Quân đội. Anh D. xửng sốt kêu : “-Sao Anh không di tản đi?”. Tôi trả lời cũng có tìm đường đấy, nhưng không gặp giây, đành chịu vậy biết làm sao bây giờ.

Trong những dịp tổ chức Trại huấn luyện Huynh trưởng Hướng đạo Quân đội, tại Long Thành hoặc Vũng Tầu hồi trước 30-4-1975, Tôi thường đưa Vợ và các Con đến dựng lều ở chơi trong Trại, nhờ thế các Con tôi và anh D. có nhiều cảm tình thân thiết với nhau. Hẳn là các Con tôi đã nói gì với anh D. trước, nên để trấn an tinh thần cho Tôi, anh ấy nói tiếp ngay : “-Mồng hai, em mới đi trình diện. Em sẽ ghé lại đèo Anh cùng đi bằng Honda của em. Anh đừng lo. Mồng một, người ta tổ chức mít tinh lớn lắm, sẽ có đông người, Anh không nên ra đường.”

Anh D. cũng khoe rằng, một người thân của Cha anh ấy đi tập kết mới trở về có ghé thăm gia đình, cho biết là cứ yên tâm đi trình diện, làm thủ tục xong sẽ được tạm về chờ lệnh Nhà nước gọi đi học tập sau. Hạ sĩ quan, Binh sĩ như anh ấy, thì sẽ học tập 3 ngày tại địa phương. Còn Sĩ quan là những người quan trọng hơn lính, sẽ phải đi cải tạo một thời gian, rồi mới được trở về hội nhập vào xã hội mới Xã hội Chủ nghiã.

Sáng ngày 2-5-1975, anh D. đem Honda đến đón Tôi cùng đi trình diện, tại trụ sở Tổng cục Chiến tranh Chính trị, số 2 Ðại lộ Thống Nhất, Saigon. Trên dọc đường đi anh D. dặn Tôi, khi đến nơi hãy đứng ở ngoài cổng giữ xe, để anh ấy vào thăm thú xem tình hình ra sao. Nếu thấy thuận lợi không có gì nguy hiểm thì sẽ trở ra kêu Tôi vào. Còn ngược lại thì sẽ ra đưa Tôi về nhà tìm phương cách khác.

Văn phòng Tổng cục trưởng của Trung tướng Trung, được dùng làm nơi trình diện và hoàn tất các thủ tục khai báo. Anh D. vào được 5 phút thì quay ra khoá cổ xe Honda và rủ Tôi cùng vào.

Khoảng 20 Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ thuộc Tổng cục đã đến từ trước ngồi đầy các ghế, Tôi và anh D. ngồi vào 2 ghế còn trống trên hàng đầu.

Một Cán bộ Cộng sản, mặc bộ đồ Tác chiến xám mầu cứt ngựa, không thấy đeo cấp hiệu, ngồi nơi bàn làm việc của Tướng Trung, vẫy tay kêu từng người lên làm việc theo thứ tự tới trước sau. Sau này khi nhận được giấy chứng nhận đã trình diện do ông ấy ký, Tôi mới biết tên là Việt, cấp bậc thì không rõ vì không ghi trên giấy.

Tôi ngồi trên chiếc ghế ở hàng đầu, sát gần trước bàn giấy ông Việt đang ngồi, được một lúc thì thấy cánh cửa phiá thông qua phòng tùy viên bật mở. Một người cũng mặc đồ trận, vai đeo chiếc máy ảnh dã chiến loại nhà nghề, tay trái đeo một băng vải đỏ (cách mạng 30 tháng tư), bưng phích nước trà sâm bước ra để lên bàn.

Liếc nhìn thấy Tôi, người này ghé tai nói nhỏ điều gì với ông Việt, rồi đi trở vô trong. Một phút sau trở ra, để lên bàn trước mặt ông Việt một mẩu giấy nhỏ. Nhờ thế, Tôi nhận ra được người kia chính là anh Hạ sĩ quan chuyên viên chụp ảnh của Cục Tâm Lý Chiến, thường được chọn lựa cho đi theo ghi những hình ảnh phóng sự, hoạt động của Tổng thống Thiệu và các cấp Lãnh đạo lớn trong Chính phủ VNCH trước 30-4-1975.

Ông Việt liếc mắt đọc mảnh giấy xong, ghé sát tai anh ta nói nhỏ. Sau đó anh ta đi vào bên trong mất hút. Hai phút sau, có tiếng nói ở cuối Phòng, yêu cầu mọi người tạm sang phòng Họp kế bên chờ, Cán bộ cần làm việc riêng một lúc. Tôi đứng lên thì ông Việt nói : “-Mời Ðại tá ngồi đó, tôi có chuyện hỏi riêng.”

Tôi giật mình, không biết chuyện gì sẽ xẩy ra, nhưng vẫn bình tĩnh ngồi xuống. Ðã rơi vào tay Cộng sản, thì trước sau rồi cũng chết có gì mà phải lo.

Chẳng có gì đặc biệt, ông ấy hỏi Cấp bậc, Chức vụ trong Tổng cục, lý lịch cá nhân, có mấy con, bây giờ Vợ Con đang ở đâu, quá khứ hoạt động trong chính quyền cũ, tên các cấp chỉ huy các cơ quan và đơn vị mình đã phục vụ, bây giờ họ ở đâu?… và sau cùng yêu cầu nộp súng cá nhân, y như đã làm đối với mọi người đã trình diện trước vậy thôi.

Khi Tôi nộp khẩu súng lục có ổ quay tròn và hộp đạn xong, ông ấy hỏi : “-Không có dao găm à?” Tôi trả lời Sĩ quan Quân đội chúng tôi đâu có được phát dao găm. Ông ta gật đầu rồi hỏi tiếp : “-Ðại tá có biết bây giờ Trung tướng Trung đang ở đâu không?” Tôi trả lời, hồi sáng sớm 30-4-1975, Tôi còn tiếp xúc với Trung tướng Trung qua điện thoại Văn phòng này, bây giờ thì không biết Tướng Trung ở đâu.

Sau khi hỏi cung Tôi xong, mọi người lại được mời trở lại chỗ ngồi như trước. Ông Việt yêu cầu một anh em nào đó đang có mặt trong Phòng phát biểu ý kiến. Anh D. xung phong nói : “-Ăn cây nào thì phải rào cây nấy, sống dưới Chế độ miền Nam thì chúng em phải tuân hành luật lệ như mọi người, thi hành nghiã vụ quân sự vậy thôi. Bây giờ Cách mạng thành công, đất nước thống nhất dưới quyền của Cách mạng, thì chúng em chỉ muốn được tiếp tục sống như những người dân bình thường, tuân theo luật lệ của Nhà nước Cách mạng.”

Ông ấy gật đầu rồi chỉ tay vào Tôi hỏi : “-Ðại tá có ý kiến gì không ?”

Tôi chậm rãi hỏi : -Cán bộ có thể cho Tôi biết Cấp bậc của Cán bộ, để tiện xưng hô không?

Ông ta nói : “-Ðối với chúng tôi cấp bậc không quan trọng, Ðại tá cứ gọi Cách Mạng là được rồi.”

Tôi bình tĩnh nói : -Cách mạng và chúng tôi, mỗi bên đi theo một lý tưởng xây dựng kiến thiết Quốc gia khác nhau, nay chúng tôi thua, trở thành tù binh của Cách mạng, thì tùy quyền xét xử của Cách mạng. Làm gì thì chúng tôi cũng phải chịu. Chỉ xin một điều duy nhất, là Vợ Con của chúng tôi không liên hệ gì vào công việc làm của chúng tôi, cũng như bao nhiêu người dân sống ở miền Nam này vậy, xin hãy đại lượng cho họ được tiếp tục sinh sống như mọi người dân thường khác.

Ông ấy nói : “-Cách mạng rất Ðại lượng và Công bằng, các anh cứ yên tâm đừng lo, tôi sẽ cấp giấy chứng nhận đã trình diện để các anh ra về thong thả, và ở nhà đợi lệnh Nhà nước sẽ gọi đi học tập cải tạo một thời gian, chắc chắn không lâu bằng thời gian đã phục vụ trong Chế độ cũ đâu.” Và để trấn an mọi người, ông Việt với giọng ôn tồn thân thiện trịnh trọng nói thêm : “-Tội ai làm nấy chịu, Vợ con không liên can gì, vẫn được cư xử công bằng như mọi người dân bình thường khác. Cách mạng không bao giờ nói sai đâu. Các anh cứ yên tâm.”

Sau khi nhận giấy đã trình diện xong, Tôi thở phào nhẹ nhõm, mừng vì có được thêm thời gian lo ổn định nơi ăn chốn ở cho Vợ Con, trước khi ly biệt nhau không hy vọng ngày trở lại. Anh D. vui mừng khoác tay Tôi kéo đi vội ra cổng, làm như sợ người ta đổi ý kiến.

Tới cổng, trong khi anh D. mở khoá cổ xe Honda, Tôi ghếch ngồi lên nệm phía sau lưng anh ấy, người bộ đội gác cổng nhìn Tôi hất hàm hỏi : “-Hộ lý của anh đấy à?”. Anh D. nhanh miệng trả lời : “-Không, anh này làm chung một chỗ với em, nhà ở gần nhau, nên cùng đi cho vui vậy thôi.” đồng thời lẹ làng mở máy xe, thả ga vọt đi thật nhanh chở Tôi về căn nhà gia đình Tôi đang tạm trú.

Ðến chiều tối, anh D. đến mời cả gia đình Tôi, sang tạm trú tại nhà riêng của anh ấy cho được “bảo đảm” an ninh hơn. Vì nhờ ông thân sinh của anh ấy, có người thân thuộc hàng Cán bộ đi tập kết về, được xe hơi nhỏ của Nhà Nước chở tới nhà thăm gia đình, xóm giềng ai cũng thấy, nên Cán bộ địa phương và bọn “Cách mạng 30 tháng tư” không dám héo lảnh làm phiền.

Hồi cuối năm 1995 hay đầu 1996, Tôi không nhớ rõ ngày, nhân dịp về dự Trại Họp bạn Hướng đạo Việt Nam tại vùng Quận Orange Nam California, anh D. được Mục sư Nguyễn quang Minh, cũng là một Huynh trưởng Hướng đạo Việt Nam trước kia, cho biết tin về Tôi. Anh D. đã gọi điện thoại hỏi xin địa chỉ, và nhờ bạn lái xe đưa đến tận nhà thăm Tôi và gia đình. Nhờ thế Tôi được biết gia đình anh D. cũng đã vượt biên sang Hoa Kỳ, và đang định cư tại Tiểu bang Texas.

Cái kỳ anh em chúng tôi phải trình diện Quân CSBV lần thứ nhất, tại nhiệm sở hồi đầu tháng 5-1975, không ai bị giam giữ ngay, ngoại trừ một thiểu số đặc biệt đã bị họ ghi tên trong sổ đen từ trước. Theo Tôi nghĩ, có lẽ một là vì chưa có lệnh của Hànội, hai là các đơn vị Cộng sản còn đang bận tiếp tục hành quân tiến chiếm các Tỉnh miền Tây chưa xong, nên chưa kịp thu xếp nơi giam cũng như không có người để canh giữ, hàng chục ngàn sĩ quan trong một lúc tại Saigon.

Trong thời gian được ở nhà chờ lệnh gọi đi trình diện học tập cải tạo, có một số Sĩ quan cao cấp (trong đó có Tôi) bị gọi riêng để thẩm vấn nhiều lần, tại mấy căn nhà trên con đường bên hông sau Toà Ðại sứ Anh quốc đường Thống Nhất (Tôi không nhớ tên đường). Họ hỏi về Tổ chức và nhiệm vụ của những Cơ quan Ðơn vị mình đã phục vụ, suốt từ khi nhập ngũ cho đến ngày 30-4-1975, tên các người chỉ huy mình… Sau suốt một ngày thẩm vấn, có người được ra về, có người bị giữ lại thấm vấn tiếp, rồi đưa đi đâu không ai biết.

Vào gần cuối tháng 5-1975, Ban Quân quản Saigon lại ra thông cáo buộc mọi người phải trình diện lần thứ 2, tại đường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn. Lần này, họ tịch thu thẻ căn cước dân sự, thẻ Sĩ quan, và cấp cho một mảnh giấy chứng nhận đã trình diện chờ ngày đi tập trung cải tạo.

Hôm ấy, Tướng, Tá, Úy Nam Nữ đến trình diện rất đông. Tôi gặp một số bạn quen biết tại Saigon, và rất nhiều người lạ từ các địa phương chạy về Saigon tá túc. Nét mặt ai nấy đăm chiêu ngại ngần, không dám vồn vã chào hỏi nhau như thường lệ. Ngoại trừ một thiểu số (cách mạng 30 tháng Tư) có vẻ mặt hoan hỉ, quan trọng, lạnh lùng, làm ngơ trước bạn bè cũ như chưa bao giờ quen biết nhau. Nhưng đến giữa tháng 6-1975, tới nơi trình diện tập trung cải tạo, Tôi lại gặp những người này cũng phải đi chung với chúng tôi.

Trong thời gian chưa bị đưa đi tập trung cải tạo, Tôi đã tiếp xúc với một số Huynh trưởng Hướng đạo Quân đội còn ở lại Saigon, tìm đường giây vượt biên nhiều lần nhưng không thành, đành chịu bó tay ngồi chờ sự bất hạnh chung với các chiến hữu khác.

Tới tháng 6-1975, mặc dù Trung Ương Ðảng CSVN tại Hànội chưa soạn xong các tài liệu nhồi sọ, cũng như chưa huấn luyện xong Cán bộ giảng huấn, mà vẫn phải ra lệnh tập trung, vì nhiều người tìm cách vượt biên. Ðồng thời cũng có những tổ chức Phục quốc hoạt động bí mật, ám sát Cán bộ Cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, ngay trong thành phố Saigon Chợ Lớn.

Hạn chót phải đi trình diện tập trung là 15 tháng 6 năm 1975, nhằm ngày Ðoan Ngọ, 5 tháng 5 âm lịch năm Ất Mão. Năm người con lớn, dùng xe đạp chở và theo tiễn Tôi đến nơi trình diện. Chỉ còn 2 người con gái 13 và 10 tuổi ở lại nhà cùng Vợ tôi, trông nhà không đi.

Một toán Bộ đội giải phóng đặt súng liên thanh, làm nút chặn ngay tại Bình bông ngã sáu đầu đường Minh Mạng, cách Ðại học xá Minh Mạng địa điểm trình diện khoảng mấy trăm thước. Cha Con chúng tôi phải chia tay nhau tại Bình bông này.

Trong khi ôm hôn từ biệt, thấy nét mặt thơ ngây đôn hậu ngơ ngác của các Con, một nỗi buồn man mác xâm chiếm xé tim gan làm Tôi xúc động rưng rưng lệ. Không biết các Con của Tôi lúc đó có nghĩ rằng, đây có thể là lần chót Cha Con được nhìn thấy mặt nhau không? Hay chúng vẫn an tâm, đinh ninh hy vọng ở lời tuyên bố ngọt ngào trịnh trọng khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, là 30 ngày sau, Cha Con, Vợ Chồng lại đoàn tụ bên nhau xây dựng cuộc sống mới.

Thật là giây phút não nuột nhất trong cuộc đời Tôi, không thể tìm ra lời nào tả được đầy đủ cái cảm giác xúc động đau đớn này.

Bánh tro Ðoan Ngọ vàng trong,

Anh hùng thất thế đành lòng nộp thân.

Vợ con lo lắng tiễn chân,

Hoang mang, ngơ ngác, tần ngần lệ rơi.

Tháng Tư đại nạn đổi đời,

Vì Dân nay phải vào nơi đọa đầy.

Tự do giã biệt từ đây,

“Chim lồng cá chậu” biết ngày nào ra.

Chơi vơi đâu chỉ riêng Ta,

Toàn dân Nam Việt lệ nhòa đau thương.

Kiêu binh Cộng sản đầy đường,

Bợ thời phản bội khối phường tiểu nhân.

Từng quen luồn cúi kiếm danh,

Nhiễu nhương lật lọng ôm chân kẻ thù.

Bọn thì đội lốt nhà Tu,

Xúi người khác đạo gây thù hại nhau.

Con buôn chính trị hoạt đầu,

Vội mang băng đỏ dép râu làm hề.

Lăng xăng mừng Cách mạng về,

Tung tăng bợ đỡ làm thuê không tiền.

Du côn, đứng bến, nằm hiên,

Bỗng dưng đời đổi, nắm quyền trị dân.

Cướp đường, trộm chợ, phu khuân,

Hóa thành Cách mạng, áo quần bảnh bao.

Ủy ban Quân quản ra vào,

Tiền hô hậu ủng, Cờ sao đỏ đường.

Ðổi đời rối loạn Âm Dương,

Ðảng đoàn, chồn cú, ma vương hoành hành.

Khắp nơi xú uế hôi tanh,

Còn đâu không khí trong lành Tự do.

Sài – gòn đổi ra Thành Hồ,

Mặc tình bè lũ Tam Vô hại đời.

Saigon, Ðoan Ngọ Ất Mão, Tháng 6-1975.

Chương 3

BẮT ÐẦU CUỘC ÐỔI ÐỜI

Sau khi chiếm được Saigon, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (hậu thân của Mặt trận Giải phóng miền Nam) ban hành lệnh đổi tên Thành phố Saigon, nguyên Thủ đô của Việt Nam Cộng hoà tại miền Nam Việt Nam, ra Thành phố Hồ Chí Minh.

Họ cũng buộc tất cả mọi nhà phải treo cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam (nửa xanh nửa đỏ có sao vàng 5 cạnh ở giữa), cờ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của miền Bắc Xã hội Chủ nghiã (nền đỏ, sao vàng) nơi trước cửa, và trong nhà treo ảnh Hồ Chí Minh. Những nhà thuộc loại Ðảng viên Cộng sản, còn hãnh diện treo thêm cờ Búa Liềm của Ðảng Cộng sản Quốc tế. Những nhà người Việt gốc Hoa, ngoài 2 lá cờ của Cộng sản Việt Nam (CSVN), phải treo thêm cờ Trung Cộng. Thật là đầy đủ mầu sắc của Quốc tế Cộng sản, tràn ngập khắp nẻo ngõ ngách đường phố trên đất nước Việt Nam.

Ðến khoảng cuối tháng 5-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam, ra thông cáo buộc tất cả Quân nhân, Công chức, thành viên Ðảng phái Chính trị không Cộng sản phải đi trình diện một lần nữa. Các Sĩ quan QLVNCH thì trình diện tại đường Trần Hoàng Quân bên Chợ Lớn, nơi gần nhà máy sản xuất Bia và nước ngọt. Họ thu thẻ căn cước và cấp giấy chứng nhận tạm, để dùng cho đến ngày đi học tập cải tạo.

Một hôm, nhân đi ngang đường Lê Lai gần chợ Bến Thành, Tôi gặp Hạ sĩ T. nguyên là thư ký trong Ban Trị sự của Nhật báo Tiền Tuyến, đang đứng lớ ngớ trước cửa nhà. Thấy Tôi, anh ấy vồn vã mời vào nhà chơi, để trao đổi tin tức thời sự nóng bỏng về tình hình hiện tại, đang xẩy ra trong vùng Saigon, Chợ Lớn, Gia Ðịnh.

Vào đến trong nhà, Tôi giật mình định lui ra. Nhưng anh T. đã nhanh nhẹn ôm ngang lưng Tôi kéo đại vào, và giới thiệu với 3 người Bộ đội Cộng sản, bằng một giọng rất thản nhiên : “-Thưa các anh, đây là chồng Chị Hai của em ở Ngã Tư Bẩy Hiền, nhân hôm nay có dịp đi chợ Bến Thành ghé thăm vợ chồng chúng em. Anh ấy là giáo viên Trung học.” Tôi nhoẻn miệng cười xã giao, gật gật đầu chào mấy người kia xong, thì anh T. kéo vội Tôi lên lầu tâm sự.

Anh T. cho biết, 1 trong 3 người Bộ đội này là người đi tập kết ra Bắc hồi 1954, nay theo đoàn quân CSBV giải phóng trở về Nam. Người đó tên Thọ (không phải Lê đức Thọ), là anh họ bên vợ của anh T.

Khu phố gia đình anh T. đang ở, nhà nào cũng phải tiếp nhận 3 Bộ đội Giải phóng cư trú trong nhà mình như vậy, theo chính sách “BA CÙNG” của Chính quyền Phường (cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt). Anh T. hỏi thăm khu Tôi ở có vậy không, Tôi lắc đầu.

Tiếp theo, anh T. thì thầm kể câu chuyện tâm sự của ông anh họ Vợ, đi tập kết trở về rất lý thú như sau :

“Trong khi học tập chuẩn bị trở về Nam, anh Bộ đội tập kết được Ðảng và Nhà nước Cộng sản Bắc Việt rỉ rả tuyên truyền ngày đêm rằng :

-Ðồng bào miền Nam Việt Nam bị Mỹ Ngụy cấu kết nhau bóc lột rất tàn bạo.

-Dân lao động phải ở chui rúc trong những nhà ổ chuột, dựng bằng loại giấy cứng dùng làm thùng chứa hàng hoá do Mỹ thải ra, bên những bãi đổ rác cao như núi hôi thối.

-Ðàn ông, đám trẻ bị bắt đi lính, còn đám già ở nhà thất nghiệp. Ðàn bà con gái phải đi làm đĩ điếm kiếm tiền giúp gia đình, vô cùng nhục nhã …

Vì thế chúng ta phải nhanh chóng tiến hành công cuộc Giải phóng, để cứu Ðồng bào ruột thịt Nam Bộ đang sống quằn quại đau khổ. Các đồng chí cần dành dụm tiền, để mang về cứu giúp họ hàng thân quyến khỏi cảnh khổ cực hiện nay.”

Anh Bộ đội đã chắt bóp, để dành suốt mấy chục năm trời được 2 ngàn Ðồng bạc Cụ Hồ, chắc mẩm rằng khi thân quyến tại miền Nam nhận được món tiền của anh cho, sẽ mừng rỡ tới mức nào. Chắc chắn mọi người cũng sẽ thấy được, công lao bao năm theo Cách mạng của anh thật xứng đáng, và anh sẽ “vô cùng hồ hởi” hãnh diện với bà con làng nước.

Nhưng không ngờ, khi trở về gặp gia đình thì Cha Mẹ đã qua đời. Người anh duy nhất cũng đã già, có vợ và 3 con đã lớn, đứa nào cũng đi làm, có xe máy dầu Honda, Suzuki riêng. Gia đình người anh đang ở trong căn nhà riêng 3 tầng lầu với 4 phòng ngủ, có xe hơi nhỏ như các Ðồng chí Bộ trưởng ở Hànội vậy. Nhà ở ngay mặt đường lớn Khu Bàn cờ, Saigon. Hai tầng lầu để ở, còn tầng dưới cùng thì phiá trong làm phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, phiá trước mở tiệm bách hoá, bán đủ thứ đồ dùng và gia dụng hàng ngày cho đồng bào hàng phố, mua sắm tự do. Không như ngoài miền Bắc Xã hội chủ nghiã, không ai được mở cửa hàng buôn bán riêng. Mọi người tùy theo chức vị công tác, được Nhà Nước cấp “tem phiếu” theo “hộ khẩu”, riêng cho từng “cấp mặt hàng”, đem đến “nhà hàng quốc doanh” mới có mà mua. Nhiều khi chậm chân, không còn hàng để mua.

Món tiền 2 ngàn Cụ Hồ mà anh ta đem về cứu giúp, không đủ để trang bị một căn phòng tắm bên mỗi phòng ngủ. Chung quanh tường cẩn toàn gạch men trắng toát. Bồn tắm, bồn rửa mặt, bồn ngồi đại tiện, toàn bằng sứ tráng men nhập cảng từ nước Ý (Italia).

Trước thực tế hiển nhiên, Anh bộ đội đi tập kết về vỡ mộng, tức giận vì không ngờ bao năm qua đã bị Cộng sản tuyên truyền lừa bịp xảo trá. Bây giờ, tuổi Ðảng cũng được cả chục năm rồi, ân hận vô cùng, nhưng phải cam lòng ngậm đắng nuốt cay một mình, chẳng dám hé môi.

Khoảng đầu tháng 6-1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam ra lệnh, và các phường khóm thúc đẩy, mọi Quân Cán Chính chế độ cũ phải chuẩn bị đi trình diện tập trung học tập cải tạo một tháng, hạn trình diện quy định trong 3 ngày 13, 14 và 15-6-1975.

Nơi trình diện tập trung các Sĩ quan cấp Tướng và Ðại tá, không phân biệt Nam Nữ, là khu Ðại học xá Minh Mạng ở đường Minh Mạng Chợ Lớn. Còn các Nam Nữ sĩ quan cấp Trung tá, Thiếu tá, Úy, và nhân viên Hành chánh thì tập trung tại các nơi khác. Tôi không quan tâm nên không nhớ rõ những nơi nào.

Tôi đợi tới ngày sau cùng, tức là 15-6-1975 mới đi trình diện. Suốt đêm hôm trước trằn trọc không ngủ được. Vợ Chồng Con cái dặn dò nhau đủ thứ chuyện. Tôi dặn Vợ, nếu có thể tìm được đường dây vượt biên thì Mẹ Con cứ việc giắt nhau đi, phần Tôi sẽ tự tính lấy sau. Tôi dặn như vậy, vì Tôi có người con trai lớn du học bên Hoa Kỳ từ năm 1971, vào năm 1975 cậu ấy đã tốt nghiệp Kỹ sư điện tử, đủ khả năng lo cho Mẹ và các Em trên đất Hoa Kỳ.

Tôi chia trách nhiệm cho các con lớn nào, phải lo săn sóc em nhỏ nào. Rồi dặn tất cả mọi người hãy nhớ lấy ngày Ðoan Ngọ (5 tháng 5 Âm lịch) hàng năm, để làm giỗ cho Tôi nếu sau này Tôi không trở về, hoặc không biết được Tôi đã chết ở đâu vào ngày nào.

Sáng sớm 15-6-1975 (ngày Ðoan Ngọ), chuẩn bị túi đeo lưng đựng quần áo, chăn mùng, và các vật dụng để ăn uống hàng ngày xong, cả nhà đang ăn sáng, thì có đoàn cán bộ Phường tới nhà “kiểm tra nhân số Hộ khẩu”. Họ hỏi Tôi đi đâu, Tôi trả lời đi trình diện học tập cải tạo, hôm nay là ngày hạn chót. Lúc đó họ mới biết Tôi là Ðại tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà (QLVNCH), và ghi hàng chữ Ðại tá thật lớn trên tờ Hộ khẩu.

Từ ngày quân Cộng sản vào Saigon, gia đình tôi không được trở lại cư trú trong căn cư xá Sĩ quan trong Trại Trần Hưng Ðạo. Ðồ đạc, áo quần, giấy tờ hộ tịch khai sanh, hôn thú, bằng cấp, hình ảnh kỷ niệm của gia đình… đều bị mất hết. Chúng tôi mua vội được căn nhà 3 tầng bán rẻ, của một ông chủ tiệm bán đồ gỗ, tại mặt đường Trương Minh Ký gần ngã tư Huỳnh Quang Tiên. Ông bà già này cần về sống tại vùng xóm đạo Gia Kiệm, vì có 2 người con gốc Cảnh sát quốc gia và Hải quân, đã di tản trước ngày 30-4-1975. Tôi khai mất sổ gia đình để xin tờ Hộ khẩu mới, và ghi nghề nghiệp là Giáo viên Trung học.

Lúc 10 giờ, năm người Con lớn, dùng 3 chiếc xe đạp đưa Tôi lên đường tới Ðại học xá Minh Mạng để trình diện. Khi tới Bình Bông ngã 6 đầu đường Minh Mạng, nơi dựng tượng An Dương Vương đài thánh Tổ Binh chủng Công Binh trong QLVNCH, thấy có toán bộ đội kiểm soát lưu thông, cản không cho người và xe cộ đi vào đường Minh Mạng. Những người trình diện phải đi bộ, vác hành trang vào một mình, trên khoảng đường dài cả mấy trăm mét. Cha Con chúng tôi ôm nhau hôn chia tay, trước sự nhòm ngó thản nhiên của Dân chúng hiếu kỳ, đang đứng xem tại các góc đường quanh Bình Bông, và những đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên, của mấy người Bộ đội Cộng sản đang làm nhiệm vụ kiểm soát.

Ðeo túi hành trang lên vai, Tôi thong thả một mình đi giữa lòng con lộ, có những cây cao đổ bóng mát xuống 2 bên đường. Con đường mà trước đây, Tôi đã từng lái xe đưa 2 người con trai, đến học tại trường Trung học Chu văn An, gần bên Ðại học xá.

Ðường vắng tanh, không một tiếng động cơ xe hơi, xe Lambretta, xe máy dầu làm náo động. Cũng chẳng một bóng người qua lại, chỉ có một mình Tôi cô đơn thầm lặng, vừa đi vừa nghe tiếng gót chân của chính mình, ình ịch nặng nề nện trên đường phố.

Tôi chợt lo, không biết có ai đi trình diện không hay chỉ có một mình mình thôi. Rồi lại tự nhủ thầm để tự chấn tĩnh mình. Chắc người ta muốn cho Cách mạng thấy thiện chí muốn cải tạo để sớm trở thành Công dân Xã hội chủ nghiã, nên đã sốt sắng đi trình diện sớm hết cả rồi, chỉ còn mình là chót thôi. Nếu đúng vậy thì cũng phiền, mình sẽ bị quan tâm theo dõi, thật nguy hại cho tương lai suốt thời gian học tập.

Trong khi đi, thỉnh thoảng Tôi ngừng lại quay mặt về phiá sau, nhìn xem các Con còn đứng ở đầu đường dõi theo mình không? Chúng vẫn còn đó, Tôi xúc động bật lên khóc một mình không sao cầm nổi. Từ ngày đón chúng vào đời đến nay, có bao giờ nghĩ rằng có thể xẩy ra cảnh ngộ chia ly đau đớn như thế này đâu. Thật tội nghiệp cho mấy đứa trẻ thơ, chúng đâu có tội tình gì.

Tôi tới nơi trình diện lúc 12 giờ trưa. Sau khi làm các thủ tục giấy tờ khai báo lý lịch cá nhân, đóng tiền ăn 1 tháng xong, người ta chỉ Tôi lên lầu kiếm chỗ nào trống thì nằm vào đó. Lâu quá rồi, Tôi không nhớ số tiền ăn đã phải đóng là bao nhiêu. Trong khi đưa tờ biên nhận tiền cho Tôi, nhân viên nhận tiền thông báo : “-Vì mới đến đóng tiền trễ vào giữa ngày, không có phần ăn buổi tối, phải tự túc.” Tôi gật đầu không nói gì và cũng chẳng lo. Vợ tôi cẩn thận biết lo xa, đã chuẩn bị cho nắm cơm, mấy trái trứng luộc với ít muối tiêu, khúc bánh mì cặp thịt, và bi đông nước chín, để trong túi đựng quần áo từ trước khi rời nhà ra đi rồi.

Lên hết cầu thang, trong lúc đi rảo qua các phòng tìm chỗ, bất chợt Tôi thấy Tướng Nguyễn Hữu Có, bạn tốt nghiệp cùng Khoá 1 Sĩ quan Trường Võ bị với Tôi hồi tháng 6 năm 1949, dơ tay vẫy chào. Tôi tiến tới bắt tay chào, và hỏi : -Sao anh không đi, Chị và các cháu có đi được không? Ông ấy lắc đầu, hỏi lại : “-Mới tới à?” Tôi gật đầu rồi quay đi tìm chỗ nằm.

Mọi phòng đều chặt cứng. Cuối cùng Tôi tìm được một chỗ trống, ở căn phòng gần bên phòng vệ sinh chung của tầng lầu. Bước chân vào phòng, Tôi vui mừng yên bụng vì gặp được vài người quen, còn toàn người chưa có dịp gặp bao giờ.

Vừa ổn định xong chỗ nằm trên sàn nhà, thì Thiếu tướng Văn Thành Cao, gốc Lực lượng võ trang Cao Ðài, trước 30-4-1975 làm Tổng cục phó Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH, đến gặp Tôi bắt tay và ghé tai thì thầm nói nhỏ : “-Chốc nữa nếu có Cán bộ gọi anh “làm việc”, nếu họ hỏi về tôi thì anh vui lòng nói rằng, tôi là người rất tốt, mọi người phục vụ tại Tổng cục rất qúy mến tôi. Dân Tổng cục ở đây chỉ có mấy người, chúng mình phải bảo vệ nhau, mấy bạn khác tôi cũng đã dặn như vậy.” Tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao, nhưng cũng gật đầu đồng ý. Tướng Cao cám ơn, rồi lanh lẹ quay trở về phòng của các ông Tướng, cũng đến trình diện tập trung đi cải tạo.

Tôi bước vào phòng vệ sinh chung để giải quyết tiểu tiện, gặp thêm vài bạn quen khác làm việc tại Saigon lâu năm, trong đó có anh Bùi Dzinh đã giải ngũ. Thời Ðệ nhất Cộng hòa, anh Dzinh đã được Tổng thống Ngô Ðình Diệm cử làm Tư lệnh Sư đoàn một thời gian. Anh Dzinh đang mặc quần cụt áo thun, ngồi lom khom lau sàn nhà, thấy Tôi anh nhoẻn miệng cười nói : “-Ðây là việc của chung, bây giờ mình phải tự giác xung phong làm lấy chớ đợi ai làm thay cho.” Tôi gật đầu cười tỏ dấu hiệu đồng ý, để phụ họa cho anh ấy đỡ ngượng trước mặt anh em khác, cũng đang đứng xếp hàng chờ đến lượt giải quyết nhu cầu cho nhẹ bầu tâm sự.

Khoảng 5 giờ chiều, Tôi bị gọi vào 1 căn phòng nhỏ để “làm việc”, với 1 cán bộ mặc đồ tác chiến, không biết cấp bậc gì, chắc là sĩ quan cao cấp vì thấy mang bên mình túi da đựng tài liệu. Ông ta hỏi Tôi 3 câu : 1- Có biết hiện giờ Trung tướng Trần văn Trung ở đâu không? (vì Tôi là Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị QLVNCH). 2- Nhà văn Xuân Vũ (hồi chánh viên) viết truyện dài “Ðường đi không đến” trên Nhật báo Tiền Tuyến bây giờ ở đâu? 3- Số tiền 20 triệu ký qũy của Nhật báo Tiền Tuyến bây giờ để đâu? (vì Tôi là Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến).

Câu 1, Tôi trả lời, sáng sớm 30-4-1975 Tôi còn gọi điện thoại cho Trung tướng Trung tại văn phòng, bây giờ thì Tôi không biết.

Câu 2, Tôi cho biết, ông Xuân Vũ hàng tuần đến nộp bản thảo cho Ban Biên tập, để họ trình bầy đưa lên báo in lần, do đó ông ấy và Tôi ít có dịp thấy mặt nhau, nên chẳng biết ông ta ở đâu.

Còn câu thứ 3, là Chủ nhiệm Tôi phải đứng tên vay 20 triệu đồng của ngân hàng Việt Nam thương tín (VNTT), để chuyển vào chương mục của Nhật báo Tiền Tuyến trong Ngân hàng Trung ương, đóng ký qũy phát hành báo theo luật báo chí quy định. Hàng tháng, với tư cách Chủ nhiệm báo đứng tên vay tiền, Tôi phải ký chi phiếu của toà báo trả tiền lời cho ngân hàng VNTT. Trường hợp báo bị đóng cửa, Ngân hàng Trung ương tự động chuyển hoàn số tiền đó cho Ngân hàng VNTT, chớ Tôi không dính líu gì cả. Hợp đồng vay tiền của Ngân hàng VNTT quy định như vậy. Ông đi mà hỏi Ngân hàng Trung ương, hoặc Ngân hàng VNTT thì rõ. Ông ta hỏi thêm câu thứ 4 : “-Còn tiền mặt lưu giữ điều hành cho tờ báo hàng ngày, lên đến cả trăm ngàn đồng thì để đâu?” Tôi trả lời, để trong tủ sắt tại văn phòng Quản lý, và chính Quản lý giữ chià khoá, Tôi không giữ. Ông muốn biết còn có bao nhiêu thì đi tìm Quản lý mà hỏi, Tôi không biết bây giờ ông ta ở đâu.

Cuộc hạch hỏi này, cho phép Tôi nhận định rằng họ chỉ cần tìm tiền, chớ thực ra họ chẳng cần tìm Trung tướng Trung, hay nhà văn hồi chánh Xuân Vũ. Vì ngày 30-4-1975, khi họ vào chiếm doanh trại Nha Tâm Lý Chiến và toà báo Tiền Tuyến, chắc chắn họ biết rõ là Tôi đã không tuân lệnh Dương văn Minh buông súng đầu hàng, bỏ toà báo về nhà chớ không đợi bàn giao cho ai cả. Như vậy, họ nghĩ là Tôi đã cướp số tiền của toà báo, tìm đường thoát xuống miền Tây, ra Vũng tầu, hoặc tìm ghe thuyền vượt biển khơi trốn ra khỏi nước. Không ngờ hôm nay lại thấy có tên Tôi trong danh sách những người đến trình diện tập trung, vì trốn đi không thoát, nên họ đến hạch hỏi để tìm cho ra, cái món tiền chiến lợi phẩm quá lớn đó mà thôi.

Khoảng nửa đêm, có lệnh báo động, mọi người phải thu xếp hết hành trang gói ghém gọn gàng lại, rồi xuống sân tập họp nghe lệnh.

Người ta đọc tên xếp thành từng Ðội đứng riêng ra, rồi lần lượt dẫn ra đường, lùa lên những chiếc xe Molotova có mui vải bạt, bịt kín mít cả chung quanh như để chở hàng hoá.

Hơn một tiếng đồng hồ sau, mọi người lên hết các xe mới có lệnh di chuyển. Mỗi xe có 2 Bộ đội Cộng sản cằm súng AK đi theo canh chừng, ngồi ở cuối mỗi xe.

Nửa đêm lệnh gọi “hành quân”

Gập chăn, cuốn chiếu, xuống sân xếp hàng.

Nối đuôi nhau đứng hoang mang,

Va-li lếch thếch, túi quàng bên vai.

Nghe tên gọi bước ra ngoài,

Tập trung thành Ðội ba mươi mốt người.

Dồn lên từng chiếc xe hơi,

Bít bùng, ngột ngạt, đứng ngồi chen nhau

Lao nhao, bàn tán xì xào,

Ðoán xem chuyển đến nơi nào, gần xa?

Người sành tin tức ba hoa,

Chắc là Phú Quốc, phải ra bến tầu.

Xe lăn mỗi lúc một mau,

Bò lên, lao xuống, thấy đâu mà mò.

Lắc qua, lắc lại vòng vo,

Lanh quanh đến sáng tờ mờ mới ngưng.

Sương mai phủ kín cây rừng,

Rào gai xiêu vẹo, tầng tầng bìm leo.

Xuống xe, gối mỏi lăn quèo,

Lồm ngồm bò dậy, tiếp nhau xuống hàng.

Quơ quờ tìm kiếm hành trang,

Leo qua rào kẽm vào làng tập trung.

Long Giao, Long Khánh, 16-6-1975.

Chương 4

MỘT THÁNG HỌC LÀM NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Tờ mờ sáng 16-6-1975, đoàn xe chở các Tướng và anh em Ðại tá chúng tôi đến Trại Long Giao, Long Khánh. Nhưng xe chở Ðội chúng tôi không vào qua cổng trại, mà đậu phiá ngoài rào kẽm gai phía Tây, tại một chỗ có khúc rào bị phá xập. Trời còn tối mù, đặc hơi sương, mọi người xuống xe, vác hành trang riêng mò mẫm leo qua kẽm gai, vào mấy căn nhà tiền chế bằng tôn. Trời sáng dần, mờ mờ qua làn sương, thấy dọc bờ rào cách những dẫy nhà khoảng vài trăm mét, có mấy ụ đất xây hầm bê tông cốt sắt chứa đạn và lựu đạn, của đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QLVNCH) để lại chưa kịp phá hủy.

Trong khi chờ các Ðội trưởng theo Cán bộ đi nhận nhà ở cho từng Ðội, một số trong anh em chúng tôi bủa đi lùng nhặt Gamen, muổng, niã, Ca uống nước, Bi đông đựng nước bằng nhôm, vứt bừa bãi quanh nhà, trong các đống rác, để rửa sạch mà dùng. Vì những bạn này cứ tưởng, theo thông cáo của Nhà nước đi học tập đóng tiền ăn cho nhà thầu nấu nướng, thì đương nhiên nhà thầu phải cung cấp đủ thứ, y như 3 ngày vừa qua tập trung tại Ðại học xá Minh Mạng, nên không đem theo đồ dùng. Có người chậm hiểu, không thức tỉnh sớm, đến bữa ăn đầu tiên tại trại tập trung không có đồ dùng để ăn, mới quýnh lên, vội vã lấy mì gói ăn liền đem theo, năn nỉ xin đổi lấy Ca, Gamen, muổng, niã, từ những bạn nhặt được nhiều không dùng hết.

Ðội của Tôi được chia một dẫy nhà tôn tiền chế, gần “nhà bếp 2” dành riêng cho khu giam Ðại tá. Nhà được dựng trên nền xi măng cao hơn mặt đất chừng 20 phân. Nhà thuộc loại kho chứa vật liệu, không có cửa sổ dọc 2 bên hông, chỉ có 2 lối ra vào ở 2 đầu nhà, cánh cửa đã bị gỡ mất. Một vài miếng tôn làm tường, dọc 2 bên hông nhà cũng đã bị gỡ mất. Chúng tôi phải chia nhau đi tìm những miếng tôn, cong rách vứt gần mấy đống rác, đem về đập thẳng ra để cột chám vào mấy chỗ trống cho kín gió, cản sương đêm, và ngừa mưa tạt. Tôn trên mái nhà cũng có nhiều lỗ thủng, không có thang để leo lên chám, đành để vậy. Ai xui xẻo nằm đúng chỗ dột, chỉ còn cách trải áo mưa hoặc miếng ni lông choàng thay áo mưa, lên trên nóc mùng (màn) mà hứng nước chịu trận. Chung quanh nhà không có cây cao tàn lá cho bóng mát, nên ở trong nhà ban ngày nóng như bị nung trong lò lửa. Ngược lại, ban đêm lạnh toát như nằm trong hầm chứa nước đá.

Trong lúc đi kiếm vật liệu gần bờ rào, quanh các dẫy nhà khác, Tôi tình cờ gặp Ðại tá Phạm văn Cảm, đang đứng tựa bên vách đầu nhà của một Ðội khác. Tôi đến gần chào, ông đã già lụ khụ mắt kém, nhưng vẫn nhận ra Tôi, bắt tay thăm hỏi thật thân thiện. Ông đã giải ngũ từ thời Tổng thống Ngô Ðình Diệm (Ðệ nhất Cộng hoà), mà cũng phải đi trình diện tập trung cải tạo. Tôi biết Ðại tá Cảm từ tháng 6 năm 1949, khi Tôi mới tốt nghiệp Thiếu úy Trường Võ bị Quốc gia được thuyên chuyển về Ðại đội 2 Tiểu đoàn 2 VN tại Hànội. Lúc đó, Ðại tá Cảm nguyên là Trung úy bên Quân đội Liên hiệp Pháp, chuyển sang Quân đội Quốc gia Việt Nam được thăng lên cấp Ðại úy, làm Ðại đội trưởng Ðại đội 1 của Tiểu đoàn 2 Việt Nam, do Thiếu tá Vũ văn Thụ làm Tiểu đoàn trưởng (sau này ông Thụ được thăng lên đến cấp Ðại tá làm Tham mưu trưởng Ðệ tam Quân khu tại Hànội một thời gian).

Theo truyền thống xã giao của Sĩ quan đã được hướng dẫn trong Trường Võ bị, sau khi trình diện Tiểu đoàn trưởng, Tôi đã đi trình diện thăm xã giao các Ðại đội trưởng. Do đó với tư cách Sĩ quan đàn anh trong Tiểu đoàn, Ðại úy Cảm đã mời Tôi đến nhà đãi một bữa ăn tối thật thân mật, đầm ấm không khí gia đình, do chính Phu nhân Ðại úy Cảm sửa soạn. Tôi không bao giờ quên cảm tình đặc biệt đó. Trong bữa ăn có cả Thiếu úy Bùi Ðình Ðạm, cùng tốt nghiệp một khoá với Tôi, được bổ nhiệm về Ðại đội 1 của Ðại úy Cảm.

Sau cuộc di cư từ Bắc vào Nam theo quy định của Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954, Ðại tá Cảm được Tướng Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn văn Hinh chỉ định làm Chỉ huy trưởng trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Ðức. Một thời gian sau, theo kế hoạch trẻ trung hoá Quân đội, Tổng thống Diệm cho giải ngũ cùng một lượt với nhiều sĩ quan khác, trước kia do Pháp chuyển từ các đơn vị thuộc đoàn quân Liên Hiệp Pháp thành lập, qua Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Trong khi Ðại tá Cảm làm Chỉ huy trưởng Trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Ðức, thì Thiếu tá Bùi Ðình Ðạm làm Tham mưu trưởng của trường. Sau này anh Ðạm lên đến cấp Thiếu tướng trong QLVNCH. Trong thời Ðệ nhất Cộng hoà được Tổng thống Diệm cử làm Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đóng tại Mỹ Tho. Trước 30 tháng 4 năm 1975, anh Ðạm làm Giám đốc Nha Ðộng viên Bộ Quốc phòng tại Saigon, hiện đang định cư tỵ nạn tại California.

Lúc bữa ăn gần tàn, Ðại úy Cảm giới thiệu Tôi với người con trai Phạm Tất Thông vừa đi học về. Sau này anh Thông cũng theo học Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam tại Ðà Lạt, và trước 30-4-1975 là Ðại tá ngành Quân Cụ, hiện cũng đang định cư tỵ nạn tại California.

Thật tội nghiệp, mặc dù Ðại tá Cảm đã già yếu, đang bị bệnh trĩ rất nặng, lòi ra khỏi hậu môn cả 10 phân, không mặc được quần, phải mặc áo choàng dài đến đầu gối cả ngày đêm, nằm ngủ trên võng vải, thế mà cũng bị buộc phải đi tập trung tại Long Giao.

Vài ngày sau Ðại tá Cảm được đưa lên Bệnh xá của trại tập trung. Khoảng một tháng sau, lại có tin Ðại tá Cảm đã được thả về nhà không phải cải tạo, nhờ lượng khoan hồng nhân đạo của Chính phủ Cách mạng Lâm thời tại miền Nam VN, đối với những người già nua bệnh hoạn mãn tính nặng. Ðược tin này, mọi người hân hoan mừng rỡ, chia sẻ nỗi vui may mắn của Ðại tá Cảm và gia đình.

Long Giao là doanh trại do Ðơn vị Pháo binh Không kỵ Hoa Kỳ xây dựng, khi rút đi để lại cho QLVNCH. Theo giải thích của Ðại tá Bùi Ðức Ðiềm (đang tỵ nạn tại California) nguyên Tỉnh trưởng Long Khánh thì, LONG GIAO là một đại danh từ ghép, lấy từ 2 chữ đầu của “LONG Khánh” và “GIAO hảo” với Hoa Kỳ, mà đặt ra. Ðơn vị QLVNCH sau cùng đóng tại trại này, là Trung Ðoàn 14 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ binh.

Nhà cửa bị tàn phá hư hao nhiều, cỏ dại, cây gai mọc loạn xà ngầu, phủ kín cả đường đi, sát tận quanh nhà, trên rào kẽm gai, cần phải dọn dẹp, tu sửa chỉnh trang lại thì mới ở được. Trại không cung cấp cuốc, xẻng, dao, búa, kìm chi cả, mà lại ra lệnh chia khu cho các Ðội làm sạch sẽ. Thật là vạn nan, với 2 bàn tay không anh em vẫn phải “khắc phục” thi hành lệnh.

Một anh Ðại tá trong Ðội chúng tôi, vốn gốc Công binh, đưa sáng kiến đề nghị cán bộ cho dùng gỗ đốt nung các cọc sắt rào kẽm gai đỏ lên, đập bẹt 1 đầu làm xẻng, và uốn cong 1 khúc theo hình góc thước thợ làm cuốc. Cán bộ chấp thuận cho phép thực hiện để dùng đỡ, trong khi chờ trại xin cấp trên tiếp tế dụng cụ làm nông nghiệp. Thật rõ ràng “lao động là sáng tạo”, đúng như quy luật “đỉnh cao trí tuệ Cách mạng” đã khẳng định.

Trong thời gian dọn dẹp rác rến, phát cây rẫy cỏ hoang riêng trong từng khu, đã xẩy ra một tai nạn khủng khiếp chẳng bao giờ quên được. Trong giờ nghỉ trưa, bên phiá khu giam anh em cấp úy, bỗng dưng có một tiếng nổ long trời dậy đất. Chúng tôi đang nghỉ trưa, giật mình hoảng hốt uà ra trước cửa láng ở, quan sát nghe ngóng coi việc gì xẩy ra.

Thấy Bộ đội cảnh vệ cầm súng chạy túa đi các ngả đường, đến vị trí phòng thủ. Một ý nghĩ chợt loé ra trong đầu Tôi. Không lẽ có biến động phá trại giam để giải thoát Tù? Trường hợp này thì mình phải làm gì? Có nên bàn với các bạn chuẩn bị hành động gì không? Bao nhiêu câu hỏi nẩy ra trong đầu, y như hồi đang thụ huấn tại trường Võ bị, trong giai đoạn cá nhân và Tiểu đội chuẩn bị tiến thối trong tác chiến vậy. Suy nghĩ như vậy, nhưng chỉ giữ kín cho riêng mình, không giám thổ lộ với ai cả. Hoàn cảnh giao thời này, biết ai là “cách mạng 30 tháng tư” trà trộn trong anh em. Lỡ thố lộ gặp nhằm “qủy đón gió trở cờ”, không những mang họa vào thân, mà còn có thể liên lụy cho vợ con ở nhà, thì sẽ phải ân hận suốt đời.

Mọi người còn đang ngơ ngác nhìn quanh, Quản giáo Ðội chúng tôi tới đuổi vào nhà, không được nhốn nháo mất trật tự. Mấy giờ sau được tin, có anh bạn Tù bên khu cấp Úy bị trọng thương, vì lựu đạn nổ trong hầm ụ đất cấm lai vãng. Những ngày kế theo, anh em xì xào nhiều tin tức khác nhau, không biết tin nào đúng. Có tin cho là anh ấy phải dọn hầm đạn, chẳng may làm rớt thùng lựu đạn nổ. Có tin cho là anh ấy tự tử, để chống đối cách cư xử nghiệt ngã của trại tập trung. Có tin cho là anh ấy vượt rào trốn trại đạp phải mìn. Vì trong tình trạng phải sống cách ly, người khác Láng ở không được liên hệ với nhau, vi phạm sẽ bị kỷ luật nặng, nên không kiểm chứng được. Bây giờ, chỉ có bạn nào đã cùng bị giam chung với anh bạn không may kia đang còn sống kể lại, thì sự thật mới được phô bầy chính xác.

Ít ngày sau, bỗng một hôm lại nghe nhiều tiếng súng nhát gừng, rồi liên thanh vang dội tít ngoài rừng xa, anh em cũng ngơ ngác nhìn nhau hồi hộp. Sáng hôm sau, khi “toán anh nuôi” của Ðội chúng tôi, đi lãnh thực phẩm ngoài cổng trại về, cho hay là có mấy anh em bên khu cấp Úy, hàng ngày được dẫn đi đốn củi cung cấp cho các nhà bếp của trại, đã cướp súng trốn trại.

Sau khi dọn dẹp các bờ bụi, rác rến sạch sẽ, anh em được chia khu đất trước các dẫy nhà ra sát tới hàng rào kẽm gai, cuốc lên đắp luống trồng khoai mì (sắn). Hơn tháng sau, khoai mì bắt đầu vươn lên thành những luống cây xanh mướt, trông cũng thấy mát con mắt.

Nước ăn uống, tắm giặt, trong khu Ðại tá chúng tôi có 1 giếng đào, miệng giếng rộng hơn 1 mét, sâu 25 mét, phải dùng gầu làm bằng can đựng xăng loại 20 lít cột vào đầu sợi cáp dài 50 mét, để thòng xuống múc nước kéo lên. Ưu tiên phải dành cho toán kéo nước phục vụ nhà bếp, lấy đủ 40 thùng phuy 200 lít một ngày xong, mới tới phần anh em kéo nước dùng riêng.

Mỗi toán kéo nước gồm 4 người. Hai người cầm đầu dây cáp đứng cách xa miệng giếng 50 mét, đi tới đi lui thả gầu xuống kéo gầu lên, theo hiệu lệnh của 2 người đứng sát miệng giếng điều khiển. Hai người đứng bên miệng giếng, có trách nhiệm bê gầu nước đầy vừa kéo lên, đổ vào 2 thùng phuy đặt trên xe cải tiến. Khi nào cả 2 thùng đầy ặp thì ngưng kéo nước, cả 4 tụm lại hiệp sức đẩy về nhà bếp đổ vào hồ chứa.

Trong thời gian toán kéo nước nhà bếp rời xa giếng, mọi người được phép tranh nhau, thả gầu nhỏ cá nhân xuống giếng kéo nước lên dùng riêng, cho đến khi toán nhà bếp trở ra, lại phải ngưng để nhường chỗ cho họ, tiếp tục quyền ưu tiên làm “phận sự phục vụ tập thể”.

Ðây là vùng đất sét pha cát, vào mùa nắng đất khô, đi tới đi lui gò lưng kéo nước còn dễ dàng, nhưng tới mùa mưa thì ôi thôi thật là muôn phần khó khăn. Ðất trơn trợt, phải cúi gục người về phiá trước, bấm sâu các đầu ngón chân xuống đất để đi tới mà kéo nuớc lên, thỉnh thoảng vẫn bị trượt chân ngã chúi về phiá trước, mặt vập xuống đớp đầy mồm đất và nước bùn.

Mùa nắng cũng như mùa mưa, nhóm kéo nước bao giờ cũng phải xoay trần, chỉ mặc có một chiếc quần ngắn, mà mồ hôi lúc nào cũng nhễ nhại như tắm. Ðổi lại sự cực nhọc này, cán bộ “chỉ đạo” cho “toán anh nuôi”, cấp thêm cho mỗi người trong nhóm kéo nước và nhóm bửa củi cho nhà bếp, mỗi bữa một miếng cơm cháy lớn bằng bàn tay, để gọi là “bồi dưỡng”.

Ðể áp dụng luật công bằng theo Xã hội chủ nghĩa, những đội ăn chung trong một bếp, được chỉ định luân phiên nhau phụ trách làm “ đội anh nuôi” một ngày. Trong những ngày này, anh em trong Ðội phải chia nhau thành các toán : đi lãnh gạo và thực phẩm tươi, nấu cơm, thức ăn và chia ra từng mâm 6 người riêng theo từng Ðội, bửa củi, kéo nước.

Thực đơn ăn hàng ngày, ghi trên bảng thông báo để tại nhà bếp thấy mà ham. Nào là cơm gạo Ðại Mễ, canh rau, thịt kho. Nhưng thực tế thiểu não vô cùng.

Gạo Ðại Mễ do Trung cộng cấp cho Việt cộng tích trữ trong rừng để xâm lăng miền Nam, nay lấy về cung cấp cho tù tập trung ăn. Gạo để lâu ngày dưới hầm trong rừng đã mục nát, bao thủng bị trộn đầy sạn cát và sâu, mọt, xúc đóng vào bao mới. Nấu thành cơm ăn hôi, nhão, phải xúc từng muổng nhỏ bỏ vào miệng trệu trạo qua loa rồi nuốt, không dám nhai vì đụng sạn ghê răng.

Canh rau, mỗi người được đôi ba cọng rau muống, hoặc vài lát cải xanh nấu với nước muối lõng bõng. Thịt kho, thì một con gà nặng chừng 2 kí lô cân cả lông, hoặc 1 hộp thịt bò 1 kí lô, nấu cho khoảng 150 người dùng 2 bữa. Toán “anh nuôi” phải vận dụng trí thông minh, làm sạch lông gà xong, bằm nhuyễn cả xương, thả vào bung nước muối cho thật nhừ. Lúc chia cho các mâm ăn từng 6 người một, phải dùng muôi khoắng quậy đều, múc cả nước lẫn cái. Mỗi mâm được 6 muôi, tức là mỗi người được khoảng 2 muổng húp canh cá nhân. Thịt bò hộp cũng vậy, đổ ra khỏi hộp, bằm nhuyễn, thả vào kho nước muối lõng bõng, rồi chia y như chia thịt gà kho.

Mùa nắng giếng cạn, nước khan hiếm, việc tắm giặt, giữ vệ sinh cá nhân hàng ngày là một vấn nạn lớn cho mọi người. Ðể “khắc phục”, Tôi đã nghĩ ra được kỹ thuật tắm gội có dùng xà bông, tốn ít nước, một cách tuyệt vời. Chỉ cần 1 thùng đạn 30 ly đầy 2 lít nước là đủ. Chắc trên trái đất này, chưa có một nhà bác học nào có thể nghĩ ra được.

Bỏ hết quần áo ra, ngồi chồm hổm trên 1 miếng tôn hay miếng ván mỏng, tay phải múc một ca nước đưa lên đỉnh đầu, từ từ xối nước xuống , trong khi đó tay kia xoa nhè nhẹ cho nước thấm ướt hết tóc, rồi lần theo nước chẩy xuống đến đâu thì xoa tay theo tới đó, đến khi cả người từ đầu đến chân ướt đều thì ngưng. Tiếp theo, lấy Xà bông chà lên tóc, dùng 2 tay chà cho xà bông nổi bọt để gội đầu, rồi từ từ xoa cho bọt xà bông chẩy xuống mặt, cổ, vai, mình … y như làm động tác xoa nước cho ướt mình vậy. Khi toàn thân được chà xà bông kỹ càng, lại lấy ca nước sạch từ từ dội từ đỉnh đầu, xoa kỳ cho tóc sạch hết xà bông. Và cứ tiếp tục làm như vậy bằng từng ca nước một, lần lần xuống mặt, cổ, vai, mình, tay, chân. Khi dùng tới ca nước cuối cùng là bảo đảm người hoàn toàn sạch sẽ.

Muốn biết lời Tôi nói có đúng không, xin làm thử một lần sẽ biết. Dĩ nhiên cần phải kiên nhẫn, tập trung tư tưởng ghê gớm lắm mới làm được. Ở trong tình trạng đợi học tập, không phải ra ngoài lao động, nên có gì vội vã đâu, đây cũng là một hành động thú vị để giết thì giờ buồn nản.

Ba tháng cay đắng cực khổ, đã chậm chạp trôi qua. Vẫn chưa nghe động tĩnh gì về việc tổ chức học tập quy củ, để trở thành người lao động Xã hội chủ nghiã cả. Phải chăng đây mới chỉ là giai đoạn thử thách ban đầu, trước khi chính thức bước vào học tập cải tạo thực sự. Nếu đúng vậy thì, chẳng biết sẽ còn phải chịu cực nhục đói khổ đến mức nào? Cái thông báo của Nhà Nước đi học tập một tháng, chẳng còn giá trị gì. Ðúng là xảo quyệt lừa lọc loát khoét như Vẹm (Việt Minh).

Long Giao vốn trại của Ta,

Ngày nay đời đổi hóa ra làng tù.

Lâu ngày chẳng được trùng tu,

Tan hoang nên phải lu bu sửa hoài.

Tay không bứt cỏ, bẻ gai,

Nhổ tranh, bới đất trồng khoai, trồng mì.

Ðá xanh vun đắp lối đi,

Sửa nhà, dựng vách phòng khi đổi mùa.

Tiết Trời đang chuyển sang mưa,

Nắng ngày gay gắt, sương khuya lạnh lùng.

Tập trung đủ mặt anh hùng,

Tùy theo cấp bậc, nhốt từng khu riêng.

Nấu ăn, chia đội luân phiên,

Mỗi khu hỏa vụ lo trên trăm người.

Nước dùng, kéo đáy giếng khơi,

Mỗi ngày lãnh gạo, đồ tươi về làm.

Thực đơn nghe báo mà ham,

Nay gà, mai lợn, mốt tôm, kia bò.

Lãnh về ai nấy ngẩn ngơ,

Con gà hai kí phát cho trăm người.

Vứt lông, bầm nát xong xuôi,

Nêm tiêu, xả, muối, bỏ nồi nước ninh.

Lúc chia vận trí thông minh,

Khuắng đều cái nước như sình múc ra.

Người hai muổng xả kho gà,

Trộn cơm Ðại Mễ ăn mà độ thân.

Ðổi đời phải luyện tập dần,

Miếng ăn ít ỏi, chia phân đồng đều.

Nếu không kẻ ít người nhiều,

Lời qua tiếng lại, sinh điều chẳng hay.

Ngày ngày khắc vạch lên cây,

Ðếm dư trăm ngấn mà Thầy chửa ra.

Hẳn là phải đợi đến già,

Chờ hồi xương mục, chẳng tha cũng về.

Long Giao, Long Khánh, Tháng 9-1975

Chương 5

MÙA NHỒI SỌ MỞ MÀN

Ðến tháng 9-1975, tự nhiên thấy trại tập trung mở Căng tin, bán đủ thứ hàng thực phẩm khô như mì ăn liền, kẹo, bánh bít-quy, bánh mì xấy khô, thịt cá hộp, đường, sữa, trứng tươi, có cả giấy bút, vở học trò…, và cho phép các Ðội trưởng, hàng ngày dẫn người đại diện đi mua giúp cho anh em cả Ðội, tùy theo nhu cầu của mỗi người. Những bạn dư giả tiền mang theo, tha hồ mua từng thùng mì ăn liền và sữa hộp, bánh mì về xài rả rích cả ngày đêm, chẳng thèm ngó tới cơm trại. Nhờ thế, các bạn nghèo không tiền mua “đồ bồi dưỡng cao cấp”, được thừa hưởng các phần dư cũng đỡ khổ. Ðộ chừng một tuần lễ sau có tin sắp khởi sự học tập. Mọi người “phấn khởi hồ hởi”, “chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng tham gia học tập”.

Chắc là sau hơn 4 tháng giải phóng ổn định miền Nam xong, nay Trung Ương Ðảng CSVN mới soạn xong các bài tuyên truyền nhồi sọ, các Cán bộ giảng huấn đã được chỉ dậy ôn luyện kỹ càng, nên mới khởi sự giắt nhau vào miền Nam bắt đầu phát động chương trình nhồi sọ, nhằm cải tạo tư tưởng cho Tù tập trung và toàn thể Dân chúng tại mọi nơi học tập cho mau “thông suốt”, để “khẩn trương” trở thành người mới Xã hội chủ nghĩa.

Phương châm Chính sách học tập cải tạo tư tưởng của Cộng sản là, dùng áp lực để nhồi vào óc, buộc mọi người phải dứt khoát chấp nhận tư tưởng lý luận một chiều : hận thù Ðế quốc Mỹ, khinh bỉ, coi Ngụy quân, Ngụy quyền miền Nam là những tội đồ của Dân tộc, cặn bã của xã hội. Chỉ có Xã hội chủ nghiã do Cộng sản Bắc Việt lãnh đạo, dưới sự chỉ đạo của Liên sô và Quốc tế Cộng sản mới là chính nghĩa, dẫn đến Thiên đường Cộng sản tốt đẹp gấp trăm ngàn lần hơn Thế giới Tư bản.

Ðợt giáo dục nhồi sọ, được “khởi phát” bằng một buổi chiếu phim Liên sô học tập ngoài trời. Ðêm đó trời gió mưa tầm tã liên tục, mọi người vẫn phải khoác áo mưa đi tham dự, ướt át lạnh run cực khổ hết chỗ nói. Sau buổi xem phim về, còn phải ngồi thảo luận phê bình, rút “ưu khuyết điểm” “liên hệ với bản thân”. Phải chăng đây là thử thách ban đầu, Cách mạng muốn tung ra để đo lường “quyết tâm học tập” của cải tạo viên? Trong Ðội chúng tôi, có một anh dại dột lên tiếng than van lén, ngày hôm sau bị gọi lên “làm việc” với Cán bộ Giáo dục. Sự việc này cho thấy là có dân “cách mạng 30 tháng tư” sống lẫn bên chúng tôi làm “ăng ten”. Thật nguy hiểm.

Sáng ngày hôm sau, trời vẫn còn mưa rả rích, buổi thuyết giảng đầu tiên được khai diễn tại Ðại Hội Trường của trại. Ðây là lần tụ hội đầu tiên đủ mặt anh hùng cải tạo tại trại này. Tướng, Tá, Úy, nam nữ, trẻ già đủ lứa tuổi có dịp được thấy mặt nhau giữa ban ngày. Mọi người ăn mặc đủ loại y phục thời đại của mùa giải phóng (quần áo thường dân, quần áo lính bằng vải kaki và đồng phục tác chiến mua ngoài chợ trời, đã nhuộm nâu, đen, xanh dương, mang dép râu cao su, giầy da thấp cổ, giầy Bata, có người liều mang giầy bốt của lính, chưa có ai biết đi chân đất).

Sau mỗi bài giảng ở Hội trường, các Ðội trở về láng ở của mình tiếp tục “thảo luận, đào sâu thêm”, “tự liên hệ vào bản thân”, và bắt buộc phải luân phiên nhau “phát biểu” trước Ðội để “nhận tội phản quốc, chống phá Cách mạng, làm trì trệ bước tiến của Xã hội Chủ nghiã”.

Các buổi thảo luận tại Ðội, luôn luôn có sự hiên diện của Quản giáo Ðội và đại diện Ban giảng huấn trung ương ngồi chứng kiến theo dõi. Khi nào Cán bộ nhận thấy là mọi người đã “thành khẩn phát biểu, thấm nhuần sâu sắc” bài học, mới cho ngừng thảo luận để viết bài “thâu hoạch” kết quả học tập cá nhân, trình nộp cho Cán bộ Giáo dục khai thác, xét định “mức độ tiến bộ” của mỗi người.

Vào ngày tổng kiểm điểm kết quả học tập, các Ðội đi theo hàng đôi, nối đuôi nhau ùn ùn từ các khu kéo đến Ðại Hội Trường, y như các đoàn lao công đi tham dự “Ðại hội Ðảng” địa phương. Chỉ khác là không có cờ quạt, biểu ngữ, và không la hét om xòm các khẩu hiệu hoan hô, đả đảo vậy thôi. Thay cho nhóm Công an giữ trật tự trong cuộc biểu tình, làø bọn Bộ đội Cộng sản mặt non choẹt, cằm AK đi áp tải đầy đường hối thúc : “Khẩn trương! Khẩn trương!”.

Ðoàn người đi tham dự đại hội học tập, lẳng lặng buồn thiu cất bước nặng nề bên nhau, trong đầu mỗi người một suy nghĩ riêng. Tuy vậy cũng có đôi anh vô tâm thiếu suy nghĩ, vẻ mặt “hân hoan” nói cười pha trò bô bô, như bầy trẻ được người lớn dẫn đi xem Hội Chợ Tết. Vì các anh ấy tưởng rằng học xong đợt cải tạo này, sẽ được cấp chứng chỉ làm người Xã hội chủ nghĩa, về sống thong thả bên vợ con và xóm giềng thân thích, như đại diện lớn nhỏ của Ðảng từng xa xả nhai đi nhai lại, mỗi lần họ có dịp xuất hiện trước quần chúng tại địa phương, trước ngày đi trình diện tập trung.

Tới gần Hội trường, hàng ngàn người kẹt cứng đầy đường, các Ðội phải đợi cả tiếng đồng hồ mới tới phiên được di chuyển vào trong hội trường ngồi.

Bên trong Hội trường có trang hoàng các biểu ngữ, Tôi chẳng nhớ nội dung gồm những gì, nhưng chắc chắn có câu “Không có gì qúy hơn độc lập tự do” của Bác Hồ, sáng tạo ra từ hồi Cách mạng tháng 8 thắng lợi năm 1945.

Mọi người ngồi chồm hổm trên nền nhà đất nện, sát sạt bên nhau chặt cứng, ngửa mặt nhìn lên Thuyết trình đoàn ngồi chễm trệ sau dẫy bàn có phủ khăn nỉ mầu xanh lá cây xậm. Ðủ thứ hơi hổ lốn : mồ hôi, quần áo, dầu gió… của mọi người tiết ra, ngột ngạt khó chịu muốn ngộp thở.

Sau khi Cán bộ Thủ trưởng trại tập trung, báo cáo tập thể cải tạo viên gồm những thành phần nào xong, Trưởng đoàn Giảng huấn trung ương, với giọng kẻ cả thắng trận, nói ra những nhận xét của mình về kết quả theo dõi học tập tại các láng, cũng như qua “phản ánh” trong các bài “thâu hoạch tự giác khai báo nhận tội” của cải tạo viên. Ðại ý tóm gọn như sau : “-Mọi người đã ý thức được là cao trào sóng Cách mạng vô địch đang dâng lên mạnh mẽ, Ðế quốc Tư Bản đang suy tàn dẫy chết. Cũng như ý thức được sự sai trái của bản thân trong quá khứ, quyết tâm học tập cải tạo phục thiện theo Cách mạng và nhân dân xây dựng Xã hội chủ nghĩa, là rất tốt. Bây giờ hết chiến tranh rồi, anh em Trung Nam Bắc hoà hợp cùng một nhà, cùng chung một dòng giống mà ra, phải thương yêu đùm bọc nhau là lẽ đương nhiên. Chắc chắn thời gian học tập sẽ không lâu bằng thời gian làm dưới Ngụy Quyền Ngụy Quân trước đây đâu. Mọi người hãy cố gắng học tập cho nó tốt, mau tiến bộ. Tùy theo mức tiến bộ của mỗi người, Nhà Nước sẽ khoan hồng nhân đạo, lần lượt cho trở về hoà nhập vào xã hội mới Xã hội chủ nghĩa, để cùng nhân dân tái thiết đất nước Việt Nam anh hùng vô địch, giầu mạnh, đã từng chiến thắng cả 3 Ðế quốc giầu mà không mạnh là Pháp, Nhật và Mỹ…”

Những lời huênh hoang toàn là nhai lại như vẹt, các điều ghi trong loạt bài nhồi sọ mọi người, cả ngày lẫn đêm suốt thời gian học tập. Chừng gần một tiếng đồng hồ thao thao bất tuyệt, ông ta mới ngừng nói. Cả hội trường vỗ tay rào rào như pháo nổ, đinh tai nhức óc muốn xập cả nhà. Người nghe mệt mỏi, đang lơ mơ ngủ gục, giật mình tỉnh dậy. Người nói khô cổ hụt hơi, cúi xuống lấy chiếc điếu cầy từ gầm bàn ra, nhồi bi thuốc lào vào lõ điếu, đốt lửa, rít một hơi dài, cầm tách trà mạn sen chiêu một ngụm, rồi ngửa mặt phả ra ba dòng khói trắng mờ mờ khoái trá. Y hệt như “ba dòng thác cách mạng” đang lơ lửng bay lên, tan dần trong không khí ngột ngạt của hội trường.

Cán bộ Giáo dục của Trại lên bục có gắn mi crô, ca ngợi và cám ơn những lời chỉ giáo hữu ích của Ðồng chí đại diện Trung ương Ðảng cho các cải tạo viên, rồi chỉ định người lên phát biểu cảm tưởng.

Hình như những người được gọi lên đã có sự “móc nối” chuẩn bị từ trước, vì thấy vẻ mặt của họ không tỏ vẻ ngạc nhiên, lúng túng, e ngại gì cả. Họ mạnh dạn nghẹn ngào, sùi sụt nước mắt dầm dề hai má, nhận tội phản Cách mạng, oán trách Mẹ Cha đã không hướng dẫn để họ lầm đường lạc lối, nay xin Cách mạng đại lượng khoan hồng tha tội chết cho họ.

Anh chị em có mặt trong hội trường, ai cũng buồn lòng bất bình về tinh thần hèn yếu đó, nhưng lặng thinh thông cảm chia sẽ hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của họ. Nghĩ rằng, nếu chẳng may mình bị lựa làm con thiêu thân như họ, thì cũng phải làm như vậy thôi. Ai dại gì mà làm trái ý kẻ thắng kiêu căng, trong lúc mình sa cơ thất thế như vầy, chỉ tổ hại vào thân và vợ con ở nhà cũng có thể bị vạ lây không chừng. Cộng sản xảo quyệt thâm độc bất nhân, ai mà lường trước được.

Sau lời phát biểu ý kiến của người Tù thứ nhất là một Ðại tá xong, thì được nghỉ giải lao 15 phút cho mọi người ra ngoài hút thuốc, đi tiểu, đại tiện nếu có nhu cầu.

Mọi người chen nhau, vội vã uà ra bãi đất trống phiá sau Hội trường. Lợi dụng lúc hỗn độn này, những bạn bè thân quen cũ tìm cách lén đến gần nhau chào hỏi, trao đổi tin tức gia đình.

Qua đôi mắt kính cận thị 4 độ, Tôi đang hướng mắt tìm trong đám đông xem có những ai quen, thì có bàn tay người vỗ nhẹ sau vai. Giật mình quay lại, thấy Bà Trung tá Hồ thị Vẽ. Chúng tôi bắt tay nhau. Bà Vẽ hỏi thăm gia đình của Tôi có di tản được không, Tôi lắc đầu.

Bà Vẽ biết Tôi từ hồi 1965, lúc Tôi làm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Trung ương Ðịa Phương quân và Nghĩa quân, đến nhờ Trung Tâm huấn luyện Nữ quân nhân, giúp đỡ việc huấn luyện Nữ trợ tá Xã hội cho Lực lượng Ðịa phương quân. Bà Vẽ có người con rể là Sĩ quan, phục vụ trong ngành Chiến tranh Chính trị, cũng phải đi tập trung cải tạo.

Sau này, vào tháng 2 năm 1985, Tôi được chuyển từ Trại Z30C (Hàm Tân) qua Trại Z30D (Thủ Ðức), lại gặp Bà Vẽ đang bị giam bên khu Nữ tù của K1, và cũng gặp cả người con rể của bà Vẽ, Ðỗ Duy Chương (Tôi không nhớ rõ anh ấy là Thiếu tá hay Ðại úy) làm ở Ðội Lâm sản, giam chung bên khu Nam với chúng tôi.

Hết giờ giải lao, Cán bộ hối thúc mọi người trở vào Hội trường, tiếp tục nghe mấy Tù khác lên phát biểu ý kiến của họ sau 10 bài học căn bản tẩy não. Mọi ý kiến phát biểu cũng na ná một giọng điệu như nhau.

Bỗng dưng trại mở Căng tin,

Tha hồ Tù viếng, miễn tiền đủ chi.

Mặt hàng chẳng thiếu thức gì,

Trứng tươi, mì, sữa, bánh quy,

Ðồ ăn đóng hộp, hệt y chợ trời.

Kẻ giầu mặc sức mua xơi,

Bỏ cơm trại nấu cho người nghèo ăn.

Mở màn khích lệ tinh thần,

Cho Tù “hồ hởi dấn thân” học hành.

Mừng đoàn Cán bộ nổi danh,

Từ Trung ương xuống tung hoành múa môi.

Ðúng ngày mưa gió tối trời,

Nhóm người thắng trận đến nơi khoe tài.

Nhằm đêm tầm tã mưa rơi,

Ðoàn Tù ngồi xổm đội Trời xem phim.

“Bước đầu thử thách” con tim,

Xét lòng “đối tượng” nổi chìm ra sao.

Có người dại miệng xì xào,

Ðược mời lên hít thuốc lào thẩm tra.

Thì thầm tin tức đồn ra,

Gọi là dằn mặt “phe ta” khỏi lờn.

Ðể mà suy nghĩ thiệt hơn,

“Kiến trong miệng chén” còn chuồn đi đâu?

Loạt bài nhồi sọ bắt đầu,

Phê bình Ðế quốc sang giầu dã man.

Thế, Thời, Tư bản đang tàn,

Sóng Thần Cách mạng dâng tràn khắp nơi.

Khôn ngoan nên biết thức thời,

Cúi đầu theo Ðảng làm người Cộng nô.

Noi gương các cụ Mao, Hồ,

Làm con cái nước Liên sô anh hùng.

Ngu si giữ giống Tiên Rồng,

Làm sao hội nhập Ðại đồng Tam vô.

Rầng rầng tay vỗ hoan hô,

“Ðỉnh cao trí tuệ” tha hồ ba hoa.

Công, Danh, Việt cộng chói lòa,

Nhân dân đổ máu, Ðảng ta kiêu hùng.

Ðảng ta “nhân đạo khoan hồng”,

“Ngụy”(1), tha tắm máu, tập trung học nghề.

Bao giờ tiến bộ thì về,

Tiếp tay xây dựng lại quê hương nhà.

Giờ đây chinh chiến đã qua,

Bắc Nam đoàn tụ một nhà thương nhau.

Thời gian học tập chẳng lâu,

Yên tâm cố gắng cho mau đạt thành.

Gia đình vô sự yên lành,

Các con vẫn được học hành như xưa.

Vợ theo lao động thi đua,

Tham gia sản xuất, đợi Cha, đợi Chồng.

Bọn hèn xuất diện lập công,

Mở lời phụ họa, tố Ông, tố Bà.

Nghẹn ngào oán hận Mẹ Cha,

Lệ tuôn tức tưởi xin tha tội mình.

Ðáng thương cho lũ bạc tình,

Bạn bè xa lánh, rẻ khinh mãn đời.

Lúc nguy mới rõ lòng người,

Vàng thau lẫn lộn, lửa thui hiện hình.

Rớt vào tay bọn súc sinh,

Dần dà mới thấy cực hình bủa vây.

Tinh thần căng thẳng đêm ngày,

Ðọa đầy kiệt sức bỏ thây rừng già.

Rồi đây sẽ sáng mắt ra,

Ðừng nghe “Vẹm” nói ngọt mà vội tin.

KẾT QỦA THÂU HOẠCH SAU ÐỢT NHỒI SỌ.

Tưởng rằng Cộng sản là vô địch,

Hăng hái Bác Hồ nhắm mắt theo.

Nửa Thế kỷ qua nước vẫn nghèo,

Nhân dân nguyền rủa, buồn, nên chết.

Cách mạng theo Nga dân đói rách,

Theo Tây, theo Mỹ, nước phồn vinh.

Lòng tham muốn cướp, Ðảng hành binh,

Xâm lược miền Nam, mặc sức vét. 

Chuyên quyền độc đảng, Nga hơn Mỹ,

Dân chủ bình quyền, Mỹ thắng Nga.

Nam Việt đắn đo lập Cộng hoà,

Nga, Hoa, lo lắng hè nhau diệt.

Chủ nghiã Tam Vô phá Quốc gia,

Tự do Dân chủ nước hưng thịnh.

Ðộc tài Ðảng trị dân thù oán,

Thiển cận làm sao thấy được xa.

Long Giao, Long Khánh, Tháng 9-1975.

(1) Cộng sản Bắc Việt gọi Quân nhân và Công chức hành chánh Việt Nam Cộng Hoà là Ngụy quân, Ngụy quyền.

Chương 6

LÊN ÐƯỜNG LAO ÐỘNG CẢI TẠO TƯ TƯỞNG

Khoảng độ 3 tuần lễ sau đợt học tập loạt 10 bài cải tạo tư tưởng, từng khu Tù được lần lượt chuyển đi khỏi trại Long Giao, không biết đi đâu. Nhiều nguồn tin được loan truyền râm ran giữa các khu, qua các “toán anh nuôi” đi lãnh thực phẩm mỗi buổi sáng ngoài cổng trại, nghe ngóng đem về rỉ tai nhau.

Có người đồn về trại Sóng Thần, làm lễ mãn khoá cấp Thẻ Công dân Xã hội Chủ nghĩa, để về đoàn tụ với gia đình. Có người đoán ra đảo Phú Quốc, nơi có một trại rất lớn giam tù binh Cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam trước kia, trong vùng vịnh Hà Tiên tỉnh Châu Ðốc, để học tập làm người lao động trong Hợp tác xã. Có người đồn đi vùng cao nguyên, tham gia lao động sản xuất trong các Hợp tác xã. Tin tức dồn dập rối mù hàng ngày, chẳng biết đâu mà mò.

Tôi chân thật đưa ý kiến dự đoán, có thể bị đưa ra Bắc học tập lao động trong các Hợp tác xã, một thời gian tối thiểu dăm bẩy năm thử thách. Nếu thấy ai có tiến bộ, thực lòng quy phục Nhà Nước Xã hội chủ nghĩa, và không chết vì bệnh hoạn, thiếu ăn, thiếu thuốc, kiệt lực, còn sống sót, mới hy vọng được tha về đoàn tụ với gia đình. Lập tức bị mấy bạn đang lạc quan, tin tưởng được đưa về trại Sóng Thần làm lễ tha, phản đối cho Tôi là bi quan đoán tầm bậy. Từ đó Tôi đành im lặng không góp ý với ai, về bất cứ vấn đề gì nữa. Vì sợ phải tranh luận chứng minh, không hợp ý muốn “chủ quan” riêng của các bạn, có thể bị “ăng-ten” xuyên tạc báo cáo, chẳng có lợi gì trong hoàn cảnh đang bị tập trung tù tội.

Sở dĩ Tôi đoán vậy là vì, chỉ có giam trong vùng đất miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, lạ cảnh lạ người, không biết đường đi nước bước ra sao, Tù mới không dám và không có cách nào móc nối với bên ngoài, để thực hiện việc trốn trại. Mạng lưới Công an nhân dân dầy đặc khắp mọi nơi, không cần tốn thêm ngân quỹ “bố trí” bọn cảnh vệ canh giữ ngày đêm.

Hơn nữa, thời gian phục vụ trong ngành Chiến tranh Chính trị, Tôi đã phải nghiên cứu tìm hiểu nhiều về Cộng sản Thế giới, nên chưa quên các sự kiện diễn tiến lịch sử trong các nước Cộng sản. Trong “quá trình hoạt động vùng lên cướp chính quyền”, tất cả Liên Sô, Trung Cộng, và các nước theo chủ nghĩa Cộng sản khác kể cả Cộng sản Việt Nam, đều dùng sách lược “đấu tranh tiêu diệt giai cấp” để giành quyền lãnh đạo. Không bao giờ họ để những người trong giai cấp cầm quyền thuộc chế độ họ lật đổ, được sống còn và sống chung với họ.

Một sự kiện lịch sử vô nhân đạo rõ nét nhất, cả Thế giới đều biết là, Cách mạng tháng Mười Liên Sô thành công, tất cả các giai cấp không thuộc giới công nhân vô sản đều bị đưa đến vùng Si-bê-ri. Họ bị đầy đọa chết lần mòn bỏ thây giữa nơi hoang vu băng tuyết lạnh lùng, vì phải ngày đêm quanh năm suốt tháng lao động khổ sai kiệt sức, đói rét, thiếu thực phẩm thuốc men, sống trong những túp nhà thiếu tiện nghi tối thiểu, dưới sự hành hạ tàn bạo của Hồng quân. Sự kiện này đã được một nhà văn Nga nổi tiếng tên là Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn (Mỹ gọi là Alexander Solzhenitsyn) được giải Nobel về Văn chương năm 1970, viết thành truyện có tựa đề Gulag Archipelago (ốc đảo), viết tắt từ Glavnoye Upravleniye Ispravitelno-Trudovykh Lagerey. Cuốn truyện này đã được Thomas P. Whitney. NY: Harper & Row dịch ra Anh văn, phát hành lần đầu tiên vào năm 1973, dầy 660 trang. Truyện kể về Hệ thống quản trị các trại tập trung lao động cải tạo của Liên sô (Chief Administration of Corrective Labor Camps). Thời Việt Nam Cộng hoà hình như đã có người chuyển dịch sang Việt ngữ (Tôi không nhớ tên người dịch).

Khu các Trung tá, Thiếu tá, bao 2 bên phiá trái và phiá phải khu Ðại tá chúng tôi, được lần lượt di chuyển đi trước. Các dẫy nhà tôn mấy tháng nay đầy người ồn ào vui nhộn, nay trở thành hoang vắng lạnh lùng, khiến chúng tôi nao nao kiên nhẫn chờ đợi trong âu lo. Hồi hộp hay “hồ hởi” tùy theo dòng suy tư riêng của mỗi người. Ngày giờ trông đợi cứ chậm chạp trôi qua, theo sương đêm lạnh lùng và ánh nắng ngày gay gắt.

Thế rồi điều mong đợi cũng đã đến vào một sáng đẹp trời, chúng tôi được lệnh đóng gói “tư trang” để “hành quân” trong ngày. Trại phát phần ăn khô cả ngày cho mỗi người. Hình như 2 khúc bánh mì và mấy miếng thịt kho thì phải, Tôi không nhớ chắc. Mãi đến xế chiều mới có đoàn xe Molotova chở chúng tôi, rầm rầm tung bụi chạy vào trong khu. Các Ðội tập họp để Bộ đội áp tải kiểm danh, và phân phối lên xe.

Khi đoàn xe chuyển bánh, mặt trời đang từ từ lặn xuống ngang đỉnh dẫy rừng núi phía Tây trại Long Giao. Ðoàn xe ra Quốc lộ, bon bon chạy về hướng Saigon. Mấy anh tin tưởng được về trại Sóng Thần làm lễ tha, mừng vui cười nói oang oang. Tiếng nói của họ vừa phát ra khỏi miệng, đều bị tan bay ngay theo gió, ngược chiều với hướng xe chạy.

Ði ngang vùng ga Sóng Thần, không thấy đoàn xe rẽ vào, một dự đoán khác lại được loan ra. Chắc về bến Tân Cảng nơi đầu cầu Xa lộ khu Thị Nghè, Saigon, để xuống tầu thủy chuyển ra đảo Phú Quốc.

Tất cả các tin đồn đều sai hết. Khi đèn điện các thị trấn nằm dọc bên đường bắt đầu bật sáng, lúc gần tới Biên Hoà, đoàn xe rẽ vào đường đi Suối Máu, Tam Hiệp. Nơi có Trại tạm giam tù Cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam, đợi đưa đi trao đổi tù binh tại cầu Hiền Lương, tỉnh Quảng Trị, hồi năm 1973 sau khi Hiệp Ước Paris được ký kết.

Ðoàn xe ngừng bên hàng rào chằng chịt hai ba lớp kẽm gai cao, trước cổng một khu giam nhìn thấy lộ lớn. Bộ đội áp tải thúc hối “khẩn trương” xuống xe tập họp. Ðèn pha trước cổng bật lên sáng chóa, rọi đường cho “cải tạo viên” tay sách nách mang tư trang, nối đuôi nhau từng người một, vòng vèo di chuyển theo lối đi chữ chi, bề ngang hẹp chừng 80 phân, giữa 2 hàng rào kẽm gai cao một thước, dựng lên phiá trong cổng vào.

Hình như về đây nằm chờ phân phối đi các nơi khác, nên chẳng thấy có chương trình học tập lao động cải tạo nào được phát động. Ở không, chẳng có việc gì làm, những người vốn có máu mê thì ngày ngày túm năm tụm ba trong các láng ở, lập sòng bài, đánh chắn, mạt chược, xì phé, cờ tướng, sát phạt vui chơi bằng những gói mì ăn liền, đôi ba điếu thuốc lá, để giải khuây.

Ðồ nghề như bài lá (chắn, tam cúc, tứ sắc, sì phé) và quân cờ Mạt chược, cờ tướng, cờ Domino chẳng thiếu. Nhiều nhóm có đồ nghề thứ thiệt sản xuất tận Hồng Kông, do thân nhân gửi kèm trong quà, theo lời xin ghi trong thơ được phép gửi về nhà hồi trước Noel. Những nhóm thuộc loại neo túng, không yêu cầu gia đình cung cấp, thì lấy bià cứng của các hộp bánh kẹo gia đình gửi vào cắt ra, vẽ hình vẽ chữ lên dùng tạm. Trông thấy cũng rất đẹp, dùng chơi cũng thú vị chẳng kém gì bài lá thứ thiệt.

Ít ngày sau, nhờ phát giác được củi đun bếp là loại gỗ cây cao su, mộc mềm, mịn, dễ đẽo, lại trắng muốt có thể viết mực lên mặt gỗ dễ dàng, nên một số anh đã hì hục gọt đẽo làm quân cờ tướng, cờ Mạt chược, cờ Domino, trông rất đẹp.

Tôi cũng bắt trước đẽo một bộ Mạt chược, và học cách đánh Mạt chược. Loại bài này chơi cũng tương tự như chơi Chắn Phỗng, nên Tôi học rất nhanh. Chỉ cần nhớ thêm các Khung, Hoa, Lá, và cách làm bài ăn lớn là được. Cũng chẳng khó gì, ghi luật lệ chơi vào một tờ giấy để trên đùi, lại có thêm ông thầy ngồi kè ngay bên để mách nước, thành ra chơi cũng mau thạo lắm.

Không ai nỡ hối thúc người mới vào nghề, nhưng việc đánh không đúng bài để cho người ta ù lớn, phải chi tiền thế cho thiên hạ thì không được tha. Mỗi lần phải chi tiền đền thay thiên hạ như vậy là một tai họa lớn, làm cho tiêu gia bại sản dễ như chơi. Thường chỉ những lúc Thầy cố vấn mắc đi giải quyết việc riêng, các tay mơ ngồi chơi bài một mình, mới bị các kiện tướng lừa vào tròng. Họ làm như vậy là muốn tạo cho mình học hỏi kinh nghiệm mau “tiến bộ”, nhưng cũng để có dịp cho họ vui cười lượm bạc cắc, trước sự đau khổ của mình.

Trong thâm tâm, ai cũng vẫn luôn luôn nhớ bài học thuộc lòng hồi Tiểu học : “Cờ bạc là bác thằng bần, Ai mà dính nó xa chân vào cùm”. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, các loại giải trí này cũng là những phương tiện tốt để giết thì giờ, khỏi phải suy nghĩ vẩn vơ. Ngồi không bàn tán chuyện tào lao, lỡ gặp phải dân “ăng-ten” nghe được báo cáo thì khốn cả lũ.

Trong khi đó, ở ngoài giữa sân có 2 anh, bị Cán bộ chỉ định, phải ngồi phơi nắng hì hục gõ gõ, đục đục, cắt miếng tôn còn mới, gò ghép thành một chiếc thùng lớn, hình ống cao có nắp đậy, có lẽ để đem về nấu bánh chưng Tết. Tôi đến ngồi xem, bắt chuyện làm quen, biết được một anh là Ðại tá Trịnh Ðình Ðăng. Người “Anh hùng An Lộc”, nguyên Trưởng Phòng 3 của Sư đoàn, bị thương mà không chịu rời Bộ tham mưu đi tản thương, nhất quyết ở lại cùng anh em tử thủ. Ðến khi viện binh của Quân đoàn giải vây xong, Tổng thống Thiệu đã cho thả bộ cấp hiệu Ðại tá xuống ngay trận tuyến, thăng cấp đặc cách mặt trận cho anh ấy.

Hồi chiến trận An Lộc xẩy ra, Tôi đang làm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến, đã cho chạy tin 5 cột vàø ảnh của anh Ðăng nơi trang nhất, đến bây giờ mới được gặp mặt người “Anh hùng An Lộc” bằng xương bằng thịt. Trước khi bị động viên theo học khoá Sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, Anh Ðăng đã có học Trường Kỹ thuật Bách khoa tại Hànội, nên rất giỏi về chuyên nghiệp thợ nguội. Anh Ðăng có một thời gian phụ trách Xây dựng Nông thôn tại Quân đoàn 3. Trước ngày 30-4-1975, làm việc trong Bộ Tham mưu Tiền phương của Quân đoàn 3 tại tuyến đầu Phan Rang, dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.

Tôi ngồi chuyện gẫu làm quen, và quan sát gần cả buổi, mới ngỏ lời xin học nghề. Anh Ðăng vui vẻ bằng lòng, và chỉ dẫn cho Tôi thứ tự những việc phải làm, theo từng động tác rất kỹ lưỡng. Nhờ vậy, Tôi đã tự gò được chiếc gầu múc nước nho nhỏ cỡ 2 lít, chiếc soong có cả quai xách và nắp đậy rất vừa vặn xinh đẹp, đủ lớn để nấu canh cho 4 người dùng một bữa. Lúc đó Tôi ăn chung mâm với 2 anh Ðại tá Pháo binh, và anh Ðại tá Võ Quế gốc Không quân (em ruột Tướng Võ Dinh).

Suốt thời gian mười mấy năm cải tạo về sau, anh Ðăng và Tôi luôn luôn ở cùng Trại. Chúng tôi cùng thuộc nhóm Ðại tá đầu tiên, bị chuyển qua Trại tù do Công An “quản lý” ở Tân Lập, Vĩnh Phú. Anh Ðăng và Tôi được “biên chế” vào chung một Ðội. Rồi cùng phải chuyển đi Trại Thanh Phong, Thanh Hoá. Ðến tháng 4 năm 1982, chúng tôi được đưa về Trại Z30C, rồi Z30D ở vùng quận Hàm Tân, Thuận Hải miền Nam Việt Nam, cho đến khi được tha vào giữa tháng 2 năm 1988, Tết Mậu Thìn. Hiện nay anh Ðăng đang định cư tỵ nạn tại California.

Sau Tết dương lịch, các đội được thay phiên đưa ra đồng, sát ngay bên thiết lộ Saigon-Biên Hoà, để cuốc đất vun luống trồng khoai mì. Một sự kiện đã xẩy ra vô cùng ngoạn mục không ngờ được là, khi đoàn xe hoả chạy ngang qua khu vực lao động của chúng tôi, trên các toa xe đầy đặc bộ đội Cộng sản mặc đồ tác chiến, súng lăm lăm nơi tay, thế mà có một nhóm trẻ em chơi sát đường rầy, đã can đảm ném đá khi đoàn xe chạy ngang, và lớn tiếng chửi : “-Ð..M.. Cách mạng giải phóng!”

Bộ đội Cách mạng mang súng đi theo canh bọn tù cải tạo chúng tôi, chỉ nghệt mặt làm ngơ yên lặng chẳng nói gì. Chúng tôi phải giữ thái độ thản nhiên, như không hề thấy sự việc vừa xẩy ra. Nhưng khi về trong trại, anh em mới xôi nổi ngỏ lời bàn tán, thán phục mấy em nhỏ thật là dũng cảm.

Kể từ ngày hôm sau, không đội nào được đưa ra ngoài lao động nữa. Thật là một chuyện vui bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Có thế, bọn nhân danh Cách mạng Giải phóng mới hiểu được rằng, dân chúng miền Nam chẳng ưa gì họ, mà chỉ sợ vì họ là những người không còn nhân tính có vũ khí trong tay, có thể giết bất cứ ai, kể cả Cha Mẹ nếu Ðảng chỉ thị. Như trường hợp điển hình của Cán bộ trung kiên cao cấp lão thành Trường Chinh chẳng hạn.

Trước khi Trường Chinh được Ðảng đưa lên làm Tổng Bí thư, đã từng phải thi hành lệnh Ðảng về quê “nơi chôn nhau cắt rốn”, đấu tố xử tử chính Cha ruột của mình, trong chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc Xã hội chủ nghiã hồi năm 1955, thời gian CSVN nắm toàn quyền sinh sát trên đất Bắc, theo Hiệp định Genève tháng 7-1954 ký kết với Pháp do lệnh các quan Thầy Nga Tầu “chỉ đạo”.

Hành trang chuẩn bị xong rồi,

Tập trung từng Ðội đứng ngồi đợi xe.

Xôn xao chuyện gẫu bên hè,

Nôn nao chẳng biết chuyển về nơi đâu ?

Cao nguyên ? Phú quốc ? Cà mâu ?

Côn sơn ? Quảng đức ? rừng sâu ? đồng bằng ?

Có nguồn tin nhảm, đồn xằng,

Tập trung về trại Sóng Thần, Lễ tha.

Ngây thơ quá đỗi thật thà,

Ðấu tranh giai cấp, thả ra thế nào?

Ðộng cơ vận tải lao xao,

Mặt Trời đang tụt phiá sau cây rừng.

Lên xe nửa sợ nửa mừng,

Gian truân bám hại tới chừng nào đây?

Xe lăn bánh, gió hây hây,

Người đi kẻ ở vẫy tay tiễn chào.

Lâu rồi mới thấy đồng bào,

Dọc hai bên lộ dẫn vào Hố Nai.

Nhà Thờ cửa đóng then cài,

Chẳng như thuở trước, trong ngoài đầy Chiên.(1)

Xót xa thương nhớ vợ hiền,

Làm sao xoay sở có tiền nuôi con?

“Còn Trời, còn nước, còn non”

Còn quân Cộng sản, Em còn gian truân.

Cầu xin Trời, Phật, Linh thần,

Ðộ cho Em được yên thân hàng ngày.

Vững tâm vượt hạn hôm nay,

Trời thương chẳng hại, còn ngày gặp nhau.

Thất thời, đành chịu lao đao,

Tới đâu hay đó, hơi nào mà lo.

Xe ngưng, Trời đã tối mò,

Ðèn pha rọi sáng, điểm cho Tù vào.

Ngoằn ngoèo theo giậu kẽm cao,

Nối đuôi hàng một bước vào khu giam.

Mỗi gian năm chục chỗ nằm,

Nhà tôn tiền chế, xi măng đúc nền.

Gióng hàng ngủ dọc hai bên,

Ðầu quay đụng vách, gối lên đồ dùng.

Nội quy luật lệ tập trung,

Chín giờ đèn tắt, hạ mùng ngủ yên.

Riêng Ta vận khí luyện thiền,

Quên đi bao nỗi truân chiên trong ngày.

Quên đi mọi nỗi đắng cay,

Giữ hồn trong sáng đợi ngày Tự do.

Ðấu tranh dựng lại cơ đồ,

Cho toàn dân Việt ấm no, phú cường.

Nơi nơi bàng bạc tình thương,

Nhân quyền, Bác ái, bốn phương hài hoà.

Ví rằng Trời chẳng thương cho,

Thì đành bỏ xác nơi bờ rừng hoang.

Thề không phục bọn bạo tàn,

Cho dù thịt nát xương tan cũng đành.

Chẳng thành công, phải thành danh,

Mệnh Trời định sẵn, ai giành được sao?

Suối Máu,Tam Hiệp, Biên Hoà, Tháng 10-1975.

(1) Những người theo đạo Thiên Chúa thường được các Linh mục gọi là Bầy Con Chiên của Chúa

Chương 7

1976 – BÍNH THÌN, TẾT ÐỔI ÐỜI.

 Tháng 12 năm 1975, lần đầu tiên kể từ khi bị tập trung đưa đi cải tạo vào giữa tháng 6 năm 1975, Ban Chỉ huy Trại giam Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà, cho Tù Cải Tạo được viết thơ để trại chuyển về báo tin cho gia đình biết là mình đang còn sống. Ðồng thời xin gia đình gửi tiền, quà “bồi dưỡng”, và quần áo chống lạnh, qua hệ thống Bưu điện, để ăn mừng Noel 1975 và Tết Bính Thìn (1976).

Tùy theo khả năng của mỗi gia đình, ai muốn gửi bao nhiêu tiền, bao nhiêu gói quà cũng được, không bị hạn chế. Riêng anh Nhà trưởng Nhà 2 của chúng tôi, còn nhờ được Cán bộ Quản giáo Ðội, đưa thư đến tận nhà riêng, và đem giùm những thực phẩm nhà tiếp tế vào cho, từ nhiều ngày trước khi trại chính thức cho phép, Tù được biên thư xin gia đình gửi đồ “tiếp tế” qua hệ thống Bưu điện.

Vài ngày trước Lễ Giáng sinh 1975, anh em Công giáo trong Khu giam các Ðại tá thì thầm truyền tai nhau, có lễ mừng Giáng sinh tổ chức lén tại dẫy nhà gần cuối khu. Mọi người yên tâm tham dự không sợ, vì đã cắt cử người canh chừng báo động, đề phòng trường hợp Cán bộ vào trại bất tử. Tôi không quan tâm tìm hiểu kỹ, vì không phải là tín hữu Kitô giáo, nên không biết Lễ cử hành tại đâu, vào giờ nào, ai Chủ Tế, và số người tham dự có đông không.

Sáng ngày cuối năm Ất Mão, trong Láng chúng tôi có anh Dương Hiếu Nghĩa (Ðại tá Thiết giáp binh) chủ xướng, đề nghị kín với anh Nhà trưởng Nhà 2, thiết lập một bàn hương án ngoài sân trống nằm giữa hai dẫy Nhà 1 và Nhà 2, để anh em cúng Giao Thừa đón Xuân Bính Thìn (1976). Ðược sự đồng ý của anh Nhà trưởng, Tôi đã tiếp tay với anh Nghĩa lập một “bàn hương án dã chiến”, bằng chiếc khay tôn dài 80 phân, rộng 60 phân, vẫn dùng đựng cơm phát cho anh em trong Láng chúng tôi ăn hằng bữa, đặt trên chiếc lu bằng nhựa ni lông tròn cao 1 mét, vẫn dùng đi lãnh nước chín về phát cho anh em hàng ngày. Trên “bàn hương án dã chiến” này, chúng tôi bầy cành hoa mai giấy làm lấy, bánh chưng, mứt kẹo, nước trà, đèn cầy (nến), và lon sữa bò cắm nhang, để cúng Trời Ðất Thần Linh.

Chúng tôi bầy “bàn hương án dã chiến” tại cuối khoảng sân nhỏ hẹp giữa hai dẫy Nhà 1 và Nhà 2. Vì khoảng sân này được coi là địa điểm an toàn. Nó không bị quan sát từ phía ngoài rào trại, cũng như từ đồn canh kiểm soát tại cổng Khu, nhờ có dẫy Nhà Bếp lớn dài của Khu che khuất.

Khu giam chúng tôi chỉ có một cổng ra vào duy nhất. Muốn vào trong khu, phải đi vòng vèo theo lối nhỏ chật hẹp giữa 2 hàng kẽm gai, bề ngang cỡ 80 phân, mất ít nhất là 3 phút, mới từ cổng vào đến được trước cửa điếm canh bên trong sân. Vào lọt rồi, còn phải đi qua một sân trống, rộng dài cả hơn trăm mét, mới tới lối rẽ vào đầu dẫy nhà kế bên Nhà 2 của chúng tôi.

Ðặc biệt đêm 30 Tết, Ban chỉ huy trại giam “chiếu cố”, để đèn điện sáng tới lúc qua Giao Thừa mới tắt, cho Tù trong các Láng được vui chơi trò chuyện thoải mái, chuẩn bị đón năm mới. Cán bộ canh tù cũng mải chuẩn bị vui Tết đơn vị, mừng một năm Cách mạng toàn thắng, Thống nhất đất nước, nên cũng chẳng vào bên trong Khu, rảo quanh kiểm soát gắt gao như thường lệ. Anh Nghĩa và Tôi sửa soạn các thứ cúng từ hồi chiều, nhưng đợi tới khoảng hơn 11 giờ khuya, mới bắt tay vào việc bầy biện “bàn hương án dã chiến” ra sân. Công tác vừa hoàn tất dược chừng năm phút, thì nghe tiếng chuông Nhà Thờ gần trại giam bắt đầu vang vọng báo Xuân sang.

Pháo bắt đầu đùng đẹt nổ bên phiá khu nhà Cán bộ cảnh vệ, và râm ran vang vọng từ xa xa nơi Dân chúng sống gần quanh trại giam. Anh Nghiã và Tôi ra sân, đến bàn thờ thắp nhang đèn, vái cúng Trời Ðất Linh Thần. Chúng tôi cầu xin phù hộ cho Dân tộc Việt Nam được sống yên vui hạnh phúc, khắp nơi bàng bạc tình thương, và cho chúng tôi cùng gia đình vợ con luôn sức khoẻ, tai qua nạn khỏi, sớm được đoàn tụ bên nhau, xây dựng cuộc sống an lành trong xã hội mới.

Mấy phút sau, lẻ tẻ cũng có một số bạn trong Nhà 1 và Nhà 2 của chúng tôi, lần lượt âm thầm đến trước “bàn hương án dã chiến”, chắp tay vái lạy cầu nguyện Trời Ðất Thần Linh phù hộ. Mỗi người vái lạy cầu xin Trời Ðất Thần Linh phù hộ xong, lập tức rời ngay bàn thờ lanh lẹ trở vào Láng của mình, tìm bạn bè bắt tay mừng chúc nhau mọi sự tốt lành trong năm mới.

Hai Láng của chúng tôi làm như vậy, còn các Láng khác thì không biết. Không dám liều lĩnh lần mò đi quan sát, nên không biết. Quy luật trại rất gắt gao, cấm mọi di chuyển ra ngoài Láng ban đêm, ngoại trừ nhu cầu đi vệ sinh. Ban đêm, mỗi khi đi ra đi vào nhà, đều phải báo cáo lớn tiếng : “-Báo cáo anh bộ đội, tôi đi nhà vệ sinh.” hoặc “-Báo cáo anh bộ đội, tôi đi nhà vệ sinh vào.” Chẳng biết anh bộ đội đứng rình ở khe ngách nào, nếu không làm đúng quy lệ, bỗng nhiên anh ta lên tiếng hạch hỏi : “-Anh kia đi đâu?” thì lãnh tai vạ ngay.

Ðể cho Tù “biết ơn Cách mạng,” và “hân hoan” mừng đón Tết Bính Thìn (1976), trại giam tổ chức thực hiện “báo tường”, đấu bóng chuyền, đấu cờ tướng. Mọi người, mọi Ðội được “khích lệ” “đăng ký” “thi đua”, tranh giải thưởng.

Nhà 2 của chúng tôi phối hợp với Nhà 1, lập Ðội bóng chuyền tham gia tranh giải, vì 2 nhà thuộc chung một nhóm hoả vụ, nên hàng ngày thường xuyên được phép qua lại liên lạc mật thiết với nhau.

Nhân số cầu thủ ghi danh tham dự đội bóng của Nhà 2 đông hơn Nhà 1. Anh em cầu thủ thuộc Nhà 2 phần đông làm việc trong Bộ Tổng tham mưu, biết Tôi từ hồi làm Chỉ huy phó Viễn Thông Bộ TTM những năm đầu thập niên 1960, là một cầu thủ tài tử khá trong đội bóng chuyền Sĩ quan của Bộ Chỉ huy Viễn thông. Nên mọi người “nhất trí” yêu cầu Tôi làm Trưởng đội bóng, để đôn đốc anh em tập luyện hàng ngày.

Những người ghi danh tham gia trong Ðội bóng chuyền chúng tôi, được miễn mọi dịch vụ hàng ngày, để tập luyện gấp rút cả sáng lẫn chiều. Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình, luyện tập tinh thần kỷ luật đồng đội, kỹ thuật đón chuyền banh cho nhau được thật thuần thục, cũng như tập luyện thể dục và sức chịu đựng của cơ thể ngoài nắng cho thật dẻo dai. Rút cuộc, thành quả sau cùng chúng tôi đạt được rất vẻ vang.

Trong Khu giam chúng tôi được chia ra 2 phân khu nằm sát bên nhau, không rào gai ngăn cách. Khoảng 7 Nhà bên phiá Ðông và Bắc, giam các Ðại tá và vài ông Tướng đưa từ Khám Chí Hoà, Saigon tới. Số còn lại bên phần đất phiá Tây và Tây Nam, giam các Trung tá ít hơn chúng tôi.

Bên phiá các Trung tá chỉ lập có 1 đội banh. Bên phân khu Ðại tá chúng tôi đông người hơn, nên có tới 2 đội “đăng ký” tranh giải. Như vậy là có tất cả 3 đội bóng chuyền ghi danh tranh tài, nên cuộc chơi được tổ chức theo thể lệ đấu Tam Giác. Theo phương thức này, cả 3 đội phải thay phiên đấu với nhau theo kết quả bốc thăm. Ðội nào bị thua cả 2 đội kia thì bị loại. Hai đội thắng đấu chung kết, tranh giải Nhất, Nhì, trong 3 ván 21 điểm. Ðội nào thắng liền 2 không, hoặc 2 trên 1 thì được coi là vô địch lãnh phần giải Nhất.

Mồng Một Tết, cuộc tranh giải bắt đầu lúc 8 giờ sáng. Ðội bóng của chúng tôi được gọi là đội A, may mắn bốc thăm được ra quân đầu, tranh ăn thua với đội B. Chúng tôi thắng 2 không, được ngồi nghỉ chờ xem 2 đội B và C đấu với nhau. Ðội C thắng đội B cũng 2 không, được nghỉ 30 phút giải lao, trước thi đấu chung kết với đội chúng tôi.

Cuối cùng, đội của chúng tôi thắng trận chung kết với tỷ số 2 trên 1, lãnh giải thưởng hạng Nhất, gồm 1 hộp mứt thập cẩm và 1 bao thuốc lá Sapa sản xuất tại miền Bắc Xã hội chủ nghiã. Anh em tụ lại thưởng thức vui vẻ để mừng thắng lợi đầu năm, do chính công sức hợp quần kỷ luật của cả đội nên mới đạt được.

Trận đấu chung kết diễn ra khá gay go, sau khi hai bên hoà nhau 1-1 với tỷ số ngang ngửa. Ván thứ nhất đội chúng tôi thắng 21 trên 19. Ván thứ 2 đội chúng tôi thua lại 21 dưới 23. Ván sau cùng đội C dẫn trước 10 trên 9. Theo luật thi đấu đã thoả thuận trước, trong thời gian tranh đấu ván kết thúc, khi có đội dẫn đến 10 điểm thắng, thì bắt buộc phải thực hiện việc đổi sân giữa 2 Ðội, trước khi tiếp tục giao đấu.

Thật là may mắn, đội chúng tôi được chuyển sang phiá sân quay lưng vào mặt Trời, nên không bị chói mắt. Chúng tôi đã khai thác lợi thế đó, lúc thì đưa bóng thật cao và sâu sang tận cuối sân bên đối phương, lúc thì bỏ nhỏ sát lưới. Dĩ nhiên xen kẽ các cú banh dài ngắn, có những cú đập vũ bão sát lưới, của 3 tay đập thường xuyên đứng tại hàng đầu. Ðội của chúng tôi có tới 4 tay nhẩy cao đập bóng lận. Chúng tôi áp dụng lối thay đổi chớp nhoáng vị trí các cầu thủ, ngay sau tiếng còi trọng tài thổi báo cho phép đối phương giao banh. Nhờ thế, lúc nào tại hàng đứng bên lưới, chúng tôi cũng có 3 tay búa để cản và áp đảo đối phương.

Cuộc đấu bóng chuyền trong tù đầu năm Bính Thìn này, đã lưu lại trong tâm hồn Tôi một kỷ niệm rất xúc động không bao giờ quên được. Anh Nghĩa đã nhắc Tôi áp dụng mánh khoé, xin trọng tài cho ngưng đấu một phút để đổi người, vào lúc đội C đang dẫn 19 huề, mặc dầu đội chúng tôi không có ai bị trục trặc gì cần phải ra sân cả. Nhờ thế, hùng khí ưu thế của đối phương đang hăng bị giảm đi, chúng tôi có thời gian lấy lại bình tĩnh, và bàn luận thay đổi chiến thuật.

Tiếp tục đấu lại thật gay go, cả 2 bên cứ thay phiên nhau huề, đổi giao banh, lợi điểm một, rồi lại huề… Tất cả anh em trong Ðội chúng tôi, không ai quan tâm đến chuyện được hay thua, nên bao giờ cũng bình tĩnh giữ tinh thần thể thao giải trí vui vẻ, vừa đánh vừa bông đùa khích lệ tinh thần nhau cố gắng thêm, chớ không cằn nhằn nhau khi có người lỡ làm hỏng đường banh, như bên đối phương. Nhờ thế, tinh thần đoàn kết của chúng tôi vẫn cao, lần lần nâng tỷ số bàn thắng lên, chiếm được ưu thế dẫn trước 22 trên 21.

Ðang ăn điểm, chúng tôi được tiếp tục giao banh. Trái banh đánh đi thật độc, xà xà sát mặt lưới. Bên đối phương bị mặt Trời làm choá mắt, 3 anh đứng hàng sau cũng nhanh nhẹn nhào mình lăn ra đất, vớt banh kịp thời cứu nguy. Nhưng họ không có cơ hội tung banh lên cao, cho hàng đứng sát lưới đập. Nhờ thế banh được búng trả lại, sâu trong góc sân bên chúng tôi, một cách thật hiền hoà, không có gì nguy hiểm.

Anh bạn đội chúng tôi đứng thủ nơi góc sân, đón banh một cách dễ dàng. Anh ấy nhẹ nhàng chuyển tới Tôi, để nâng lên cao cho anh đứng giữa sát lưới đập như thường lệ. Liếc nhanh bên sân đối phương thấy có chỗ trống. Thay vì nâng banh lên cao, Tôi bất chợt bỏ nhỏ, sau lưng người đứng cạnh rìa sân đối diện bên kia lưới, đang nhẩy lên hiệp cùng 2 bạn đứng sát lưới để cản banh. Trái banh đã nhẹ nhàng rơi xuống đất, ngay chỗ trống sau lưng anh ta, cùng lúc hết đà nhẩy chân anh ta vừa hạ xuống chạm mặt đất. Không vớt kịp, cú bỏ nhỏ tuyệt vời đã chấm dứt ván thứ 3, với tỷ số 23 trên 21, đem lại thắng lợi vẻ vang cho Ðội chúng tôi.

Tiếng còi của Trọng tài, tuýt tuýt tuýt, tuýt tuýt tuýt, nhiều hồi liên tiếp vang lên báo hiệu mãn trận đấu. Khán giả đứng xem chung quanh sân ùa vào, nhấc bổng Tôi lên vai, khênh đi một vòng giữa những tiếng “hoan hô ông già nhỏ con”, một cách nồng nhiệt.

Mọi người tán thưởng đội chúng tôi nồng nhiệt như vậy, vì cầu thủ của đội C toàn là anh em cấp Trung tá, cũng lớn tuổi nhưng tương đối trẻ hơn chúng tôi. Mọi người thấy rõ ràng, sức chịu đựng của anh em mạnh và dẻo dai hơn chúng tôi. Nhưng vì nóng nẩy muốn dứt điểm sớm, hay cằn nhằn làm bực mình nhau, nên mới thua. Chúng tôi đã thắng, nhưng thật vô cùng vất vả.

Về “Báo tường”, Nhà 2 của chúng tôi có Ðại tá Bá Thìn tự Long rất khéo về hoạt hoạ, trình bầy tờ báo thật đặc sắc, mầu sắc hài hoà nổi bật, hình vẽ mỹ thuật sắc sảo vui mắt. Bài vở thì do anh em cả hai Nhà 1 và 2, cùng đóng góp rất phong phú, có cả sớ Táo quân, thơ Xuân, bài Xã luận, và nhiều chuyện vui rất dí dỏm.

Dĩ nhiên là muốn được an toàn xa lộ, thì mọi bài viết phải xoay quanh đề tài mừng “Cách mạng mùa Thu đại thắng”, “Chiến dịch Hồ Chí Minh Xuân Ất Mão (1975) thần thánh, Thống nhất đất nước,”, “Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng vô địch” đã đánh thắng cả 3 Ðế quốc Tư bản “giầu mà không mạnh” là Pháp, Nhật, và Hoa Kỳ.

Phần lớn ý tứ diễn đạt trong các bài được lựa đăng trên “báo tường”, đều phải “phản ánh” đúng những gì 10 bài học tập muốn nhồi sọ. Thật tình, phải thán phục những anh em tham gia góp bài rất khôn khéo, đã sáng tác những đoạn văn rất hay làm vui lòng Cách mạng. Cũng có những bài vô thưởng vô phạt nhưng rất hữu ích, do các Ðại tá Quân y viết. Như các đề tài gìn giữ vệ sinh cá nhân và luyện tập vận động cơ thể để sống khoẻ mạnh hàng ngày, gìn giữ vệ sinh công cộng tránh các bệnh truyền nhiễm, thường phát sinh lan truyền trong đám đông sống chung thiếu các tiện nghi và thuốc phòng ngừa… Nhờ thế báo tường của Nhà 2 chúng tôi, cũng được giải thưởng. Anh Nhà trưởng của chúng tôi rất vui, cho biết là Cán bộ Quản giáo Ðội cũng được Ban chỉ huy trại “biểu dương”. Từ đó anh em thấy cử chỉ Quản giáo đối xử với Ðội, tương đối dễ dãi hơn các Ðội khác.

Ngày Tết Nguyên Ðán đầu năm, Nhà 2 của chúng tôi có được hai điều vui, nhưng lại gặp một điều buồn, tủi hổ không thể nào quên được. Số là anh em thường tụm thành từng nhóm 4, 5 người ăn chung. Ðến giờ lãnh cơm và thức ăn, chỉ cần 1 người đại diện lấy vật dụng của các bạn trong nhóm, tập trung nộp cho người trực ngày của Láng phân chia. Trước khi chia, bao giờ người trực cũng đếm số dụng cụ đựng thực phẩm đã xếp hàng, xem có phù hợp với số người được thụ hưởng không. Nếu thấy thiếu thì nhắc nhở lớn tiếng, để ai quên chưa nộp phải đem ngay dụng cụ tới lãnh phần của mình. Trường hợp dư cũng phải loan báo lớn tiếng, nhắc nhở người nào lỡ quên để 2 dụng cụ phải đến lấy bớt ra.

Hôm đó, trước khi ra trạm canh tại cổng gặp Cán bộ Quản giáo Ðội, anh Nhà trưởng đã tự để dụng cụ lãnh phần thịt của mình rồi, nhưng anh bạn cùng ăn trong nhóm không biết, lại để dụng cụ đúng theo sĩ số cho cả nhóm. Do đó tổng số dụng cụ nộp lãnh thịt dư ra một chiếc. Nhắc nhở 3 lần không ai trả lời, vì mọi người còn mải đi xem các cuộc vui Xuân ở ngoài sân, nên anh trực phụ trách chia thịt, tự động bỏ đại 1 Gamen ra bên.

Chẳng may gặp đúng ngay Gamen của 1 bạn, chẳng ăn chung mâm với ai. Thịt chia xong, anh bạn kia đến lấy, thấy Gamen của mình bị bỏ sang một bên, trống trơn không có phần thịt, đã lớn tiếng khiếu nại. Lời qua tiếng lại gây gổ, suýt nữa thành ra ẩu đả.

May sao anh Nhà trưởng ở ngoài bước vào, hỏi rõ sự việc, liền quyết định yêu cầu mọi người đến nhận diện dụng cụ, để tự lấy phần của mình. Nhờ thế, mới lòi ra chính người phụ trách chia thực phẩm, ăn cùng mâm với anh Nhà trưởng, đã lầm lẫn để dư dụng cụ nhận phần thịt cho nhóm. Thành ra anh Nhà trưởng được chia tới 2 phần thịt.

Anh nhà trưởng và người trực chia thực phẩm, đã phải chân thành xin lỗi anh em. Sự việc tuy nhỏ, nhưng là một điều thật đáng buồn cho cái Tết Ðổi Ðời đầu tiên trong tù, không bao giờ quên được.

Kể từ Noel, trại đem 1 máy thu hình nhỏ (TV) đặt trên bàn gỗ ở giữa sân, để tối tối anh em Tù trong cùng Khu được phép ra ngồi xem. Ai nấy lo kiếm 1 khúc gỗ kê đít, một chiếc dép râu bỏ không dùng vì đứt hết quai cao su, chiếc guốc đẽo lấy bằng gỗ cao su đun bếp, hoặc chiếc ghế nhỏ thấp, đặt xếp hàng giành chỗ trước từ sáng sớm. Vì màn ảnh TV quá nhỏ, người ra xem quá đông, chậm chân ra trễ phải đứng xa cả 50 mét, thì sẽ chẳng thấy hình ảnh, mà chỉ nghe được âm thanh như nghe radio vậy thôi.

Một chuyện thú vị khác, diễn ra trên màn ảnh nhỏ (hệ thống tuyên truyền bằng TV của Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa tại Saigon) đã làm cho chúng tôi thấy khoái trá trong lòng. Chẳng khác nào vụ nhóm các em nhỏ, đứng bên cạnh thiết lộ Biên Hoà – Saigon, ném đá lên đoàn xe hoả chở bộ đội, và chửi thề : “-Ð..M.. Cách mạng Giải phóng!”, hồi đầu năm Dương lịch 1976 (đã kể trong một đoạn trước).

Trong chương trình đêm giao thừa, sau bài ca vọng cổ của nữ ca sĩ nổi danh miền Nam, Bạch Tuyết, ca ngợi Cách mạng mùa Thu đại thắng, là tin phóng sự của một phóng viên trẻ “đội mũ tai bèo”, phỏng vấn 1 bà lão bán rau, ngồi bên lề đường phía cổng Tây chợ Bến Thành.

Bỗng nhiên, mọi người đang ngồi xem đồng loạt cười ồ vỗ tay rào rào. Cán bộ tuần kiểm trong trại, cũng đang dừng chân đứng xem ké, ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, nhưng cũng cười theo rồi bỏ đi. Ðầu đuôi câu chuyện phỏng vấn như thế này :

Anh phóng viên mào đầu ngỏ lời chào bà cụ rồi hỏi :

-Thưa Bác, năm nay ăn Tết Cách mạng Giải phóng Thống nhất đất nước, Bác thấy thế nào?

Bà lão thật thà trả lời :

“-Vui mừng lắm, vì Giải phóng rồi, không còn Việt Cộng pháo kích vào Thành phố, vào Chợ, vào Trường học giết hại đồng bào và trẻ con nữa!”

Thật là một chuyện hy hữu, không thể xẩy ra trong hệ thống tuyên truyền của Cộng sản, thế mà nó đã xẩy ra. Có Trời mới biết được tại sao.

BÍNH THÌN-1976, TẾT ÐỔI ÐỜI.

Mất hết, còn chi Tết với Xuân,

Nhà tan, Tổ vỡ đọa đầy thân.

Nghe tràng pháo nổ, lòng tan nát,

Ngó cánh Mai rơi, não bí vần.

Kẻ thắng cuồng vui cười hể hả,

Người thua chua chát hận phân vân.

“Anh hùng mạt lộ” âm thầm chịu,

Tà, Chính, Trời cao sẽ định phần.

 

Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà, Tháng 2-1976.

Chương 8

SUỐI MÁU, TAM HIỆP, BIÊN HOÀ, QUỶ ÐỎ THỊ OAI

Trại Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà được chia ra nhiều Khu với tên riêng (A, B, C, D…), ngăn cách bởi những hàng rào kẽm gai dầy chằng chịt, rộng khoảng 10 mét, cao 3 mét.

Các Khu khác thì không biết sao, trong Khu giam chúng tôi có khoảng hơn chục căn nhà tiền chế, khung sắt lợp tôn. Vách chung quanh nhà cũng bằng tôn, chân hổng cao hơn mặt đất khoảng 30 phân. Lưng chừng vách dọc 2 bên hông nhà có các khuôn cửa sổ rộng khoảng 1 mét vuông, không có cánh cửa. Lối ra vào qua 2 cửa lớn ở 2 đầu nhà cũng không có cánh cửa. Ở ngoài có thể trông suốt vào nhà, để quan sát các hoạt động bên trong, qua khoảng hở dọc bên dưới chân vách, qua các khung cửa sổ, và qua 2 cửa ra vào lúc nào cũng trống trải.

Chung quanh nhà nào cũng đào một đường rãnh, rộng 1 mét, sâu 1 mét, để nước mưa thoát đi không tràn vào nền nhà. Do đó muốn vào nhà, phải đi qua một mảnh cầu bằng vỉ sắt rộng 50 phân.

Mỗi dẫy nhà được gọi là một Láng, dùng để giam khoảng 50 người. Mỗi khoảng nằm chia cho một người rộng cỡ 70 phân, vừa đủ trải một chiếc chiếu cá nhân.

Trong Khu giam chúng tôi, được coi như có 2 phân khu nằm sát bên nhau, không hàng rào ngăn cách. Khoảng 7 hay 8 Láng nằm kế cận quanh giếng nước công cộng và hầm vệ sinh lộ thiên, được dùng để giam các Ðại tá, và vài ông Tướng chuyển từ Khám Chí Hoà Saigon tới. Số Láng còn lại ở nửa phần đất phía Tây của Khu, giam các Trung tá và hình như có lẫn cả Thiếu tá, Ðại úy. Vì thế trong Khu chúng tôi có tới 2 dẫy Nhà Bếp riêng rẽ, cách nhau bởi khoảnh sân tập họp lớn trống trải ngay bên cổng vào. Ðồn canh tại cổng cũng như văn phòng bên ngoài hàng rào Khu, có thể quan sát hoạt động trong cả 2 Nhà Bếp, thong thả, rõ ràng, thường xuyên ngày đêm.

Trong dẫy Nhà Bếp dành riêng cho nhóm Ðại tá chúng tôi, có xây hai hàng lò nấu đâu lưng sát bên nhau, dọc suốt bề dài, giữa dẫy nhà. Trên mỗi lỗ lò có để sẵn một chiếc vạc bằng gang rộng 1 mét.

Hai Láng 1 và 2 của chúng tôi ăn chung một hoả đầu vụ. Mỗi “toán anh nuôi” (hoả đầu vụ) phụ trách nấu cơm và thức ăn cho 2 Nhà, được xử dụng 3 lò sát bên nhau để nấu nướng ngày 2 bữa. Hai lò để nấu cơm và một lò để nấu canh. Còn món mặn thì dùng soong, đặt kiềng hoặc kê gạch trước các cửa lò nấu cơm mà kho, bằng than moi từ lò nấu cơm ra, sau khi gạo đun đã nở đều và cạn nước.

Những người trong “toán anh nuôi” không phải dân chuyên nghiệp, mà chính là anh em tù cư ngụ trong 2 Nhà, chia nhau luân phiên đảm trách. Mỗi nhà phải cử số người cần thiết để lo một ngày. Thường mỗi “toán anh nuôi” gồm 4 người nấu cơm, 2 người nấu canh và đồ kho, 4 người đi lãnh thực phẩm và bửa củi. Anh em trong “toán anh nuôi” và “toán bửa củi”, thường được “bồi dưỡng” mỗi người một ca nước cơm mỗi bữa, gạn từ chảo cơm đã xôi lâu, đang cạn nước trước khi rút lửa.

Láng chúng tôi nằm sát ngay dọc hông dẫy Nhà Bếp, nên ngày 2 buổi đi lãnh cơm, canh, và món mặn về chia nhau, không phải vất vả khênh khệ nệ đi xa như anh em ở các Láng khác. Gặp những lúc trời mưa đất trơn trượt, có thể bị té ngã làm văng đổ cơm và thức ăn ra đất. Ðã có Láng bị trường hợp không may này rồi. Thật là may mắn cho chúng tôi.

Nước dùng nấu ăn, vo gạo, rửa rau, làm cá, rửa soong chảo và đồ dùng đựng cơm canh chia cho anh em, đều múc ở giếng ngay tại sân bên cạnh nhà bếp. Nước tắm giặt, có một giếng khác ở phiá Bắc cuối Khu, gần hàng rào và hố vệ sinh công cộng lộ thiên, giáp ranh với Khu giam các sĩ quan cấp Úy.

Hố vệ sinh được đào sâu 2 mét, rộng 2 mét, dài 4 mét. Trên rìa một bên miệng hố, có để 1 vỉ sắt rộng 50 phân dài 5 mét (loại vỉ sắt ráp đường bay cho phi trường dã chiến), cho mọi người đứng hoặc ngồi trên đó mà tiểu hay đại tiện xuống hố. Ðây là nơi tập trung cơ man nào là giòi, và ruồi nhặng. Chúng là đoàn quân xâm lăng tấn công toàn trại, đặc biệt là các khu nhà bếp, để truyền giống bệnh thổ tả, kiết lỵ cho Tù nhân.

Nước chín để uống, các Láng giam Ðại tá chúng tôi phải sang Nhà Bếp Trung tá, ở sát bên cạnh để lãnh khiêng về phát cho anh em dùng. Vật dụng dùng khiêng nước, là 1 chiếc lu bằng nhựa ni lông cao 1 mét, chứa được khoảng 200 lít, cấp riêng cho mỗi Nhà. Mỗi ngày chỉ được phép qua lãnh 2 lần, sáng và chiều, theo giờ quy định trước.

 

Muốn vào Nhà Bếp Trung tá, phải đi băng qua chiếc cầu vỉ sắt rộng 50 phân, bắc ngang một rãnh sâu hơn 1 mét, rộng khoảng 4 mét. Do đó, một hôm 2 anh bạn ở Láng chúng Tôi tới phiên phải đi khiêng nước cho anh em, đã gặp phải tai nạn khủng khiếp.

Mặt vỉ cầu sắt bị nước sóng ra làm trơn trượt. Anh đi trước là Ðại tá Bá Long tự Thìn, chẳng may bị trượt cả 2 chân, té ngồi phệt đít xuống mặt cầu. Sức nặng của lu nước sôi 200 kílô khiêng trên vai, đè anh ta giáng bàn tọa xuống mặt vỉ sắt, mạnh đến nỗi làm bể xương hông không đứng lên được. Anh em phải chạy đến khiêng đi cấp cứu, may mà không bị phỏng.

Nằm liệt cả tháng không ngồi lên được, thế mà tới ngày anh em cấp Ðại tá bị đưa ra Bắc tập trung, Ban Chỉ huy Trại giam vẫn buộc anh em khiêng anh ấy ra xe cùng “hành quân”.

Ra đến Liên trại 1, ở xã Việt Cường, Yên Báy, anh Bá Long tự Thìn vẫn tiếp tục nằm không ngồi lên được. Phân trại cho miễn lao động và đưa vào nằm điều trị trong Bệnh xá của Liên trại 1, ngay chỗ ngã ba đường dẫn vào trại Cốc. Khoảng 3 tuần lễ sau, anh em nghe tin anh Bá Long tự Thìn chết. Theo lời giải thích của Cán bộ Phân trại trưởng, anh ấy chết vì nội thương biến chứng.

Một số anh em, sau 30-4-1975, vì gia đình thất tán hoặc gặp hoàn cảnh khó khăn về tiền bạc, không nhận được quà. Trong lúc thiếu đói đã nẩy sinh một sáng kiến thật độc đáo và đáng thương. Các anh ấy dù không thuộc “toán anh nuôi”, phụ trách nấu ăn cho anh em, nhưng ngày nào cũng tình nguyện phụ bếp, nhặt rau, mổ bụng cá đánh vẩy sạch sẽ, rửa các khay tôn đựng cơm sau khi chia xong còn dính cơm. Chỉ với mục đích duy nhất là lượm lặt gom góp các mẩu rau già, những bộ lòng cá moi bỏ, và những hạt cơm dính trong khay tôn, để hầm nấu lại ăn cho đầy bao tử chịu đựng qua ngày.

Ðại tá Nguyễn văn Chung (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn 1 BB) ở trong một Láng khác, cách Láng chúng tôi khoảng 100 mét. Nghe anh em đồn có hành động chống đối gì đó, nên bị bắt điều tra và giam giữ trong Conex.

Conex là một loại thùng vuông vắn to khoảng 10 mét khối, làm bằng kim loại cứng. Quân đội Hoa Kỳ dùng để chứa các vật liệu nhỏ dễ bị hư hỏng, bởi va chạm mạnh trong khi chuyên chở đi xa, hoặc cần thả bằng dù từ máy bay xuống cho các đồn bót hẻo lánh.

Conex được coi như là một loại nhà kho dã chiến tý hon không sợ mưa nắng. Cho nên lúc nào người ta cũng để phơi tênh hênh, giữa khoảng đất trống không bóng mát. Ban ngày trong Conex nóng như nung bởi ánh nắng, ngược lại đêm lạnh buốt vì kim loại tích khí sương.

Trại giam đã dùng Conex để nhốt tù bị kỷ luật. Thật khủng khiếp và dã man hết chỗ nói. Khoảng vài tuần sau khi bị giam trong Conex, anh Chung đã chết. Trại loan tin là anh ấy tuyệt thực để tự tử. Ai biết đâu? Anh ấy có thể bị tra tấn đến chết. Cũng có thể anh ấy bị chết ngộp vì nóng quá, lạnh quá, thiếu dưỡng khí. Cả ngày lẫn đêm, anh em tù đâu có ai được phép ra khỏi khu giam, léo hảnh đến gần khu làm việc của Cán bộ đâu mà thấy được.

Sau Tết Bính Thìn-1976, Trại tiếp tục cho Tù gửi thơ về nhà hàng tháng, để xin tiếp tế tiền và thức ăn khô qua đường Bưu điện. Thiếu tá Bé (dân phòng nhì Tiểu khu) và Ðại úy Thịnh (An ninh quân đội), là 2 người trong số anh em thường được Ban Chỉ huy Khu giam đem ra ngoài khu, cả ban ngày lẫn ban đêm, phụ trách việc lựa xếp, lập danh sách thứ tự các gói quà gia đình gửi đến cho Tù. Ðể hàng ngày trong giờ làm việc, Cán bộ dùng loa phóng thanh kêu tên từng nhóm 5 người một, tiếp nối nhau ra trình diện nhận lãnh.

Sau nhiều lần được đưa ra làm việc như vậy, các anh Bé và Thịnh đã lợi dụng những lúc nghỉ ăn uống, giải lao hút thuốc giữa buổi lao động, ra ngồi nơi hàng hiên phiá sau kho và văn phòng Cán bộ sát bên hàng rào, để quan sát thăm thú địa thế nghiên cứu lối thoát ra đường.

Thế rồi một hôm, trời mưa gió rả rích suốt ngày đêm không ngưng. Hai anh Bé và Thịnh cũng được ra khỏi Khu giam làm việc ban đêm như thường lệ. Ðến nửa khuya, trời vẫn mưa âm u mù mịt, lợi dụng lúc ra hiên sau nhà hút thuốc giải lao, 2 anh đã cùng nhau chui hàng rào kẽm gai thoát ra ngoài trốn Trại.

Chẳng may, rào kẽm gai có treo lủng lẳng những lon nhôm trống, 1 trong 2 người đã vô ý đụng gây tiếng động. Quân canh nghi có người vượt rào đã nổ súng bắn theo. Nhờ thời tiết đêm đang mưa gió mịt mù, ánh đèn điện quanh rào bị những hạt mưa rơi chi chít phản xạ làm choá mắt, lính gác đứng trên tròi cao không nhìn được rõ ràng cảnh vật chung quanh, chỉ hướng về phía có tiếng động bắn hú hoạ không trúng mục tiêu.

Anh em đang ngủ nghe tiếng súng, giật mình tỉnh giấc hoang mang chẳng biết chuyện gì. Chung quanh láng ngủ, tiếng chân người rầm rập chạy, ánh đèn pin lia qua lia lại soi dưới rãnh quanh nhà. Ðèn điện bật sáng, Quản giáo xộc tới cửa, hối Nhà trưởng kiểm danh “khẩn trương”. Không ai vắng mặt, Quản giáo bỏ đi. Ðến sáng mới hay tin, đêm qua có người trốn trại.

Hai người trốn đã chạy thoát được ra ngoài vô sự. Nhưng buồn thay, lưới tình báo của Công an Nhân dân dầy đặc, chỉ vài ngày sau 2 anh Bé và Thịnh đã bị bọn “cách mạng 30 tháng Tư” địa phương phát giác, bắt và giải nộp cho trại giam.

Ban chỉ huy trại Suối Máu “khẩn trương” thiết lập Toà án quân sự, ngay tại Hội trường lớn của Trại, ở phía chênh chếch bên hướng Tây Nam ngoài hàng rào, xa Khu giam chúng tôi khoảng 500 mét, để đem 2 anh Bé và Thịnh ra xử án TỬ HÌNH.

Ngày xử án, Ban chỉ huy Trại buộc mỗi Láng phải chỉ định một số người ra tham dự, để chứng kiến tận mắt phiên xử. Ngoài ra, Ban chỉ huy Trại còn mắc nhiều loa lớn, truyền âm thanh ra ngoài phòng xử, cho tất cả những Tù khác không bị cử đi tham dự tại nơi xử án, cũng có thể nghe và theo dõi được những diễn tiến trong Hội trường nơi xẩy ra phiên xử.

Nhưng, Trời đã không chiều theo ý muốn của bọn Quỷ Ðỏ. Suốt buổi sáng, vòm trời Suối Máu trong vắt, le lói ánh nắng vàng. Bỗng dưng một dải mây thành dài đen kịt, hiện ra nơi phía Ðông Bắc. Gió nổi từng cơn liên tục, đưa mây tràn phủ lần lần sang hướng Tây Nam. Do đó những âm thanh, khuếch đại qua loa phóng thanh, bị cuốn đi theo chiều gió ra ngoài đồng trống. Anh em trong trại nghe câu được câu chăng, nên không theo dõi được trọn vẹn những diễn tiến của phiên xử án.

Những đoạn lõm bõm nghe được, toàn là lời buộc tội của Công tố viên và Quan toà. Không ai nghe thấy tiếng các bị cáo hay luật sư bào chữa phản bác lại. Thời gian phiên xử cũng không lâu lắm, khoảng chừng một tiếng đồng hồ. Sau cùng, những tràng súng oan nghiệt nổ vang dội khắp vùng Suối Máu, đã báo tin kết thúc phiên xử. Ôi! Thật là tang thương ai oán biết chừng nào.

Những người tham dự về cho biết. Ngay sau khi Chánh án tuyên bố án phạt tử hình. Các quân canh đứng sát ngay bên 2 anh, lập tức nhét liền một cục giẻ lớn vào mồm không cho các anh ấy kịp nói. Rồi họ dùng vải bịt mắt, xốc nách dẫn ngay ra bãi đất trống gần đó, trói vào 2 cọc gỗ đã đóng sẵn, nổ súng liên thanh giết liền.

Có một hiện tượng đặc biệt đã xẩy ra, không một ai bị giam tại Suối Máu vào lúc ấy có thể quên được. Trời đang trong sáng với ánh nắng vàng le lói, nhưng đúng lúc sắp tuyên án, gió lộng ào ào liên tục mạnh hơn, kéo mây phủ kín cả bầu Trời. Cảnh vật Suối Máu tối xầm hẳn xuống.

Ðúng vào lúc mọi người rợn mình nghe tiếng những tràng đạn nổ, cướp đi đời sống của 2 Dũng sĩ Việt Nam Cộng Hoà, thì Trời cũng đổ ào xuống một cơn mưa mau nặng hạt.

Mưa gõ rào rào trên các mái tôn, như muốn khoả lấp không cho anh em Tù, đang nhìn nhau nghẹn ngào rưng rưng lệ, phải nghe tiếng vang oan nghiệt của những tràng đạn, do bọn Qủy Ðỏ đang reo họa trên mảnh đất miền Nam thân yêu, của dòng giống Tiên Rồng Lạc Việt.

Mái tôn mưa gõ rào rào,

Luồn chân vách hổng, thì thào gió ru.

À ơi ! Thương kiếp sống tù,

Một ngày trong khám, thiên thu ngoài đời.

Bắc, Nam, chung một giống nòi,

U mê theo quỷ vô loài diệt nhau.

Chung quy chỉ Mẹ Việt đau,

Quê hương ngút lửa, máu đào tràn sông.

Thây dân vô tội đầy đồng,

Tha hồ Việt cộng dâng công tế Thầy*. (*Liên sô)

Non sông gấm vóc từ đây,

Thành nhà tù lớn, vũng lầy khổ đau.

Coong! Coong! cồng điểm canh thâu,

Ðùng đùng đạn nổ, hay đâu chuyện gì?

Rầng rầng bộ đội bủa đi,

Ào vô xục xạo, súng ghì, đèn soi.

Bàng hoàng lưng vã mồ hôi,

Ngỡ rằng Thần Chết đến nơi gọi hồn.

Lệ Trời, tuôn lúc mau hơn,

Rào rào gió thổi từng cơn lạnh lùng.

Bình minh rồn rập tin hung :

“Ðêm qua có kẻ mánh mung vượt rào.

Thiên la Ðịa võng vây bao,

Lưới Công an đặc, thoát sao khỏi vòng?”

Biết rằng đường lắm gai chông,

Cặp tù : Thịnh, Bé, vẫn không ngại ngùng.

Quyết tâm thoát cảnh ngục trung,

Tung hoành cho thoả chí hùng thuở nao.

Phục thay gan dạ anh hào,

Coi đời như giấc chiêm bao vắn dài.

Nhịp tù tiếp tục trôi xuôi,

Bỗng dưng thấy Cán dẫn đôi tù về.

Mây chiều ảm đạm lê thê,

Mạch tim quặn thắt, tái tê cõi lòng.

Oan khiên, chẳng thoát tử vong,

Qủy đang đợi dịp thi công hại người.

Thị oai cho cả trong ngoài,

Thấy quyền sinh sát, gương soi tỏ tường.

Lập Toà tuyên xử “khẩn trương”,

Tha hồ ác tặc ôn vương đóng trò.

Tử hình án trữ đầy kho,

Mặc tình xử dụng chẳng lo thiếu phần.

Nhân danh đại diện nhân dân,

Diệt trừ giai cấp đâu cần đắn đo.

Theo gương Trung Cộng, Liên Xô,

Không theo chủ nghĩa Tam Vô là thù.

Không theo Cách mạng mùa Thu,

Thành phần đối lập khử trừ thẳng tay.

Yêu tinh hiện giữa ban ngày,

Hại người yêu nước, Trời hay chăng Trời ?

Rào rào gió giục mưa rơi,

Thấm lòng đất Việt, máu người Việt Nam.

Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà, Tháng 4-1976.

Chương 9

BẮT ÐẦU NẾM MÙI MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Khoảng đầu tháng 6-1976, sau vụ xử tử hình hai bạn tù Bé và Thịnh vượt rào trốn trại, đoàn cán bộ Trung ương Hànội “khẩn trương” tới trại Suối Máu gặp Tù. Họ giải thích trấn an thêm, về chính sách khoan hồng nhân đạo của Ðảng và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) “trước sau như một”, cho mọi người thêm tin tưởng mà đừng dại dột có hành động chống đối hoặc trốn trại.

Trong đợt học tập này, một số anh em tù Ðại tá chúng tôi bị gọi ra văn phòng Khu, gặp cán bộ để “làm việc”, trong đó có Tôi. Họ hỏi về tổ chức, trách nhiệm của các Cơ quan, Ðơn vị, mình đã phục vụ từ ngày nhập ngũ cho đến ngày 30-4-1975. Rồi đưa giấy bút cho mình trở vào trong trại giam, ngồi ghi chép lại để nộp cho họ trong vòng 3 ngày sau. Có điều thú vị là, ai bị gọi “làm việc” như vậy, đều được Cán bộ “bồi dưỡng” cho 300 gram đường cát trắng, và 1 bao thuốc lá Sapa sản xuất từ miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa (XHCN).

Thực ra, mục đích chính của đợt học tập này, là lập hồ sơ cá nhân Tù, trước khi đưa đi các trại lao động cải tạo thật sự. Họ chụp ảnh từng người, lăn dấu các ngón tay vào bià cứng, loại thường dùng để làm hồ sơ cấp thẻ căn cước. Họ buộc mọi người khai chi tiết lý lịch cá nhân, vợ, con, anh chị em cha mẹ ruột của mình, anh chị em cha mẹ của vợ, và ông bà họ hàng thân thích nội ngoại từ 2 đời trước mình. Họ còn bắt ghi cả nghề nghiệp, nơi ở và nơi hành nghề hiện tại của mọi thân quyến nêu trên.

Ít ngày sau đợt học tập chấm dứt, vào một đêm không trăng sao, mọi người đang an giấc, bỗng dưng đèn điện trong nhà ngoài sân bật sáng trưng. Ðồng thời, loa phóng thanh ngoài cổng Khu oang oang ra lệnh, thu gói đồ đạc tư trang cá nhân ra sân tập họp đợi lệnh. Bộ đội canh tù cầm súng chạy rầng rầng chung quanh các Láng. Cán bộ Quản giáo đến đứng trước cửa từng nhà hối thúc “khẩn trương! Khẩn trương!”.

Khoảng 30 phút sau, mọi người tay xách nách mang tư trang, tề tựu xếp hàng theo thứ tự từng Ðội đầy nghẹt sân tập họp. Các Quản giáo chạy vào các Láng trống, kiểm soát lần chót để chắc chắn mọi người đã ra hết. Ðồng thời, Bộ đội cảnh vệ từ bên các dẫy hàng rào kẽm gai chung quanh Khu, cũng rút lần lần vào xiết chặt vòng vây, lăm lăm tay súng, chia nhau đứng vòng quanh sân canh gác.

Ban Chỉ huy Trại bắt đầu đọc tên từng người một, buộc phải trả lời “Có!”, rồi đứng lên mang hành trang của mình, đi ra ngoài cổng Khu giam ngồi sát nhau, dài dài 2 bên lề đường. Ðộ chừng 150 người được gọi ra, trong đó có Tôi, tức là khoảng phân nửa tổng số Ðại tá bị giam giữ tại đây. Những người không có tên phải ra đi, ngồi lại tại chỗ đợi lệnh.

Người cuối cùng trong nhóm phải lên đường vừa ra khỏi cổng, thì lệnh hô : “-Mọi người ngồi xuống dọc 2 bên lề đường, bầy hết tư trang của mình ra trước mặt để Cán bộ kiểm tra”. Họ yêu cầu mỗi người phải tự “cảnh giác” vứt bớt đồ đạc của mình đi, chỉ để lại những gì thật cần thiết cho nhẹ nhàng dễ di chuyển.

Nhiều anh nhà khá giả được tiếp tế hậu hỹ, ngoài chiếc vali đựng quần áo còn 2, 3 bao ba lô đựng đầy lon gô, cóng ni lông đựng thực phẩm, phân vân không biết để cái nào vứt cái nào, thật khó xử.

Phần Tôi nghèo nàn, chỉ có 2 món rất nhẹ nhàng. Chiếc túi vải đeo lưng, may lấy bằng vải kaki xanh nước biển, đựng quần áo, mùng, mền, 2 bọc ni lông đựng mỗi bọc 1 kí lô mì ăn liền vụn, keo đường thẻ, vài bọc kẹo lạc. Và một túi xách nhỏ cằm tay, loại đeo đạn phóng lựu nhặt được tại bên chân bờ rào trại Long Giao, đựng chiếc soong tôn nhỏ, do anh bạn Ðại tá Trịnh Ðình Ðăng chỉ vẽ cách gò lấy từ ngày về trại Suối máu này, với chiếc bi đông nhựa đựng nước uống, bộ gà mèn thìa nỉa đựng đồ ăn hàng ngày, và bộ cờ Mạt Chược đẽo bằng gỗ cao su. Nên chẳng phải bận tâm tính toán gì cả. Thế mà Cán bộ kiểm tra cũng nhặt chiếc soong tôn nhỏ, vứt vào đống đồ phải loại bỏ không cho mang theo. Ông ta nói : “-Tới nơi mới không cần nấu nướng riêng.”

Sau khi mọi người mò mẫm cởi gói, bầy hết tư trang của mình ra xong, các Cán bộ nối tiếp nhau đi qua đi lại nhiều lần, rọi đèn pin coi ai còn nhiều đồ cồng kềnh, thì họ tự động lấy những thứ nào mà họ cho là không cần thiết, vất thành một đống bên vệ đường.

Người vứt đi kẻ nhặt lại, gạn ép mãi. Cuối cùng mọi người cũng được lệnh gói ghém đồ đạc còn lại cho gọn gàng, di chuyển ra chỗ khác theo thứ tự tên gọi, họp thành từng nhóm riêng cho mỗi xe, ngồi chờ.

Qua tin tức truyền tai nhau, theo sự bật mí của cán bộ Trưởng Khu, được biết là anh em chúng tôi sẽ “hành quân” về hướng Hóc Môn.

Mọi người ngồi bệt xuống đất bên vệ đường, tựa lưng vào đống hành trang riêng, ngủ gục phơi sương chờ. Mãi đến khoảng 4 giờ sáng xe mới tới. Còi hiệu giục tuýt tuýt tuýt từng hồi đánh thức mọi người. Cán bộ hướng dẫn từng Ðội, đến bên từng xe theo số quy định trước, luôn mồm hối thúc “khẩn trương”.

Ðoàn xe di chuyển ra xa lộ Biên Hoà, rẽ về hướng Saigon, băng qua cầu Tân cảng Thị Nghè, tiến vào đường Hàng Sanh, Bà Chiểu, đi về hướng ngã tư Phú Nhuận. Tới ngã tư, đoàn xe rẽ qua hướng đi Gò Vấp. Chạy tới ngã năm Trung tâm tiếp huyết cạnh Tổng Y viện Cộng Hoà, đoàn xe rẽ vào phi trường Tân Sơn Nhất, đến đậu tại khu vực có các ụ trú ẩn dành cho các Chiến đấu cơ Hoa Kỳ trước kia.

Trời vừa mờ sáng, sương đêm còn dầy đặc, không nhìn thấy gì chung quanh xa hơn 20 mét. Mọi người được lệnh đem hành trang xuống xe ngồi chờ máy bay. Người thì lục lọi tư trang tìm thức ăn, ngồi bệt xuống đất ẩm sương đêm dùng bữa sáng. Người thì chạy đến bên ụ đất giải quyết việc riêng. Vì không được bỏ chỗ tập trung đi xa quá 5 mét, nên mùi xú uế của nước tiểu và phân nóng sốt trong cơ thể thải ra xông mùi nồng nặc. Nó làm ô nhiễm bầu không khí trong lành, man mát ẩm hơi sương đang bao phủ mọi người. Thật khó chịu.

Ðợi cũng chừng hơn tiếng đồng hồ, mới thấy mấy chiếc phi cơ C-130 bò tới. Cán bộ Trại Suối Máu bàn giao Tù cho nhóm Cán bộ khác, mặc quân trang mầu kaki vàng, đeo súng lục, mang giầy da cao cổ đen, y như loại của lính Việt Nam Cộng hoà (VNCH) cũ, vừa từ trên phi cơ bước xuống. Sau khi đôi bên Cán bộ thảo luận với nhau xong, mọi người được nhóm Cán bộ áp giải mới gọi tên, lần lượt vác hành trang lên phi cơ, ngồi dài dài sát bên nhau, trên 4 dẫy ghế bằng dây vải, dọc theo thân phi cơ.

Các Cán bộ áp giải đến từng chỗ ngồi, lấy còng số 8 đeo vào tay mỗi 2 người chung một chiếc. Tôi chẳng may bị còng nhằm tay phải. Vì Tôi không thuộc dân thuận tay chiêu (tay trái), nên mỗi khi khát muốn lấy bi đông nước uống, cũng thật là khó khăn. Chỉ có một tay rảnh, phải kẹp bi đông nước giữa 2 đầu gối, dùng tay trái mở nắp bình rồi đưa lên miệng. Uống xong cũng phải kẹp bi đông giữa 2 đầu gối, dùng tay vặn đóng chặt nắp bình lại, rồi nhét trở lại túi xách đeo tòng teng trước ngực. Làm không cẩn thận, lỡ vuột tay bình rơi xuống sàn phi cơ, thì sẽ chẳng còn nước mà dùng khi cần đến.

Sau khi mọi người đã ngồi yên chỗ, không còn nhúc nhích được nữa, một cán bộ đeo túi da bên hông hình như trưởng toán, đi một vòng kiểm tra lại, để bảo đảm các còng số 8 đã được khoá chặt chẽ, và không còn ai chưa bị còng. Xong xuôi, anh ta mới xuống đất dẫn độ 2 phi công lên, đi từ bửng cửa mở nơi phía đuôi phi cơ, dọc qua các hàng ghế tới phía đầu phi cơ, leo lên phòng lái. Có người nhận ra được là phi công Quân Lực VNCH cũ, nhưng không nhớ ra tên.

Tôi không nhớ chắc có mấy cảnh vệ đi áp tải trên phi cơ. Chỉ nhớ rằng, có 2 người đứng chặn ngay nơi chân chiếc thang lên phòng lái. Còn những người kia đứng phía cuối phi cơ, giữa khu chất hành lý và các dẫy ghế ngồi của chúng tôi.

Chừng dăm phút sau khi 2 phi công lên phòng lái, thấy bửng cửa sau phi cơ từ từ dâng lên khép kín lại. Toàn thân phi cơ bắt đầu rung động, mạnh nhẹ tùy theo sự tăng giảm tốc độ của các động cơ gắn trên 2 cánh. Sau cùng thấy phi cơ lăn bánh chạy từ từ, rẽ qua phải, rẽ qua trái, ngừng lại. Giây lát sau, tiếng động cơ rú lên đinh tai nhức óc, thân phi cơ rung động mạnh, phăng phăng chạy tới mỗi lúc một nhanh hơn lấy đà cất cánh rời mặt đất, bốc lên cao.

Sức ép của không khí do vận tốc phi cơ gây ra, làm lùng bùng tức buốt 2 màng nhĩ, ruột gan như muốn dồn lên trồi qua cửa miệng. Có người chịu không nổi, mửa ra tất cả những gì đã ăn vào khi sáng, lúc đang ngồi chờ phi cơ tới. Mùi chua của thức ăn chứa trong bao tử chưa tiêu hoá tuôn ra, xông nồng nặc lẫn với mùi dầu gió Khuynh Diệp và mồ hôi người, tạo thành một bầu không khí ngột ngạt làm ngộp thở, lợm họng buồn nôn.

Phi cơ cất cánh, lượn vòng vòng, rồi mới bay thẳng theo hướng phải đi. Ánh nắng mặt trời chiếu từ các khung kính cửa nhỏ, bên phiá sườn phải vào trong phi cơ. Hiện tượng này cho biết, chuyến bay đi hướng Bắc, chớ không đi hướng Tây để ra Phú Quốc, như một nguồn tin đã xì xầm hồi đang ngồi chờ dưới đất. Bay đi đâu vậy? Phải chăng lên miền Cao nguyên miền Trung, Nam phần Việt Nam?

Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ bay đã trôi qua, phi cơ vẫn giữ nguyên cao độ. Những anh ngồi dẫy ghế sát bên thân phi cơ cho biết, cảnh phía dưới thấy toàn là biển cả mênh mông. Vậy là đúng như Tôi đã dự đoán từ hồi còn ở trại Long Giao, ra cải tạo tại miền đất Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Thật là một đại họa không hy vọng có ngày về.

Ù ù bay mãi tới xế trưa, phi cơ mới đảo cánh lượn vòng đáp xuống 1 phi trường nhỏ trên vùng cao nguyên, chung quanh toàn rừng núi, không nhà cửa làng xóm. Phi cơ run rẩy từ từ bò ra khỏi phi đạo, ngừng lại, bửng cửa hậu rè rè hạ xuống. Cán bộ đến mở còng cho mọi người. Riêng phần Tôi, không biết điềm xui xẻo nào đang chờ, còng mở không ra. Mọi người xuống hết, Tôi và anh bạn đeo chung còng, đành phải nghiêng người dắt nhau kẻ trước người sau, đi ngang ngang giữa 2 dẫy ghế vải, để ra bửng cửa hậu phi cơ nhẩy xuống đất. Hai cổ tay dính chặt bên nhau, chúng tôi kéo nhau đi tới đi lui cầu cứu các Cán bộ áp tải. Hồi lâu, mới có người đem 1 chùm chià khoá tới, thử hết cái này đến cái kia, sau cùng cũng giải thoát được cổ tay khỏi chiếc còng ác nghiệt.

Thật hú vía, nếu chẳng may phi cơ gặp nạn phải đáp khẩn cấp, lửa bốc cháy, một trong 2 chúng tôi bất tỉnh, người còn tỉnh không biết phải làm sao. Chắc là đành ngồi chịu đựng lửa thiêu đốt, và đau đớn hành hạ mình lần lần, trước khi cái chết đến giải phóng cho được thảnh thơi, hồn lìa khỏi xác. Sau khi chúng tôi xuống hết, các phi cơ lạnh lùng quay trở ra phi đạo, nối đuôi nhau cất cánh bay mất hút, không một lời giã biệt.

Cách chỗ chúng tôi đứng chừng 100 mét, có một đoàn xe đậu chờ sẵn. Gần bên đoàn xe, thấy dựng 2 chiếc dù to mầu đỏ, một chiếc bàn, và mấy người mặc quân phục kaki màu vàng. Họ tiến về phiá chúng tôi. Người đi giữa coi vẻ bệ vệ, Tướng của Sư đoàn Việt cộng “tiếp quản” giáo dục chúng tôi lao động cải tạo. Ông ta cất giọng hỏi : “-Các anh có biết đây là đâu không?” Mọi người ngơ ngác lắc đầu. Ông ta tiếp tục : “-Ðây là đất miền Bắc Xã hội Chủ nghiã. Các anh được đưa ra đây có môi trường thuận lợi hơn trong Nam Bộ, để học tập cải tạo cho mau tiến bộ. Thời gian sẽ không lâu, khoảng từ 3 đến 5 năm thôi. Tuy nhiên, cũng còn tùy thuộc vào tinh thần học tập và sự tiến bộ của mỗi người.” Ông ta chỉ nói bấy nhiều lời, rồi đứng đó nhìn chúng tôi theo lệnh trưởng đoàn áp tải lên xe. Anh em chúng tôi cũng chẳng ai có dịp hỏi xem, đây là địa phương nào của đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa.

Ðoàn xe chuyển bánh, chạy vòng vèo xuống dốc, băng rừng xuyên núi, mãi mới tới 1 bến phà. Một mảnh ván nhỏ trên đầu cọc gỗ đóng bên lối dẫn xuống bờ sông, ghi 3 chữ “Phà Âu Lâu”. Bề ngang sông cũng không rộng lắm, nước chẩy cũng không xiết lắm, nên phà được mấy người lái kéo bằng tay, dựa theo sợi dây cáp căng từ bờ bên này sang bờ bên kia, chớ không dùng động cơ đẩy. Xe lần lượt qua phà từng chiếc một.

Có vài người dân địa phương cùng xuống phà, qua sông một lượt với chúng tôi, nhưng vì lệnh cảnh vệ áp giải cấm không được tiếp xúc với dân chúng, nên không ai giám hỏi chuyện. Khi cả đoàn xe qua phà xong, lại tiếp tục con đường độc đạo, leo vòng vèo theo các sườn dốc núi cao, 2 bên toàn rừng rậm, khe sâu.

Xóc lên dập xuống, lắc qua lắc lại, chạy mãi đến xẩm tối, mới tới một khu nhà trên đỉnh đồi, doanh trại của Ban chỉ huy Liên trại 1. Ðoàn xe vượt qua để rẽ xuống bên kia sườn đồi, đậu lại trước 2 dẫy nhà làm bằng “chổm” (một loại nứa nhỏ thuộc họ nhà tre). Mái nhà lợp bằng những tấm tranh “chổm” đập dẹp ra kết lại. Vách cũng bằng “chổm” đập dẹp đan thành phên. Hàng rào cao 3 mét vây quanh 2 dẫy nhà, cũng bằng “chổm” nguyên cây dài kết liền nhau, đóng sâu xuống đất. Có lẽ sản phẩm thiên nhiên chính của vùng này là “chổm”, nên cái gì cũng làm bằng “chổm” cả. Xuống xe xong, anh em được lệnh chia thành 2 nhóm, vào ngủ trong các căn nhà “chổm” đó. Một số anh lanh lợi tinh khôn, chạy ùa vào trước dành chỗ nằm tốt. Nhưng buồn một nỗi, sàn nằm cũng bằng phên “chổm”, nên chỗ nào cũng cồm cộm đau lưng như nhau.

Không ai nói cho biết đây là đâu, nhưng anh em cũng đoán ra là khu trại đặc trách sản xuất gạch. Vì sát ngay bên ngoài hàng rào khu nhà, thấy lù lù cao ngất một lò nung gạch. Anh em xì xầm đoán là được đưa đến đây học làm nghề sản xuất gạch. Chẳng ai nói ra, nhưng chắc chắn trong thâm tâm mọi người đều ngài ngại lo lắng. Hẳn là ai cũng đang mường tượng ra cảnh mùa đông giá lạnh, quần vắn lên tận bẹn, áo cuộn tay tới nách, quần quật lăn lộn với những hầm đất sét, nhào nặn đóng gạch, đi lấy gỗ rừng về nung đốt lò ngày đêm, sẽ vất vả lắm. Nhưng biết làm sao, đến lúc đường cùng rồi phải kiên nhẫn chịu đựng, lâu dần rồi cũng phải quen.

Ði học lao động cải tạo tư tưởng, để mong tiến bộ trở thành người Công dân Xã hội Chủ nghĩa, thì tránh sao khỏi khổ nhục nặng nề vất vả. Ðiều căn bản là làm sao giữ được sức khoẻ, sống được đến ngày về với vợ con, xây dựng lại cuộc đời dưới cái chế độ độc tài, mà mình đã bao năm cằm súng chiến đấu chống nó.

Sau khi ai nấy thu xếp xong tư trang tại chỗ nằm tạm của mình, quay ra sân quan sát cảnh vật thì trời đã tối mù. Thời gian giao điểm giữa ngày và đêm, trên cái vùng rừng núi cao nguyên Bắc Việt này sao mà nhanh đến thế.

Cùng lúc đó, Cán bộ cũng chở thức ăn tối đến phát cho mọi người, theo biên chế lúc lên máy bay tại Sàigòn hồi sáng tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Dưới ánh đuốc chập chờn, thấy những thúng đựng thứ gì mầu lẫn trắng và vàng, có người cười reo cho là xôi đậu xanh. Còn những thau nhôm khác đựng thứ có mầu nâu xậm, có người lại đoán là thịt bò kho. Xôi đậu mà ăn với bò kho, sau một ngày di chuyển vất vả thì thật là tuyệt vời. Nhưng khi lãnh rồi đem vào buồng giam chia nhau ăn, mới chưng hửng tan mộng. Bắp khô xay nhỏ nấu chín, và khoai lang luộc. Bữa ăn tối đó, ngô độn khoai, với chút muối vừng (mè).

Có lệnh cho mọi người xuống suối tắm rửa “khẩn trương”, trước khi điểm danh vào nhà giam đi ngủ. Trời tối hu, không đèn đóm. Con đường mòn dẫn xuống suối hẹp, dốc thẳng đứng, đất đá lổn nhổn trơn trợt, phải luồn lách cây rừng và cỏ lau 2 bên thò ra quẹt cứa xây sát cả mặt mày, mới tới được bờ suối. Dòng nước cạn chỉ cao tới lưng bắp chân nhưng chẩy xiết, lạnh cóng. Lòng suối đầy sỏi đá lớn nhỏ bám đầy rêu, đạp lên trượt đứt xước bàn chân, cổ chân, máu chẩy buốt sót đau nhói.

Nhà vệ sinh công cộng lộ thiên, ở sát bờ rào. Ban đêm ai cần đi tiểu hoặc đại tiện thì phải ra ngoài nhà giam. Dẫy nhà chỉ có một lối ra vào duy nhất, ở phiá đầu nhà, không cánh cửa. Mỗi lần đi ra hay trở vào, đều phải cao giọng hô lớn : “ -báo cáo anh bộ đội tôi đi tiểu, -báo cáo anh bộ đội tôi đi cầu, -báo cáo anh bộ đội tôi đi tiểu vào, v.v…”

Tối hù chẳng thấy bóng anh bộ đội ở đâu, nhưng vẫn phải hô lớn báo cáo, nếu không, tự dưng ở đâu anh ta quát : “-anh kia đi đâu?”, là sẽ mắc hoạ lớn, bị đem nhốt ngay vì tội “có mưu đồ” trốn trại ban đêm.

Cả hơn trăm con người tuổi đã cao, thay nhau đi ra đi vào hô hoán suốt đêm như vậy, những người khó ngủ như Tôi đành chịu cảnh thức trắng thôi. Ðã thức không ngủ được, thì óc nghĩ ngợi lang bang nhiều chuyện thật khổ tâm.

TRẮNG ÐÊM TRÊN ÐẤT BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Sàn tre vật vã ẩm ê,

Lắng nghe giun dế tỉ tê nỗi niềm.

Lao xao chuột rúc bên thềm,

Rì rầm suối đổ, cú chêm nhịp buồn.

Trăng rừng lạnh lẽo cô đơn,

Sương khuya mờ ảo, gió luồn khe song.

Nhớ con thương vợ não lòng,

Chợ đời bạc bẽo long đong một mình.

Thời gian hờ hững vô tình,

Không gian khỏa lấp bao hình thân thương.

Bắc, Nam, chung cảnh đoạn trường,

Lương dân cùng khốn, Quê hương tan tành.

Tung hoành Cộng đảng gian manh,

Bầy trò giai cấp đấu tranh hại đời.

Oán than dâng thấu tận Trời,

Ông Cao Xanh hỡi ! nỡ ngồi làm ngơ ?

Họa Hồng Thủy đến bao giờ?

Mới cho dân Việt thấy bờ Tự do?

Liên trại 1, Xã Việt Cường, Yên Bái, Tháng 6-1976.

Chương 10

LAO ÐỘNG LÀ VINH QUANG!

Sau khi ở tạm tại K Lò Gạch (Phân trại Lò Gạch) được 2 đêm 1 ngày, thì có lệnh thu gọn hành trang di chuyển tới Khu Nhà Ngói (K1), vào một buổi trưa trời quang nắng ấm. K1 tức là Phân trại 1, ở tận phía rià bên kia của thung lũng xã Việt Cường.

Gọi là Khu Nhà Ngói vì, đây là dẫy nhà tường gạch có mái lợp bằng ngói đỏ duy nhất, nổi bật trong thung lũng. Nó lớn hơn cả khu nhà kho của Hợp tác xã, tường gạch, nhưng mái chỉ được lợp bằng tôn. Còn tất cả các nhà của dân chúng nằm bên ven rừng sát rià thung lũng, mái đều lợp bằng rạ (đoạn thân cây lúa già còn lại, sau khi đã gặt các bông lúa chín). Nhà của Cán bộ canh Tù, cũng chỉ có vách kết bằng “chổm” chẻ nhỏ, chát đất chộn rơm, rồi dùng bay gỗ xoa cát lên cho phẳng mặt coi như tường, mái lợp bằng các vỉ tranh “chổm”, hoặc bằng tôn mỏng gợn sóng.

Lúc lên đường rời K Lò Gạch sang K1, đồ đạc của Tù được chất lên 2 chiếc xe Molotova chở đi trước. Người xếp hàng đôi, nối đuôi nhau cuốc bộ theo sau, dưới sự áp tải của Cảnh vệ. Từ rià Tây thung lũng nơi có K Lò Gạch gần Ban Chỉ huy Liên trại 1, sang rià Ðông thung lũng nơi có K1 (khu nhà ngói), chỉ có một con đường đất trộn đá duy nhất thẳng tắp, dài chừng 3 cây số băng ngang khu đồng ruộng của Hợp tác xã.

Ði đến khoảng giữa đoạn đường, nhìn về hướng Nam thấy một đồi trồng trà. Bên sườn đồi có 1 dẫy nhà chổm nhỏ trông rất nên thơ, cách phiá sau cơ sở Ban Chỉ huy Liên trại 1 khoảng độ năm trăm mét. Sau này mới biết là nơi giam các sĩ quan cấp Tướng QLVNCH. Chừng hơn 20 ông thì phải, Tôi không biết rõ con số.

Vừa đến khu vực K1, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên, khi thấy số anh em Ðại tá ở lại trại Suối Máu ngày chúng tôi ra đi, cũng đang có mặt tại đây. Không biết anh em được đưa đến đây từ lúc nào. Thật là mừng vô kể. Hơn 300 Ðại tá bị đưa ra miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, được tập trung học lao động cải tạo bên nhau, trong cùng 1 trại thì đỡ lo. Ở chung với các bạn sĩ quan cấp nhỏ trẻ khỏe hơn, chắc chắn không thể “thi đua lao động đạt thành tích cao” như họ, sẽ khó lòng được coi là “tiến bộ” mà hy vọng được tha về với vợ con.

Tuy chúng tôi chỉ là bạn Tù đồng cảnh với nhau, không phải là quyến thuộc, thế mà mới xa nhau có 2 ngày 2 đêm, nay được gặp lại tay bắt mặt mừng quấn quýt, tưởng như đã xa nhau hàng năm vậy. Thật là một cảm giác lạ lùng.

Qua câu chuyện trao đổi tin tức, được biết là các Ðại tá Bác sĩ Quân Y và một vài Ðại tá Bộ binh khác, được ở lại trong Nam, không ai biết nguyên do vì sao. Có tin cho rằng, các Bác sĩ vì nhu cầu chuyên viên nên được ở lại, nghe cũng hữu lý. Nhưng còn mấy Ðại tá Bộ binh đâu phải vì nhu cầu chuyên môn? Có người cho rằng vì mấy bạn đó có thân nhân theo Cách mạng lâu năm, nay có căn cội lớn nên xin cho được ở lại.

Toàn là ý kiến đoán mò. Thật ra chẳng ai biết được chính sách đối xử thật sự của Cộng sản, đối với người dân tại miền Nam ra sao. Nói chi là quân nhân Quân lực và nhân viên Hành chánh Việt Nam Cộng hòa, đã bị chúng đặt cho cái tên “Ngụy quân, Ngụy quyền”.

Chẳng hạn như hồi gần cuối năm 1975, Ðài phát thanh chính thức của Nhà Nước, ra rả cải chính tin đồn việc đổi tiền miền Nam ra tiền Cụ Hồ là thất thiệt. Thế rồi đùng một cái, vào một buổi sáng tinh mơ, cũng lại chính cái Ðài phát thanh đó, loan báo lệnh Nhà Nước buộc nhân dân không được di chuyển ra khỏi địa phương mình cư ngụ, để thực hiện việc đổi tiền theo hộ khẩu. Thời hạn đổi phải hoàn tất trong ngày. Mỗi người chỉ được phép đổi một số lượng theo quy định. Số tiền ai có nhiều hơn mức quy định, phải nộp cho Nhà Nước lưu giữ cứu xét giải quyết sau. Của đã vào tay Nhà Nước thì còn khuya mới lấy lại được. Ngoài ra còn bị gọi tới gọi lui, tra vấn khai báo về nguồn gốc tiền từ đâu mà có nhiều thế, lại là cái họa chẳng biết đâu mà gỡ. Thật là một chính sách bần cùng hoá nhân dân, san bằng giai cấp một cách tàn bạo vô nhân đạo. Chỉ có chế độ Cộng sản man rợ dã tâm mới lì lợm thực hiện công khai như vậy.

Chính sách khoan hồng nhân đạo của Cách mạng quy định, “Ngụy quân Ngụy quyền” đáng tội chết, nhưng Cách mạng tha không giết, và tạo cơ hội cho đi “học tập lao động để cải tạo tư tưởng”. Biết được giá trị “lao động là vinh quang”, phải “tay làm hàm nhai, không ăn bám vào Xã hội” như từ trước tới nay. Biết “yêu lao động là yêu Xã hội chủ nghĩa”, “yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”… Do đó phải cố gắng lao động cho tốt, ngày ngày “thi đua nâng cao năng xuất cho mau tiến bộ”, có “tiến bộ nhanh, đạt tiêu chuẩn” mới được xét cho về hội nhập vào “xã hội mới Xã hội Chủ nghĩa”.

K1 nằm ngay bên đường huyết mạch của thung lũng, trên mỏm đồi lài lài xuống một khe suối nhỏ. Từ cổng vào phải qua khoảng sân trống chừng 100 mét, rồi tới 3 dẫy nhà “chổm” và một nhà bếp cũng bằng “chổm”. Băng qua các dẫy nhà “chổm” là một dẫy nhà ngói mới xây xong, theo kiến trúc khám giam Tù rất kiên cố, dài khoảng 3 chục mét, rộng 4 mét, tường chung quanh cao 3 mét xây bằng gạch thẻ.

Phiá trước dẫy nhà ngói có 1 hàng hiên rộng 2 mét, có mái che bằng phên “chổm” đập dẹp. Dẫy nhà chỉ có một cửa ra vào duy nhất bằng sắt, ở khoảng chính giữa hàng tường mặt trước. Hai bên cửa chính, có một dẫy cửa sổ cỡ gần 1 mét vuông bịt song sắt, cao hơn mặt đất chừng 1 mét. Tường phía sau, có một dẫy lỗ thông hơi cao 20 phân, dài 40 phân, cũng bịt các song sắt dọc cách nhau 10 phân, nơi gần sát mái nhà.

Bên trong, phiá cuối nhà, có 1 phòng nhỏ tường xây kín lên tới mái, có cửa sắt khóa, không biết để làm gì. Khoảng rộng còn lại, có một dẫy bệ nằm dài suốt bề dọc căn nhà, xây bằng gạch láng xi măng sát vào tường phiá sau, cao 1 mét, rộng 2 mét. Phiá trước dẫy bệ nằm là lối đi rộng 1 mét rưỡi, suốt từ đầu này đến đầu kia của căn nhà. Xi măng láng trong nhà chưa khô hẳn, còn xông mùi hôi nồng nặc, làm cho bầu không khí ngột ngạt hăng hắc khó chịu.

Những anh em được đưa từ trại Suối Máu ra sau chúng tôi, nhưng đến K1 trước chúng tôi, được chia nằm trong các dẫy nhà “chổm” phiá trước sân dẫy nhà ngói, và gần bếp bên cạnh suối. Thoáng khí và tương đối rộng, mỗi người được một chỗ nằm bằng chiếc chiếu cá nhân, khoảng 70 phân.

Chúng tôi ra Bắc trước, nhưng chuyển đến K1 sau, nên bị giam trong dẫy nhà ngói đang còn trống. Khoảng 100 người trong nhóm chúng tôi, được chỉ định nằm trong dẫy nhà ngói. Chen nhau chặt ních, mỗi người được chia 1 khoảng nằm rộng 2 gang tay. Tôi phải nằm trong nhà này. Số còn lại khoảng 50 người, được nằm dọc dưới mái hiên bên ngoài nhà. Nằm ngoài hiên tuy thoáng khí, nhưng đêm sương gió lạnh cóng. Còn nằm trong nhà thì ngộp thở, thiếu dưỡng khí, nóng nực mồ hôi đầm đià như tắm hơi.

Ngay đêm mới được chuyển đến K1, sau khi ăn bữa chiều vừa xong, có lệnh tập họp nơi mảnh sân chật hẹp ngay trước dẫy nhà ngói. Hơn 300 người ngồi chồm hổm dưới đất, sát bên nhau chặt cứng, ngửa mặt nhìn lên chiếc ghế và bàn nhỏ để trên mặt chiếc rờ-mọc, nghe Cán bộ Trưởng K1 đến “làm việc”. Ðại khái ông ta nói :

“-Vì khẩn trương quá, nên chưa có đủ chỗ nằm thoải mái cho mọi người, anh em cố gắng khắc phục, kể từ mai chúng ta sẽ tự túc xây dựng thêm nhà để ở cho được thong thả. Mọi người hãy cố gắng học tập cho nó tốt. Có điều gì thắc mắc thì cứ thành khẩn báo cáo, cán bộ quản giáo sẽ chỉ dậy cho.”

Ông ta còn nói nhiều nữa, lâu cả tiếng đồng hồ. Tôi không quan tâm cho lắm, nên chẳng biết ông ấy đã nói những gì. Nhưng các Ðội trưởng chắc chắn phải lắng nghe, để “nắm vững” mà nhắc nhở anh em. Nhiều người ngủ gục. Tôi cũng mệt mỏi ngáp ngắn ngáp dài sái cả quai hàm, trông cho mau xong để đi ngủ cho khoẻ, sau một ngày bận bịu vất vả.

Thời tiết đang vào Ðông, ngoài trời luôn ngăm ngăm lạnh, thế mà nằm trong nhà giam nóng như nung. Ði ngủ, ai cũng chỉ mặc quần ngắn áo thun, mồ hôi vẫn vã ra như tắm hơi. Chặt cứng như nêm, không đủ chỗ để nằm ngửa phải nằm nghiêng kiểu úp thià. Mỗi lần muốn trở mình cho khỏi mỏi, phải ngồi dậy xoay người rồi mới nằm xuống lại, để khỏi làm phiền 2 bạn nằm kế 2 bên. Không ngủ được, thường sinh ra cái chứng mót tiểu hoài. Trong nhà nóng, bên ngoài lạnh cóng, mỗi lần đi ra phải mặc quần áo, chụp mũ lên đầu cho ấm. Khi trở vào, lại phải cởi ra, thật phiền phức trần ai hết mức.

Ði tiểu còn đỡ, địa điểm đặt các thùng đựng nước tiểu ở ngay bên chuồng gà, giữa Nhà ngói và Nhà bếp, khoảng cách gần chỉ độ vài chục mét. Còn muốn đi đại tiện, phải băng qua sân dài cả trăm mét, ra tới gần cổng trại, mới rẽ trái theo con đường mòn nhỏ xuống bên bờ suối, cả mấy chục mét mới tới Nhà vệ sinh. Sương đêm dầy đặc mù mịt trơn trượt, không đèn không đuốc, mò mẫm đi lại rất khó khăn nguy hiểm. Ngoài ra còn sợ nạn bị cọp rình vồ thịt, hoặc đạp lên mình trăn rắn đang trườn ngang lối đi, sẽ bị chúng mổ cuộn thì toi mạng. Thật là trần ai bể khổ.

Trong căn lều che hố vệ sinh, tối đen như mực, và chỉ có 2 chỗ cho 2 người. Muỗi rừng bay dầy đặc như ong vỡ tổ, đuổi không kịp, đốt nhức buốt xưng u ngứa ngáy khó chịu. Nhiều bạn xấu tính, ích kỷ, ngại đạp phải dơ, ngồi phóng đại bên đường, làm những người đi sau không thấy dẫm lên bê bết. Chùi quẹt giầy lên cỏ bên đường không sạch hết, khi trở vào phòng giam mùi sông nồng nặc, tưởng như có ai đau bụng đi không kịp, phóng ra quần tại chỗ nằm.

Suốt đêm nằm trăn trở không ngủ được. Mệt mỏi quá rồi cũng lả thiếp đi lúc nào chẳng biết. Ðang lơ mơ, bỗng một hồi Cồng bom oang oang đổ dồn, chói tai nhức óc. Giật mình thức giấc ngồi dậy, nghe lẫn trong tiếng cồng, tiếng hú thảm thiết của con chó bên khu Cán bộ vọng sang. Mọi người uể oải sửa soạn đón nhận thêm một ngày mới, với những biến cố mới chưa đoán biết được, sẽ đến trong cuộc sống tù biệt xứ đang gánh chịu.

Cán bộ Trực trại ra lệnh qua loa phóng thanh, giục mọi người “khẩn trương” ra sân tập thể dục. Sau 15 phút, bài học thể dục tập thể xong, lại phải “khẩn trương” đi lo phần vệ sinh cá nhân. Trong khi đó, bạn Trực phòng của Ðội đi xuống Nhà bếp, lãnh phần khoai lang luộc điểm tâm về chia cho anh em. Mỗi phần chỉ có 1 củ khoai bằng nắm tay, hoặc 2 củ bằng 2 quả trứng gà. Ăn chưa xong, cồng tập họp đi lao động đã vang dội cả thung lũng.

Mọi người vội vã kéo nhau ra sân tập họp. Từng Ðội xếp 2 hàng dọc, ngồi chôm hổm sát bên nhau đầy sân, quay mặt ra cổng chờ lệnh Cán bộ Trực Trại. Nửa giờ sau, Cán bộ Giáo dục và các Quản giáo xuất hiện nơi cổng. Bắt đầu đọc lệnh “biên chế” lại các Ðội. Sau khi Quản giáo nhận Ðội, ông ta dẫn riêng ra một góc sân, chỉ định Ðội trưởng, các Tổ trưởng, Thư ký đội, anh phụ trách nấu nước cho Ðội ngoài hiện trường lao động, anh Trực nhà, và phân chia anh em còn lại vào các Tổ. Xong suôi, mọi người về thu xếp tư trang dọn đến nơi ở mới quy định cho Ðội. Tôi được chia vào Ðội Nông Nghiệp, do anh Lê Minh Luân (Ðại tá Không quân) làm Ðội trưởng. Láng ở của chúng tôi là dẫy nhà “chổm” gần bên láng ở của Ðội Anh Nuôi (hoả đầu vụ). Dẫy nhà tuy cũ kỹ, vách “chổm” khô cong kẽ hở lớn, thu hút gió Ðông lạnh dễ dàng, nhưng khoảng nằm rộng rãi hơn, thoáng khí không ngột ngạt như trong nhà ngói. Mỗi người được khoảng nằm rộng 60 phân, chiếu cá nhân phải để chồng mí lên nhau.

Buổi lao động chiều, cả K được lệnh dồn nỗ lực chia nhau phát quang dọn sạch sẽ các bụi cây cỏ dại chung quanh trại, để nới rộng sân tập họp, sửa soạn chỗ cất thêm nhà mới, làm hàng rào quanh trại, tu sửa bờ suối cạnh bếp và nơi tắm giặt công cộng…

Sau cuộc “biên chế” mới, nhóm bạn ăn chung cũng như nằm gần bên Tôi, suốt từ Long Giao ra đến đây, gồm anh Võ Quế và 2 anh Pháo binh (không nhớ tên), bị tách biệt ra mỗi người mỗi Ðội khác, hơi buồn.

Ngày hôm sau, các Ðội mới chính thức xuất trại đi lao động bên ngoài trại.

Khởi đầu “lao động vinh quang”,

Cồng bom (1) giục giã, xếp hàng giữa sân.

Từng đội theo lệnh “xuất quân”,

Vào rừng chặt chổm, vác dần về K (ca).

Ðóng rào, dựng cổng, cất nhà,

Ðể mà có chốn đi ra đi vào.

Ðắp nền Láng ở cho cao,

Kẻo mùa mưa lũ, nước trào vô trong.

Sàn nằm hai dẫy thong dong,

Ðầu quay sát vách, khỏi trông thấy ngoài.

Nhà ba gian, phải phân đôi,

Nhốt chung hai đội, trăm người vào ra.

Cấm không túm bẩy tụm ba,

Chuyện trò bàn thảo việc nhà, việc chung.

Ngày lo lao động tính công,

Tối ngồi “kiểm thảo” để cùng “sửa sai”.

“Hoạch định phương án” tương lai,

“Thi đua” “phấn đấu” mỗi ngày tiến lên.

Ốm đau “khắc phục” cho quen,

Ðội không được phép nghỉ trên một người.

“Khẩu phần” nhờ “đội anh nuôi”,

Lo cho cả trại kịp thời, đúng cân.

Dù ai lao động xa gần,

Ði về sớm muộn, có phần dành riêng.

Giống như Hợp tác xã viên,

Anh hùng lao động tại miền Bắc ta.

Thảm thương Ðại tá Cộng hoà,

Ðoạ đầy thể ấy, thành ma mấy hồí !

K1, LT1, Việt Cường, Yên Bái, tháng 7-1976.

(1) Theo lời giải thích của Quản giáo Ðội chúng tôi, chiếc cồng mà K1 đang dùng, là vỏ một quả bom do máy bay Mỹ thả xuống không nổ. Người ta gỡ thuốc và ngòi nổ bỏ đi, rồi treo lên dùng làm cồng báo giờ cho cả thung lũng cùng nghe được. Chiếc cồng được xử dụng đánh báo giờ giấc cho K1, mỗi ngày 8 lần : – báo dậy buổi sáng, -tập họp đi lao động buổi sáng, -giờ nghỉ giải lao giữa buổi sáng, -mãn giờ lao động sáng, -tập họp đi lao động buổi chiều, -giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động chiều, -mãn giờ lao động chiều, -báo điểm danh tối trước khi vào phòng giam. Ngoài ra còn dùng để đánh liên hồi 3 tiếng một, mỗi khi cần báo động.

Chiếc cồng phát ra một loại âm thanh kim khí lanh lảnh trong, với tần số rung rất cao, làm inh tai nhức óc người ta dễ sợ. Ðến nỗi con chó đặt tên là Pho của Quản giáo Ðội chúng tôi nuôi, bị tiếng cồng làm đau đớn nhức óc khiếp đảm, phải chu lên nghe rất thảm thiết ghê lạnh cả người. Tiếng kêu y như tiếng hú của chó sói trong rừng già hoang vu, diễn tả trong các phim chuyện của Âu Mỹ. Không ai hỏi, nhưng ông ta tự động giải thích vì thù Ðế quốc Mỹ xâm lăng, bỏ bom miền Bắc Xã hội Chủ nghiã, nên lấy tên của Tổng thống Ford đặt cho con chó, để hàng ngày gọi cho ăn, và lúc nào không bằng lòng thì cột lại đánh cho bõ ghét.

Thật tội nghiệp cho những bộ óc thiển cận, ít học, lạc hậu. Ông ta đâu có biết tâm tình của người Âu Châu hoàn toàn khác hẳn. Chỉ nhân vật thân quen nào được qúy mến nhất, họ mới lấy tên của người ấy đặt cho con vật họ thương qúy trìu mến nhất như con. Tại Hoa Kỳ, còn có Luật bảo vệ gia súc như chó, mèo… Ai hành hạ súc vật bị tố cáo, sẽ bị làm biên bản đưa ra Tòa án phán xét xử phạt nghiêm khắc. Ðâu như tại Việt Nam, chó được nuôi bằng cơm thừa canh cặn, để dọn sạch sẽ những thứ do con người thải ra, để coi giữ nhà, và đặc biệt để làm thịt ăn. “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó. Chết xuống âm phủ biết có hay không?”

Chương 11

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TÌNH NGƯỜI

Nhân số Tù chia vào mỗi Ðội, gồm khoảng trung bình từ 40 đến 50 người, tùy theo loại công tác. Các Ðội được đánh số cho dễ gọi, và quy định đảm nhận những công tác chuyên biệt khác nhau : Lâm sản, Mộc, Ðan lát, Xây dựng, Rau xanh, Nông nghiệp, Anh nuôi.

Ðội Lâm Sản, được coi là Ðội của những “Tù tự giác” (không cần người theo sát canh giữ), đi vào rừng một mình đốn cây, chặt “chổm”, chặt giang, lấy măng. “Chổm” và giang, phải chặt dài tối thiểu là 4 mét, bó thành từng bó 20 cây, rồi kết chung với các thân cây thành bè, thả trôi theo dòng nước về tới đập nhỏ ở bià rừng, cách trại chừng 5 cây số.

Cây đốn xuống, lớn thì giao cho Ðội Mộc cưa xẻ thành ván ngay tại trong rừng, chuyển về sau. Các cây nhỏ thì cắt lấy thân đem về làm cột, kèo, dui nhà, còn cành lớn làm củi đun cho các bếp của trại giam Tù và bếp riêng bên khu Cán bộ.

“Chổm” được dùng làm rất nhiều việc. Hoặc để nguyên cây dài 4 mét, mổ dọc thân banh bẹt ra, đập dẹp, rồi ghép lại đan những tấm phên thật lớn, để dựng quanh nhà làm vách, và làm sàn nằm trong các Láng. Hoặc cắt thành các đoạn ngắn cỡ 1 mét, bổ dọc đập dẹp kết thành những mảng tranh dài 2 mét lợp mái nhà. Hoặc để nguyên cây, chôn sâu xuống đất, kết sát bên nhau làm hàng rào quây chung quanh trại. Hoặc làm cáng (“ki”) khiêng đất, tranh, gạch, và các vật liệu linh tinh khác.

Giang là loại tre thân nhỏ, đốt dài, gần như đặc ruột, sợi mộc dẻo dai, được cắt thành từng khúc ngắn hay dài, tùy theo công dụng. Có thể chẻ nhỏ chuốt nhẵn thành các loại nan để đan thúng, nia, rổ, rá, xọt, bồ. Hoặc tước mỏng để làm lạt (dây) cột, bện thừng, trão…

Măng được coi là một loại thực phẩm có “giá trị kinh tế cao”, có thể dùng “biến chế” được ít nhất là bốn món ăn khác nhau. Hoặc xấy khô để dành dùng trong những dịp Lễ Tết, khẩu phần được gia tăng, nấu với xương làm món măng ninh. Hoặc muối chua để dành nấu canh dần. Hoặc để tươi xào hay kho mặn dùng thay rau, trong mùa mưa măng đâm trồi đầy rừng.

Măng để tươi ăn ngay rất đắng. Nhưng “bước đầu” trại mới thành lập, trại viên chưa sản xuất được loại rau nào để ăn, nên măng được coi là món chính duy nhất, trong 2 bữa ăn hàng ngày. Hơn nữa, mỗi bữa ăn mỗi người chỉ được chia có vài bốn mẩu bằng ngón chân cái, nên vẫn thấy ngon và thèm. Theo phân tích khoa học ai cũng biết, măng chẳng có giá trị dinh dưỡng nào cho cơ thể con người, ngoài việc cung cấp chất sơ, giúp cho việc đẩy phân trong ruột dễ dàng không táo bón.

Trách nhiệm của Ðội Nông Nghiệp là, quanh năm suốt tháng, nắng cũng như mưa, tùy theo vụ từng mùa, hoặc đi phá rừng cuốc đất trồng sắn (khoai mì), khoai lang, ngô (bắp), luá. Hoặc thực hiện những tạp vụ khác tùy nhu cầu kiếm tiền, để trại nộp cho Nhà Nước hàng năm theo quy định. Chẳng hạn, Hợp Tác Xã nào đó trong địa phương cần một số nhân công, để phụ “tịnh kho” (dọn dẹp quét tước sạch sẽ nhà kho), hay gặt luá, đập luá, phơi thóc, lẩy hột bắp…, Trại giam sẽ tùy theo nhu cầu, chỉ định một hoặc nhiều Ðội Nông Nghiệp đi làm thuê tính công để lấy tiền. Nhưng cơ quan chủ thuê không bao giờ trả bằng tiền, mà bằng nông phẩm (lúa, khoai, ngô…) trị giá tương đương.

Tôi được “biên chế” vào một trong các Ðội Nông Nghiệp của K1. Nhưng Ðội chúng tôi chẳng bao giờ được giao đất để canh tác. Thường xuyên được tăng phái đi làm thuê cho các Ðội chuyên nghiệp khác, như đào đất đắp nền nhà, đi vác “chổm”, giang, cây và củi từ đập nước bên bià rừng về trại, đi lấy cát, hoặc làm thuê cho Hợp Tác Xã địa phương lấy tiền công nộp cho Trại.

Trong những buổi đi vác “chổm” hoặc giang, Quản giáo buộc mỗi người phải vác 1 bó 20 cây, nặng chừng 200 đến 300 kílô. Các bó “chổm” dài lượt thượt, vác trên vai di chuyển trên đường đất nhỏ vòng vèo, lên dốc xuống dốc quanh theo triền núi, thật vất vả. Chỉ dăm ba anh khoẻ làm được. Còn phần lớn chịu thua không vác nổi, ngã tới ngã lui, không xê dịch nổi bước nào, đành liều ngồi ì ra chịu trận xỉ vả của Quản giáo.

Cuối cùng, Quản giáo cũng phải nhân nhượng, bằng lòng cho 2 người khiêng chung một bó. Mỗi người ở một đầu, khiêng bó “chổm” trên vai, theo nhau kẻ trước người sau, bước chân lẹ như chạy cho đỡ nặng. Anh nào khoẻ hơn thì hy sinh khiêng phần gốc, nhường cho anh bạn làm chung yếu hơn khiêng phần ngọn. Ai khiêng phần ngọn đi trước, người khiêng phần gốc đi phiá sau.

Ðể chia đều sức nặng của bó “chổm” cho 2 người, phải rút một cây “chổm” ở phiá gốc thòi ra khỏi bó chừng 1 mét như chiếc đòn, cho người đi sau để trên vai khiêng. Cứ đi được chừng 300 mét lại phải ngừng, quăng bó “chổm” xuống đất ngồi nghỉ. Ðau vai, mỏi cột xương sống lưng, mệt đừ thở hổn hển muốn đứt hơi.

Nếu một mình vác nổi 1 bó, mỗi buổi lao động chỉ phải đi về có 1 lần. Còn 2 người khiêng chung, phải đi 2 lần để “bảo đảm đủ chỉ tiêu” quy định, mỗi buổi lao động mỗi người phải đem về trại 1 bó. Ngày làm 2 buổi, những người khiêng chung phải đi về tới 4 lần trong 1 ngày. Ai xong sớm được về trại nghỉ ngơi thoải mái. Còn những người yếu chậm chạp, bao giờ “hoàn tất đủ chỉ tiêu” mới được nghỉ. Có người phải làm suốt luôn 2 buổi, không nghỉ trưa, mới đủ thì giờ để “đạt chỉ tiêu” do Quản giáo quy định. Nhưng cũng có người mạnh, vác nộp luôn 2 bó trong giờ lao động buổi sáng, để nghỉ cả buổi chiều.

Gần đập nước có một xóm nhỏ, khoảng mươi lăm căn nhà dân địa phương cư ngụ. Mỗi nhà cách nhau bằng những hàng rào cây gai, và mảnh vườn nho nhỏ. Xóm nhà ở dọc dài ngay hai bên đường đi lên đập. Không thấy bóng trai tráng nam nữ nào cả. Chỉ có mấy ông bà già, và dăm bẩy đứa trẻ nít cả trai lẫn gái ở chuồng lồng lộng, lem luốc, chơi đùa giữa sân, giành nhau mấy mẩu sắn hay khoai gì đó, la hét chửi nhau ỏm tỏi.

Khi anh em Tù đi ngang, một bà già tiến ra sát bờ rào, xua chó sủa đuổi người lạ, và lớn tiếng chửi : “-Tiên sư cha chúng bay, loài qủy uống máu, ăn gan người. Sao chúng bay không chết bầm chết dập đi, mà còn vác mặt đến đây ăn hại cơm của nhân dân?”

Mọi người ngỡ ngàng, không biết Nhà nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tuyên truyền huớng dẫn quần chúng miền Bắc như thế nào về Quân lực Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam, mà lòng hận thù của dân chúng đối với anh em Tù ghê gớm đến như vậy. Thật khó hiểu, nó ngược hẳn với những gì mà Cán bộ đại diện Ðảng và Nhà Nước Cộng sản Việt Nam đã nói với anh em, qua các bài học tập cải tạo tư tưởng tại miền Nam trước khi ra Bắc.

Không riêng gì dân chúng, ngay cả Cán bộ Bộ đội miền Bắc, chưa bao giờ có dịp thấy thực trạng của miền Nam Việt Nam, cũng có những suy nghĩ sai lầm tai hại như vậy. Các Cụ ta ngày xưa đã từng khuyên :“ Phượng hoàng đậu chốn cheo leo, sa cơ thất thế phải theo đàn gà”, anh em đành nhẫn nhục chịu đựng chớ biết làm sao bây giờ. Không được phép giao tiếp với dân chúng, làm sao giải thích cho họ hiểu được. Thật khổ tâm vô cùng.

Ngoài công tác đi vác “chổm”, mỗi ngày Ðội chúng tôi còn phải cử một toán 5 người, đem xe “cải tiến” đi xuống tận vùng bờ sông Âu Lâu để chở cát về cho đội xây dựng, xây Nhà Vệ Sinh công cộng cho cả trại xử dụng. Ðường đi xa gần hai chục cây số, dọc ven sườn núi vòng vèo, khe dốc thẳng đứng sâu thăm thẳm hàng trăm mét.

Tôi được “Tự quản đội” tức là Ðội trưởng, đề nghị Quản giáo chỉ định vào toán đi lấy cát, bằng “Xe cải tiến”. Ðây là loại xe khung gỗ, thân dài 1 mét, ngang 90 phân, cao 50 phân, để trên 2 bánh xe niềng sắt với vòng lốp cao su tròn đặc. Xe có 2 càng dài khoảng hơn 1 mét ở phiá trước, để người kéo thay vì dùng súc vật. Ðể dễ hiểu hơn, “xe cải tiến” là một loại xe bò nhỏ để chở vật liệu do người kéo.

Mỗi chuyến đi phải lấy một mét khối cát. Vì thế phải dùng những tấm ván dầy và cót quây chung quanh thành xe cho cao lên, mới chứa đủ dung lượng một mét khối cát.

Toán “chuyển vận xe cải tiến” gồm 5 người, phân chia như sau :

-1 người cầm càng xe để lái hướng đi cho xe,

-2 người đi trước xe chừng 5 mét để cầm dây kéo,

-2 người đi sau đẩy phụ cho xe tiến tới. Lần đi nào, Tôi cũng bị anh em trong toán giao cho cằm càng lái xe.

Việc đi lấy cát thật vất vả, nhưng cũng có nhiều kỷ niệm vui vui khó quên.

Mỗi chuyến đi lấy cát, ngoài cán bộ Quản giáo còn có 2 bộ đội cảnh vệ mang súng dài đi theo canh chừng 5 người Tù. Trưởng Phân trại K1 giải thích rằng : “-Cần có bộ đội cảnh vệ đi theo để bảo đảm an ninh, cho các anh không bị dân chúng hành hung, chớ không phải để canh gác vì sợ các anh trốn. Ở đất miền Bắc Xã hội chủ nghĩa này, dầy đặc “thiên la địa võng” làm sao trốn thoát mà phải lo.”

Lượt đi toàn là xuống dốc, xe tự động lao tới vùn vụt, người lái xe phải quay ngược cho xe trước càng sau, để chạy theo xe. Nếu không, lực trôi nhanh của xe có thể làm cho người cầm càng, chạy không kịp vấp chân ngã chúi xuống đường, hậu quả sẽ rất nguy hiểm đến tính mệnh. Những người đẩy và phụ kéo xe như đã phân chia, cũng phải tập trung đi phiá sau, để cầm dây níu cho tốc độ xe lao xuống dốc giảm đi.

Lượt về thì ngược lại, xe đầy 1 mét khối cát ướt nặng nề, đường lên dốc liên tục, xe luôn luôn trì kéo trôi lui chớ không chịu tự động lăn tới như lúc xuống dốc. Người lái phải gập mình về trước, đè cho càng xe chúi sát đất. Hai người đi trước khoảng 5 mét quàng dây kéo trên vai, cúi rạp người gò lưng kéo. Hai người đẩy phiá sau bám chặt một tay vào thành xe, ngả người về trước đẩy cho xe tiến lên, tay kia cầm 1 thanh gỗ để sẵn sàng chặn bánh xe lại khi cần thiết.

Thật là trần ai vất vả, tinh thần mọi người lúc nào cũng bị căng thẳng. Mặt đường lồi lõm đầy lỗ ổ gà. Nếu sơ xuất, xe có thể bị lật hoặc trôi tuốt xuống khe. Người có thể bị trọng thương vì xe cán qua hoặc đổ đè lên. Ðã có một toán thuộc Ðội khác, sơ ý không kiểm soát nổi, xe đầy cát bị trôi tuột xuống khe bên triền núi cao cả hơn trăm mét. Xe gẫy bể tan nát dưới khe sâu. May mà không ai bị lôi theo xuống khe, hoặc bị xe cán gây thương tích. Thật nguy hiểm không sao lường trước được. Quanh năm ngày tháng, cái chết lúc nào cũng sẵn sàng lởn vởn bên cuộc sống của Tù.

Gần mấy căn nhà dân chúng ở bên đường xuống bờ sông lấy cát, có 1 túp lều bán quà bánh bầy biệân thô sơ. Trên chiếc bàn nhỏ để ít keo thủy tinh kẹo bột, kẹo lạc, bánh bỏng ngô, bánh khảo, thuốc lá, thuốc lào, bình nước chà tươi… Quản giáo đi theo chúng tôi (Trung úy Khảm) tỏ ra dễ dãi, cho phép anh em mua kẹo, bánh, ăn để “bồi dưỡng”. Nhưng ông ta luôn mồm nhắc nhở, phải ăn hết trước khi về tới trại, và không được kể cho anh em trong trại biết. (Ông Khảm đã thố lộ cho anh em biết, trước 30-4-1975 ông ấy đã từng vào Nam chiến đấu tại vùng Khánh Hoà, và có người anh bà con làm Thiếu tá trong Quân đội thuộc chế độ miền Nam cũ tại Nha Trang.)

Nhà Vệ Sinh mới được xây bằng gạch mái lợp tôn, ngay bên mặt đường lớn bên ngoài cổng trại, trông như một quán nhà trọ có nhiều phòng. Dân chúng đi ngang qua, ai có nhu cầu cũng có thể ghé vào giải quyết.

Kiến trúc Nhà Vệ sinh giống như kiểu nhà sàn, có các bậc thang gạch đi lên cao chừng 1 mét rưỡi, có mái tôn che mưa nắng, và 1 dẫy 10 lỗ cầu ngồi, phân cách nhau bởi những mảng tường lửng cao 1 mét, có cửa gỗ che phiá trước mỗi ngăn. Nền nhà láng xi măng, hơi nghiêng nghiêng cho nước tiểu tự động chẩy xuống một hồ chứa. Phân đặc nằm lại thành từng đống giữa nền.

Dọc bên hông Nhà Vệ Sinh, có lối đi lát gạch vòng xuống phiá sau, để Tổ Phân thuộc các Ðội Rau Xanh, hàng ngày đến xúc phân, múc nước tiểu đem ra khu sản xuất rau xanh dùng. Anh em được hướng dẫn tùy theo hiện trạng lớn nhỏ của mỗi luống rau, hòa phân hoặc nước tiểu với lượng nước suối cần thiết cho hợp với nhu cầu bón tưới. Nhờ vậy, rau trồng tăng trưởng nhanh, xanh tốt, và mức “thâu hoạch” rất cao.

Việc xây dựng Nhà Vệ Sinh thuộc loại “ưu tiên hàng đầu” trong “dự án chung”. Vì hiện tại, trại chỉ có một hố vệ sinh duy nhất, với 2 chỗ ngồi, đào bên sườn đồi gần sát bờ suối, phiá trong cổng trại. Mỗi buổi sáng, anh em Tù phải xếp hàng nối đuôi nhau, chờ cả tiếng đồng hồ mới tới lượt vào giải quyết việc thải vàng ra khỏi cơ thể. Chẳng may, anh nào bị đau bụng tiêu chẩy, nín không được đành ngồi đại ngay bên đường mòn xả ra, hôi thối nồng nặc. Anh em khác khó tánh có nặng lời, cũng đành tỉnh khô, cắn răng, gục mặt chịu trận. Về sau “rút kinh nghiệm”, nhiều người tập thói quen, nhịn không đi đại tiện vào buổi sáng ở trong trại. Chờ khi ra ngoài lao động, mới xin anh bộ đội cảnh vệ cho đi giải quyết bên bờ bụi gần nơi lao động, vừa sáng sủa thoáng mát, lại không bị nạn muỗi đêm bu đốt hút máu.

Ðội Xây Dựng, chuyên pha cây, đục đục đẽo đẽo làm cột, kèo, dui, mè, để dựng nhà. Còn lợp mái, dựng vách, làm sàn nằm, là những việc phụ không cần chuyên nghiệp, có anh em Ðội Nông Nghiệp chúng tôi tăng phái phụ lực. Dĩ nhiên việc xây cất các kiến trúc bằng gạch, láng xi măng, dựng khung sườn nhà, ráp cửa… là phần vụ chuyên môn, đều do anh em Ðội Xây Dựng thực hiện.

Có một chuyện lạ không ai ngờ, số anh em vốn thuộc gốc Công binh được “biên chế” vào Ðội xây dựng, không ai chịu làm Ðội trưởng. Trại đã phải chỉ định một anh thuộc ngành Hành chánh Tài chánh (Ðại tá Bùi hữu Ðặng) làm Ðội trưởng Ðội Xây Dựng. Thế mà công tác xây dựng vẫn được tiến hành xuông sẻ, đáp ứng đúng “yêu cầu” của Trại và Liên trại đề ra.

CỰU ĐẠI TÁ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA

Ðội Ðan Lát, chuyên pha “chổm”, đập dập để làm tranh lợp mái nhà, đan phên làm vách, sàn nằm, làm “ki”, và pha giang để chẻ lạt cột, bện thừng, đan rổ, rá, thúng, nia, bồ… Nhưng “trước mắt” có nhiều “yêu cầu khẩn trương” làm không kịp, Ðội Nông Nghiệp chúng tôi được tăng cường tiếp tay làm những công việc này. Nhờ thế mọi người học được nhiều nghề một lúc, bảo đảm sau này khi được tha ra, có thể tự lực lao động mà sống, không ăn bám vào xã hội như trước đây. “Ðáp ứng đúng yêu cầu Chính sách Nhà nước” đã đề ra cho các Cải tạo viên.

Ðội Rau Xanh, phá bụi cây dại và cỏ hoang ở 2 bên rià suối, giữa khu cán bộ ở và trại giam Tù, để cuốc xới đất làm các luống trồng rau cung cấp cho trại. Vì “bước đầu” mới khởi công, “trước mắt” chưa có rau để thâu hoạch, nên hàng ngày Ðội chúng tôi phải tăng phái một Tổ đi theo Quản giáo Ðội Anh Nuôi (hoả đầu vụ), đến các Hợp Tác Xã quanh vùng mua rau cung cấp cho nhà bếp. Toàn là rau muống bè thân dài thòng dai ngắc, hoặc ít trái bí ngô, bầu già đem về nấu ăn cả vỏ. Ðội Anh Nuôi, được coi là bận bịu phải thức khuya dậy sớm, lo nấu thực phẩm, đun nước chín cung cấp đúng giờ giấc quy định cho cả trại.Nhưng thực ra không vất vả nặng nhọc, bằng công việc của các Ðội Lâm Sản, Nông Nghiệp, Xây Dựng, Rau Xanh. Suốt bốn mùa, mưa cũng như nắng, mọi người phải đầu đội Trời chân đạp Ðất, lặn lội nơi rừng rậm âm u, bì bõm nơi đồng ruộng sình lầy, lạnh cóng, nóng nực. Ngoài ra, vào những dịp Lễ Tết, khẩu phần ăn được tăng cường, Ðội Anh Nuôi làm không kịp, lại được anh em Ðội Nông Nghiệp chúng tôi đến tăng cường phụ giúp, giải quyết cho kịp thời gian tính.

Trong khoảng thời gian ngắn ngủi 2 tháng trời, cả trại phải cố gắng “thi đua lao động” chào mừng ngày Lễ Ðộc Lập 2 tháng 9, và đón Phái đoàn Trung ương đến “tham quan định giá thành quả lao động cải tạo” của trại viên. Mọi người đã phải “khắc phục” “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”, để hoàn tất mọi “đề án” được Phân trại chấp thuận, dựa theo “đề xuất” của “Ban Thường Trực Thi đua” phối hợp cùng các “Tự Quản Ðội”, trình bầy trong ngày Ðại hội phát động phong trào thi đua mùa Thu 1977.

Các công trình hoàn tất trong “Ðợt Thi Ðua” mừng ngày Ðộc Lập 2 tháng 9 lần thứ 30 này gồm :

1.- Chiếc Cổng Trại đồ sộ kiểu cách mỹ thuật;
2.- Dẫy Nhà Vệ Sinh rộng rãi sạch sẽ bằng gạch mái lợp tôn;
3.- Mấy dẫy nhà “chổm” mới cho Tù ở rộng rãi hơn;
4.- Vòng hàng rào 2 lớp “chổm” nguyên cây bao quanh trại;
5.- Khu vườn rau xanh mướt nằm dài 2 bên khe suối.

Trại nhận xét, “thành quả lao động cải tạo bước đầu” rất “khả quan”. Ðể cả Cán bộ lẫn anh em Tù “hân hoan”ø ăn mừng ngày Lễ Ðộc Lập lần thứ 30, của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay đã đổi tên là Cộng Hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam từ cuối năm 1975, được linh đình. Ban Chỉ huy Phân trại K1, đã cho Quản giáo Ðội chúng tôi (Trung úy Khảm) dẫn mấy anh Ðội Lâm Sản, đến các Hợp Tác Xã tìm mua thịt tươi.

Con ngựa mua được, già gầy ốm trơ xương, què một chân không còn khả năng lao động, của 1 Hợp Tác Xã cách xa trại chúng tôi chừng vài chục cây số đường rừng. Ông Khảm cho biết : “-Tiền Nhà Nước tăng cường cho Tù trong dịp này không nhiều lắm. Mặc dầu quen biết lâu năm với các cơ sở địa phương, ông ta vẫn phải tốn công tới lui thương lượng nhiều lần, họ mới bằng lòng để cho với giá phải chăng.”

Làm thịt ngựa, phải dùng búa tạ đập đầu ngựa cho gục xuống mê man, rồi mới thọc huyết bằng ống nứa vạt nhọn tréo một bên. Mấy anh bạn Tù thuộc Ðội Anh Nuôi, người cũng lực lưỡng lắm mà làm không được. Lại phải nhờ đến Quản giáo Ðội chúng tôi ra tay tế độ.

Hôm đó, cả trại được nghỉ lao động, nên có dịp xem làm thịt ngựa. Thật là một cảnh thương tâm hãi hùng, Tôi chưa bao giờ được chứng kiến.

Một sợi thừng to, chắc, một đầu cột vòng cổ con ngựa, một đầu buộc vào cây cột cao 1 mét, níu cho đầu nó cúi thấp xuống. Một bạn Tù lực lưỡng đứng phiá trước con ngựa, cầm chiếc búa tạ sẵn sàng dơ cao lên đập mạnh xuống đỉnh đầu nó, để hạ cho nó ngất đi.

Hai mắt con ngựa mở trừng trừng ứa lệ, làm như khóc van xin đừng giết nó. Khi chiếc búa giáng xuống thì nó lắc đầu né, nên đập hụt. Ðập lần thứ hai, chắc vì xúc động, nhát búa giáng xuống không đủ mạnh. Con ngựa chỉ chúi xuống, rồi lại cố gắng vùng đứng dậy, tìm cách giật cho đứt thừng để chạy trốn.

Quản giáo Ðội chúng tôi đứng hướng dẫn và quan sát, lên tiếng chê : “-Ðàn ông gì mà nhát gan dở quá vậy, để tôi ra tay cho xem, mà rút kinh nghiệm về sau.” Ông ta sắn tay áo lên, đến trước con ngựa, vung tay búa lên giáng mạnh xuống, chỉ một nhát là giải quyết xong ngay. Thảo nào, các Cụ thường nói “trăm hay không bằng tay quen” là thế.

Ngựa ngất xỉu nằm sõng soài trên mặt đất. Lẹ tay ông Khảm buông búa ra, nhặt ngay ống nứa đã vạt nhọn để kề bên, thọc từ ức cổ con ngựa đâm sâu xuống ngực nó. Máu từ đoạn nứa tuôn ra như xối vào chiếc chậu nhôm to tướng. Một chậu không đủ chứa, phải tăng cường thêm 2, 3 chậu khác mới hết.

Thọc huyết xong, người ta lấy rơm rạ phủ một lớp thật dầy che kín hết con ngựa, rồi bật lửa thui nó. Cho đến khi da quanh mình nó đã xém vàng mới ngưng, để mổ banh bụng nó ra, moi lấy bộ lòng, lột da, xẻ thịt.

Một đùi sau, hai dải thịt bắp thăn lưng, tim, gan, và bộ óc dành cho Cán bộ Liên trại và K1. Phần còn lại, kể cả da lẫn xương, ruột, và huyết, là phần của anh em Tù K1 tổng số khoảng hơn 350 người, nấu nướng chia nhau ăn 2 bữa, để mừng ngày Cách mạng tháng 8 thành công từ 30 năm về trước

TÌNH NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Muỗi, vắt, họp bầy đeo khắp thân,
Ðầm lầy, khe úng, đỉa bâu chân.
Tù, đua lao động nâng thành tích,
Cán, thúc ghi công xét định phần.
Ðôi mẩu ngựa già xào muối hột,
Vài khoanh măng đắng nấu xương gân.
Ðồng bào đâu thấy lòng nham hiểm,
Thế giới nào hay dạ bất nhân!

K1, LT1, Việt Cường, Yên Bái. Tháng 9-1976

PART 2 & The END

 

Chương 12

THIÊN LA ÐỊA VÕNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 

Công tác xây dựng Phân trại K1 vừa hoàn tất, một số Ðội được đưa qua tăng cường xây dựng Khu Nhà Khách cho Liên trại. Khu này gồm 1 dẫy nhà ở, 1 dẫy nhà ăn cho khoảng vài trăm người, 1 nhà bếp lớn, 1 Thư viện, và 1 dẫy nhà vệ sinh công cộng bằng gạch có mái che, ở sườn đồi gần ngay bên K Lò Gạch. Tất cả các dẫy nhà đều được lợp mái bằng tôn.Ðội chúng tôi được tăng cường làm vệ sinh chung quanh khu nhà Máy Phát Ðiện của Liên trại, bên kia đường đối diện Khu Nhà Khách.Sáng nào cũng vậy, đi trên đường đến nơi lao động, anh em thường gặp 1 người da trắng, mũi lõ, tóc quăn mầu bạch kim, mắt xanh, khoảng trên dưới 30 tuổi, cầm chiếc cần câu cá và 1 hộp mồi giun đi ngược chiều về phiá đập nước. Chúng tôi nhìn với vẻ ngạc nhiên, nhưng không ai dám xì xào gì cả.

Quản giáo Ðội chúng tôi lanh lợi tinh ý, chắc là đoán được suy nghĩ của chúng tôi, lên tiếng giải thích : « -Anh này là người Mỹ sinh ở Pu-éc-ta-ri-cô. Anh ta vốn là tù binh xin ở lại, và xin được làm Công dân Việt Nam, lấy tên là Nam. Anh ấy có vợ người Việt ở Hànội. Mỗi tháng được phép về thăm vợ 1 lần. Anh ấy nói và viết tiếng Việt rất giỏi. Anh ấy phụ trách máy phát điện của Ban Chỉ huy Liên trại. »

Kế ngay bên nhà máy phát điện, là dẫy nhà « chổm » 2 gian dành riêng cho anh Nam. Khoảng mươi mét, phiá sau nhà ở và nhà máy phát điện, có 1 nhà vệ riêng của anh Nam. Nhà vệ sinh là 1 căn lều khoảng 4 mét vuông, quây kín chung quanh bằng phên « chổm », bên trong có 1 bục gỗ cao, làm chỗ ngồi đại tiện xuống 1 thùng gỗ đựng phân ở phiá dưới, để hàng ngày anh Nam lấy đi bón cho khu vườn rau riêng của mình.

Anh em lao động tại đây, nếu có nhu cầu đi đại tiện, cũng được phép bộ đội cảnh vệ cho vào xử dụng. Vì anh Nam thường ngày đi lên phiá đập nước câu cá, nên không có gì trở ngại. Tôi cũng đã có dịp vào xử dụng nhà vệ sinh này.

Trên nền nhà vệ sinh, thấy có vài cuốn vở học sinh viết đầy chữ Việt, vứt bừa bãi lẫn lộn với đủ loại giấy vụn, sách báo, giẻ rách dính đầy dầu nhớt. Bià vở, các trang giấy thấy còn mới, và chữ viết mực chưa bị phai nhoè hay bạc mầu theo thời gian.

Tôi tò mò, nhặt mấy tờ giấy đầy chữ lên đọc, xem viết những gì trong đó. Liếc qua ít câu, Tôi sửng sốt ngạc nhiên bỏ ra ngoài ngay, và không bao giờ dám trở lại nữa, vì sợ Cán bộ thấy sẽ mang họa. Giấy viết toàn những lời hướng dẫn đường trốn trại, từ Việt Cường qua Nghĩa Lộ, Mường La để thoát sang Lào, hay xuôi theo sông Ðà ra biển thuộc Vịnh Bắc Kỳ.

Ðêm về nằm mung lung suy nghĩ, trằn trọc không sao ngủ được. Nhiều câu hỏi tiếp theo nhau hiện ra trong đầu. Ai viết ra và vứt tại đó vậy? Phải chăng anh Nam là người của CIA cài lại, để tìm hiểu đường đi nước bước nhằm giúp chúng tôi trốn trại? Hay chính Cán bộ Cộng sản gài bẫy, để tạo cơ hội thực hiện những chính sách cư xử với chúng tôi khe khắt hơn, mà không bị anh em oán thù là tàn bạo vô nhân đạo?…

Làm vệ sinh khu nhà máy phát điện xong, Ðội chúng tôi được đưa đi làm thuê, «tịnh kho» (dọn sạch sẽ kho) cho Hợp Tác Xã ở ngay giữa đoạn đường đi từ Ban Chỉ huy Liên trại đến K1 (nơi giam chúng tôi).

Công việc phải làm, thoạt nghe thấy rất đơn giản nhẹ nhàng. Chỉ vun gọn bắp và sắn khô còn vương vãi trong kho, xúc bỏ vào các bồ đựng, khiêng cất sang ngăn khác, rồi quét dọn sạch sẽ để chuẩn bị chỗ chứa lúa Thu Ðông sắp sửa gặt.

Khi bắt tay vào việc mới thấy là rất cực nhọc. Vì phải làm liên tục không ngơi tay, giữa bầu không khí bụi mù ngột ngạt, hôi mốc rất khó chịu. Mũi miệng phải bịt khăn kín mít, thế mà bụi vẫn chui qua vải vào đầy lỗ mũi, bám đầy trên mặt, quanh mắt làm cộm ngứa. Suốt từ đầu đến chân, quần áo phủ đầy bụi bặm mạng nhện.

Kho đóng cửa lâu ngày không mở, từ dưới gầm sàn gỗ giữ cho ngũ cốc không chạm nền đất, chuột, muỗi tuá ra vô số kể. Nhiều ổ chuột con chưa mọc lông, da bóng láng đỏ hỏn, chưa mở mắt, lúc nhúc chúi vào nhau coi thấy mà ghê sởn gai ốc đầy mình.

Chỉ có một điều mừng duy nhất, khiến ai cũng mong được đi làm thuê cho Hợp Tác Xã là, trong những ngày đi làm cho Hợp Tác Xã, mỗi buổi lao động tùy theo mùa, mỗi người được « bồi dưỡng » thêm 1 khúc sắn luộc to bằng cổ tay dài độ 30 phân, hoặc 1 trái bắp lớn, ngoài phần ăn do trại phát rất nghèo nàn.

Mỗi tháng, không phân biệt tháng 30 ngày hay 31 ngày, khẩu phần ăn cho Tù được quy định khoán là 12 kí lô gạo. Như vậy « bình quân » mỗi ngày, một người chỉ được ăn khoảng 350 gờ-ram, vì còn phải trừ đi phần hao hụt chuyển vận, tồn kho, bàn cân không chính xác.
Nhưng chẳng bao giờ được lãnh gạo. Thường xuyên quanh năm, gạo được thay thế bằng sắn khô, bắp khô, hoặc khoai lang khô, tính theo phân xuất một đổi một. Có nghiã là 1 kí lô sắn khô, hay 1 kí lô bắp (ngô) khô, được tính tương đương với 1 kí lô gạo. Trường hợp đang mùa sắn hay mùa bắp thì được ăn tươi, tính theo phân xuất 4 kí lô sắn tươi cả vỏ, hoặc 4 kí lô bắp tươi cả lõi và lá bao ngoài, quy bằng 1 kí lô gạo.

Nếu có gạo nấu cơm, phần của mỗi người được chia là : bữa sáng một phần ba ca cơm, bữa trưa bằng miệng ca, và bữa tối cũng bằng miệng ca. Sắn khô hay bắp khô nấu chín, chia ra mỗi người cũng được một lượng ao tương đương như vậy. Không biết Cách mạng Chuyên chính Vô sản, tính toán đo lường làm sao mà tài đến thế.

Bắp tươi luộc, phát mỗi bữa được 1 trái lớn, hoặc 2 trái nhỏ, đem tẽ hột ngồi đếm, bữa nào cũng như bữa nấy, được khoảng từ 800 đến 900 hột. Dĩ nhiên bữa sáng thì chỉ được bằng một phần ba bữa trưa hoặc bữa tối.

Thức ăn mỗi bữa, mỗi người được vài cọng rau muống dài chừng 10 phân nấu canh với muối, hoặc vài khoanh măng tươi kho muối, là căn bản hàng ngày. Chỉ những ngày Lễ lớn hàng năm như Lễ Ðộc Lập, 3 ngày Tết, phần ăn được tăng cường thì mới biết mùi thịt, cá, hoặc tương hột đậu nành muối mặn, và 25 phần trăm cơm, 75 phần trăm sắn.

Một hôm, có lẽ vào khoảng cuối tháng 10 năm 1976, Ðội chúng tôi đang làm tại Kho Hợp Tác Xã, ở giữa quãng đồng từ K1 (khu nhà ngói) sang BCH Liên Trại 1, thì nghe 3 tiếng súng nổ liên tiếp nhau. Cán bộ Quản giáo và bộ đội cảnh vệ, ra lệnh cho anh em ngưng lao động, tập họp điểm số “khẩn trương” trở về trại giam. Mọi người vội vã hồi hộp, chẳng ai biết chuyện gì đang xẩy ra. Tới trại mới thấy tất cả các Ðội, dù lao động xa hay lao động gần, cũng đều được lần lượt dẫn về hết. Mỗi Ðội phải ở trong láng riêng, không được đi lại lộn xộn giữa các láng. Mọi người hết đứng lại ngồi, đi quanh quanh trong láng, ngó nhìn ra sân, xì xầm bàn tán chẳng biết chuyện gì.

Mãi tới khi anh bạn Tù trực buồng xuống Bếp, lãnh thức ăn tối cho Ðội mang về, mới thì thầm cho biết, Ðội Lâm Sản có 4 người lạc trong rừng chưa thấy về. Các Ðội phải về trại, để tập trung Cán bộ đổ đi tìm từ chiều tới giờ chưa có kết quả.

Buổi chiều lúc gần mãn giờ lao động, các Ðội trưởng (gạch nối giữa Cán bộ và anh em Tù) được gọi lên họp với Ban chỉ huy K1. Họp xong trở về, Ðội trưởng của chúng tôi tập họp anh em, cho biết 4 anh trốn trại là : Võ Quế (Không quân), Ðỗ trọng Huề (Hành chánh Tài chánh), Thi (Pháo binh), Thành (Trung đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 9 BB). Tôi không nhớ Họ của các anh Thành và Thi. Ðội trưởng cũng chuyển lệnh Trại nhắc nhở, những ai thường có tiếp xúc thân mật với các anh ấy, biết gì về hoàn cảnh của các anh ấy phải báo cáo lên Cán bộ. Nếu giấu diếm không khai, sau này điều tra ra, sẽ bị ghép tội tiếp tay cho người trốn trại.

Tôi giật mình suy nghĩ, trước ngày các anh ấy trốn, anh Võ Quế có đến gặp Tôi nhiều lần vào buổi tối, để xin thuốc kiết lỵ và hộp quẹt (diêm). Tôi hỏi cần để làm gì, anh Quế nói là lúc này phải đi Lâm sản, nhiều lúc lạnh quá muốn đốt lửa hút thuốc cho ấm mà không có quẹt, mấy anh cùng đi có nhưng hết cả rồi. Sở dĩ anh Quế đến xin Tôi là vì, suốt từ khi vào trại Long Giao, qua trại Suối Máu, ra đến K1 Liên trại này, anh Quế cùng 2 anh bạn gốc Pháo binh và Tôi, có cùng hoàn cảnh gia đình thiếu thốn, thường chia sẻ cho nhau những gì chúng tôi có, nên đã tự nhiên trở thành bạn tâm tình rất thương nhau. Ða số anh em trong Ðội của Tôi ai cũng biết. (Anh Quế là em ruột Tướng Võ Dinh bên Không quân.)

Trong khi thông báo lệnh của Trại, anh Ðội trưởng đã cố ý nhìn Tôi nhiều lần, như muốn nhắn nhủ cho riêng Tôi điều gì đó. Nhưng Tôi làm ngơ như không biết gì cả. Thông báo xong, anh em tản mát mỗi người lo việc riêng của mình. Anh Ðội trưởng cũng là một Ðại tá Không quân, đến gần Tôi hỏi nhỏ : -Mấy bữa trước thấy anh Quế, tối nào cũng xuống gặp anh tại chỗ nằm để làm gì vậy? Anh ấy có than van gì với anh không? Tôi trả lời : -Không, anh ấy đến xin thuốc lá hút như hồi còn nằm gần bên nhau chung một Ðội, chớ không nói gì cả.

Những ngày kế theo, Tôi đã giữ im lặng chẳng khai báo gì hết, và sẵn sàng ứng biến với Cán bộ nếu bị thẩm vấn. Tôi đã có kinh nghiệm, bị gọi làm việc với Cán bộ nhiều lần ở trong Nam rồi, nên không sợ.

Qua ngày hôm sau, mỗi Ðội đi lao động được tăng cường thêm 1 tay súng thứ 2. Bình thường chỉ có Quản Giáo đội và 1 bộ đội cảnh vệ mang súng thôi.

Ðội chúng tôi không ra Hợp Tác Xã lao động nữa, được giao cho công việc đào 4 hầm giam, bên sườn đồi dốc đứng, đối diện khu nhà ở của cán bộ K1. Kỳ hạn phải làm xong trong 2 ngày. Mỗi hầm bề ngang 80 phân, cao 3 mét, sâu vào lòng núi 3 mét. Mái hầm làm bằng các cây gỗ nhỏ, xếp liền nhau trên mặt đất sườn đồi, rồi cột tranh chổm và đổ đất phủ lên bên trên. Mỗi hầm cách nhau 1 mét. Mỗi hầm có 1 cửa gỗ có khoá riêng bên ngoài, và một gông bằng gỗ dầy có 2 lỗ to vừa bằng cổ chân, ở ngay cuối bệ đất nằm, đóng chắc vào 2 cột sát bên vách hầm.

Vài ngày sau vào lúc xế chiều, Ðội vừa đi lao động về đến trại, nghe tin là 4 anh trốn trại đã bị dân chúng bắt đem nộp cho trại, và đang bị cùm trong những hầm giam mà Ðội chúng tôi mới thực hiện xong từ mấy ngày trước.

Một anh bạn Tù thuộc Ðội nhà bếp, Ðại tá Trần văn Thăng cũng thân với Tôi, được Cán bộ dẫn đem thức ăn cho các anh bị giam, cho biết là các anh ấy bị đánh nhừ tử như cái rẻ rách, trông rất thảm thương. Những người bị kỷ luật, mức ăn bị giảm xuống chỉ còn 9 kí lô một tháng, so với bình thường là 12 kí lô.

Mấy ngày tiếp theo, vào một buổi sáng anh em đang ngồi đợi tại sân tập họp, chờ gọi xuất trại đi lao động. Có tin xì xầm rỉ tai nhau : “-Hồi đêm anh Thành xé chăn đắp, làm dây treo cổ lên mái hầm tự tử chết.”

Ðội chúng tôi ai cũng ngạc nhiên. Từ nền đất nằm lên tới mái hầm cao 3 mét, cả 2 chân bị cùm bằng gông gỗ, chỉ có thể ngồi lên với 2 chân duỗi thẳng sát đất, chớ không đứng lên được. Với tư thế ngồi bẹt dưới đất trên sàn nằm như vậy, 2 tay dơ thẳng trên đầu không cao quá 1 mét rưỡi, các cây phủ nóc hầm ken (xếp) sát liền nhau không kẽ hở, khung cửa lại cách xa nền nằm 1 mét, làm sao tự cột dây lên mái hầm mà treo cổ được. Nói như vậy chắc ai cũng biết anh Thành chết vì sao rồi, khỏi cần giải thích thêm.

Khi có quyền sinh sát trong tay, người ta muốn làm gì nói gì mà chẳng được. Ai xì xào nghi vấn thì lập tức bị kết ngay tội bôi xấu Chế độ, và sẽ bị kỷ luật tức khắc. Càng trình bầy minh oan tội càng nặng, vì ngoan cố không chịu nhận tội để sửa sai.

Không biết mấy bạn Tù trốn trại này, có dịp vào xử dụng nhà vệ sinh của anh Nam (người tù binh Mỹ xin ở lại làm công dân Việt Nam, lấy vợ Việt), mà lượm đọc những trang chữ chỉ đường dẫn lối không?

Hay là bạn nào đã nhặt đem về đưa cho đọc, mà tin tưởng cả gan liều lĩnh đặt kế hoạch rủ nhau trốn trại như vậy? Bản thân Tôi kính phục lòng can đảm của các anh ấy vô cùng.

Nhiều bạn cũng khen là can đảm. Nhưng cũng có bạn chê là liều không đúng lúc, chỉ tạo cơ hội cho bọn Qủy Ðỏ bầy đặt thêm biện pháp xiết chặt cách cư xử, hành hạ gây thêm khó khăn cho cả mọi người.

 

MẮC NẠN THIÊN LA ÐỊA VÕNG.

Biết rằng dầy đặc Công an,
Một lòng đã quyết, nguy nan chẳng sờn.
Cho Hùm ăn thịt còn hơn,
Sống trong lao nhục, chết mòn, tủi thân.
Sau đêm tầm tã mưa tuôn,
Tầng tầng sương phủ rừng hoang mịt mờ.
Cùng nhau thực hiện ước mơ,
Bốn Tù Lâm sản lủi vô lòng rừng.
Tìm đường trốn thoát khỏi bưng,
Theo sông, vượt biển, tới vùng Tự do.
Cho Thiên hạ rõ mưu đồ,
Cộng quân nham hiểm hơn Hồ ly tinh.
Bầy ra đủ thứ cực hình,
Ðọa đầy Công chức, Chiến binh Cộng Hoà.
Tiếc thay đại nạn chưa qua,
Loanh quanh rừng rậm, không ra được ngoài.
Cạn lương, tìm rẫy kiếm khoai,
Dân rình bắt được, thẳng tay hạ đòn.
Không cho phân giải thiệt hơn,
Xúm nhau đấm đá, hả cơn hận thù.
Theo lời Cách mạng mùa Thu,
Không theo Cộng sản, là thù của dân.
Dù là máu mủ, quyến thân,
Liệt vào giai cấp thành phần hiểm nguy.
Phải cần tiêu diệt hết đi,
Chỉ còn vô sản, vô nghì với nhau.
Tiến lên theo Ðảng dẫn đầu,
Hoà cùng các nước chư hầu Liên sô.
Ðại đồng Thế giới Tam vô,
Trở về nguyên thủy, tha hồ Tự do.

Nguyễn Huy Hùng

K1, LT1, Việt Cường, Yên Bái, tháng 10-1976

 

Chương 13

CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG NHÂN ĐẠO CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ

TRƯỚC SAU NHƯ MỘT

 

Khoảng vài tuần lễ sau vụ trốn trại xẩy ra, một đoàn Cán bộ Trung ương tới trại tổ chức học tập. Người ta nhai lại những gì đã học ở trong Nam trước khi ra Bắc.

Trong buổi “tổng kết thành quả thâu hoạch” tại Hội trường về đợt học tập, đã xẩy ra một chuyện bất ngờ làm anh em ngạc nhiên. Trưởng đoàn Cán bộ Trung ương, yêu cầu anh em “mạnh dạn” cho biết những khó khăn muốn được giúp đỡ để học tập cho tốt, cũng như “thành khẩn” trình bầy những u uẩn trong lòng làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập, kể từ ngày ra đến đất Bắc Xã hội Chủ nghiã.

Có mấy anh gan dạ, lên tiếng đưa ra 2 vấn đề xin được “giải toả thoả đáng” :

1.-Cán bộ cấp Trung ương, tuổi cũng bằng cỡ chúng tôi, mà còn gọi chúng tôi là các anh. Thế mà ở đây có một cán bộ rất trẻ, chỉ bằng tuổi con của chúng tôi, lại dùng từ “chúng mày” để nói với chúng tôi. Ông ấy còn nói là “con của chúng mày sẽ không bao giờ được vào Đại học”. Điều này trái hẳn với Chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà nước Xã hội Chủ nghiã, mà các Cán bộ đã giảng dạy cho chúng tôi bấy lâu nay, làm chúng tôi rất hoang mang.

2.-Nhà nước thông báo là chỉ đem tiền ăn và quần áo đủ dùng cho 1 tháng học tập. Đến nay đã hơn 1 năm rồi, quần áo mùng mền của chúng tôi đã rách, lại phải ra ngoài Bắc này thời tiết quá lạnh, không quần áo ấm làm sao đủ sức chịu đựng mà học tập lao động cho “tiến bộ” được. Chúng tôi tha thiết yêu cầu cho gửi thơ về gia đình, xin tiếp tế thêm quần áo lạnh và mùng mền.

Để trả lời, Trưởng đoàn Cán bộ Trung ương đã mau mắn khen ngợi tinh thần “thành khẩn” của anh em, và xác nhận rằng : “-Chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa trước sau như một, không có gì thay đổi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nông nổi, chúng tôi sẽ “kiểm thảo” để “sửa sai” cho những ai đã có hành động như vậy. Việc quần áo ấm thì chúng tôi sẽ trình Cấp Trên cứu xét giải quyết “khẩn trương”cho anh em. Hãy cố gắng học tập cho tốt đừng nản lòng. Việc được về sớm hay muộn, tùy thuộc vào tinh thần cố gắng học tập và mức tiến bộ của chính bản thân mỗi người. Các Chị và các cháu ở nhà vẫn sinh hoạt bình thường như mọi người khác. Các anh cứ yên tâm học tập cho nó tốt, không có gì phải lo lắng.”

Thật đúng là miệng lưỡi của “Vẹm” xảo quyệt, gian ngoan, lừa đảo, láo khoét, không sao tin được. Sau này, khi được tha về vào tháng 2 năm 1988, Tôi mới được gia đình kể cho biết là : “Tháng 9 năm 1975, sau khi Tôi đi trình diện tập trung cải tạo được 3 tháng, người con trai thứ của Tôi đang học năm thứ 3 Y khoa, Đại học Minh Đức tại Saigon, đã bị loại ra khỏi trường Đại học bằng 1 biện pháp vô cùng dã man.

Chiều ngày 26 tháng 9 năm 1975, các bạn thân cùng nhóm học với Con tôi đến nhà báo cho gia đình biết, trong lúc đang cùng mọi người nghe thuyết giảng tại Trường Luật ở đường Duy Tân, Saigon, Con tôi đã bị Công an bắt đưa lên xe chở đi đâu không biết.

Vợ của Tôi lo lắng chạy ngược chạy xuôi, trình hỏi khắp các cơ quan Công an Quận, Thành phố, không ai biết gì. Chồng đã bị bắt đi trình diện học tập, suốt mấy tháng trời bặt không tin tức. Nay, khi không, Con lại bị bắt đưa đi đâu mất tích chẳng biết sống chết ra sao. Vợ của Tôi buồn phiền, lo nghĩ sinh bệnh nặng, phải đưa đi cấp cứu mấy lần mới thoát chết.”

Thật là “Họa vô đơn chí, Phúc bất trùng lai”. Mặc dù thất vọng, nhưng gia đình chúng tôi theo đạo Phật, thấu hiểu “luật nhân quả”, nên luôn luôn tin tưởng rằng không bao giờ Trời hại người hiền lương. Gia đình chúng tôi chưa bao giờ làm điều thất đức, trước sau gì rồi cũng được an toàn thoát nạn.

“Ngày tháng buồn khổ cứ vô tình trôi qua. Bỗng dưng một hôm, vào khoảng tháng 9 năm 1976 tức là một năm sau, tự nhiên có một người trẻ, bạn tù của con Tôi mới được tha, tới nhà báo tin cho biết là con Tôi đang bị giam trong Khám Chí Hoà. Mừng rỡ, Vợ của Tôi chạy đi nhờ người chỉ vẽ cách làm đơn xin và được vào thăm nuôi con.

Hơn 1 năm xa cách, Mẹ con mới lại có dịp thấy mặt nhau, trong sân của Khám Chí Hoà. Thấy con chỉ còn da bọc xương, ốm tong ốm teo, ghẻ lở cùng mình, đầu tóc rụng trơ sọ, quần áo rách nát bẩn thỉu, không đi nổi, phải bò lết ra gặp Mẹ. Trước cảnh tượng vô cùng đau thương đó, Vợ của Tôi sót xa, nghẹn ngào, tim gan se thắt, đau đớn như đứt từng khúc ruột.”

Bây giờ, ghi lại những dòng này, Tôi vẫn còn bị xúc động mạnh, không kềm nổi những dòng lệ nghẹn ngào, thương sót cho Vợ Con đã vì mình mà phải chịu họa lây thảm thương đến như vậy. “Sau khi thăm Con ra về, Vợ của Tôi phải đi cầu cứu bạn bè quen biết, giúp chạy chọt nhờ các gia đình Cách mạng vẽ lối chỉ đường làm đơn xin bảo lãnh cho con được tha. Mọi thủ tục hoàn tất, việc cứu xét kéo dài một năm sau con trai của Tôi mới được tha về, vào tháng 7 năm 1977. Nhưng cậu ấy không được Phường, Quận, chấp nhận cho nhập “hộ khẩu” của gia đình.

Con của Tôi, phải nhờ bạn bè chỉ vẽ cách xin tình nguyện đi làm không công trong Phòng Y tế của Phường, tham gia đoàn công tác thường xuyên đến vùng Kinh tế mới Lê Minh Xuân, cách xa Saigon 15 cây số, chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào làm Thủy lợi tại đây. Ba năm sau mới được thâu nhận làm nhân viên chính thức của Phòng Y tế Phường 10, Quận Phú Nhuận, và được giúp đỡ cho gia nhập “hộ khẩu” gia đình.

Lúc được tha về, cậu ấy kể lại cho gia đình nghe, ngay khi bị bắt đưa lên xe, người ta bịt mắt không cho nhìn đường. Họ chở tới giam trong một căn nhà villa nào đó, đánh đập tra hỏi đủ điều suốt mấy ngày liền về tổ chức Phục quốc. Cậu ấy khai không biết gì cả. Tra khảo mãi không lấy được lời cung khai nào, họ bèn đem cậu ấy ra xe đưa vào Khám Chí Hoà, Saigon, nhốt trong phòng biệt giam tăm tối. Hàng ngày, công an đến tiếp tục thay phiên nhau đánh đập tra khảo cả mấy tháng trời, vì bị nghi vấn tham gia phong trào Phục quốc, chống lại Chính quyền Cách mạng. Không khai thác được manh mối nào để kết tội, nhưng vẫn bị giam giữ suốt 2 năm trường, ngắc ngoải gần chết vì bệnh hoạn, thiếu dinh dưỡng.”

Nhờ trước 30-4-1975, Tôi và các Con hàng ngày đến Võ đường luyện tập Nhu đạo và Thái cực đạo, nên biết cách chịu đòn và biết bảo vệ những chỗ hiểm nên không chết. Nhưng cậu ấy vẫn bị hư màng nhĩ lỗ tai trái, không nghe được nữa.

“Trong khi Tôi đang đi cải tạo, ở nhà Vợ của Tôi và những bà vợ các Sĩ quan, Công chức của Chế độ Saigon cũ, thường xuyên bị Phường buộc đến tập trung nghe cán bộ nói về các chính sách của Nhà nước, thúc đẩy “đăng ký tình nguyện” đi vùng Kinh tế mới tham gia sản xuất. Có chịu đi thì chồng mới sớm được tha về đoàn tụ với gia đình. Trong khi đi vùng Kinh tế mới, Nhà Nước sẽ “quản lý” giùm nhà riêng tại Saigon.

Sau những đợt học tập như vậy, Chính quyền địa phương còn cho các nhân viên Nam Nữ trẻ, tuổi cỡ đôi mươi, ăn mặc sắc phục bộ đội, mang súng, đội mũ “tai bèo”, đến tận nhà hăm dọa đủ điều, để ép phải ký giấy tình nguyện đi vùng Kinh tế mới. Nhiều Bà nhẹ dạ cả tin đã ra đi. Một thời gian sau bệnh hoạn, đói rách, con chết, không chịu nổi, tìm cách trở lại Thành phố thì không còn nhà để ở, phải sống trong hoàn cảnh bất hợp pháp không có “hộ khẩu”.

Riêng phần gia đình của Tôi, vì đang phải nuôi người con trai út mới sanh hồi tháng 1 năm 1976, nên nhất định lỳ không chịu đi, mặc dù Phường cử nhân viên đến nhà hàng tháng đốc thúc, hăm dọa, nào là không đi thì Nhà nước sẽ không bán gạo cho, bệnh hoạn sẽ không chữa bệnh cho… Cuối cùng, để gia đình không bị sách nhiễu nữa, cô con gái lớn của Tôi cũng là Sinh viên Y khoa, ngoài giờ đi học và thực tập tại Bệnh viện, đã phải tình nguyện đến làm việc không công cho phòng Y tế Phường, phụ trách châm cứu chữa bệnh cho đồng bào. Tới cuối năm 1977, tình nguyện và được chấp nhận cho đi làm tại nhà thương Nguyễn văn Cội vùng Củ Chi, cách Saigon chừng vài chục cây số. Đến gần cuối năm 1979, mới xin được chuyển về Saigon làm việc tại nhà thương Đồn Đất, khu Nhi (chữa bệnh con nít).

Năm người con nhỏ tuổi hơn, sau khi học hết Trung học, không ai được nhận vào Đại học, mặc dù điểm thi tuyển đạt rất cao, chỉ vì trong hồ sơ có vết tích Cha là Sĩ quan của chế độ cũ đang phải đi tập trung cải tạo. Chúng phải đi làm thợ cho các Tổ sản xuất mành Trúc, do gia đình các cán bộ Cách mạng làm chủ để kiếm cơm ăn hàng ngày.”

Vài ngày sau đợt học tập chấm dứt, một buổi sáng, các Đội đang ngồi tại sân tập họp đợi gọi đi lao động, một chuyện bất ngờ đã xẩy ra. Cán bộ trực trại tuyên đọc lệnh kiểm tra tư trang thay vì đi lao động.

Mọi người vào thu vén hết đồ dùng quần áo riêng của mình đem ra sân, bầy trước mặt trên đất, theo từng đội, tại khu vực do Cán bộ quản giáo đội chỉ định. Cán bộ đến kiểm soát kỹ lưỡng tư trang của từng người một, tịch thu những gì cán bộ cho là vi phạm quy luật trại giam, Tù không được lưu giữ bên người.

Kiểm tra suốt từ sáng đến trưa mới song. Một lệnh mới được loan ra, mỗi người chỉ được giữ lại hai bộ quần áo dùng đi lao động, còn tất cả phải xếp vào một bọc riêng cất vào kho, trong dẫy nhà ngói. Thuốc âu dược riêng của mỗi người, bỏ vào 1 túi nylon, viết giấy ghi tên mình để bên trong, cột lại, nộp cho trại giữ giùm, khi nào cần sẽ phát tùy theo nhu cầu. Tiền bạc và các vật qúy như đồng hồ đeo tay, nhẫn cưới, dây đeo cổ, đeo tay bằng vàng bạc, đều phải nộp cho trại cất giữ có cấp giấy biên nhận, khi nào được tha trại sẽ hoàn trả lại.

Một điều làm mọi người e ngại là, vàng thì ghi là kim loại màu vàng, lỡ sau này vàng sẽ bị trả lại bằng kim loại cũng màu vàng, nhưng là thau hay đồng thì sao. Lo vậy nhưng không ai dám nói gì.
Thật là thâm độc và xảo quyệt. Đây chính là biện pháp mà bọn Quản lý trại giam theo lệnh Nhà Nước, cần áp dụng đối với Tù chính trị miền Nam. Nhưng trước khi thi hành, họ lại tạo điều kiện xúi Tù trốn trại, rồi mới dựa vào cớ ấy để đưa ra biện pháp quản lý khắt khe, không ai có thể kêu ca quy tội cho họ là vô nhân đạo.

Cồng bom nhức óc, inh tai,
Chó tru thảm thiết, báo Trời rạng đông.
Dậy lo thu xếp chăn mùng,
Sẵn sàng tiếp tục thi công kiếp tù.
Sơn lâm chướng khí mịt mù,
Cỏ cây ướt sũng âm u lạnh lùng.
Não nề, ôí ! cảnh tập trung,
Dầm mưa dãi nắng, sức cùng lực tiêu.
Đắng cay, nhịn nhục đủ điều,
Gian lao, xốc vác, chỉ tiêu nặng nề.
Đọa đầy thê thảm ê chề,
Như bầy nô lệ làm thuê khốn cùng.
Đảng là vai chủ nhân ông,
Độc quyền sinh sát lao công tội tù.
Không theo Cách mạng muà Thu,
Tất nhiên Đảng phải diệt trừ không tha.
Khoan hồng, nhân đạo chỉ là,
Mượn lời Nhân Nghĩa, ba hoa bịp đời.
Lừa Nhân Thế mắc hợm chơi,
Bao giờ Cộng sản thương người Quốc gia !

K1, LT1, Việt Cường, Yên Bái, tháng 11-1976

 

Chương 14

YÊU LAO ĐỘNG LÀ YÊU XÃ HỘI CHỦ NGHĨA YÊU XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ YÊU NƯỚC

 

Chung quanh K1 không có đất để canh tác, nên sau khi hoàn tất đợt học tập được khoảng một tháng, tất cả chúng tôi được di chuyển tới một khu khác, vào tháng 12 năm 1976. Mức cao độ của Khu trại mới này, thấp hơn mức cao độ K1 cũ chừng 40 mét. Nó ở về phiá Nam cơ sở BCH Liên trại 1, cách xa khoảng 5 cây số, trên con đường đi xuống hướng sông Âu Lâu.Tới khu mới này, anh em chúng tôi bị chia ra làm 2 Phân trại : một nửa ở K2 (Trại Cây Khế) và một nửa ở K3 (Trại Cốc), cách xa nhau chừng một cây số.Ngay tại ngã 3 đường rẽ vào khu Trại mới này, có một Bệnh xá, nơi điều trị các Tù bệnh nặng, không thể chữa khỏi tại các Phòng Y tế Phân trại. Tôi không biết Bệnh xá có bao nhiều giường. Nhưng thấy có tới 4, 5 dẫy nhà, chắc phải có ít nhất là 50 giường. Vì ngoài các Phân trại giam các Tướng, Đại tá, Liên Trại 1 còn quản lý mấy trại khác giam cấp Trung tá, Thiếu tá, cũng ở trong khu vực này. Mỗi trại cách nhau từ 5 đến 7 cây số, dọc 2 bên đường dẫn xuống phiá sông Âu Lâu.

Khu mới đến, là một thung lũng hẹp nằm giữa 2 dẫy đồi, sườn dốc thoai thoải chừng 30 độ góc, dài khoảng 100 mét từ chân lên đến đỉnh. Một con suối hẹp nằm dọc suốt thung lũng, nước chẩy xiết qua nhiều thác nho nhỏ cao 1 mét, ra đến bên đường lớn rẽ phải xuôi xuống hướng Nam. Đằng sau 2 dẫy đồi là những dẫy núi cao hàng trăm mét, trùng trùng điệp điệp, sườn dốc 60 độ, trồng những cây bồ đề để lấy gỗ làm giấy. Cây nào cây nấy gốc to một người ôm không hết, cao cả chục mét. Miệng thung lũng nơi sát đường cái, bề ngang rộng khoảng 500 mét, càng vào trong sâu càng nhỏ dần lại còn chừng 300 mét.K2 ở ngay gần miệng thung lũng, cách Bệnh xá một cây số, gọi là Trại Cây Khế. Vì trên giữa đỉnh đồi gần bên trại có một cây khế to cao, xum xuê trái. Đi sâu thêm độ cây số nữa, tới K3 ở trong cùng của thung lũng, gọi là Trại Cốc.Đội chúng tôi thuộc nhóm giam tại K2 (Trại Cây Khế). Khu nhà dành cho Tù ở trên sườn đồi phiá Bắc con suối, đối diện với khu Cán bộ ở trên sườn đồi phiá Nam con suối. Con đường dẫn vào K3 (Trại Cốc) chạy dài theo sườn đồi bên phiá khu Cán bộ ở.

Các dẫy nhà Cán bộ ở sát trên đỉnh đồi, cao hơn so với các dẫy nhà Tù ở phiá bên đối diện. Chạy dài theo rià sân trước những dẫy nhà Cán bộ ở, có đào 1 giao thông hào sâu 1 mét rưỡi, với những vị trí để súng liên thanh, súng cối, hướng sang khu Tù ở.

Các dẫy nhà Tù ở đều rất cũ, làm bằng “chổm”, cất tựa theo sườn đồi thành 3 nấc. Nấc dưới thấp hơn nấc trên một chiều cao nhà, tính từ nền lên đến mái. Nấc dưới cùng gần bên bờ suối là khu Nhà Bếp, sân tập họp. Các nấc kế trên là những dẫy nhà ở.

Đường lên xuống giữa các nấc nhà, là những bậc thang đất đào vào sườn đồi. Đội chúng tôi ở trong dẫy nhà trên nấc cao nhất, phải leo tới 30 bậc thang đất, mỗi bậc cao cỡ 40 phân, mới tới nơi. Mùa mưa, lúc đi xuống thường bị trượt chân giáng đít trên bậc đất oành oạch. Có người còn bị tuột luôn mấy bậc mới khựng lại, làm dồn xương sống, choáng váng mặt mày. May mà không có ai bị gẫy xương, trật gân vì những tai nạn nho nhỏ này.

Dẫy nhà chúng tôi ở chứa 2 Đội. Trước dẫy nhà có một sân rộng khoảng 5 mét, để sáng sớm cả Nhà ra xếp hàng tập thể dục, tối điểm danh trước khi vào Láng ngủ. Sân còn được dùng làm mặt bằng để pha “chổm”, đan phên, đan tranh, làm “ki” (cáng khiêng)…

Trong nhà có 2 dẫy xạp nằm sát dọc 2 bên vách, rộng 2 mét bằng phên “chổm”. Phiá vách sát nóc nhà, bên trên đầu xạp nằm khoảng 1 mét rưỡi, có 1 giàn kệ rộng 60 phân cũng bằng “chổm”, để Tù cất đồ dùng thường ngày của mình trên đó cho gọn gàng. Một đường đi rộng 1 mét rưỡi, dài suốt từ đầu này đến đầu kia, nằm dọc chính giữa dẫy nhà.

Nhà có 3 lối ra vào đều không có cánh cửa. Hai cửa ở 2 đầu nhà có 1 tấm phên cao rộng 2 mét, đóng xuống đất trên hiên phiá ngoài, cách khung cửa 70 phân, để cản gió mưa không tạt vào nhà. Vách phiá lưng nhà, nằm song song với thành đất sườn đồi, nên không có cửa sổ. Vách phiá trước, trông ra sân nhìn sang khu Cán bộ ở, chính giữa có một khuôn cửa ra vào rộng 1 mét, và 4 khuôn cửa sổ ở 2 bên. Tất cả đều không có cánh cửa.

Những bọc tư trang riêng, hồi còn ở K1 (khu nhà ngói) Tù phải để vào kho chung, nay được trả lại. Nhưng phải xếp tập trung vào một góc nhà, và thuộc quyền kiểm soát thường xuyên của Quản giáo Đội. Không ai được đụng tới, mỗi khi cần lấy thứ gì phải xin phép Quản giáo cho mới được.

Khu trại này không biết do ai dựng lên từ bao giờ, tình trạng rất cũ kỹ. Các vách “chổm” đã khô cong, kẽ hở rộng không còn khả năng chắn gió Bấc mùa Đông, được dự đoán sẽ “khắc nghiệt” hơn mọi năm. Chung quanh trại chưa có hàng rào. Cần có thêm dẫy nhà làm Hội trường, cho khoảng 200 người ngồi học tập trong những ngày mưa gió. Cần có Thư viện trưng bầy sách báo do các Lãnh tụ Cộng sản Việt Nam viết, truyện dài truyện ngắn Xã hội chủ nghiã do các Văn nô Cộng sản sáng tác, hoặc dịch từ các truyện của Liên sô. (Tù sẽ phải mượn đem về láng ở mà đọc, mà nghiên cứu, nghiền ngẫm để thấm nhuần tư tưởng Cách mạng tháng 8, cho mau trở thành con người Xã hội Chủ nghĩa.) Cần có 1 phòng hớt tóc chung cho mọi người. Cần có 1 Phòng Y tế chữa trị những bệnh thông thường hàng ngày cho Tù, để luôn luôn bảo đảm nhân số tham gia lao động cao. Mấy dẫy nhà bên khu Cán bộ ở, cần phải phá đi làm mới cho thêm khang trang, an toàn khi giông bão.

Đấy là những việc cần làm “khẩn trương”. Mùa mưa dầm gió Bấc của miền Bắc Việt Nam, đã bắt đầu rả rích từ gần 2 tháng rồi. Vì thế, trừ 2 Đội Rau Xanh và Đội Anh Nuôi ra, tất cả các Đội đều phải tập trung đi chặt “chổm”, chặt giang, đốn gỗ, cắt sậy, lấy lá chuối rừng đem về thực hiện những công tác cần nêu trên.Đây là “đợt thi đua mới” được “phát động” để chuẩn bị mừng đón Tết Đinh Tỵ 1977. Mọi người lại phải cố gắng tham gia thể hiện cho nó tốt, mau “tiến bộ”, để hy vọng sớm được tha về “đoàn tụ” bên Vợ Con.Thoạt đầu, Đội chúng tôi được đưa đi theo đường cái lớn, xuôi xuống hướng Nam chừng 5 cây số để chặt “chổm”.

Trên đường đi, cách Trại chúng tôi khoảng 3 cây số, gặp 1 trại gồm chừng 10 dẫy nhà “chổm” nằm sát bên trái đường, không biết giam Tù thuộc cấp bậc nào, bao nhiêu người. Trại này được xây dựng trên sườn núi cao không có khe suối. Nên phải dựng một giàn ống nứa dài, cao hơn mặt đường độ 6 mét, suốt từ suờn núi bên phải nơi có mạch nước chẩy ra, băng qua đường, sang tận sườn núi bên trái nơi dựng trại, để tiếp nước ăn cho Trại.

Rừng “chổm” cách trại này khoảng 2 cây số, dưới khe phiá bên trái đường. Khu vực sát bên đường người ta đã chặt trụi trơ hết. Chúng tôi phải đi vào trong sâu, cách đường 2 cây số mới có “chổm” để chặt.

Ít bữa sau, Đội chúng tôi lại được đưa đi về hướng Bắc, cách trại chừng 1 cây số, để đốn cây bồ đề về làm cột, dui, và kèo nhà. Chuyến đi này cheo leo khó khăn vất vả hơn. Muốn tới khu vực có bồ đề được Công ty Lâm sản Nhà Nước đánh dấu loại bỏ, cho phép chặt tiả, phải mất cả tiếng đồng hồ, leo lên tụt xuống 4 ngọn núi cao cỡ trăm mét nối tiếp nhau mới gặp. Không ước lượng được khoảng cách từ đường cái vào là bao xa.

Ngày thứ 2 đi đốn bồ đề, trên đường về Tôi đã bị một tai nạn khủng khiếp. Vết thẹo oan nghiệt nhớ đời, dài 3 phân, vẫn còn khắc rõ ràng nơi cổ tay trái, sát ngay phiá trên chỗ đeo đồng hồ. Từ ngày ấy đến nay, mỗi khi Tôi đưa tay lên xuống làm việc gì cũng thấy nó, một dấu ấn hận thù không bao giờ quên được. Tai nạn đã xẩy ra thật bất ngờ, Tôi không có cách nào phản ứng kịp để tránh nó.

Cán bộ quy định, một ngày mỗi người phải chặt và vác về 4 cây bồ đề dài 5 mét, đường kính phiá gốc tối thiểu là 20 phân. Ai mạnh có thể vác cả 4 cây một lượt về nộp xong thì được nghỉ, coi như ngày công lao động đã hoàn tất. Ai yếu như Tôi thì phải cột 2 cây làm một để vác làm 2 chuyến.

Vác gỗ vượt qua khỏi các đỉnh phiá trong, sườn dốc lài lài khoảng 30 độ góc, thì ra tới đỉnh sau cùng để xuống đường. Sườn núi sau cùng dốc đứng tới 60 độ, dài chừng 80 mét, nên không thể vác gỗ đi xuống được. Phải thả cho bó cây tự động trôi, tuốt từ trên cao xuống khe chân núi trước, rồi người mới từ từ đi lần xuống sau để vác ra đường.Suốt đêm hôm trước, Trời mưa rả rích nên cỏ và đất núi trơn trợt. Sau khi đã thả hết cả 4 cây gỗ, cột thành 2 bó trôi xuống chân núi. Tay phải cầm con dao dựa chặt gỗ rất bén, Tôi từ từ đi xuống. Chẳng may bị trượt chân ngã nhào, lăn vòng vòng theo sườn dốc, khoảng chừng 30 mét tới khe chân núi mới khưng lại.Sau cơn hoảng hốt, ngồi lên được thì thấy mu bàn tay trái đầm đià máu. Vén tay áo lên xem thì thật khủng khiếp, vết dao cắt đứt thật sâu, da miệng vết thương banh ra chừng 1 phân, trông thấy xương cánh tay trắng hếu. Tôi vội lấy chiếc khăn lông, đang cuốn ở cổ chống lạnh, để băng chặt vết thương lại. Rồi dùng bàn tay phải bóp chặt chỗ vết thương cho máu ngưng chẩy, vừa đi vừa chạy theo kiểu Hướng đạo sinh, suốt hơn 2 cây số đường về phòng Y tế của K2 xin băng bó. Mặc dù ở ngã 3 rẽ vào K2, có Bệnh xá Liên trại nằm ngay đầu đường, nhưng vì Cán bộ canh cổng không cho vào xin cấp cứu, nên đành chịu.

Về tới K2, sau khi được anh bạn Tù làm Y tá phụ Cán bộ trưởng Phòng Y tế, rửa khử trùng và băng bó vết thương xong. Tôi phải năn nỉ nhờ anh ấy đi gặp Cán bộ Y tế, xin giùm giấy chứng nhận bị thương tích trầm trọng không lao động tiếp được để về Láng nghỉ. Tôi cũng nhờ anh ấy xin Cán bộ, cho phép lấy thuốc trụ sinh riêng của Tôi gửi trại giữ để uống liền. Nhờ thế, những ngày kế theo, vết thương không làm độc.

Tôi chỉ được nghỉ 2 ngày làm việc nhẹ, phụ lặt rau cho nhà bếp, rồi lại phải tiếp tục theo Đội đi ra ngoài lao động như thường.

Cho đến bây giờ, Tôi vẫn không hình dung ra được là dao đã cứa cổ tay của Tôi, vào lúc nào trong khi ngã lăn lông lốc xuống núi. Nếu chẳng may mà dao lại cứa nhằm chỗ khác như cổ, mặt, bụng, hoặc vết cứa ở cổ tay chỉ nhích tới phiá trước chừng nửa phân thôi là đứt gân máu lớn. Máu sẽ chẩy nhiều hơn, nằm ngất sỉu nơi khe chân núi đến khi có người phát giác ra, thì chắc là Tôi đã không phải tiếp tục chịu đọa đầy cả hơn chục năm trời tiếp theo. Xác đã được vùi sâu nơi đồi thông phiá bên trái đường vào K2, như các bạn Đại tá xấu số Bá-Thìn tự Long, và Huỳnh Hữu Ban Trưởng Phòng 5 Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà rồi.

Trong lúc vận sui, vẫn có những cái may đến bất ngờ. Ngày Tôi phải đi lao động trở lại, Đội không đi lấy bồ đề nữa, mà đi lấy lá sậy và lá chuối rừng về phơi khô, kết phủ trên xạp nằm và chung quanh vách nhà cho kín gió, để mùa Đông trong Láng ở được ấm cúng hơn.

Nơi lấy lá ở ngay trên một khoảnh đồi, bên phiá trái con đường gần sát bià khu rừng nằm giữa K2 và K3. Bên sườn đồi, thấy nhiều dấu vết nền gạch của những căn nhà đã bị triệt hạ, chung quanh có những cây ổi, cây tranh. Đặc biệt trên đỉnh đồi, có 1 cây khế khá to đang đầy trái. Tuổi thọ của nó ít ra cũng khoảng vài chục năm chớ không ít. Sau này, một bạn vốn là diện rộng trong K3, trách nhiệm đi trăn trâu hàng ngày, bị chuyển đi trại Tân Lập, Vĩnh Phú một lượt với Tôi cho biết, theo lời tiết lộ của Quản giáo đội anh ta, hồi 1954 khu Cốc này đã từng là nơi có những nhà giam Tù binh Pháp thua trận Điện Biên Phủ.

Một tuần sau, Đội chúng tôi lại được đổi công tác. Đi lên hướng Bắc, xa hơn BCH Liên trại 1 và K Lò Gạch chừng 3 cây số, vào rừng xa đường lớn cả hơn cây số, để chặt giang. Đem về, pha, chẻ, tước thành nan đủ loại khác nhau, làm lạt cột, chuốt nhẵn đan nong, nia, rổ, rá, kết mành mành che cửa nhà ở của Cán bộ.

Con đường đi lấy giang, còn gian khổ hơn con đường đi lấy bồ đề nhiều. Sườn núi dốc đứng, dầy đặc cây gai và dây rừng chằng chịt, không có đường mòn để đi, phải lội ngược dòng suối, suốt từ ngoài đường lớn vào đến nơi có giang. Lòng suối lổn nhổn toàn đá sỏi, lởm chởm đầy rong rêu trơn trợt. Dòng nước chẩy xiết cóng buốt, có chỗ xấp xỉ cổ chân, có chỗ cao đến gần đầu gối. Chẳng may bị trượt chân, là té lăn đùng ra suối không gượng được. Quần áo ướt sũng từ đầu đến chân, bị dòng nước cuốn trôi một đoạn xa mấy mét, mới quờ nắm được cây bên bờ giữ cho khựng lại để đứng lên. Phải lội như vậy hơn một cây số, mới gặp rừng giang để chặt.

Giang là một loại họ nhà tre, nhưng lại mọc nằm bò dài từ bờ suối lên sườn núi, chớ không mọc thẳng đứng như tre hoặc “chổm”. Nó chen nhau chằng chịt, vươn dài chồng lên nhau để tìm ánh sáng mặt trời, nên rất khó chặt, và rất nguy hiểm.

Chặt giang nguy hiểm, vì chặt ở gốc sát mặt đất không được, phải trèo lên đứng trên đỉnh những gốc người ta đã chặt trước, để chặt từ lưng chừng thân cây cách gốc khoảng hơn 1 mét.

Hai chân phải đứng trên những gốc cụt. Tay trái nắm vịn vào thân cây khác kề bên, để giữ thăng bằng. Tay phải cằm dao chặt thật mạnh, làm sao chỉ một nhát chéo là đứt băng luôn thân giang. Nếu không thân giang sẽ bị tước ra không còn nguyên vẹn, trở thành vô giá trị, phải đi chặt cây khác. Đường kính thân cây giang chỉ khoảng 6 phân là lớn nhất.

Bao giờ cũng phải mò tìm chặt bỏ khúc ngọn trước, rồi mới chặt đoạn gốc sau. Vì thế, khi đoạn thân còn lại đứt lià khỏi gốc, là nó lao tuột xuống đất chẳng biết hướng nào. Có thể bật lên rồi mới tuột xuống, đẩy mình ngã ngửa ra phiá sau, gây thương tích cho chính mình. Hoặc có thể lao xa khỏi bụi gốc, đâm nhằm bạn nào đứng gần đó.

Đây là lần đầu tiên trong đời phải làm việc này. Không ai có kinh nghiệm để mà đề phòng, nên đã xẩy ra một tai nạn hú hồn hú viá. Một anh đang đứng đảo mắt tìm giang để chuẩn bị chặt, bị cây giang của anh khác chặt đứt ở bụi gần đó lao xuống, sướt qua cạnh ngoài đùi đâm xuống đất. Chỉ chệch sang bên trái độ 10 phân là gẫy đùi, và nhích lên một gang tay nữa là thủng bụng.
Một ngày mỗi người phải chặt 1 bó 10 cây dài 4 mét, bó chung lại vác về trại.

Việc đi lấy “chổm”, lấy bồ đề, lấy giang, thường phải làm thông tầm (không về nghỉ trưa tại trại), nên trước khi đi được lãnh luôn cả phần ăn sáng và phần ăn trưa, đem theo ăn tại chỗ.

 

LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG

Cô đơn bên những cô đơn,
Phùn (1) bay rát mặt, Bấc (2) dồn buốt da.
Âm thầm nối bước xông pha,
Ngược dòng suối cóng xót xa thân gầy.
Rừng giang (3) chằng chịt tầng cây,
Âm u mờ ảo gây gây lạnh hồn.
Đèo cao, khe, dốc dập dồn,
Dạ dày thôi thúc từng cơn đói lòng.
Chiêu xuôi nhờ ngụm nước trong,
Kèm bi “Thống Nhất”(4) chập chờn khói tan.
Cho quên bao nỗi cơ hàn,
Cho tâm bền vững tính toan sự đời.
Gian truân thầm trách Ông Trời,
Bầy trò dâu biển khiến người khổ đau.

Trại Cây Khế (K2), LT1, Yên Bái. Tháng 12-1976.

 

Mưa phùn = mưa nhẹ hạt, bay lất phất theo gió dầy đặc như sương mù.
(2) Gió bấc = gió lạnh từ phương Bắc thổi xuống, vào mùa Đông .
(3) Giang là 1 loại họ nhà tre, các đốt dài rỗng ruột và mình nạc dầy hơn tre, sợi mộc dẻo dai, có thể tước thành nan thật mỏng để làm lạt buộc rất bền. Vào dịp Tết, người miền núi thường chẻ thành lạt, bó từng bó 100 sợi bán ngoài chợ, cho dân thành thị mua về cột gói bánh chưng.
(4) Thuốc lào hiệu “Thống Nhất” sản xuất tại miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, Trại phát không cho Tù hàng tháng mỗi người 2 gói 5 gram. Đây là một loại lá tương tự như cần sa, do người vun trồng chăm sóc như trồng rau. Tới lúc đủ già, hái lá về xấy khô, ủ với một chất hoá học, rồi thái nhuyễn cỡ sợi chỉ, ép thành bánh vuông đem bán. Người dùng vê từng viên nhỏ, để vào lõ chiếc “điếu cầy” hay “điếu bát”, dùng lửa đốt cháy để hút khói vào phổi. Hơi khói sẽ hoà tan theo máu, làm cho cơ thể tê mê, quên đói, quên lạnh, dễ du giấc ngủ. Không có điếu, người dùng có thể lấy một chiếc lá cuốn tròn, để viên thuốc vào một đầu, đặt đầu kia của cuốn lá vào miệng, rồi cầm lửa đốt thuốc và hút khói vào phổi. Hút bằng cuốn lá như vậy, luôn luôn phải ngậm trong miệng một ngụm nước để lọc khói cho đỡ nóng họng.

 

Chương 15

NHÂN QUYỀN TRONG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

 

Sau khi chuyển về K2 được ít ngày, Trại cho Tù biên thư về gia đình xin tiếp tế quần áo lạnh, gửi qua đường Bưu điện, bằng những bưu kiện 2 kílô.

Mỗi trại giam do Bộ đội Cộng sản quản lý đều dùng Ám số hộp thư giống như KBC (khu bưu chính) của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, hoặc hộp thư riêng ở bên Hoa Kỳ (P.O. Box và Zip Code, nhưng không ghi tên thành phố), để dùng làm địa chỉ của Trại. Vì thế, gia đình nhận được thư, không thể biết thân nhân của mình đang bị giam tại đâu, thuộc vùng nào trong lãnh thổ Việt Nam.

Thư gửi đi, Tù phải để phong bì mở không được dán kín, để Quản giáo Đội đọc kiểm duyệt, rồi mới dán lại giùm và chuyển đi. Nếu trong thư ai có lời lẽ xa xôi, bóng gió than khổ, hoặc tiết lộ địa điểm trại giam thì sẽ bị gọi lên làm việc. Cán bộ lên giọng giáo dục, cảnh cáo cả tiếng đồng hồ, rồi bắt viết lại đúng theo hướng dẫn mới chuyển đi. Bị cảnh cáo một lần là coi như có tì vết trong hồ sơ cá nhân. Kể từ đó về sau, đến trại nào cũng bị Cán bộ “quan tâm” theo dõi.

Trong khi chờ hồi âm của gia đình, Trại được Trung Ương tiếp tế một số áo bông cũ dài tay, chăn (mền) bằng sợi pha bông, và màn (mùng) bằng vải sô Nam Định, để phát cho Tù. Áo bông và chăn thì mỗi người được phát một chiếc. Ai hên, lãnh được chiếc áo còn tốt thì mừng. Ai xui xẻo gặp phải chiếc cũ rách, đành buồn thiu cam chịu. Trường hợp gặp chiếc cỡ nhỏ chật hẹp, hay rộng dài thùng thình không mặc được, thì chịu khó tìm bạn bè cùng Đội mà đổi. Nếu không xong cũng đành chịu vậy. Riêng mùng (màn) thì ai không có, hoặc có nhưng đã quá cũ vàø bị rách nhiều chỗ mới được phát.

Khoảng cuối tháng 1 năm 1977, các bưu kiện từ miền Nam gửi ra cho Tù bắt đầu ào ào đến trại. Bưu kiện chỉ được phát vào buổi chiều, sau giờ lãnh cơm tối xong. Cán bộ phụ trách bưu phẩm, dùng loa đọc tên Tù lần lượt sang trụ sở BCH trại, để ký hồ sơ lãnh nhận bưu kiện của mình, trước sự chứng kiến của Quản giáo Đội.

Tù phải nói đúng tên người gửi bưu kiện, mới được ký sổ nhận lãnh. Trường hợp nói không đúng tên người gửi, được phép đoán thêm những tên khác, cùng với sự liên hệ thân thuộc của người ấy đối với mình. Nếu chẳng may sai cả, Trại sẽ giữ lại điều tra bổ túc và quyết định sau.

Trường hợp này đã xẩy đến với Tôi. Con gái thứ của Tôi đi gửi bưu kiện, nên phải ghi tên cô ấy là người gửi, chớ không phải tên Vợ tôi. Vì thế mới xẩy ra chuyện rắc rối cho Tôi. Theo nguyên tắc, Sở Bưu điện chỉ nhận Bưu phẩm để gửi đi, nếu so sánh tên và địa chỉ người gửi ghi trên Bưu phẩm, đúng với tên và địa chỉ ghi trên Thẻ căn cước của người mang Bưu phẩm tới gửi. Tôi đọc tên Vợ, không đúng. Cán bộ cho đọc một tên khác. Tôi đọc tên người con gái lớn, cũng không đúng. Cán bộ hỏi còn ai khác gửi nữa không? Tôi đọc tên người con gái thứ. Cán bộ mới đưa cuốn sổ ký nhận bưu kiện ra, và nói ký vào đây.

Quản giáo Đội của Tôi ngồi chứng kiến việc phát Bưu phẩm, cười cười hỏi : “-Tại sao vợ anh không gửi mà lại là con gái thứ? Chắc mấy người kia di tản hết rồi phải không?” Tôi trả lời không, tất cả Vợ Con của Tôi đều ở Saigon. Cán bộ xem lại bản tự khai lý lịch gia cảnh của Tôi thì rõ. Tôi đâu có dám nói dối với Cách mạng. Ông ta tủm tỉm tiếp : “-Nói chơi vậy thôi. Trung ương, Địa phương toàn là Cán bộ của Đảng và Nhà nước lãnh đạo cả, nên biết hết. Các anh dối trá làm sao được.”
Mọi bưu kiện nhận, phải mở tung ra để Quản giáo Đội kiểm tra tại chỗ, rồi mới được đem về. Một rắc rối đã xẩy ra ngay khi gói quà đầu tiên được mở, làm Cán bộ phải ngưng lại để đi xin chỉ thị của Trại trưởng. Vì lẫn trong quần áo có tiền, thư, và thực phẩm khô : đường cục, mật ong, lạp xưởng, bánh quy, trà, cà phê, thuốc chữa bệnh, sữa bột…

Cuối cùng thì mọi việc cũng được giải quyết tốt đẹp. Theo lời giải thích của Cán bộ : “-Trưởng trại nhận thấy trong thời gian qua, anh em đã có thiện chí cố gắng cải tạo tốt, tình trạng sức khoẻ đang bị xa xút trầm trọng, nên cho phép nhận cả thực phẩm khô để bồi dưỡng mà học tập cho nó tốt hơn nữa. Còn tiền và Âu dược thì phải gửi trại giữ như đã quy định trước đây.”

Dịp này, Tôi cũng nhận được 4 bưu kiện. Trong các bưu kiện Tôi nhận, lẫn với áo len, khăn len quàng cổ, mũ dạ, tất tay bằng da, giầy, bàn chải và kem đánh răng, sà bông, khăn mặt, tất (vớ), có cả thuốc trụ sinh, thuốc kiết lỵ, thuốc tiêu chẩy, thuốc ngừa sốt rét, thuốc bổ tổng hợp các loại vitamin, thực phẩm khô, và thư, nhưng không có tiền. Thư bị Quản giáo giữ lại đọc để kiểm tra, mấy ngày sau mới cho lại.

Một điều làm Tôi vừa thích thú vừa buồn cười, thán phục cái mánh khoé tinh khôn không ngờ của Vợ và các Con. Đôi giầy Bata cao cổ, được tách 2 chiếc riêng rẽ, để gửi thành 2 bưu kiện khác nhau. Trong mỗi chiếc nhồi đầy thực phẩm khô cho đủ 2 kílô. Nếu chẳng may, 1 trong 2 bưu kiện không đến nơi, thì chỉ có 1 chiếc giầy làm sao dùng cho cả 2 chân được?!

Vợ của Tôi là người lười viết thư nhất trần gian, nên đã để cô gái thứ biên thư cho Tôi, dựa theo ý hướng dẫn tổng quát của Mẹ. Trong thư đại ý nói : “-Cả nhà bình yên, sinh hoạt bình thường. Anh Hải đã được đưa đi vùng Kinh tế mới. Má nhớ thương Bố và anh Hải, nên buồn bịnh chút đỉnh, nhưng thường xuyên được Chính quyền Cách mạng địa phương giúp đỡ tận tình nên không sao. Cả nhà mong Bố ráng cố gắng học tập cho mau tiến bộ, để sớm được về đoàn tụ với gia đình.”
Thư gia đình gửi đến mà không viết như vậy, thì chẳng bao giờ Tù được nhận để đọc. Để được trông thấy tuồng chữ thân thương của thân nhân. Để xoa dịu nỗi cô đơn trong cuộc sống khổ nhục hàng ngày, dù biết rằng những lời nói trong thư đều trái ngược hẳn với sự thật.

Đầu năm 1988, Tôi được tha về gặp gia đình mới biết, ý chính trong thư đã nhận được muốn nói là : “Anh Hải bị bắt giam trong tù giống như Bố nên Má thương. Má bịnh vì Chính quyền Cách mạng thường xuyên đến thúc ép buộc gia đình đi vùng Kinh tế mới, nhưng gia đình không chịu đi.”
Một số bạn Tù không nhận được bưu kiện, vì vợ con đã di tản hoặc thất lạc không biết hiện ở đâu, để gửi thư liên lạc. Ngược lại, một số khác gia đình giầu có dư giả, lúc đi trình diện tập trung đem theo rất nhiều tiền. Hồi khởi sự học tập 10 bài nhồi sọ tại Long giao, trại mở “Căng tin”, mua ăn “thả giàn” mà vẫn chưa hết. Nay lại nhận được thêm tiền trong các bưu kiện, nên mạnh dạn đề nghị BCH trại mở “Căng tin”, bán đường, bánh, kẹo, sữa… để anh em mua ăn “bồi dưỡng” cho cơ thể khoẻ mạnh, tiếp tục học tập được mau “tiến bộ”.

Vài tháng sau khi chiếm xong toàn miền Nam Việt Nam, Chính quyền Cộng sản Bắc Việt đã thực hiện Chính sách bóc lột san bằng giai cấp, một cách vô cùng tàn bạo trắng trợn. Họ ra lệnh đình chỉ việc lưu hành tiền miền Nam Việt Nam, để đổi ra tiền miền Bắc với giá biểu 500 đồng bạc miền Nam ăn 1 đồng bạc miền Bắc.

Cả Thế giới đều biết, tiền miền Bắc thường được gọi nôm na từ hồi 1946 là tiền CỤ HỒ, không được quốc tế công nhận, vì không có vàng ký thác trong Ngân hàng Thế giới, để bảo chứng khi phát hành như đồng bạc của miền Nam Việt Nam, nên chẳng có giá trị gì. Nó chỉ là những mảnh giấy Tín phiếu tượng trưng, để trong nước dùng trao đổi với nhau mà thôi.

Tình trạng kinh tế đình trệ từ sau 30-4-1975 tại miền Nam Việt Nam, đã làm vật giá leo thang nhanh chóng, đồng tiền Cụ Hồ liên tục bị phá giá. Số tiền nhỏ nhoi anh em Tù gửi Trại giữ, để dự phòng trường hợp được tha có tiền ăn đường về với gia đình, cũng sẽ chẳng còn giá trị bao nhiêu. Hơn nữa, anh em bắt đầu cảm nhận thấy rằng còn lâu mới được tha. Với hoàn cảnh đầy đọa đói ăn, lao động cực khổ vất vả như vầy, chắc gì còn sống được đến ngày tha về với Vợ con mà để dành. Mình chết đi chắc gì Vợ con được biết, để mà xin lãnh nhận lại. Do đó, anh em mới đề nghị trại cho mua đồ ăn “bồi dưỡng” hết đi cho rồi.

Trung úy Khảm, Quản giáo Đội chúng tôi, không biết thứ vị Đảng ủy của ông ta cỡ nào, và sự quen biết ảnh hưởng của ông ấy đối với các Chủ nhiệm Hợp tác xã địa phương ra sao, mà thấy cả Trại trưởng lẫn các cán bộ trong Trại đều mến nể. Ông ta thường được Trại trưởng chỉ định đi cùng Quản giáo Đội Nhà Bếp, tiếp xúc địa phương để trao đổi mua bán thực phẩm cung cấp cho trại. Nhờ thế, khi anh em đề nghị ông góp ý kiến với Trại mở “căng tin” bán các thức ăn bồi dưỡng, thì ông ta đã sốt sắng “đề bạt” ngay với Trại trưởng.

Vài ngày sau, ông ta cho biết : “-Không mở “căng tin” được, vì trái quy định của Nhà Nước đối với Trại viên Cải tạo. Nhưng Trại trưởng “nhất trí”ù để ông ấy đi tiếp xúc với các Hợp tác xã, mua giùm “mật đường”, bánh khách, kẹo lạc, cho anh em “bồi dưỡng”. Tùy theo số tiền riêng của mỗi người đang gửi trại giữ. Ai muốn mua phải “đăng ký” tên với Quản giáo đội, tập trung trình Trại xét đưa người đi mua giùm cho.”

Giá cả các món hàng được thông báo qua các Đội trưởng. Các Đội trưởng làm bảng liệt kê tên những người xin mua, món gì, bao nhiêu, nộp lên Quản giáo đội.

“Mật đường” là nước miá ép ra, đem đun sôi cho bốc hết hơi nuớc, trở thành 1 chất lỏng sền sệt đặc hơn mật ong mầu nâu xậm. Để nguyên như vậy gọi là “mật đường”. Nếu người ta đem đổ ra các tấm phên lớn, để cho khô cứng lại, cắt thành từng miếng hình chữ nhật 10 phân bề ngang, 20 phân bề dài, ngoài Bắc gọi là đường phên hoặc đường thẻ. Còn ở trong Nam và miền Trung, thường đổ vào những chiếc chén (bát) để khô, gọi là đường chén hay đường tán. Muốn có đường cát vàng hay đường trắng tinh, người ta còn phải đem loại đường thô này biến chế và lọc với một loại hoá chất mới thành.

Kẹo lạc sản xuất tại vùng Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, Xã hội Chủ nghĩa này cũng rất đặc biệt. Đó là những miếng bánh tráng mỏng, hình tròn, đường kính độ 5 phân, có một lớp hột đậu phộng rang chín và “mật đường” mỏng rải đầy trên mặt bánh. Sau đó xếp thành từng chồng 10 cái, cuốn trong những miếng lá chuối khô để đem bán.

Bánh khách là loại bánh Trung Thu nướng, theo lối gọi của người miền Bắc. Thường thì vỏ bao ngoài làm bằng bột mì, nhân bên trong gồm 2 loại khác nhau. Có thể là nhân chay, làm bằng đậu xanh hoặc hạt sen trộn đường cà nhuyễn. Có thể là nhân mặn, trộn lẫn lộn các thứ thịt khô (lạp xưởng, gà quay), lòng đỏ trứng muối, mứt bí, hạt dưa, vây (vi) cá… gọi là nhân thập cẩm.
Nhưng bánh khách ở vùng này, vỏ bánh không biết làm bằng loại bột gì mà khô cứng, nhân là khoai lang luộc chín trộn chút đỉnh đường cà nhuyễn, mùi vị lợ lợ chua chua. Bánh đem về có nhiều chiếc bị nứt, mốc xanh, hình như không bán được đã trữ trong kho lâu quá. Nhưng Trại đã lỡ mua về không đem trả lại được, đành phải nhận cắt bỏ những chỗ mốc mà ăn cho đỡ tiếc tiền.
Tôi không nhớ giá tiền của mỗi món là bao nhiêu.

Cá nhân Tôi cũng còn chút tiền gửi trại, nên “đăng ký” mua hết trọn số tiền, được 2 Gô mật đường (lon đựng sữa bột Guigoz, tính tương đương 2 kílô), 2 chiếc bánh khách, và 2 gói kẹo lạc. Có nhiều bạn mua được nhiều hơn vì họ có nhiều tiền. Nhưng trước sau Trại chỉ đưa người đi mua có 3 đợt là chấm dứt, vì tiền của mọi người gửi Trại đã tiêu hết.

Một buổi chiều đi lao động vừa về tới Trại, được gọi tên trình diện kho tiếp liệu của Quản giáo Nhà Bếp, lãnh 2 Gô “mật đường” “đăng ký” mua từ mấy ngày trước. Tôi đem về Láng, ngồi múc từng muổng nhỏ nhấm nháp, tăng cường chất ngọt cho cơ thể đã bao ngày thiếu thốn. Bụng bảo dạ rằng, chỉ ăn tối đa một phần năm Gô thôi (250 gram). Nhưng “mật đường” thơm thơm ngọt ngọt thấm giọng, tì tì hết muổng này đến muổng kia, cạn tới nửa Gô lúc nào chẳng hay.

Anh bạn trùng tên với Tôi, Tôn Thất Hùng (có biệt hiệu là NGƯỜI VỀ TỪ TÂN CẢNH, vì anh ấy thoát chết, không bị bắt làm tù binh, trong vụ quân Cộng sản Bắc Việt tràn ngập Sư đoàn 22 đóng tại Dakto, hồi năm 1969) còn ngon hơn Tôi nhiều. Anh ấy ăn một hơi, hết luôn 2 Gô trong buổi tối mới lãnh về. May không ai bị đau bụng tiêu chảy hay xình đầy bụng chi cả.

Những ai bị đưa ra Bắc cải tạo, mới biết rõ công dụng đa dạng của chiếc lon Gô. Nó nguyên thủy là chiếc lon đựng sữa bột hiệu Guigoz, bằng nhôm, nhẹ, mỏng bền, có nắp đậy kín, cao 20 phân, đường kính cỡ 8 phân. Ăn hết sữa bột rồi, thay vì vứt chiếc lon không đi, anh em giữ lại dùng để nấu đồ ăn, tích trữ nước uống, cất đường, mì ăn liền, và các loại thực phẩm khô khác, không sợ kiến và chuột ăn vụng hoặc đánh cắp mất.

Khoảng 1 tuần lễ sau khi chúng tôi được đưa tới định cư tại K2, có mấy bạn Đại tá bị bắt từ hồi đầu tháng 4-1975 tại Đànẵng, bị áp giải ra miền Bắc Xã hội Chủ nghiã trước chúng tôi, được đưa về ở chung.

Các bạn này mặc đồng phục Tù, mầu nâu nhạt có sọc xám, nghe nói là do Trung Cộng viện trợ cho Công sản Bắc Việt. Tư trang các bạn ấy mang theo, đựng trong một túi xách nhỏ chẳng có gì. Chăn mùng cuốn tròn dài, đeo quàng tréo qua đầu, từ vai bên này xuống nách bên kia, trông giống hệt mấy người Tầu chạy loạn Nhật qua vùng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Tôi đã gặp hồi 1940.

Không như chúng tôi, vali, balô cồng kềnh, ngoài mấy bộ thay đổi đi làm hàng ngày, ai cũng có tối thiểu ba, bốn bộ quần áo dự trữ. Trong những kỳ khám xét tư trang, Tôi còn thấy có anh đem theo nguyên cả bộ Âu phục lớn (quần dài, áo vét, cà vạt, giầy da thấp cổ bóng loáng). Chắc là để sau một tháng học tập như Nhà Nước thông báo, mặc vào để tham dự lễ phát bằng Công dân Xã hội Chủ nghiã tập thể, cho nó trịnh trọng.

Các bạn Đại tá mới đến nhập bọn, tình trạng cơ thể ai nấy xanh xao, gầy ốm tong teo. Ngắm bạn rồi nhìn lại mình. Mới có 6 tháng “thi đua lao động cải tạo” mà đã suy xụp hơn chục Kílô, da nhăn đen thui như mầu bánh mật, chắc rồi đây sẽ tàn tạ hơn họ nhiều.

Bây giờ ngồi ghi lại những dòng này, Tôi còn cảm thấy nao nao buồn, xót thương cho bao nhiêu đồng bào đang còn bị hành hạ nơi quốc nội. Biết đến bao giờ Họ mới thoát được nạn Cộng sản đọa đầy bóc lột.

Trong hoàn cảnh thiếu đói chung hồi đầu năm 1977 tại K2, một con chuột tinh khôn của rừng miền Bắc Xã hội Chủ nghiã, đã gây ra một truyện buồn giữõa anh em Tù, làm tủi lòng những người nghèo, chẳng bao giờ quên được. Đại để câu truyện như sau :

“ Hàng ngày, bạn bè ở cùng Láng ai cũng thấy, một anh béo phì, giầu tiền, nhiều tiếp tế của gia đình, thường để chiếc lon Gô đựng đầy thịt chà bông, tuốt sâu trong sát vách, trên kệ xếp tư trang riêng của anh ấy. Bỗng dưng một sáng chủ nhật nghỉ lao động rảnh rang, anh ta kiểm điểm đồ riêng, mới phát giác ra chiếc Gô không cánh mà bay đâu mất. Nằm kế bên anh ta là 2 bạn nghèo không có tiếp tế. Anh ta cao giọng nói trống không cho mọi người cùng nghe : “-Nếu ai lỡ táy máy đùa dai thì trả lại, nếu không sẽ thưa Cán bộ khám xét thì đừng trách.”

Anh em trong đội nhỏ nhẹ can ngăn, và bỏ cả sinh hoạt riêng tiếp tay anh ấy tìm kiếm. May sao, đúng lúc anh Đội trưởng cúi nhìn dưới gầm xạp ngủ, mặt trời lên cao ánh sáng tỏ hơn chiếu suốt vô nhà, qua các khe hở của vách phên “chổm”, thấy một vật gì trăng trắng bóng loáng nằm tuốt trong góc nhà. Khều ra thì là chiếc Gô đồ ăn có ghi tên người kêu mất. Quanh nắp miệng Gô và chung quanh đáy Gô, đầy những vết răng chuột gặm, có chỗ gần thủng. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, đem trả lại chiếc Gô cho anh ấy. Cầm lấy chiếc Gô, anh ấy nét mặt sượng sùng, mừng quên cả nói cám ơn.”

Hiện nay, anh ấy cũng đang định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ cùng với vợ con, như các bạn Tù cũ ở chung một Láng tại K2 (Trại Cây Khế) Liên trại 1, Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn. Không biết đến bây giờ anh ấy có còn nhớ, và ân hận không ?

 

MẶT TRÁI CON NGƯỜI.

Hiểm nguy, hổ cũng cụp đuôi,
Khốn cùng, bản chất con người bộc ra.
Xưa kia luồn cúi ba hoa,
Ra vào cửa hậu, nhờ Bà cậy Ông.
Quan cao, nhà rộng mênh mông,
Mánh mung, thâm lạm của công làm giầu.
Cấp trên, nịnh đội lên đầu,
Tùy tùng, khai thác như trâu kéo cầy.
Chậm chân chạy, phải vào đây,
Gian lao đói khổ khác ngày quyền uy.
Tâm đen bần tiện tức thì,
Lộ qua lời nói hành vi đê hèn.
Gian manh sống cạnh người hiền,
Khác đâu lang sói ở bên đàn cừu.
Lúc sang, xoen xoét như diều,
Đến khi hoạn nạn, đặt điều hại nhau.
Canh ngon, hỏng tại bọ sâu,
Cây tươi, héo chết vì bầu mối xông.
Nhẹm đi ấm ức trong lòng,
Nói ra cho đỡ tức hông tuổi già.

K2 (Trại Cây Khế) LT1, Yên Bái, tháng 1-1977.

 

Chương 16

LAO ĐỘNG CẢI TẠO, THƯỚC ĐO LÒNG YÊU NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 

Mọi công tác chỉnh trang K2 (Trại Cây Khế) vừa hoàn tất, Trại lại phát động đợt “thi đua” mới. “Thi đua lao động cải tạo vượt chỉ tiêu Nhà Nước quy định”.

Theo lệnh Nhà nước, kể từ năm 1977, Tù phải tham gia sản xuất thật sự để làm ra tiền, tự nuôi mình, nuôi Cán bộ quản lý Trại, và đóng góp cho Nhà nước hàng năm mỗi đầu người 1 đồng một ngày. BCH trại được coi như Ban quản lý một Hợp tác xã. Chỉ có một điều khác Hợp tác xã là, Trại viên cải tạo hưởng quy chế ăn ở quy định cho Tù, chớ không phải Hợp tác xã viên.

Lý do đưa ra giải thích là : “-Vì Chiến tranh tàn phá quê hương, nay toàn Dân phải tham gia tái thiết, nên Cải tạo viên cũng phải đóng góp công sức mình, vào công việc chung của đất nước như mọi người. Đây cũng là dịp chứng tỏ lòng yêu nước, và thực tâm ước muốn cải tạo để trở thành người công dân Xã hội Chủ nghiã của các Cải tạo viên.”

Nghe tin này, nhiều người nhẹ dạ cả tin “phấn khởi”, cho rằng Chính sách này giúp mình mau quen với nếp sống của con người Xã hội Chủ nghiã, sẽ sớm được về đoàn tụ với vợ con. Thời gian lâu lắm, chắc cũng chỉ trong vòng 2, 3 năm là cùng. Ông Tướng Sư đoàn Việt cộng ra đón mình ở Phi trường, hồi mới đặt chân lên đất miền Bắc Xã Hội Chủ nghiã này, trước đây mấy tháng, cũng đã từng nói như vậy mà!

Thi hành lệnh Nhà nước, Trại khởi hoạch nhiều “phương án hành động”, làm thước đo mức “tiến bộ” của Cải tạo viên. Mọi người đều tỏ ra “hồ hởi”, sốt sắng và cố gắng hết sức mình. Tù tha hồ thi đua liên tục xả thân lao động. Cán bộ “bám sát” thúc đẩy Tù “thi đua đạt năng xuất lao động” ngày một cao hơn. Với mục đích duy nhất, làm sao Trại và Tù kiếm ra thật nhiều tiền, để đạt cho bằng được trăm phần trăm “chỉ tiêu” do Nhà nước quy định. Nếu vượt được mức “chỉ tiêu” quy định càng cao càng tốt.

Đợt thi đua bắt đầu bằng tập trung đắp đập đất, chắn ngang khe giữa 2 ngọn đồi gần K3 (Trại Cốc), để giữ nước làm hồ nuôi cá. Mặt đập rộng 50 mét, thân đập cao 30 mét, và chiều dài đập là 50 mét. Đào đất trên đỉnh đồi bên trái, khênh xuống đổ cho đầy khe.

Hình như Phân trại K3 là chủ thuê, nên thấy mỗi buổi lao động, Quản giáo Đội chúng tôi dẫn anh phụ trách nấu nước của Đội vào nhà bếp K3, lãnh một số sắn sống đem ra luộc tại hiện trường, để phát cho anh em. Mỗi người được 1 khúc bằng cổ tay, dài 20 phân, vào lúc nghỉ tại chỗ ăn bữa trưa hàng ngày. Đây là tăng cường “bồi dưỡng” của chủ thuê cho Tù, y như hồi đi làm thuê cho Hợp Tác Xã địa phương.

Các Đội tham dự công tác tại công trường đắp đập, được phân chia như sau : 1 nhóm cuốc đất trên đỉnh đồi khiêng xuống đổ dưới khe, 1 nhóm ban đất cho bằng phẳng tại mặt đập, 1 nhóm đầm nện đất, nèn cho mặt đập và sườn đập thật mịn và cứng chắc.

Đội chúng tôi thuộc nhóm đào đất nơi đỉnh đồi, khiêng xuống đổ lấp khe sâu giữa 2 quả đồi. Quản giáo Đội quy định, mỗi Tổ 10 người phải đào và khiêng đất xuống đổ vào đập mỗi ngày 5 mét khối. Vì thế, anh em Tổ của Tôi phải chia thành : 3 toán khiêng đất hết 6 người, và 1 toán 4 người vừa cuốc vừa xúc đất vào “ki” (cáng khiêng) cho các toán khiêng đi đổ xuống khe.

Chúng tôi thoả thuận luân phiên nhau, hôm nay cuốc xúc đất, thì hôm sau đổi lại đi khiêng đất, cho nó công bằng. Cũng như để mọi người, có dịp rút kinh nghiệm bản thân về các công tác khác nhau, mà “sáng tạo” ra phương pháp thực hiện cho thật nhanh. “Lao động là sáng tạo”, Cách mạng đã nghiên cứu xác định như vậy trong các bài học cải tạo tư tưởng, cần phải áp dụng cho Cán bộ nhận thấy là mình đã “thấm nhuần”, và “nắm được vững vàng sâu sắc” những gì đã học.

Trong suốt thời gian đắp đập, mọi người phải làm thông tầm (kể cả Cán bộ cảnh vệ và Quản giáo). Chỉ được nghỉ tại chỗ, 30 phút lúc giữa trưa để dùng bữa. Ăn xong là phải “tranh thủ” tiếp tục làm ngay. Đến chiều tối, khi nào đạt “chỉ tiêu” quy định trong ngày, báo cáo Quản giáo Đội đến kiểm tra chấp nhận đúng, Đội mới được ngưng để tập họp ra về.

Đặc biệt trong thời gian lao động vất vả này, Trại được cung cấp bột mì thay cho sắn khô hoặc bắp khô. Do đó, buổi sáng mỗi người được lãnh một nửa ca cháo bột mì, sền sệt như loại bột gạo người ta thường khuậy chín cho trẻ con ăn. Bữa trưa và bữa tối, được mỗi bữa một chiếc bánh bột mì nhồi nước đổ khuôn tròn luộc chín, đường kính 10 phân, bề dầy 1 phân. Thức ăn thì mỗi bữa đôi ba cọng rau muống bung nước muối.

Thời gian 30 phút nghỉ ăn trưa được coi là dài. Vì sau khi nhơi thong thả từng mẩu nhỏ của chiếc bánh mì luộc và khúc sắn, cho nhuyễn nhuần với nước miếng trước khi nuốt vào bụng. Cũng còn dư được ít nhất là 15 phút để nằm dài trên mặt đất chợp mắt xả hơi, trước khi bắt tay vào tiếp tục lao động trở lại.

Số giờ lao động hàng ngày quy định là 8 tiếng đồng hồ. Nhưng bao giờ anh em cũng phải làm nhiều hơn, mới đạt đủ “chỉ tiêu” quy định. Vì thế, chỉ trong vòng có 1 tuần lễ, ai nấy đều hốc hác xạm xọp đi ít nhất cũng 5 kílô. Nhưng sức chịu đựng vất vả, được tôi luyện dẻo dai hơn, và thuần nhuyễn như một cái máy chạy tự động không cần ai bấm nút.

Hằng đêm, sau giờ “kiểm điểm, phê và tự phê” xong, anh nào cũng lăn đùng ra ngủ say như chết. Nhờ vậy mà ngày hôm sau mới có sức chịu đựng tiếp. Nếu không ngủ được, phải thức trắng đêm như hồi mới ra, chắc là bây giờ chẳng còn sống trên Thế gian mà ngồi viết Hồi ký.

Ngày thứ 2 đi làm đập, toán của Tôi đến phiên đào và xúc đất vào “ki” cho các toán khác khiêng. Lúc phát quang các bụi rậm trước khi đào đất, Tôi may mắn gặp một ổ 4 chú Cúi con (trông giống như sóc, nhưng mặt mõm giống như lợn, lông đen, đuôi ngắn). Mỗi chú Cúi to bằng nắm tay. Tôi đưa cho anh Đại tá Dương Hiếu Nghiã, cùng một Tổ với Tôi, biến chế làm món Cúi bỏ lò trong lon Gô. Để 2 anh em chia nhau, thưởng thức lộc của Chúa Sơn Lâm “bồi dưỡng” cho Tù nghèo. Tôi tự làm lấy cũng được, nhưng vì đồ tiếp tế của Tôi đã hết, không còn gia vị để ngâm ướp, nên phải đưa cho anh Nghiã lo toan.

Sau này, qua 5 trại khác nhau trong suốt 13 năm cải tạo, lúc nào anh Nghiã và Tôi cũng ở chung một Đội. Chỉ có thời gian ngắn khoảng 1 năm ở K5 Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, anh Nghiã ra làm Đội trưởng Đội Gạch, gồm toàn các Linh mục, Thượng tọa, Đại đức Tuyên úy QLVNCH (cũng phải đi cải tạo như chúng tôi) thì 2 anh em chúng tôi mới không ở chung Đội. Tới tháng 1 năm 1980, bị chuyển vào trại Thanh Phong, Thanh Hoá, anh Nghĩa và Tôi lại được “biên chế “ vào chung một Đội. Cuối tháng 4 năm 1982, chúng tôi cùng được đưa trở về Nam một lượt. Sau cùng, anh Nghĩa được tha trước Tôi 6 tháng, vào dịp 2 tháng 9 năm 1987, kỷ niệm Lễ Độc Lập của Cộng sản Việt Nam.

Những ngày nghỉ lao động trong đợt “thi đua muà Xuân 1977”, Ban chỉ huy Phân trại K2 cho phép anh em nấu nướng biến chế thực phẩm “bồi dưỡng”, không cấm đoán như hồi mới ra. Nhờ thế, các món thực phẩm khô, do gia đình gửi lén trong các bưu kiện tiếp tế quần áo lạnh, được Tù đem ra trổ tài biến chế. Không theo sách vở nào cả, thế mà mùi vị thức ăn biến chế xông ngào ngạt thơm phức cả một vùng, tưởng như đang đứng trong khu phố tiệm ăn Tầu Chợ Lớn vậy. Chỉ tội cho các bạn không được tiếp tế, phải vào xạp nằm chùm chăn kín mít, tìm khuây khoả trong giấc ngủ.
Từ khi “đợt thi đua mùa Xuân 1977” được “phát động”, tất cả Tù và Cán bộ đều bận rộn. Ngày nào cũng xuất trại lao động rất sớm, và đi đến tối mịt mới trở về. Nhóm đi đắp hồ cá K3. Nhóm đi hạ bồ đề, trên sườn núi cao gần ngay bên Bệnh xá Liên trại, thả xuống đường xếp thành đống, để Công ty khai thác Lâm sản đến đo, tính tiền công theo thước khối, rồi chở đi. Nhóm đi làm thuê cho các Hợp Tác Xã, trồng hoa mầu …

Sau khi đắp đập hồ cá K3 xong, Đội chúng tôi được đưa đi đắp đập thuê cho một Hợp Tác Xã, ở xa trại khoảng hơn 10 cây số, về phiá Tây. Ra đi từ sáng sớm, trước khi kiểng tập họp các Đội xuất trại lao động. Đến chiều, trở về đến trại trời đã nhá nhem, mọi người ở nhà đã nghỉ và dùng bữa tối xong xuôi.

Gần Tết tại vùng này, sáng nào sương cũng mịt mù đến 10 giờ mới tan, nên lúc ra đi phải dùng đường cái lớn, qua BCH Liên trại 1, qua K lò gạch, qua một công trường làm đường, rồi rẽ vào con đường nhỏ ngoằn ngoèo theo các sườn đồi, lên một vùng bình nguyên của Hợp tác xã (không biết tên) có khoảng vài chục căn nhà. Từ trại đến nơi lao động, lúc nào chúng tôi cũng phải đi nhanh như chạy Marathon, thế mà thời gian di chuyển tính ra cũng mất khoảng 2 tiếng đồng hồ.
Buổi chiều, lao động xong, chúng tôi không trở về trại theo đường cái lớn, mà đi theo một con đường mòn, tắt băng rừng. Phải leo lên tụt xuống qua 3, 4 đỉnh đèo, qua đập nước K3 (Trại Cốc), rồi thêm một đoạn sườn núi chừng 1 cây số nữa mới về tới K2 (Trại Cây Khế) của chúng tôi.
Trong chuyến đi làm xa này, một ấn tượng vô cùng chua chát, đã hằn sâu vào bộ não của chúng tôi không bao giờ quên được, sau khi nhìn thấy tận mắt cái quang cảnh Công trường làm đường, và nơi ăn chốn ở của những Công dân Xã hội chủ nghiã miền cao nguyên Hoàng Liên Sơn.
Theo lời rêu rao của Bác Hồ, của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà Nước Xã hội Chủ nghiã thì, những người vô sản lao động thuộc giai cấp lãnh đạo Cách mạng kiến thiết đất nước. Thế mà hoàn cảnh sống “thực tế” của họ, trông thấy rõ ràng, so với cảnh sống của vợ con các Chủ nhiệm Hợp Tác Xã, hoặc Cán bộ Cộng sản lãnh đạo các cấp Trung ương, Địa phương, khác xa nhau một trời một vực.

Giá trị cuộc sống của giới lao động, công dân trung kiên theo Xã hội Chủ nghiã, từ hồi Cách mạng mùa Thu 1945 thành công đến nay, còn như vậy. Huống chi mình, đã từng cầm súng chống đối chế độ, đang phải cải tạo để được trở thành công dân Xã hội Chủ nghiã, tương lai sẽ như thế nào?
Một tấm bảng to tướng, ghi chữ “Công trường làm đường, Công ty…” được dựng ngay bên đường, mà chỉ thấy khoảng vài ba chục người, dùng cuốc, xẻng, xà beng, búa tạ, đầm cầm tay, “ki” làm bằng “chổm” khiêng đá, đất, cuốc ở sườn núi ra, để hì hục giặm vá, lấp các lỗ ổ gà xâu hoắm trên mặt đường. Trông chẳng khác nào đám phu làm đường miền thượng du, thời Thực dân Pháp đô hộ mấy chục năm về trước, mà Tôi đã từng thấy ở miền Lạng Sơn, Thất Khê.

Nhân công gồm toàn người lớn tuổi, và nam nữ thanh thiếu niên trạc 15 đến 17. Người nào trông cũng phong sương, đen xạm, làm việc không ngơi tay, dưới sự hò hét thúc giục “thi đua” của Giám đốc Công trường và các Trưởng toán.

Gần ngay nơi Công trường có 2 dẫy nhà ở, một khu nhà bếp, và dẫy nhà ăn tập thể. Tất cả các nhà đều lợp mái tôn, vách phên, sườn khung nhà bằng gỗ. Trong khi người lớn đi lao động, mấy đứa trẻ trên dưới 10 tuổi, áo quần rách rưới, lem luốc bẩn thỉu, mắt mũi đầy ghèn, đùa giỡn bên lề đường, trước sân nhà ăn.

Khi đi ngang, trong số anh em Tù chúng tôi có người lên tiếng thân thiện hỏi : “-Các cháu không đi học à ?” Lập tức có em lớn hơn cả trả lời ngay, không cần suy nghĩ : “-Ông nội của chúng mày, chớ cháu chắt gì, đồ ngụy bán nước.”

Thật ngỡ ngàng. Từ đó về sau, anh em rút kinh nghiệm, không bao giờ còn dại dột tìm cách làm quen xã giao với quần chúng địa phương nữa.

Đến nơi làm thuê, mới biết công việc của chúng tôi là phá đất đỉnh đồi, ban ra, để nâng cao mặt đập đã có sẵn từ trước, nèn đập cho thật chắc. Đập dài cả trăm mét, mặt đập rộng 50 mét, sườn đập phiá ngoài, từ mặt đến chân khe ước chừng cũng khoảng 100 mét. Đây là đập của hồ thủy lợi, vừa dùng tích trữ nước trong mùa mưa, để vào mùa nắng khô cạn có nước tưới ruộng trong bình nguyên, vừa lợi dụng thả cá “làm kinh tế” cho Hợp Tác Xã.

Ngoài Đội chúng tôi từ K2 (Trại Cây Khế) đến, thấy còn nhiều Đội khác ở trại nào không rõ, đang làm ở đây trước chúng tôi. Họ lấy đất đỉnh đồi ở đầu đập bên phiá Bắc, khiêng ra mặt đập, ban, nèn, đầm mặt và sườn đập cho chắc. Đội chúng tôi đến sau, được giao việc phạt sườn đồi ở đầu phiá Nam của đập, tạo một mặt bằng thật rộng, để sau này dựng cơ sở gì đó không biết.

Đất đồi nơi chúng tôi phá vỡ ra, phải dùng “xe ban” hất trôi xuống chân đập. “Chỉ tiêu” quy định mỗi người phải làm 1 mét khối đất một ngày, tức là gấp đôi “chỉ tiêu” làm tại đập hồ cá K3 (Trại Cốc).

Sau khi Cán bộ quản giáo và các anh Tổ trưởng đi đo đất, đóng cọc mốc diện tích riêng cho từng Tổ theo “chỉ tiêu” quy định xong. Các Tổ bắt đầu “thi đua khởi công”. Tổ nào xong trước được nghỉ sớm, ngồi chờ các Tổ khác làm xong mới cùng tập họp, rời “hiện trường lao động” trở về Trại.
Với chỉ tiêu nặng như vậy, chả có Tổ nào có cơ may nghỉ sớm cả. Ngày nào cũng phải làm khoảng hơn 10 tiếng đồng hồ mới xong. Vừa đúng lúc mặt trời đang tụt xuống, ngang đỉnh dẫy núi phiá Tây của bình nguyên.

Để “triển khai thi công”, Tổ chúng tôi phải chia thành 3 toán làm việc : 2 toán kéo “xe ban” hết 6 người, toán 4 người còn lại hiệp lực vừa phá đất, vừa gom vun thành đống cho “xe ban” kéo đi.
Nghe chữ “xe ban”, ai cũng tưởng là một loại cơ giới nào đặc biệt lắm. Thực ra nó chỉ là một miếng ván dầy 5 phân, dài 1 mét rưỡi, mặt rộng 50 phân, có một khung càng gồm 3 thanh gỗ tròn, đóng vào khoảng gần 2 đầu miếng ván, và 2 sợi dây kéo. Hình dáng “xe ban” trông y như chiếc bừa, nhà nông vẫn thường dùng để làm tơi đất, sau khi cầy lật thành từng hàng dài trên ruộng.

Xử dụng “xe ban”, có thể di chuyển được lượng đất nhiều và nhanh hơn dùng “ki” khiêng, nhưng phải cần tới 3 người. Một người cầm càng điều khiển, 2 người cầm dây kéo dài khoảng 3 mét cột ở 2 đầu miếng ván, y như dùng 2 con trâu keo 1 cái bừa vậy. Người điều khiển phải biết kỹ thuật cầm càng và phụ đẩy, xe mới trượt đi suông sẻ, nhẹ nhàng. Nếu không, xe sẽ khựng lại không kéo đất trơn đi, mà người cầm càng còn bị sức kéo, lôi cả người lẫn xe ngã chúi về phiá trước, rất nguy hiểm.

Ngày nào, Tôi cũng bị anh em trong toán, đùn cho việc lái “xe ban”. Qua kinh nghiệm học được, muốn “xe ban” chạy được suông sẻ, người cầm càng phải đứng ở khoảng đúng giữa “xe ban”. Chân trái, đưa ra phiá trước, để phần 3 lòng bàn chân lên cạnh trên của miếng gỗ thân xe. Chân phải, đứng trên đất soạc ra phiá sau, làm sao cho sức nặng của toàn thân, được chia đều trên cả 2 chân. Hai tay dang rộng nắm chặt đà ngang càng xe, và giữ cho càng xe nghiêng khoảng 30 độ góc, hướng vào ngang rốn của mình. Khi hô 2 bạn kéo tới, mình phải vừa đè càng cho thân xe sát mặt đất, vừa phụ đẩy, xe sẽ chạy nhẹ nhàng và rất nhanh. Sơ ý là cả 3 cùng lăn tuột theo sườn đập đến chân khe luôn.

Kinh nghiệm phá vỡ đất cho nhanh, chúng tôi được Trung úy Khảm Quản giáo Đội tiếp tay hướng dẫn thật tận tình. Ông ta vốn người lanh lợi, tháo vát, và có chút “tình người” đối với anh em trong Đội. Qua những lúc chuyện vãn trong giờ giải lao, ông ta thường khoe trướùc kia đã từng nhiều lần tham dự các cuộc “thi đua lao động”, do các Đại đơn vị Quân đội Nhân dân tổ chức, và lần nào cũng đoạt giải “Anh hùng lao động”.

Sở dĩ chúng tôi phá vỡ đất được nhanh, là nhờ phần sườn đồi nơi chúng tôi làm, đã được vạt thẳng đứng từ trước, cao khoảng 4 mét. Nên trước nhất, phải cuốc khoét đoạn dưới chân sát mặt đập, sâu vào khoảng 70 phân, cao 1 mét. Sau đó lên phiá trên, cuốc một rãnh dài sâu rộng chừng 3, 4 chục phân, và những lỗ xâu cách nhau 50 phân, rồi dùng xà beng bẩy mạnh là từng mảng đất lớn sẽ lở ra tụt xuống.

Thật rõ ràng “trăm hay không bằng tay quen” là thế. Nhưng “thực tế” bắt tay vào việc, mới thấy chẳng đơn giản như vậy đâu. Lẫn trong đất núi còn gặp những tảng đá to tướng, phải dùng búa tạ đục đẽo phá cho nó vỡ lần lần ra, cũng trần ai lắm. Vì thế mà chẳng ngày nào hy vọng làm ít hơn 10 tiếng đồng hồ cả.

Muốn cố gắng lột bỏ cái áo “Giai cấp Tư sản” của mình do Cộng sản gán cho, bằng “Lao động Cải tạo Tư tưởng” để trở thành người “Công dân Xã hội chủ nghiã”, thật không đơn giản dễ dàng gì.
Cái giá phải trả luôn luôn bằng máu, mồ hôi, và nước mắt, không chỉ của riêng bản thân mình trong các trại cải tạo, mà còn phải cộng chung của cả Vợ Con mình tại địa phương đang cư ngụ nữa.

 

KHOAN HỒNG NHÂN ĐẠO?

Xót xa tình nghiã đồng bào,
Tha không xử chết, cho vào tập trung.
Học gương lao động anh hùng,
Tập tành đắp đập, phá rừng, làm nông.
Bao giờ thành thạo reo trồng,
Chăn nuôi,canh tác tinh thông thì về.
Xung vào Hợp tác xã quê,
Sống theo đời mới đủ nghề làm ăn.
Vợ, Con, khỏi phải băn khoăn,
Tội ai nấy chịu, chẳng can hệ gì.
Trẻ con vẫn học, vẫn thi,
Vợ thì lao động, hưởng tùy khả năng.
Thoạt nghe phấn khởi tinh thần,
Định tâm cải tạo bản thân đêm ngày.
Rêu rao chính sách thật hay,
Đến khi thực hiện đọa đầy dã man.
Gớm thay bè lũ bạo tàn,
Nỏ mồm lừa bịp thế gian nhân quần.

K2 (Trại Cây Khế) Liên Trại 1, tháng 1 năm 1977.

 

Chương 17

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ, ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 

Tết Đinh Tỵ 1977, anh em Tù K2 (Trại Cây Khế) được Ban chỉ huy Trại quan tâm săn sóc khá chu đáo. Nào là tổ chức thi đua làm Báo tường, tranh giải cờ tướng, đấu bóng chuyền giữa các Láng, và xem chiếu phim Liên sô ngoài trời.

Ngoài ra, mọi người còn phải học hát thuộc lòng các bài hát của Cách mạng. Giờ học hát, được thực hiện ngay sau buổi họp “phê và tự phê, xây dựng” hằng đêm. Các bài hát, do mấy anh bị bắt đưa ra Bắc từ hồi tháng 4 năm 1975, mới được chuyển về ở chung với chúng tôi, đọc cho chép và hướng dẫn tập. Có nhiều bài hát của Liên sô, Trung cộng, dịch lời sang tiếng Việt, nghe rất là ngô nghê chẳng ra làm sao cả, chẳng hạn : “Chúng ta là sắt thép…”. Hoặc những bài của các văn nô Cách mạng sáng tác, lời lẽ đầy sát khí : “Quét (giết) cho sạch nó đi…” Riêng bài “Tiến quân ca” (Quốc ca của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam) thì anh em không được học, theo sự giải thích của Cán bộ : “Tù cải tạo chưa xứng đáng được hát bài này!”

Chờ đón Xuân, còn có thêm một tin đồn rất là “hồ hởi”. Sẽ có đợt tha vào tháng 4, nhân kỷ niệm 2 năm ngày thống nhất đất nước, làm nhiều người mừng rỡ cho là chỉ dấu tốt. Ai nấy chuẩn bị đón Tết, với tinh thần “phấn khởi” hơn cái Tết tại Suối Máu năm 1976.

Trong dịp Tết, mọi người được nghỉ lao động 3 ngày. Nhưng ngày mồng 2, cả Cán bộ lẫn Cải tạo viên toàn Trại, phải “xuất hành” tham gia chương trình “cả nước trồng cây” hàng năm, để tỏ lòng nhớ ơn Bác.

Các món ăn Tết, cũng rất đặc biệt. Ngày mồng Một, cả bữa trưa lẫn bữa chiều đều được ăn 3 món :

1.- Thịt heo kho (mỗi người 3 mẩu bằng ngón tay cái); 2.- Thịt bò xào rau muống (cũng khoảng 5 cọng rau, và 3 mẩu thịt bò lẫn gân mỡ, mỏng bằng 4 đốt ngón tay); 3.- Trứng cá Mè Thác Bà kho (mỗi người khoảng miệng ca). Dĩ nhiên là ăn với bánh mì luộc, không có cơm. Hai ngày kế theo chỉ còn lại 2 món : cá Mè kho nhừ rục sền sệt như canh củ mỡ, ăn được cả xương mềm mục bùi bùi, và canh rau muống nấu với muối như ngày thường.

Cá Mè, do Cán bộ Hậu Cần Liên trại 1 đi mua từ hồ Thác Bà về. K2 của chúng tôi được chia 3 con, mình to bằng người ta, dài hơn 2 mét. Tôi chưa từng được thấy loại cá nước ngọt to như thế bao giờ. Nhà bếp phải lấy búa bửa củi tạ, mới chặt ra từng khúc nhỏ được.

Hai ngày trước Tết, mỗi Đội phải tăng cường cho Đội nhà bếp 5 người để tiếp tay gói bánh chưng. Theo dự trù, mỗi Tù sẽ được một chiếc bánh chưng nặng cỡ 1 kí lô sau khi luộc chín, và được lãnh vào buổi chiều tối ngày cuối năm.

Tôi được Đội cử tăng cường ngồi gói bánh chưng, nên 2 ngày giáp Tết không phải theo Đội ra ngoài lao động vất vả. Nhưng lưng vai cổ mỏi muốn gẫy, cơ bắp 2 chân đau tê cứng, vì phải ngồi lâu một chỗ làm liên tục không giờ giải lao. Có điều an ủi là mỗi bữa tăng cường làm tại nhà bếp, được bồi dưỡng thêm ba, bốn muổng tương hột kho, để ăn với bánh mì luộc, thay vì chỉ có vài cọng rau muống bung nước muối như mọi người.

Anh em tăng cường được chia thành 5 toán. Một toán chuyên lo chẻ lạt, rửa cắt lá giong cho hợp với khuôn. Một toán lo vo gạo nếp để trong từng thúng cho róc nước trước khi gói vào lá. Một toán cà rửa nấu đậu xanh, giã nhuyễn và nắm thành những nắm chặt tròn cỡ trái banh Tennis. Một toán cắt chia thịt heo thành những miếng dài cỡ 10 phân, dầy khoảng 1 phân. Toán sau cùng chuyên ngồi gói bánh theo khuôn gỗ, đã đóng sẵn cùng một cỡ 20/20 phân, cao 5 phân.
Ruột mỗi chiếc bánh chưng gồm : 2 bằng miệng bát đá gạo nếp vo rửa sạch cám (lộn gạo tẻ hơi nhiều), trộn chút đỉnh muối cho đậm đà, 1 nắm đậu xanh, và 1 miếng thịt heo có đủ nạc, mỡ, bì, ướp muối, hành củ thái mỏng, và hạt tiêu xay nhuyễn.

Có vài anh em Tù gói bánh rất thạo, không cần khuôn mà chiếc bánh rất vuông đủ 8 góc và chắc nịch. Còn phần lớn toàn là tay mơ vào học nghề, bánh gói không nèn được chặt và vuông vắn cho lắm, mặc dù đã có khuôn gỗ để trợ lực. Bánh chưng gói chặt tay luộc ra nền hơn bánh gói lỏng tay, và lúc chín vớt ra đem nén không bị phòøi ruột nơi các góc chiếc bánh.

Trong mấy ngày Tết, Trại mở máy thu thanh chuyền qua loa lớn cho cả trại Tù cùng nghe, những tin tức của đài phát thanh địa phương và Hànội.

Thư viện trong khu Tù ở cũng được mở cửa cả ngày, cho Tù vào đọc báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, và mượn sách, truyện xã hội chủ nghiã đọc tại chỗ hoặc đem về láng ở đọc dần. “Mục đích yêu cầu” của Trại mở Thư viện, để Tù có cơ hội tìm hiểu thêm về Cách mạng Xã hội Chủ nghiã tại Việt Nam, và tại các nước Cộng sản trên toàn Thế giới, mà noi gương “thi đua cải tạo” cho mau “tiến bộ”.

Anh Nguyễn văn Lương (Đại tá gốc Địa phương quân, trước 30-4-1975 làm Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị Quân lực Việt Nam Cộng hoà đặc trách Địa phương quân và Nghiã quân) được trại cử làm quản thủ Thư viện. Anh ấy là người bặt thiệp, luôn luôn hăng hái hướng dẫn anh em lựa sách, truyện mà anh ấy cho là hay, cũng như giới thiệu những loại tài liệu quan trọng cần nên đọc. Sau này anh Lương cũng phải chuyển đi Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, và trại Thanh Phong, Thanh Hoá cùng một lượt với Tôi. Vào cuối tháng 4 năm 1982, Tôi được chuyểàn về miền Nam Việt Nam, anh Lương được chuyển ra vùng Nam Hà thuộc châu thổ sông Hồng ở miền Bắc. Hình như anh ấy và gia đình, cũng đang định cư tỵ nạn tại California.

Tất cả những cuốn truyện để tại Thư viện trại Tù, đều có nội dung tuyên truyền, đề cao tinh thần chiến đấu và thi đua sản xuất của các nam nữ anh hùng vô sản. Qua những cốt truyện dàn dựng, cho phép nhận định rằng trình độ hiểu biết của quảng đại quần chúng tại miền Bắc xã hội chủ nghiã, sau hơn 20 năm sống dưới sự cai trị chuyên chính của Cộng Sản Việt Nam, rất là thấp kém lạc hậu. Chẳng hạn, một đoạn truyện rất phi lý như …“phi công Bắc Việt đậu sẵn phi cơ MIG trong các đám mây dầy đặc ở trên không, để phục kích chờ phi cơ B52 của Mỹ tới thả bom Bắc Việt là sông ra bắn hạ, địch không kịp trở tay”… Ấy thế mà Sĩ quan quân đội Cộng sản Bắc Việt tin là thật, trầm trồ ca ngợi đề cao một cách hãnh diện trước mặt anh em Tù.

Để kéo dài cái thi vị Tết trong suốt 3 ngày nghỉ, Tôi và 2 anh bạn nằm kế bên, đồng thoả thuận canh ty ăn chung bánh chưng. Mồng 1 ăn chiếc bánh của Tôi, mồng 2 và mồng 3 thì lần lượt ăn những chiếc bánh của các anh ấy.

Sau khi ăn Tết xong, mọi người lại tiếp tục hăng hái xả thân, hoàn tất “kế hoạch thi đua” Trại đã đề ra hồi trong năm. Với hy vọng, mình sẽ có tên trong số “cải tạo tiến bộ”, được thả về đoàn tụ với Vợ Con sớm hơn những người khác.

Đội chúng tôi không đi làm đập ở Hợp Tác Xã nữa, được giao trách nhiệm vét khu sình, úng nước phèn ngập ngang đầu gối chân, ở ráp ranh đất giữa K2 và K3. “Mục đích yêu cầu” là dọn sạch rác rến, gai trà, cỏ lác, lội đạp đất sình cho nhuyễn như bừa, rồi rải vôi bột khử phèn để sẵn sàng trồng lúa vụ “ba giăng” (3 con trăng tức là 3 tháng).

Làm tại đây, mọi người phải bỏ giầy, cởi quần dài, vắn tay áo lên đến nách, lội xuống làm việc cả tuần lễ mới xong. Thực hiện công tác này, nguy hiểm nhất là loại cỏ lác, lá dài 3 cạnh bén như lưỡi dao. Phải quấn vải bảo vệ bàn tay cẩn thận, mới nắm gốc chùm cỏ lác để nhổ lên, thế mà vải vẫn bị cỏ cứa rách làm đứt tay.

Nước đục ngầu chẳng trông thấy gì. Dưới sình đầy mẩu cây gẫy và tre gai nhặt không hết. Trong khi đạp bùn, cẩn thận đến đâu cũng không làm sao tránh khỏi, bị đâm thủng hoặc xước da bàn chân và các ngón chân.

Trên mặt nước lẫn trong đám cỏ lác, cơ man nào là muỗi vằn, to bằng đầu tăm xỉa răng, bâu đốt vào cổ vào mặt vào tay đau buốt đuổi không kịp.

Mỗi lần xuống sình làm xong bước lên bờ, chân tay anh nào cũng bị nhuộm một mầu vàng nâu nhạt, phải kỳ cọ rửa bằng sà bông mấy ngày mới hết. Da các đầu ngón tay cũng nhăn nheo thật lâu, mới phẳng trở lại bình thường.

Để khử phèn, chỉ việc đi dọc trên bờ, bốc vôi bột vung rải đều khắp mặt ruộng, không phải lội xuống. Độ khoảng mươi lăm phút sau khi rải vôi bột, thì eo ôi ! đủ thứ loại sinh vật trong ruộng chết nổi lên đầy mặt nước. Nào là cua, cá, rắn, ếch nhái, ễnh ương… Rất nhiều điả trâu, to dài cỡ ngón tay út, có con no căng máu, có con đói dẹp lép, trông thấy mà rùng mình nổi gai ốc.

Sau khi đạp đất bùn nhuyễn, phạt sạch cỏ bờ chung quanh, vãi vôi bột khử phèn xong, khu sình biến thành mảnh ruộng vuông vức, thật lớn, trông rất đẹp mắt.

Hoàn tất công tác này, Đội chúng tôi được đưa đi tăng cường hạ gỗ bồ đề, trong khu rừng trên đỉnh núi cao, cách Bệnh xá Liên trại chừng 1 cây số, khiêng ra thả xuống bên đường cái.

“Mục đích yêu cầu” của công tác này là chặt tiả những cây đủ “tiêu chuẩn” ấn định, gốc phải to cỡ một người ôm không hết. Nhiều Đội khác đã làm ở đây, từ khi mới bắt đầu đợt thi đua hồi đầu năm Dương lịch, nên những cây gần ngoài bià rừng không còn. Chúng tôi phải đi theo triền núi vào sâu cả trăm mét, mới có cây để lựa đốn hạ khiêng ra nộp.

Trong khoảng 200 mét từ bià rừng ra đến đỉnh thả xuống đường, mọi cây nhỏ và bụi dại đều đã được phát dọn bằng địa, chỉ còn cỏ tranh khô héo dưới ánh mặt trời trưa nóng. Không khí bị đốt hiện ra trước mắt bàng bạc loang loáng, tưởng như mình đang bị bao phủ bởi một bầu thủy tinh.
Quản giáo Đội chúng tôi quy định, anh em trong Đội tự bắt bồ thành từng toán 5 người để cộng tác làm việc. Mỗi ngày, mỗi toán phải đốn hạ 1 cây, chặt bỏ cành và ngọn, rồi khiêng ra khỏi rừng, thả theo triền núi xuống bên đường cái lớn. Khi nào hoàn tất, tức là “chỉ tiêu lao động” trong ngày đã đạt, được phép tự động dắt nhau về Trại nghỉ. Nghe tả sơ như vậy ai cũng tưởng là đơn giản dễ ăn lắm. Nhưng khi bắt tay vào việc, mới thấy công việc vất vả, nguy hiểm gấp đôi việc đi lấy giang hồi mùa Đông vừa qua.

Chung quanh gốc bồ đề toàn là dây leo, cây nhỏ, bụi gai dại chằng chịt, phải phát quang cả chục mét mới vào được tới sát gốc. Khi hạ cây phải dùng rìu chặt mở 2 miệng sâu vào thân cây, ở 2 bên đối ngược nhau. Một miệng cao một miệng thấp, cây sẽ đổ xuống phiá bên có miệng thấp.

Trước tiên, chặt mở miệng thấp rộng 45 độ góc, ở bên phiá mình muốn cho cây đổ xuống. Mặt đáy miệng sâu vào khoảng nửa bề dầy của thân cây, cao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Sau đó, mở miệng cao ở bên phiá đối ngược với miệng thấp đã mở. Miệng cũng rộng 45 độ góc, mặt đáy sâu vào khoảng 1 phần 3 thân cây, và phải cao ngang với đỉnh của miệng thấp đã mở bên phiá đối nghịch trên thân cây, thì cây mới không đổ ngược lại.

Trong lúc chặt mở miệng cao vào thân cây, tất cả mọi người phải dang xa cách gốc cây ít nhất là 50 mét. Chỉ còn một mình người phụ trách chặt, đứng trên giàn bắc bên gốc cây. Khi chặt đẽo mở miệng cao sâu vào chừng được 1 phần 4 thân cây, phải hô to báo động cho mọi người đang làm việc chung quanh, biết là cây sắp đổ về hướng nào. Người đang chặt cũng phải sẵn sàng nhẩy ra phiá sau khỏi giàn, kịp thời đúng lúc trước khi cây đổ.

Hạ cây đổ xuống rồi, anh em trong Tổ 5 người chia nhau chặt các cành và khúc ngọn khỏi thân cây. Cây thường dài cỡ 10 mét và khá nặng, 5 người khiêng không nổi. Phải phối hợp 2 Tổ tiếp tay nhau khiêng đổi công, tức là cả 2 Tổ gồm 10 người xúm nhau khênh từng cây một, ra đỉnh sau cùng của rừng để thả cho trôi xuống đường cái.

Đi từ sáng sớm khi trời còn sương mù lạnh căm căm, cỏ ướt sũng sương đêm. Hì hục thay nhau chặt đến trưa, mặt trời lên đến đỉnh đầu, mới hạ xong cây và chặt trụi cành để sẵn sàng khiêng đi. Vừa mệt vừa đói, mọi người ngồi nghỉ ăn bữa trưa. Xong suôi, mới tính tới công việc khiêng nộp cho nhanh chóng trọn vẹn, để về trại được sớm sủa.

Phải mất cỡ một tiếng đồng hồ, 10 người vừa khiêng vừa nghỉ lấy sức, mới khệ nệ men theo triền núi dài khoảng 300 mét, đem được cây gỗ ra tới đỉnh sau cùng để thả xuống đường.

Lúc cả 2 cây gỗ của 2 Tổ, được thả hết xuống đường xong xuôi, đồng hồ đeo tay của Cán bộ chỉ đúng 4 giờ chiều. Trời đang còn nắng trang trang gay gắt, không một hột gió, mệt vã mồ hôi, khát nước, miệng cổ khô như rang. Bình đựng nước mỗi người mang theo bên mình, cạn queo không còn một hột, thật cơ khổ cực cùng không sao tả siết. Mọi người vẫn phải cố gắng quay trở lại rừng, thu nhặt rìu, rựa, túi mang đồ dùng riêng để trở ra xuống núi về trại.

Trong lúc đi trở lại rừng, mắt Tôi có lúc hoa lên nổ tia đom đóm, đầu nóng bừng bừng, hai tai reo u, u, chân bước đi lảo đảo như muốn khuỵu xuống. Lo lắng suy nghĩ mung lung, không biết phải làm gì để tự cứu mình thoát khỏi bị ngất sỉu vì thiếu nước. May nhờ số chưa tới lúc, nên Trời đã khiến cho Tôi chợt nhớ ra cách tự cứu mình khỏi khát tạm, học được từ hồi còn nhỏ tham gia đoàn Hướng Đạo sinh là, tiểu ra mà uống.

Tôi vội lấy chiếc túi nylon nhỏ đựng đường thẻ, đã ngậm hết, để tiểu vào đó. Nước tiểu cũng chỉ được dăm giọt vàng khè. Đưa lên miệng hút cho hết và chép chép cho nước miếng tiết ra phụ hoạ cho đỡ khô miệng khô cổ. Quả là công hiệu, Tôi thấy dễ chịu hơn và lết được đến bià rừng, nơi đang để rìu, rựa, và các túi xách của chúng tôi.

Hỏi bạn bè không ai còn nước. Đảo mắt nhìn quanh, may sao thấy một cây chuối nhỏ cao hơn 1 mét, mọc sau một bụi xim, cách chỗ chúng tôi đứng chừng 5 mét. Quá đỗi mừng rỡ, Tôi cầm rựa tiến tới chặt phăng cây chuối sát tận mặt đất, chặt bỏ ngọn, lột các lớp bẹ ngoài để lấy nõn non bên trong cùng, cắn từng miếng nhai lấy nước nuốt từ từ. Nhờ thế mà tỉnh táo trở lại, rảo bước ra được khỏi rừng, xuống núi dốc thẳng đứng khoảng 80 mét mới tới đường. Ra về đến ngang Bệnh xá, cầu cứu mấy anh đứng bên bờ rào xin được nước, uống lấy uống để muốn bể bụng mới đã cơn khát.

Ngày hôm sau, chúng tôi cẩn thận hơn, ai cũng mang theo 2, 3 Gô nước cho chắc ăn. Nhưng tai họa lại xẩy ra trong trường hợp khác, đối với các bạn ở Đội làm việc bên đống gỗ ở cạnh đường. Chuyện xẩy ra vào lúc gần tàn giờ lao động chiều.

Sau khi 2 Tổ của chúng tôi thả xong cây bồ đề thứ 2 xuống đường. Anh em đang ngồi nghỉ ít phút, trước khi quay trở lại rừng thu nhặt rìu và túi đựng đồ riêng, để chuẩn bị xuống núi ra về. Bỗng nghe ở phiá dưới đường có tiếng người la, lẫn với tiếng lăn rầm rầm của đống gỗ bên đường đang đổ ra bừa bãi. Nhìn xuống, thấy có một anh nằm dài bất tỉnh trên mặt đất, mấy người khác xúm xít chung quanh hối nhau khênh đi Bệnh xá gấp.

Lúc xuống đến đường hỏi thăm anh em, biết được người bị nạn là Đại tá Bùi Dzinh, hồi đệ nhất Cộng hoà tại miền Nam đã có lần được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho làm Tư lệnh Sư đoàn trong một thời gian. Anh Dzinh là người luôn luôn có tinh thần lao động “cải tạo năng nổ”. Kể từ ngày mới trình diện đi tập trung tại Đại học xá Minh Mạng, bên Chợ Lớn, Saigon, cũng như khi tới Long Giao, anh ấy luôn luôn “tự giác” làm những việc mà anh em ngại khó. Hình như muốn tỏ cho Cán bộ Cách mạng thấy, anh ấy “năng nổ muốn cải tạo mau tiến bộ” hơn người khác.

Tai nạn đã làm anh ấy mê man bất tỉnh nhiều ngày liền. Anh em Tù, thân hay sơ, ai cũng thương cảm. Mỗi người theo cách riêng của mình, đều hết lòng cầu xin Trời Phật cho anh ấy qua khỏi tử nạn. Một tuần lễ sau, chúng tôi mừng rỡ được tin anh ấy đã hồi tỉnh. Anh ấy được nằm điều trị tại Bệnh xá Liên trại, thêm một thời gian cũng cả tháng sau, mới phải trở lại K2 tham gia lao động nhẹ.

Ngay đêm hôm chứng kiến anh Dzinh gặp tai nạn lao động, Tôi bị lên cơn sốt. Trước tiên rét run lạnh thấu xương. Sau đó chuyển sang nóng, thân nhiệt lên cao tới khoảng hơn 40 độ Centigrade. Miệng khô, hơi thở nóng hừng hực, đầu nhức như búa bổ, các khớp xương đau nhức chịu không nổi. Anh bạn nằm cạnh, phải cõng Tôi xuống phòng Y tế xin cấp cứu.

Cán bộ y tế tới khám. Tôi nghĩ rằng mình bị sốt rét rừng hành. Hồi nhỏ lúc mới 12 tuổi sau khi đi tham dự trại Hè Hướng đạo ở núi Mẫu Sơn, châu Lộc Bình thuộc tỉnh Lạng Sơn, ngay nơi có cột mốc định ranh giới Bắc Việt và Trung Hoa, Tôi cũng đã bị sốt rét rừng hành phải chữa trị bằng thuốc Quinine cả năm mới hết. Những triệu chứng bệnh trạng hôm nay, thấy cũng tương tự như vậy, nên xin Cán bộ cho phép lấy thuốc Chloroquine riêng của Tôi, do Trại giữ giùm để uống.
Tôi bị sốt chưa đến nỗi ngất sỉu hay chẩy máu mũi. Sau khi uống thuốc được chừng nửa tiếng đồng hồ, cơn nóng cũng giảm dần. Nên Cán bộ Y tế quyết định không cần di tản ra Bệnh xá Liên trại. Kể từ hôm sau, mỗi ngày Tôi đều bị lên một cơn sốt tương tự. Cán bộ Y tế cho được nghỉ lao động, nằm tại Láng trị bệnh bằng thuốc riêng của mình. Trại chẳng có thuốc gì để cấp, ngoài những bát nước thuốc Nam, nấu bằng các loại lá mót nhặt ở rừng về, và những viên Xuyên Tâm Liên trị Bá Bệnh.

Tôi mới được nghỉ lao động trị bệnh chừng 3, 4 ngày, đã có vài anh trong Đội thắc mắc. Nhất là anh Đội trưởng, tối nào trong giờ “phê và tự phê, xây dựng”, cũng nhắc Tôi cố gắng “khắc phục” hôm sau đi lao động với anh em, để bảo đảm cho Đội có nhân số lao động cao trong đợt thi đua. Tôi trình bầy, hàng đêm vẫn bị cơn sốt rét rồi nóng hành hạ, các khớp xương đau nhức di chuyển rất khó khăn đau đớn. Ban ngày khi ra ngoài gặp ánh sáng, mắt bị chói buốt làm nhức đầu không chịu nổi, nên chưa thể đi lao động được, xin anh em “thông cảm nâng đỡ tinh thần” cho Tôi.
Quản giáo Đội đã, ít nhất 2 lần, lén rình để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của Tôi. Một lần trong ban đêm gặp ngay lúc Tôi đang bị cơn sốt hành hạ. Một lần vào khoảng 9 giờ sáng, đúng vào thời gian các bệnh nhân từ Láng ở xuống phòng Y tế để được chẩn bệnh.

Từ láng ở đi xuống, Tôi phải lần mò đi từng bậc thang đất một, cũng như phải ngồi bệt xuống đất nghỉ nhiều lần. Mắt nhức nhối mở hi hí, bước hụt chân ngã lăn tuột cả 5, 6 bậc thang, tới sát hè Hội trường mới khựng lại. Lúc thấy có người nắm tay đỡ Tôi đứng dậy, ngẩng mặt nhìn lên để cám ơn. Tôi mới giật mình nhận ra người tiếp giúp chính là Quản giáo Đội của Tôi. Lúc này Đội đang lao động nơi hiện trường ngoài trại, tại sao ông ấy lại có mặt tại đây?

Tôi bị bệnh như vậy được chừng 1 tuần lễ. Bỗng một buổi chiều vào lúc nhá nhem tối, trên con đường từ K3 đi ngang K2 của chúng tôi, rần rần có 3, 4 toán người khênh cáng đi vội vã ra phiá đường cái. Một số anh em hiếu kỳ, giả bộ mò xuống suối tắm rửa để dò tìm tin tức. Khi trở lên cho biết, có 3, 4 anh trong K3 bị sốt nóng bất tỉnh nhân sự, phải đưa ra Bệnh xá Liên trại cấp cứu.
Sáng hôm sau có tin vài người đã chết không cứu được. Số còn lại thoát chết, đang nằm tại Bệnh xá tiếp tục điều trị. Người ta cho biết là sốt vàng da, bị nhiễm trùng vì lao động tại khu sình, nơi mà Đội chúng tôi phải dọn vét, rải vôi bột khử phèn trong mươi ngày trước.

Đến giờ điểm danh vào Láng đi ngủ, không thấy anh Đội trưởng. Tôi hỏi nhỏ anh nằm bên mới biết, hồi chiều đi làm về anh Đội trưởng bị sốt cao độ, chẩy máu mũi, xuống phòng Y tế khám, và đã được di tản ra Bệnh xá Liên trại cùng lúc với mấy anh khác, cũng sốt cao độ mê man bất tỉnh. Đội trưởng chúng tôi, anh Lê minh Luân, Đại tá thuộc Quân chủng hào hoa phong nhã trong Quân lực VNCH, lúc nào cũng bay bổng theo mây gió, được nằm điều trị ở Bệnh xá Liên trại, khoảng một tuần lễ sau thì bình phục.

Một buổi chiều đi lao động về, anh em cho biết là thấy anh ấy ngồi tắm suối, dơ tay vẫy chào anh em lúc đi ngang rất vui vẻ. Nhưng sáng hôm sau, khi Tôi xuống phòng Y tế khám bệnh, anh bạn phụ tá Cán bộ Y tế cho biết, anh Luân đã chết hồi đêm qua. Mới lúc chiều khoẻ khoắn ra tắm suối vui vẻ là thế, tự nhiên đến đêm bệnh biến chứng ngộp thở cứu không được.

Thế mới biết con người ta, sống chết đều do mệnh Trời định từ trước, muốn cũng không được, không muốn cũng không được. Tôi là người yếu sức khoẻ nhất trong Đội, bị bệnh sốt vàng da vật đầu tiên đau đớn gần chết, ai cũng cho là giả vờ trốn lao động. Nhưng mệnh Trời đã định, nên thoát khỏi chẳng sao.

 

ĐỊNH MỆNH DO TRỜI

Sa cơ nín thở qua sông,
Lo chi xoáy cuộn, sóng dòng nổi trôi.
Định tâm giữ vững đạo Trời,
Sống tròn Nhân Nghiã, bĩ thời sẽ qua.
Bao năm mặc áo Cộng hoà,
Dấn thân bảo vệ Tự do, Nhân quyền.
Thế, Thời, quốc nạn đảo điên,
Có đâu thối chí lãng quên lời thề.
Kiên trì nhịn nhục vì quê,
Đợi ngày thoát hạn sẽ về phục hưng.
Tàn cơn giông tố bão bùng,
Trắng đen phân tỏ Anh hùng Tiểu nhân.

K2 (Trại Cây Khế), Liên Trại 1, Mùa Hè 1977

 

Chương 18

ĐÔI GIỌT “MẬT ĐƯỜNG” TẠO NIỀM TIN CHO TÙ.

 

Cả mấy trăm ngàn chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà mọi giới (Quân nhân, Công chức Hành chánh, Đảng phái Chính trị, Báo chí truyền thông, Giáo chức…) thuộc miền Nam Việt Nam, đã bị Cộng sản Việt Nam đưa đi Lao động Cải tạo Tư tưởng trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghiã, vì đã chiến đấu chống sự bành trướng của Cộng sản tại Việt Nam. Sau thời gian 2 năm tập trung đầy đọa khổ nhục, tin đồn có đợt tha vào tháng 4-1977, nhân kỷ niệm 2 năm thống nhất đất nước, chỉ là cái bánh vẽ đưa ra để phát động đợt thi đua, thúc đẩy Tù làm ra nhiều tiền theo lệnh của Nhà nước mà thôi.Mãi đến tháng 9-1977, kỷ niệm ngày Độc lập của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, Đoàn Cán bộ Trung Ương mới từ Hànội tới Liên Trại 1, tổ chức học tập và thông báo tin tức đợt tha đầu tiên. Con số Đại tá được tha rất ít, có thể đếm trên đầu ngón bàn tay không hết. Chỉ vỏn vẹn có 3 người:1/ -Đại tá Huỳnh hữu Ban (nguyên Trưởng Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu) bị đưa ra Bắc hồi giữa năm 1976 cùng lượt với chúng tôi, đã chết vì bệnh phổi tại Bệnh xá Liên trại 1 vào khoảng cuối năm.

2/ -Đại tá Thọ (gốc Nhẩy dù) bị bắt tại trận Hạ Lào trong cuộc Hành quân Lam Sơn 719, (Tôi không nhớ Họ của anh Thọ). Phái đoàn Trung ương giải thích : “Anh Thọ được Nhà Nước Trung Ương tha, vì đã “cải tạo nhiều năm rất tiến bộ”. Nhưng Chính quyền Địa phương không nhận, vì lý do không bảo đảm được an ninh cho anh Thọ, tại địa phương nơi xin về cư ngụï. Do đó, Nhà Nước đành phải để anh ấy ở lại tiếp tục cải tạo.” Anh Thọ không ở chung Trại với chúng tôi, nên không có dịp tiếp xúc để kiểm chứng.

3/ -Đại tá Hồng Sơn Đông, ở chung với chúng tôi, từ khi bị đưa ra Bắc hồi cuối tháng 6 năm 1976. Anh Đông đã giải ngũ từ thời Tổng thống Ngô đình Diệm, Đệ nhất Cộng hoà tại miền Nam Việt Nam.

Từ khi ra khỏi Quân đội, anh Đông sống ở vùng Thủ Đức, Gia Định, thường xuyên cộng tác với một Nhật báo tại Saigon. Trong thời Đệ nhị Cộng hoà, anh Đông tham gia NHÓM KÝ GIẢ ĐI ĂN MÀY, xuống đường biểu tình chống đối Chính quyền vì đã kiểm duyệt và đóng cửa các Báo thân Cộng. Tất cả các Đảng phái Quốc gia chống Cộng sản tại miền Nam lúc bấy giờ đều biết rõ, những tờ báo này thường xuyên cố tình loan tin gây hoang mang, làm suy giảm tinh thần chống Cộng sản của Chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà và Đồng bào tại miền Nam Việt Nam.

Trước khi có lệnh tha, anh Đông đã từng úp mở nói với vài bạn thân là, “NHÓM KÝ GIẢ ĐI ĂN MÀY tại Saigon trước kia là Cán bộ Cộng sản nằm vùng. Từ sau ngày Giải phóng, họ có Uy thế lớn trong Chính quyền Cách mạng tại Saigon. Họ đãõ vận động cho anh ấy không phải đi cải tạo nhưng không kịp, nên cứ phải đi tập trung như mọi người, và đang đợi lệnh tha để ra về trong dịp sớm nhất.”

Đợt học tập này được tổ chức luân phiên, tại cả 2 địa điểm : K2 (Trại Cây Khế) và K3 (Trại Cốc). Ngày nào tổ chức học tại K2 của chúng tôi, anh em trong K3 phải dắt nhau ra học chung. Ngược lại, ngày nào tổ chức tại K3 trong khu tận cùng của thung lũng, anh em chúng tôi phải di chuyển vào trong đó, để cùng tham dự.

Hội trường K2 của chúng tôi chỉ có sức chứa 200 người. Nay dồn cả 2 Phân trại gần 400 người vào ngồi chung, chen nhau chặt cứng như nêm. Mọi người phải ngồi chồm hổm sát bên nhau. Đầu gối người sau đụng lưng người ngồi trước. Vai sát vai không chỗ hở mà cựa quậy. Hơi người bốc ra nồng nực. Đã có anh vì mắc bệnh xuyễn kinh niên, bị ngộp thở phải dẫn ra ngoài cấp cứu. Trong Hội trường không đủ chỗ, phải ngồi đầy cả ngoài hiên chung quanh bên ngoài.

Ngày nghe thuyết giảng trong Hội trường. Đêm được xem chiếu bóng ngoài trời, nơi sân tập họp lớn trước Thư viện. Mọi người ngồi bệt trên mặt đất. Sương đêm lạnh buốt, nhiều người phải mang cả chăn ra chùm kín từ đầu xuống chân, để không bị cảm lạnh.

Phim thuộc loại tuyên truyền ngây ngô xảo trá, với tựa đề “Anh hùng diệt tăng”, giàn dựng diễn tả lại trận phục kích Chiến đoàn Pháp, tại vùng Tây nguyên Trung phần Việt Nam hồi thập niên 1950. Đại ý kể truyện một anh Bộ đội Cộng sản Bắc Việt nằm phục kích bên lề đường, ném lựu đạn lên xe tăng của Pháp. Lựu đạn nổ trên đỉnh bên ngoài xe tăng không hề hấn gì. Xe tăng tiếp tục chạy trên đường vòng sang phiá bên kia sườn đồi. Anh Bộ đội chạy leo qua đỉnh đồi sang phiá sườn bên kia, trước khi xe tăng bò tới. Nhờ lợi thế ở trên cao sát bên mặt đường, anh Bộ đội nhẩy xuống nóc xe tăng, thả quả lựu đạn vào trong lòng xe. Anh Bộ đội từ nóc xe nhẩy xuống đất vừa xong, xe tăng nổ và bốc cháy???

Trong đợt học tập này, có một sự kiện rất đặc biệt không ai quên được. Đoàn Cán bộ Trung ương đã dẫn theo ông PHẠM KHẮC HOÈ, nguyên làm Ngự Tiền Văn Phòng của Hoàng đế Bảo Đại. Ông này đã giác ngộ, dứt bỏ giai cấp quan lại của mình trong Triều đình nhà Nguyễn, theo Cách mạng từ mùa Thu 1945. Hiện nay đang là người Cộng sản chính tông, đến nói chuyện tâm tình với Tù cấp Đại tá, thuộc giai cấp cầm quyền như ông Hoè trước kia trong “Ngụy quyền phản động”.
Ông Hoè khoe rằng, chính ông ấy đã khuyên và đốc thúc Hoàng đế Bảo Đại thoái vị Vua vào tháng 8 năm 1945. Nhờ thế, đã được Cách mạng trọng dụng từ bấy đến nay, không hề bị kỳ thị vì quá khứ của mình.

Khi chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ vào tháng 12 năm 1946, ông ấy bị Pháp bắt giam tại nhà tù Hoả Lò Hànội. Tháng 1 năm 1947 được đưa vào Saigon và Đàlạt để tiếp xúc với một số nhân sĩ : Vương quang Nhường, Phan huy Đán, Đinh xuân Quảng, Trần trọng Kim, Nguyễn văn Sâm, Trịnh đình Thảo, và Nam Phương Hoàng hậu. Đến giữa tháng 4 năm 1947, Pháp đưa trở ra Hànội và trả tự do cho ông ấy. Tháng 8 năm 1947, ông ấy bỏ Hànội ra Chiến khu theo Việt Minh. Tháng 9 được gặp Cụ Hồ, và ở lại theo Cách mạng luôn kể từ đó.

Ông ấy cũng đã được Nhà nước Cộng sản Bắc Việt, cho cái vinh dự làm một trong các thành viên tham dự Hội nghị Genève 1954, chia cắt đất nước Việt Nam làm hai miền Nam Bắc tại Vĩ tuyến 17.
Ông Hoè nói rất nhiều để sau cùng kết luận, nhờ suốt mấy chục năm trời theo Cách mạng, chỉ học được có 2 điều “cơ bản chính yếu” : YÊU và GHÉT.

“Ghét Giai cấp Thống trị, vì là kẻ thù bóc lột Giai cấp Vô sản.
Ghét ăn bám vào xã hội, nhờ thế mới biết Yêu Lao động.
Yêu Lao động tức là yêu Xã hội Chủ nghiã.
Yêu Xã hội Chủ nghiã mới là yêu Nước.”

Qua sự kiện này ai cũng thấy được, người ta đưa ông Hoè đến với mục đích chính yếu duy nhất, trình diện nhân chứng sống bằng xương bằng thịt. Cho mọi người nghe tận tai, thấy tận mắt, tấm gương của một người trước kia thuộc Giai cấp thù địch với Giai cấp Vô sản, biết giác ngộ, nhiệt thành hối cải, tận tụy theo Cách mạng lập công chuộc tội, đã được đối xử bình đẳng trong giai cấp Lãnh đạo của Cộng sản như thế nào. Tù hãy yên tâm noi gương mà cố gắng cải tạo.“Đường đi khó không vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, đấy là câu ông Hoè đã dùng để kết thúc buổi nói chuyện tâm tình thật dài của ông ấy, với các Tù Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đang bị tập trung cải tạo tại Liên trại 1, xã Việt Cường, Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.Trong kỳ học tập này, Đoàn Cán bộ Trung Ương còn cho phát thanh một cuộn băng nhựa, ghi âm bài phát biểu ý kiến của Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, gửi anh chị em Chiến sĩ thuộc Chế độ Việt Nam Cộng hoà cũ. Tướng Nghi nguyên là Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tiền phương của Quân đoàn III, bị quân Cộng sản Bắc Việt bắt tại mặt trận Phan Rang trước khi Saigon thất thủ, và đã bị Cộng sản Bắc Việt tuyên án tù chung thân,

Không biết kỹ thuật thâu băng dở, hay máy phát âm của Trại dở, mà âm thanh phát ra lúc rè, lúc nhỏ, lúc lạo xạo pha trộn các nhiễu âm, rất khó nghe. Tôi không nghe được đầy đủ nội dung nói những gì.

Nhưng sau buổi học tập, nhiều anh em cực đoan khó tánh, kín đáo thì thầm với nhau, có ý bất bình về những lời nói của Tướng Nghi. Đa số còn lại chỉ nhè nhẹ thở dài yên lặng, giữ thái độ “Im lặng là vàng” không biểu lộ ý kiến gì. Tôi thuộc nhóm thứ 2, cũng có vài suy nghĩ riêng, nhưng không nói ra trong lúc đó. Giả dụ như, Tướng Nghi có tự nguyện ngỏ lời kêu gọi khuyên anh em cố gắng cải tạo, lập thành tích đái công chuộc tội… để sớm được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước Cộng sản đi nữa, cũng chẳng có gì đáng trách.

“Gặp thời thế, thế thời phải thế.” Chính quyền miền Nam đã hoàn toàn xụp đổ. Quân lực Việt Nam Cộng hoà tan rã. Đồng minh bỏ rơi, cuốn gói chạy. Các Đại cường tham gia ký Hiệp Ước Paris 1973, im hơi lặng tiếng, làm ngơ trước sự vi phạm trắng trợn của Cộng sản trong suốt 2 năm qua. Trong hoàn cảnh vô vọng, mỗi người phải tự lo cho số phận riêng của mình. Tôi nghĩ, trong thâm tâm Tướng Nghi không muốn làm việc đó, nhưng vì bị áp lực cách nào đó ghê gớm lắm, mới chẳng đặng đừng, phải cắn răng nhịn nhục làm vậy thôi.

Chắc ai cũng nhớ rằng, sau mỗi buổi học rời Hội trường trở về Láng, mọi người bị buộc phải ngồi bên nhau mổ xẻ đào sâu thêm về đề tài đã được nghe, trước sự hiện diện theo dõi của Cán bộ. Mỗi người bị buộc phải thay phiên nhau, tự kiểm điểm và liên hệ với bản thân, tìm cho ra những sai trái của mình, của Chế độ mình đã phục vụ trước kia. Phải tự buộc tội mình, để mà hối hận, mà xin Cách mạng khoan hồng tha chết. Mọi ý kiến phát biểu đều phải kết thúc bằng lời hứa, quyết tâm cải tạo cho thật tốt, để sớm được về đoàn tụ với vợ con. Mặc dù chính mình cũng biết, trong các bài thuyết giảng có rất nhiều điều phi lý, suy luận một chiều, sai sự thật, nhưng chẳng ai dám có ý kiến ngược lại. Bởi vì làm như vậy, cả Đội sẽ phải tiếp tục ngồi xây dựng cho nhau hoài không được nghỉ. Cho đến khi nào Cán bộ thấy mọi người tỏ ra “thành khẩn” nhiệt liệt công nhận, “hào hứng” góp ý kiến tán tụng, những điều ghi trong tài liệu học tập là rất chính xác khoa học, mới được coi là “đạt mục đích yêu cầu”, “kết quả thâu hoạch tốt”, và cho ngưng thảo luận để nghỉ ngơi.

Đã có lần ở trong Đội chúng tôi, một anh bạo gan góp ý kiến thành thật, theo đúng tinh thần Dân chủ mà Nhà nước Cộng sản thường rêu rao. Lập tức được Quản giáo Đội (Trung úy Khảm) nhắc khéo rằng : “Một hai bộ óc dù có thông minh đến đâu, cũng không thể bằng cả trăm cả ngàn bộ óc của Bộ Chính trị Trung ương Đảng được. Các anh phải “nắm cho thật vững” điều đó. Chính vì “bản chất đại ngoan cố” như vậy, mà các anh đã lạc đường phản lại Cách mạng. Học tập đến giờ này mà còn chưa “giác ngộ”, bao giờ mới “tiến bộ” được tha về với Vợ Con?”

Nhờ có đợt học tập này, 3 anh Quế, Huề, và Thi, đang bị cùm trong nhà kỷ luật bên truồng heo của K2, suốt từ hồi trốn trại cuối năm 1976 bị bắt lại đến nay, được khoan hồng ân xá cho ra khỏi nhà kỷ luật. Mỗi người được biên chế vào một Đội khác nhau, để tiếp tục đi lao động với anh em như thường. Thấy hiện trạng cơ thể suy nhược của các anh ấy mà xót xa. Thương cho bạn mà cũng lo cho chính bản thân mình, cứ cái ngữ lao động cực khổ, đói ăn như vầy, rồi đây chắc cũng chẳng hơn gì.

Sau đợt học tập, anh em tiếp tục chuẩn bị làm vụ lúa Thu Đông. Đội chúng tôi được giao trách nhiệm đi lấy “cây cứt lợn” một loại thảo, mọc từng bụi cao cỡ 1 mét, có hoa từng chùm nhỏ mầu vàng, nhụy đỏ, mùi hôi hôi, hắc hắc như phân lợn, thân và lá có lông li ti đụng vào da làm ngứa ngáy như bị rôm cắn. Hàng ngày, mỗi người phải chặt 2 gánh nặng cỡ 40 kílô đem về bỏ tại khu ruộng của Trại. Có Đội khác ngồi đó chuyên lo bằm nhỏ, vãi xuống ruộng đầy nước cho mục rữa lần ra thành phân bón trước khi cấy mạ.

Đến tháng 10 năm 1977, mọi việc hàng ngày đang tiến hành êm ả. Bỗng dưng vào một hôm đẹp trời, toàn thể Tù K2 chúng tôi, không phải xuất Trại lao động buổi chiều, tập trung tất cả nơi sân tập họp trước Thư viện. Trại trưởng xuất hiện, thông báo tên một số người được lựa đưa đi lao động cải tạo thật sự. Ai nấy hồi hộp chờ đợi, hy vọng có tên mình trong danh sách.

Khoảng 2 chục người có tên, toàn là dân Chiến tranh Chính trị, An ninh Quân đội, Phòng Nhì, Tuyên Úy, Tỉnh trưởng, Xây dựng nông thôn, và Ban Liên hiệp Quân sự 4 bên. Đội chúng tôi có tới 4 người, gồm các anh Dương Hiếu Nghiã, Võ hữu Bá, Tôn thất Hùng và Tôi (Nguyễn-huy Hùng).

Bữa ăn tối, cả K2 “đột xuất” được đặc biệt tăng cường thịt heo, do chính Toán Chăn Nuôi của K2 chăm vỗ bấy lâu nay. Trại trưởng cho biết : “Đây là dịp “công khai” thanh toán sòng phẳng tiền dư thực, cho mọi người cùng hưởng trước khi chia tay nhau”. Mọi người được phép nấu nướng ăn uống đãi đằng, hàn huyên tiễn biệt nhau thong thả từ chiều tối cho đến giờ đi ngủ. Bạn bè kẻ ở người đi bồn chồn quấn quýt.

Đây cũng là lần đầu tiên, Tù được phép qua lại giữa các Láng ở, để nói chuyện chào tiễn biệt bạn bè thân quen của mình. Tại K2 của chúng tôi, có cả mấy vị Linh mục, Mục sư Tuyên Úy Quân đội, mang cấp bậc Đại tá nhiệm chức, nên cũng bị bắt đi cải tạo.

 

KẺ Ở NGƯỜI ĐI.

Giúp nhau chuẩn bị lên đường,
Thì thầm chia xẻ tình thương bạn bè.
Mai này cách trở sơn khê,
Chừng nào có được ngày về gặp nhau.
Bao năm cùng khoác chiến bào,
Sa cơ thất thế cùng vào Tập trung.
Bên nhau hứng chịu bão bùng,
Trăm chiều nhục nhã cực cùng khổ đau.
Còn đêm nay nữa bên nhau,
Dặn dò nhắn gửi hết câu chân tình.
Ai may sớm gặp gia đình,
Đừng quên tiếp tục công trình dở dang.
Đừng quên Quốc hận đang mang,
Đừng quên những kẻ đầu hàng cầu vinh.
Đừng quên tội phạm chiến tranh,
Là bầy lang sói đang hành hạ Dân.K2

(Trại Cây Khế) Liên Trại 1, cuối tháng 10-1977

 

Chương 19

VỀ MIỀN ĐẤT TỔ HÙNG VƯƠNG TRỞ THÀNH TÙ KHÔNG ÁN

 

Nhóm 20 anh em chúng tôi tại K2 (Trại Cây Khế) được lựa đưa đi, so với tổng số đang bị giam tại K2 chỉ bằng hơn mười phần trăm. Toàn những người thuộc thành phần bị Cộng sản liệt vào hạng nguy hiểm, “có nợ máu sâu đậm với Nhân dân” hơn các thành phần khác. Vì thế, đêm nằm thao thức suy nghĩ mung lung đủ thứ chuyện, không ngủ được.

Với Việt Cộng gian manh xảo quyệt, làm sao đoán được chuyện gì sẽ xẩy đến trong ngày mai. Lúc nào họ cũng “ngọt sớt mía lùi”, như sẵn sàng đổ thóc giống cho mình ăn. Thế rồi lại trơ trẽn nuốt lời ngay tức khắc, chả biết đâu mà lường mà tin cho được.

Trằn trọc mãi, vừa mới chợp được mắt, Cán bộ Quản giáo Đội đã tới, lôi chân những người phải ra đi thức dậy. Rồi dẫn xuống bếp, lãnh thực phẩm ăn đường cho cả ngày. Mỗi người lãnh phần ăn cho cả 3 bữa (sáng, trưa, tối), gồm cơm nắm và thịt heo kho, bọc sẵn trong lá chuối. Nước chín để uống được lấy thả giàn, 2, 3 Gô hoặc Bi đông tùy theo khả năng cơ hữu của mỗi người. Không hạn chế như ngày thường, mỗi buổi chỉ được lãnh 1 Gô hay 1 Bi đông mà thôi.

Trời còn tối, chưa tới giờ báo thức của cả Trại. Anh em ra đi lục đục thu dọn hành trang, khiến các bạn nằm gần bên cũng bị thức giấc. Bạn bè thân xúm xít tiếp tay người ra đi, gói ghém hành trang cho thật gọn gàng, và luôn mồm nhắc nhở coi kỹ xem còn sót gì không.

Hai anh bạn cùng Tổ rất thương mến giúp đỡ Tôi xưa nay (các Đại tá Nguyễn quang Chiểu và Vũ quang Chiêm, trước 30-4-1975 làm ở Phủ Tổng Thống), đến gần giúi cho bọc kẹo lạc và bọc bánh quy, gia đình gửi cho từ hôm trước Tết còn để dành chưa ăn hết. Cả 2 người cùng xúc động, ôm ghì lấy Tôi chúc lên đường bình an, may mắn. Tôi nghẹn ngào, rưng rưng lệ nói những lời cám ơn chân tình. (Từ ngày đến định cư tỵ nạn Cộng sản tại California, Tôi có dịp gặp anh Nguyễn quang Chiểu cũng đang định cư tỵ nạn tại đây. Nghe nói Anh Vũ Quang Chiêm cũng đã sang định cư tỵ nạn tại California, nhưng Tôi chưa có dịp gặp lại.)

Cán bộ hối lên đường, và dẫn mấy anh em phải ra đi, tay xách vai mang tư trang rời Láng, xuống tập trung nơi cổng Trại. Đến nơi tập trung, thấy trong nhóm phải ra đi, có cả Linh mục Nguyễn văn Thịnh, Giám đốc Nha Tuyên úy Công giáo, và Mục sư Dương Kỳ, Giám đốc Nha Tuyên úy Tin Lành thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

Sau khi Phó trưởng trại, trưởng Toán áp tải dặn dò mọi người về “Quy luật phải thi hành trong khi hành quân” xong xuôi, còn nhắn nhủ thêm : “Đến nơi mới, các anh phải thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau, để mà cải tạo cho nó tốt”. Những điều này làm Tôi suy tư lo lắng. Xưa nay, ông ta vốn là người xuề xoà dễ tính đối với anh em. Nay nhắc nhở như vậy, chắc chắn trong những ngày sắp tới, sẽ có nhiều điều không may đến với chúng tôi.

Các bộ đội áp giải hối chúng tôi : “Lên đường! Khẩn trương!”. Anh em khệ nệ vác hành trang, kẻ trước người sau nối đuôi nhau đi bộ 1 cây số từ K2 (Trại Cây Khế) ra đường cái. Tới ngã 3, nơi có Bệnh xá Liên trại, rẽ sang phải chừng nửa cây số, thấy một đoàn 4 xe tải Molotova có căng mui và bạt 2 bên hông, đang đậu chờ chúng tôi.

Đến đây, gặp thêm một nhóm anh em ở trong K3 (Trại Cốc), cũng bị đưa đi một lượt với chúng tôi. Trời còn tối mờ sương, không nhận được mặt nhau, trừ những người cùng đi chung trên một xe.
Cán bộ áp tải của K2 và K3 bấm đèn Pin, đi quanh kiểm điểm nhân số Tù xong, ra lệnh 15 người lên một xe. Mỗi xe có 3 cảnh vệ mang súng AK đi áp tải. Một người ngồi nơi buồng lái bên cạnh tài xế. Hai người còn lại ngồi phiá sau xe với Tù, chặn ngay nơi bửng lên xuống.

Hành lý của Tù xếp gọn thành một đống, phiá trong cùng thùng xe nơi sát buồng lái. Anh em ngồi bệt xuống sàn, tập trung ở khoảng giữa, không được ngồi gần phiá bửng sau xe, nơi Cảnh vệ ngồi trấn tại đó.

Đặc biệt lần di chuyển này, tấm bạt phiá sau xe được cuốn lên để cho thoáng hơi. Nhờ thế, anh em có thể trông thấy được rõ ràng, cảnh rừng núi 2 bên đường lùi xa dần phiá sau xe.

Sau hồi còi lệnh của trưởng đoàn áp tải, đoàn xe nổ máy, bật “đèn mắt mèo”, chuyển bánh và lần lần tăng tốc độ. Vài phút sau bắt đầu lao đi vùn vụt, lắc qua lắc lại, vòng vèo xuống dốc theo các sườn núi, rừng rậm mịt mù trong sương đêm lành lạnh.

Trời còn tối chẳng trông thấy gì, mệt mỏi ngồi ôm gối, tựa lưng nhau, mắt nhắm nghỉ ngơi, mặc cho thời gian trôi. Tiếng động cơ và không khí do lực chuyển động của chiếc xe tạo nên, reo đều đều, ù ù, vụt vụt, ào ào, ru anh em thiêm thiếp chìm vào giấc ngủ.

Chẳng biết thời gian ngủ được bao lâu. Bỗng dưng xe giảm tốc độ đột ngột, làm mọi người bị xô dồn về phiá trước tỉnh giấc. Mở mắt nhìn ra ngoài, thấy mặt trời đã lên khá cao. Đoàn xe đang di chuyển ngang qua một dẫy phố, có lẫn lộn nhà ngói nhà tranh.

Người hàng phố thưa thớt, đứng ngó đoàn xe chạy ngang, dơ tay vẫy vẫy. Chắc họ tưởng đoàn Bộ đội nào đi công tác miền núi trở về. Cả chiều dài của khu phố chỉ khoảng 200 mét. Đằng sau các căn nhà là những bụi tre và cây cối um tùm. Chắc đây là khu trụ sở Xã hay Hợp Tác Xã nào đó, thuộc vùng ráp ranh miền núi và đồng bằng.

Qua khỏi khu phố nhỏ, đoàn xe tiếp tục lấy tốc độ trở lại, vùn vụt tung bụi mù, băng ngang những cánh đồng không người.

Khoảng xế trưa lại gặp một Thị trấn nhỏ khác. Nhà cửa nằm dọc dài theo một bên đường. Phiá bên kia đường là những thửa ruộng, đang có người cầy bừa.

Không phải các toán máy cầy hay máy bừa đất, như trong các cuốn truyện mà anh em đã đọc tại Thư viện của Liên trại 1. Mà là những hàng người khòm lưng kéo cầy thay trâu. Họ đứng thành 2 hàng ngang. Hàng trước cách hàng sau chừng 3 mét. Hàng sau là 5 người cầm 5 chiếc cầy. Phiá trước hàng người cầm cầy, là một hàng người đông gấp đôi, quàng vào vai những sợi dây kéo cầy. Những hàng người này cứ thong thả theo nhau, đi vòng hết ruộng này qua ruộng khác. Từ xa trông như những người máy, đã được hiệu chỉnh cho di chuyển tự động. Rất nhiều nhóm người làm việc như vậy, rải rác trên khắp các thửa ruộng. Chẳng thấy bóng dáng một con trâu nào.
Đoàn xe chạy qua Thị trấn được chừng mươi phút, thấy nơi giữa đồng có một khu nhà tiền chế 2 tầng bằng tôn, cửa sổ dát kính phản chiếu ánh mặt trời sáng loáng. Gần bên có một bồn chứa nước lớn cao khoảng 7, 8 mét, và mấy dẫy nhà gạch 2 tầng lợp tôn, trông như một chung cư hay cơ xưởng sản xuất nhỏ. Theo Bộ đội áp tải nói : “Đấy là khu nhà của Cố vấn Liên Sô, và chung cư của công nhân.”

Đoàn xe tiếp tục, băng qua một vùng 2 bên đồng khô, rồi vòng vèo theo các triền núi đồi, cây cối cằn cỗi pha lẫn tre gai sơ xác. Đến lúc mặt trời chiếu xéo hông xe, đoàn xe ngừng lại. Trên sườn núi ngay bên đường, có một xóm nhà tranh, không thấy bóng người. Cán bộ cho Tù xuống tiểu tiện, nếu ai có nhu cầu, còn không thì cứ ngồi yên trên xe. Thực ra nhu cầu chính yếu không phải vậy. Cần ngưng để xe đầu đợi các xe sau đến, tập trung đầy đủ trước khi tiếp tục di chuyển. Đồng thời lợi dụng thời gian này, cho Tù và Cán bộ áp giải, xuống đất giải quyết nhu cầu vệ sinh cá nhân, vì đã phải nín suốt cả chục tiếng đồng hồ. Mọi người ào ào nhẩy xuống xe, kề ngay vào các bụi lau, cây dại bên đường xả “xúp bắp”. Người tiểu tiện, kẻ đại tiện. Lúc này mới thấy rõ ý nghĩa xác thực, của 1 trong TỨ KHOÁI ở trên đời (ăn, ngủ, đụ, ỉa), dân gian thường truyền tụng.

Ngừng xe hút chưa tàn điếu thuốc, lại có lệnh lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Để tiết kiệm, những người đang hút dở phải dụi tắt điếu thuốc bỏ vào bao, để sau này hút tiếp cho khỏi uổng. Chẳng như hồi trước 30-4-1975, dù là thuốc “3 con 5” (555) mới bập có vài hơi, khi không thích hút nữa là quẳng ngay không luyến tiếc.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, đoàn xe chạy ngang một xóm có nhiều nhà ở dọc 2 bên đường. Quanh nhà nào cũng có hàng rào cây gai và cổng tre. Phiá sau nhà có những bụi chuối um tùm. Nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy bóng người nào qua lại trên đường.

Qua khỏi xóm dân cư chừng 2 cây số, xa xa bên phiá trái cách đường khoảng 1 cây số, thấy một khu nhà tôn nhà ngói lẫn lộn, trông như một cơ sở Hợp tác xã. Phiá trước khu nhà có một cổng lớn, với chiếc Bảng hiệu to tướng đề hàng chữ “Công an Nhân dân”. Gần bên khu nhà này khoảng 300 mét, là một khu bao quanh bởi một hàng tường cao, có giăng giây kẽm gai trên đỉnh. Sau hàng tường thấy những mái nhà tôn san sát bên nhau, xếp theo hàng lối dọc ngang đều đặn. Nơi góc các dẫy tường đụng nhau, có những tròi canh mái lợp tôn, có người mặc áo mầu vàng ôm súng ngồi. Chắc hẳn đây là khu trại giam tù.

Trước khi đoàn xe bắt đầu chui vào quãng đường vòng vèo, leo theo sườn núi 2 bên dầy đặc cây rừng rậm rạp âm u, lại thấy xa xa bên kia bờ sông, một khu trại giam khác kiến trúc tương tự. Đoàn xe chúng tôi không rẽ vào 2 nơi này, tiếp tục chạy. Chừng 45 phút di chuyển vòng vèo trong rừng, đoàn xe dừng hẳn lại trước một khu trại, cũng có tường cao bao quanh với hàng dây kẽm gai giăng trên đỉnh, y như 2 trại đã thấy trước.

Chúng tôi phải ngồi yên trên xe chờ khoảng 10 phút, mới được lệnh xuống xe. Mọi người vác hành trang theo nhau hàng một, vào qua khung cửa nhỏ của chiếc cổng sắt lớn. Cán bộ mặc đồ kaki mầu vàng đứng tại buồng canh, đếm đầu kiểm ghi tổng số người vào trại.

Ngay phiá sau cổng là một sân tập họp hình chữ nhật thật lớn, đủ chỗ ngồi cho cả ngàn người. Anh em chúng tôi được lệnh ngồi tập trung thành 2 hàng dọc, vào một góc sân. Một hàng rào Công an cầm súng, đứng vây quanh cách chúng tôi chừng 5 mét để canh chừng. Đoàn bộ đội áp tải ngồi lại bên xe, đậu phiá ngoài cổng trại.

Nơi cuối sân, thấy một nhóm khác cả trăm người không biết từ đâu đến. Họ cũng phải ngồi theo hàng lối, bên cạnh những gói tư trang, chờ như chúng tôi. Có bạn trong nhóm chúng tôi nhìn thấy người quen, mới biết là cùng “Phe Ta” với nhau. Nhóm anh em ấy thuộc cấp bậc Trung tá, Thiếu tá.

Trong khi ngồi chờ đợi Trưởng toán áp tải đi “làm việc” với Ban Chỉ huy, chúng tôi có thì giờ quan sát cảnh trí bên trong trại giam. Phiá cuối sân tập họp có một toà nhà lớn lợp tôn, chắc là Hội trường. Trại giam được chia ra 2 khu giam riêng biệt. Khu bên phải, có một dẫy tường cao 3 mét, suốt chiều dài của sân. Khoảng giữa bức tường, có 2 cửa nhỏ rộng 1 mét, cao 2 mét để ra vào. Trong khu này có những dẫy nhà vách gỗ mái tôn, và gần sát tường phiá cổng lớn có dẫy nhà gạch. Bên phiá sân đối diện, có 1 hàng rào kẽm gai cao 2 mét, để ngăn cách năm sáu dẫy nhà vách gỗ mái tôn với sân tập họp.

Ngồi đợi khoảng một tiếng đồng hồ tại sân tập họp, chúng tôi nghe một hồi kẻng oang oang nổi lên phiá ngoài cổng. Sau đó thấy 2 cánh cửa sắt lớn được mở rộng ra, và lục tục từ ngoài cổng trại, từng Đội, từng Đội Tù nối đuôi nhau đi vào. Họ phải bỏ nón ra khỏi đầu, khi đi ngang điếm canh tại cổng.

Những Đội đi vào phiá Phải, khu có tường quây, gồm toàn những Tù tuổi sồn sồn, dáng mệt mỏi, lặng lẽ cặp đôi, theo nhau rảo bước vào khu giam. Có vài người chỉ trỏ về phiá đám Tù đang ngồi giữa sân vẫy vẫy tay, chắc là nhận được mặt người quen.

Những Đội rẽ vào bên trái, khu nhà sau hàng rào kẽm gai, tuổi cỡ choai choai trên dưới 20, nói năng xấc láo, ồn ào, cũng có đôi người lớn tuổi. Sau này mới biết đó là đám Tù Hình sự, chuyên trộm cắp giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ, in bạc Cụ Hồ giả, băng đảng chém giết nhau… Chúng là loại “tù chuyên nghiệp”, từng ra vào khám nhiều lần. Những đứa trẻ tuổi, bị giam nhiều năm trong trại giáo hoá thiếu nhi phạm pháp. Khi đến tuổi trưởng thành, chúng bị chuyển qua trại tù của người lớn, tiếp tục thi hành nốt những năm còn lại của bản án, đã tuyên phạt từ hồi còn vị thành niên.

Chúng tôi phải tiếp tục ngồi chờ cho đến sẩm tối. Sau hồi kẻng điểm danh, nhốt hết Tù cũ vào các phòng giam của họ xong, Cán bộ Công an và mấy người “Trật tự”, mới đến dẫn chúng tôi vào 1 dẫy nhà trống, trong Khu có tường bao quanh.

Cán bộ Công an, mặt lạnh lùng chẳng nói chẳng rằng. Nhưng mấy người “Trật tự” đi theo, cầm xâu khoá và chià thì luôn mồm hối thúc “khẩn trương”. Sau này mới biết họ là Tù bên khu Hình Sự, được tin cậy lựa chọn chỉ định làm “Thi Đua”, đi theo để đôn đốc Tù thi hành lệnh sai bảo của Cán bộ. Họ còn có trách nhiệm, nghe ngóng thâu nhặt những tin tức sinh hoạt của Tù, qua hệ thống “ăng ten” riêng để báo cáo cho Cán bộ.

Người sau cùng trong chúng tôi, vừa bước lọt chân vào qua ngưỡng cửa, nghe một tiếng rầm phiá sau lưng. Hai cánh cửa sắt duy nhất ra vào nhà bị đóng lại, gài thanh sắt chận ngang bên ngoài và móc ổ khoá. Mọi người bàng hoàng xúc động tái tê đôi phút. Không ngờ kể từ giờ phút này, mình chính thức trở thành Tù. Mặc dù chưa hề nghe đọc, hoặc nhìn thấy mặt mũi cái án lệnh dành cho mình như thế nào, hình thể mầu sắc của nó ra sao? Nhưng rồi ai nấy cũng bình tĩnh trở lại, mò mẫm thu xếp chỗ nằm, trong bầu không khí lạnh lùng tối tăm của NHÀ TÙ XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ.
Một tiếng đồng hồ sau, bóng đèn điện treo ở giữa căn nhà bật sáng, anh em mới thấy rõ mặt nhau, ai cũng dáng vẻ bơ phờ mệt mỏi.

Nhờ có ánh sáng vàng vàng của chiếc bóng đèn điện, mới thấy được ở phiá cuối nhà có một ngăn riêng để 3 thùng gỗ cho Tù đại tiện, tiểu tiện ban đêm ngay trong nhà. Thật may mắn, đêm nay chắc là được ngủ yên, không bị đánh thức bởi những tiếng hô báo cáo đi tiểu tiện, đại tiện, của Tù như trong suốt 2 năm vừa qua.

Nhưng, qua đêm rồi mới biết mình mừng hụt, “thoát vỏ dưa, gặp phải vỏ dừa” còn tệ hơn. Bầy RỆP đói lâu ngày, trong kẽ sàn gỗ chui ra thi nhau hút máu. Đau nhoi nhói, hết chỗ này đến chỗ kia trên toàn thân thể, lo gãi ngứa rà rà giết rệp cả đêm không ngủ được.

Điện chỉ rọi sáng được một tiếng đồng hồ sau thì tắt, cùng một lúc với những tiếng kẻng trại báo giờ ngủ bắt đầu. Sau này mới biết mỗi tối có điện sáng 1 tiếng đồng hồ trước giờ ngủ, để từng Đội Tù ngồi tập họp trong buồng, “phê bình, kiểm thảo, xây dựng, giúp nhau sửa sai những lầm lỗi vi phạm nội quy trại trong ngày, để mọi người cùng cải tạo được mau tiến bộ”, chớ không phải để cho Tù có ánh sáng thu dọn chỗ ngủ.

Sáng ngày hôm sau, khi mọi Tù cũ ra khỏi phòng giam đi lao động hết, mới đến lượt chúng tôi được mở cửa cho ra, làm vệ sinh cá nhân và lãnh phần ăn sáng. Xong xuôi, lại đóng gói hành trang ra xếp hàng tại sân tập họp lớn của Trại, để trình diện làm thủ tục bàn giao giữa các Cán bộ Quân đội và Công an.

Họ gọi từng người lên, trả lại giấy biên nhận giữ các vật tư của Tù (đồng hồ, nhẫn, dây truyền vàng bạc…) do Trại cũ cấp, lãnh giấy biên nhận của Trại mới. Những gói Âu Dược riêng của anh em buộc phải gửi Trại cũ giữ, nay 2 nhóm Cán bộ chuyển giao cho nhau. Sau này mất luôn, Tù chẳng bao giờ được sử dụng để trị bệnh riêng mỗi khi cần, như hồi còn ở bên Trại Quân đội quản lý.

Nhờ vậy biết được đây là phân trại K1, thuộc Trại Tân Lập, Tỉnh Vĩnh Phú. Ban chỉ huy Trại Tân Lập đóng tại K5, Khu trại có tấm bảng hiệu “Công an Nhân dân”, đoàn xe của chúng tôi đã chạy ngang, hồi chiều hôm qua trước khi đến đây.

Tỉnh Vĩnh Phú là nơi có đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương, của Dân tộc Việt Nam từ mấy ngàn năm nay. Tôi nhớ có đọc, tại Thư viện Liên trại 1, một tài liệu tâng bốc Hồ Chí Minh của một văn nô Cộng sản Việt Nam, ghi lại câu chuyện Hồ Chí Minh đến thăm Đền Hùng. Anh ta nói khi viếng Đền Hùng, Bác Hồ có tức cảnh đề mấy vần thơ, trong đó có đoạn dùng những từ ngữ rất hỗn xược ngạo mạn như sau : “…Ngày xưa Bác dựng nước, Ngày nay Tôi giữ nước…”

Bàn giao xong, Bộ đội Cụ Hồ phủi tay ra đi, để chúng tôi ở lại cho Công an Nhân dân quản lý. Họ bắt đầu đọc tên “biên chế” thành Đội mới. Nhóm chúng tôi có anh Dương Hiếu Nghĩa được cử làm Đội trưởng Đội làm gạch, gồm toàn Linh mục, Thượng Tọa, Đại Đức Tuyên úy Quân đội VNCH. Linh mục Nguyễn văn Thịnh cũng sang Đội gạch với anh Nghĩa, còn Mục sư Dương Kỳ thì ở lại với nhóm chúng tôi.

Nhóm chúng tôi được chỉ định là Đội Nông Nghiệp, và được tăng cường thêm 3 người lạ : 1 Trung úy Bộ binh, 1 Đại úy Công binh, và 1 Đại úy Cảnh sát Quốc gia (Tôi không nhớ rõ Họ Tên của các bạn này).

Chúng tôi được dẫn vào giam tại dẫy nhà “cách ly”, trong khu giam Tù miền Nam có tường bao quanh. Dẫy nhà gạch này được chia ra 3 ngăn có lối vào riêng, có tường gạch phân cách giữa các ngăn không thông thương được với nhau, cũng như cách biệt hẳn với các dẫy nhà gỗ trong khu.
Đội chúng tôi bị giam ở ngăn giữa. Đội Gạch của các vị Tuyên úy trong ngăn bên phải, phiá sát gần sân tập họp lớn. Ngăn bên trái chúng tôi, là Phòng Kỷ Luật giam những Tù vi phạm các Điều lệ Nọâi quy Trại giam. Cửa vào ngăn này, ở phía đằng sau dẫy nhà, phiá ngoài tường rào của khu.
Ngăn giam chúng tôi, chỉ có một cửa ra vào bằng sắt, có chốt móc khoá cửa ở phiá bên ngoài. Bên trong, có 2 dẫy sàn nằm 2 tầng chồng lên nhau bằng gỗ. Phiá cuối ngăn, có một phòng nhỏ bề ngang 1 mét rưỡi, để một thùng gỗ đựng phân, cho Tù giải quyết nhu cầu vệ sinh ban đêm.

Chúng tôi ở đây được một tuần lễ, bỗng một buổi sáng đang ngồi tập họp chờ gọi xuất trại đi lao động, anh em rì rầm truyền tai nhau, tin Linh mục Hiệu chết trong Nhà Kỷ Luật. Biết được là nhờ anh em Đội Mộc, hồi đêm có người phải “đột xuất” ra xưởng đóng áo quan, cho một nhóm Tù khác đem chôn. Trại phao tin Linh mục Hiệu tự tử chết. Theo anh em Công giáo, đây là tin bịa đặt hoàn toàn, vì hành động này không bao giờ có thể xẩy ra đối với một Linh mục.

 

NHÀ TÙ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Tự do thâu gọn một căn nhà,
Cửa sắt ngăn đường chặn lối ra.
Quanh Láng nhởn nhơ toàn bóng Qủy.
Đêm dài lởn vởn đặc hình Ma.
Không gian co cụm sau tường gạch.
Không khí bao trùm chục thước vuông.
Sàn gỗ hai tầng, người sáu tấc.
Theo nhau tha thẩn Rệp đầy buồng.
Tù Người Tù Rệp nằm chung ván,
Tranh đấu ngày đêm chẳng nhịn nhường.
Rệp hút máu Người no để sống,
Người lo diệt Rệp nát như tương.
Người, Rệp, chung nhau cảnh đoạn trường,
Không cùng lý tưởng, hoá không thương.
Rệp chuyên hút máu, nên Người diệt,
Để tránh cho đời, nọc bệnh vương.

 

TÙ KHÔNG ÁN.

Từ đây cách trở sơn khê,
Kiếp Tù không án, ngày về hẳn xa.
Trầm luân đâu một mình Ta,
Trăm ngàn chiến sĩ Cộng hoà chịu chung.
Bên nhau trong bước đường cùng,
Giữ sao khí phách anh hùng không phai.
Mặc cho Quỷ Đỏ thị oai,
Kệ thây bầy thú vô loài dương uy.
Vượng, Suy, Trời định có kỳ,
“Sắc không, không sắc”, lo chi!… nản lòng?

K1, Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, tháng 11-1977.

 

Chương 20

ỐC ĐẢO TÂN LẬP (VĨNH PHÚ) – ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN

 

Kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại dẫn “Thi Đua” đi mở cửa các nhà giam. Họ đi vòng hết nhà này đến nhà kia, mãi 30 phút sau mới đến lượt Đội Đại tá chúng tôi được mở cửa cho ra sau cùng. Anh Trực Nhà và 2 anh trực phụ (thay phiên hàng ngày), tất tưởi dắt nhau chạy đi lãnh phần ăn sáng và nước uống chín về chia cho anh em.

Chia vội vã vừa xong, kẻng tập họp đi lao động cũng bắt đầu gióng lên. Ai nấy cầm phần ăn của mình, vừa đi ra sân tập họp vừa ăn. Người nào ăn chưa kịp hết, phải bỏ vào túi, chờ lúc ra khỏi cổng trại vừa đi vừa ăn tiếp. Nếu không ăn như vậy, ra tới hiện trường phải lao động ngay, đói không làm việc được “năng nổ”, tối về sẽ bị “phê bình xây dựng”. Nếu bị anh em góp ý kiến “xây dựng” hoài, hậu quả tai hại sẽ đến với bản thân.

Phần “sắn duôi” ăn sáng chẳng được bao nhiêu, ém gọn lại được vừa bằng một nắm tay. Chỉ đôi người có dạ dầy yếu, phải nhai chậm rãi như Tôi mới gặp trở ngại. Còn nhiều bạn khác bụng dạ khoẻ, ăn uống nhậm lẹ thì chả thấm tháp gì.

Sáng nào cũng vậy, trong thời gian ngồi chờ Cán bộ Trực Trại, đến đọc lệnh gọi các Đội lần lượt xuất trại, mấy người “Thi Đua” đi vòng “kiểm tra” xem áo quần của ai chưa đóng dấu sơn “ám số Trại”. Họ đem con dấu bằng gỗ to dài hơn bàn tay, tẩm sơn đen pha lẫn dầu, đến đóng lên lưng áo và 2 bên ống quần. Người nào quầo áo đã đóng dấu, nhưng lâu ngày sơn bị phai bạc mờ đi, thì đóng chồng lên cho được rõ ràng. Đây là biện pháp phân biệt Tù với người thường ngoài trại, và dễ lùng bắt nếu Tù trốn trại.

Đội chúng tôi và nhóm anh em mới tới, xuất trại lao động lần đầu tiên, được “Thi Đua” “quan tâm” “chiếu cố” trước nhất. Họ đến đóng dấu sơn “ám số trại” lên quần áo chúng tôi, ngay khi chúng tôi vừa tới ngồi tại sân tập họp.

Sau này Trại phát cho mọi người, loại quần áo Tù bằng vải thô Nam Định. Cả áo lẫn quần đều bị may ghép lẫn lộn, bằng những mảnh vải nhuộm 2 mầu khác nhau. Nếu nửa thân và tay áo bên Phải mầu xanh nước biển, thì nửa thân và tay áo bên Trái mầu trắng. Quần cũng một ống trắng, một ống xanh. Thật rõ ràng lồ lộ chẳng lẩn đi đâu lọt, thế mà cả quần lẫn áo vẫn phải đóng dấu “ám số trại”. Cứ mỗi 6 tháng được lãnh 1 bộ. Nếu rách sớm hơn thời gian quy định, phải vá víu mà mặc. Có thể dùng quần áo riêng của mình, nhưng phải đóng dấu sơn “ám số trại” lên trên.

Đội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động tại K1, Trại Tân lập, bằng công tác đi chặt cây xim và cây muông, đem về làm củi đun cho Nhà Bếp. Xim được chặt trên những ngọn đồi cách trại 3 cây số, bó gánh về chất đống dài sát tường phiá ngoài cổng trại giam. Nhà Bếp Tù ra lấy vào dùng, đun nấu thực phẩm và nước uống chín phát cho Tù. Nhà bếp của Cán bộ canh Tù, cũng lấy củi ở đây về dùng.

Trước khi lên đường, anh em phải ghé vào đống củi cao như núi bên cạnh tường ngoài cổng trại, lấy mỗi người 1 cây dài 2 mét, đường kính khoảng 10 phân, đem theo làm đòn gánh củi mang về.

Củi xim thân cây nhỏ, cỡ lớn nhất chỉ bằng ngón chân cái, xum xuê cành con và nhiều lá, cao chừng 1 mét rưỡi. Chặt củi chẳng khó khăn gì. Nhưng muốn có dây để cột củi thành từng bó, phải cắt cỏ tranh dài, bện, nối lại với nhau. Không biết cách cột cho chắc, khi xốc đòn vào đưa lên vai bó củi sẽ xổ tung ra, hoặc rơi vãi từ từ dọc đường rất phiền phức. Nhờ hồi còn nhỏ Tôi tham gia Đoàn Hướng Đạo Sinh, đã có dịp học cách bện dây và cột bó củi, nên mọi việc hoàn tất suông sẻ. Làm phần mình xong, Tôi lén đến tiếp tay các bạn, đang lúng túng vì chưa làm bao giờ. Anh Trịnh Đình Đăng (Tôi quen từ hồi ở Trại Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hoà) cũng rất thạo việc này, cũng đã giúp đỡ nhiều anh em khác hết mình. Chúng tôi phải làm lén, vì nếu Cán bộ thấy được sẽ bị “kỷ luật”.

Gom xếp một gánh củi nặng độ 2 chục kí lô, với 2 bó nhỏ, vừa với sự chịu đựng của bắp thịt vai mình, thì coi không được. Cán bộ nhìn thấy chỉ trích là : “Bó củi gì mà chỉ bằng nắm tay, trẻ con nó còn chê nhẹ”. Nếu gom bó đủ lớn coi cho vừa mắt, dọc đường về sẽ bị chiếc đòn gánh, và sức nặng của 2 bó củi, hiệp nhau hành hạ bắp thịt vai, cổ, cột xương sống lưng của mình đau đớn chịu không nổi.

Không biết gánh, lúc nào cũng phải gồng vai, gân cổ lên chịu sức nặng, cắn răng bước đi dồn dập như chạy. Mỗi bước chân đạp xuống đường là một nhát dao cứa trên vai, đau buốt vào óc, dồn xương sống, mỏi hông ngang thắt lưng. Ráng hết sức, cũng chỉ đi được khoảng trăm mét, lại phải quăng gánh củi xuống đất để nghỉ. Sau mỗi lần nghỉ, lúc đưa gánh củi lên vai đi tiếp cho kịp bạn bè, là một lần khổ nạn. Cảm thấy hình như gánh củi nặng gấp đôi trước, bắp vai nóng rát đau chẳng khác nào bị vọp bẻ (chuột rút), chịu hết muốn nổi. Bị bắt buộc phải làm mãi, rút kinh nghiệm lần rồi cũng “giác ngộ” biết được, khi gánh phải hơi cúi đầu khòm lưng về phiá trước, để cho đòn gánh đè tréo từ giữa bả vai bên này, qua u thịt sau cổ, sang gần bả vai bên kia, bắp thịt vai sẽ không bị đau. Bước đi phải nhịp nhàng, theo đà nhún nhẩy lên xuống của 2 bó củi, ở 2 đầu đòn gánh.
Nhiều bạn cả đời chưa có dịp phải gồng gánh, thấy những người buôn thúng bán bưng làm hàng ngày, cứ tưởng dễ dàng như mình ngồi lái xe hơi. Nay phải làm mới thấm thiá, và thán phục cái tài xốc vác chịu đựng của những người “lao động chân tay” trần ai cực nhọc đến mức nào.
Đi cắt củi được hơn một tuần lễ, Trại phát động Kế hoạch “Thi đua làm Cách mạng xanh”. “Mục đích yêu cầu” là làm cho tất cả những khoảng đồi núi trong phạm vi đất dành cho Trại, đang trơ trụi không cây cối, phải được phủ kín bằng một mầu xanh của các ruộng sắn (khoai mì gồm 2 loại khác nhau : 1.-công nghiệp, 2.-để ăn), và miá re (thân nhỏ, vỏ cứng, nhưng rất ngọt, ép lấy nước cô thành “mật đường” để cất rượu trắng). Đây là “kế hoạch làm kinh tế” để Trại tự túc, có tiền nuôi Tù và Cán bộ canh Tù, theo lệnh Nhà nước ban hành từ hồi đầu năm 1977.

Đội chúng tôi phải đi đào hố trồng sắn, ngay trên những ngọn đồi đã chặt củi xim. Mỗi buổi lao động, sáng cũng như chiều, mỗi người phải đào 15 hố, vuông cạnh 70 phân, sâu 80 phân. Các hố phải đào cách nhau một mét. Trên mặt đồi, cỏ dại cỏ tranh dầy đặc cao cả thước, phải phát sạch trước khi đào hố. Đất đỉnh đồi cứng chắc nịch, lẫn đá lổn nhổn. Không có xẻng, mỗi người phải múc đất từ dưới lòng hố lên bằng cuốc của mình. Vất vả vô cùng cho những người lãnh phải cây cuốc cũ, lưỡi bị mòn nhỏ, cùn hoặc xứt mẻ. Chỉ có 3 anh bạn Tù cấp úy tăng cường nhân số Đội, và vài người khác khoẻ như anh Đội trưởng Lê Đình Luân, Mục sư Dương Kỳ, Tôn Thất Hùng… là đạt chỉ tiêu quy định. Buổi lao động nào họ cũng dư ít phút ngồi nghỉ ngơi. Còn đa số anh em, chẳng bao giờ hoàn tất đủ “chỉ tiêu” trước lúc mãn giờ lao động.

Mỗi người tham gia lao động, được Quản giáo Đội “ghi điểm tính công” hàng ngày. Ai đau ốm nghỉ bệnh nhiều, không tham gia đủ số ngày công, hay lao động hàng ngày không “đạt chỉ tiêu”, sẽ bị phạt giảm mức ăn quy định hàng tháng xuống. Những người lao động “năng nổ vượt chỉ tiêu”, hàng đêm được anh em trong Đội “bình bầu” là “gương mẫu” nhiều lần, sẽ được Quản giáo quyết định thưởng tăng phần ăn. Người được thưởng sẽ được ăn tăng thêm 2 kí lô một tháng. Người bị phạt, phải giảm mức ăn xuống còn 11 kí lô, tức là bớt đi 1 kí lô. Mức ăn quy định cho mỗi người bình thường, hàng tháng là 12 kí lô ngũ cốc (gạo, hoặc các loại khác như : bột mì, hột bo bo, sắn, bắp, khoai).

Thời gian chúng tôi tới trại này, phần gạo được thay thế bằng “sắn duôi”, theo tiêu chuẩn một đổi một, tức là 1 kí lô “sắn duôi” khô, tính bằng trị giá 1 kí lô gạo. “Sắn duôi” là sắn tươi bào thành sợi nhỏ như sợi bánh phở, sấy hoặc phơi khô cho bốc hết hơi nước. Tôi không biết tại sao gọi là “sắn duôi”, nghe anh em Tù cũ tại đây gọi vậy, thì nhận biết như vậy. Để làm cho “sắn duôi” chín, người ta để vào các vỉ tre đan, hấp từng trồng nhiều vỉ một lượt, trên những vạc nước đun sôi. Lúc còn sống “sắn duôi” mầu trắng đục rời rạc như gạo. Khi chín, trở thành trong và dính quện với nhau như cơm nếp. Những sợi sắn không chín, vẫn giữ nguyên mầu trắng đục. Không biết tại sao, lúc nào “sắn duôi” hấp cũng bị nửa chín nửa sống.

Phần “sắn duôi” ăn sáng, được nấu cùng lúc với phần ăn chiều, đong riêng ra để qua đêm đến sáng mới phát. Gặp mùa lạnh thì không sao. Đến mùa nắng thời tiết oi nồng qua đêm, “sắn duôi” bị thiu nhơn nhớt và có mùi chua, ăn vào nhiều người yếu dạ bị đau bụng tiêu chẩy. Tù vẫn phải lãnh về ăn, vì chẳng có gì khác để nhồi vào bao tử, cho có sức chịu đựng mà lao động.

Việc hớt tóc cho Tù ở K1 trại Tân Lập này, khác hẳn với bên các Trại do Quân đội quản lý. Ở đây, Trại mua 1 bộ đồ hớt tóc, gồm Tông-đơ, kéo và lược, trao cho Ban “Thi Đua” cất giữ. Hàng ngày, theo lịch trình quy định luân phiên cho các Đội mượn, đem ra “hiện trường lao động” hớt tóc cho nhau. Hồi còn ở K2 – Liên trại 1 – Việt Cường Yên Bái, sau khi bị sốt vàng da hành không chết, Tôi mất sức nhiều không ra ngoài lao động nặng được. Quản giáo Đội đã trình Phân trại trưởng, cho Tôi ở trong trại phụ trách phòng hớt tóc một thời gian. Anh em trong cùng Đội hiện nay, ai cũng biết. Do đó, ngày nào đến phiên Đội được xử dụng bộ đồ hớt tóc, anh Đội trưởng cũng trình Quản giáo Đội cho Tôi miễn lao động, để hớt tóc cho anh em.

Quản giáo bằng lòng, nhưng buộc anh em trong Đội, phải gồng mình làm bù đắp phần của Tôi, nhằm “bảo đảm chỉ tiêu chung” của Đội phải “đạt” trong ngày. Giống hệt trường hợp anh phụ trách nấu nước chín tại “hiện trường lao động”, anh em cũng phải làm nhiều hơn để bao phần “chỉ tiêu” hàng ngày của anh ấy.

Việc hớt tóc giữa trời, có nhiều kỷ niệm khó quên, cho cả thợ hớt và người được hớt. Không có ghế cho khách ngồi, nên cả thợ lẫn khách đều phải đứng. Hai người cao xấp xỉ ngang nhau, do đó khách buộc phải đứng dưới ruộng hoặc rãnh bên luống, chịu đựng ướt chân và quần, nhường cho thợ đứng trên bờ đất cao, không phải vói tay nghển cổ mới hớt được dễ dàng.

Thời tiết dù mưa hay nắng, cả 2 người cùng phải đứng giữa đồng mà hớt cho nhau, không có một tán cây bóng mát nào để núp. Lúc nắng còn đỡ, gặp trời mưa thì thật là một cực hình cho cả 2 người, mặc dù ai cũng có khoác áo mưa. Khách phải để đầu trần, nước mưa xối xả trôi qua cổ áo vào trong người, làm ướt hết cả áo trong lẫn áo ngoài lạnh cóng. Thợ luôn luôn phải giơ 2 tay cao ngang vai, nước mưa cũng tự do theo 2 cổ tay áo trôi vào nách, làm ướt mọi lớp áo và mình, lạnh chẳng thua gì khách.

Chúng tôi đến đây được hơn một tháng, bắt đầu có dịch kiết lỵ lan tràn trong trại. Các khu vệ sinh công cộng dùng thùng đựng phân lộ thiên, ruồi nhặng sinh sôi nẩy nở nhanh chóng, bay đi khắp trại, nhất là khu nhà bếp. Có thể trăm phần trăm nhân số Tù mắc bệnh. Những người khoẻ sức đề kháng trong cơ thể còn mạnh, chỉ bị sơ sơ vài 3 ngày rồi hết. Những người suy nhược nhiều sức đề kháng yếu, bệnh ngày một tăng, từ đi đại tiện có phân, lần lần chỉ còn nước nhờn và máu. Ngày đêm đi liên tục cả 2, 3, 4 chục lần, mệt mỏi hốc hác tiều tụy mà vẫn phải đi lao động như thường. Chỉ những ai ngày đêm đi từ trên năm mươi lần ra toàn máu, và thêm sốt nóng lết đi không nổi nữa, Đội trưởng mới ghi danh cho đi khám bệnh.

Khi nộp sổ khám bệnh, Tù “Thi đua” làm Y tá tại Bệnh xá buộc phải ra góc sân, rặn ra mũi và máu còn nóng hổi trình cho Cán bộ Y tế thấy rõ ràng, mới được cho vào Bệnh xá nằm chữa trị. Rất nhiều anh em khai bệnh, nhưng không được Cán bộ Y tế cho vào điều trị tại Bệnh Xá, chỉ được cấp thuốc uống tại chỗ, rồi theo Đội tiếp tục đi lao động, mặc dù họ rất mệt mỏi đuối sức.

Những người bị kiết lỵ nặng, nhưng không bị phù thũng thì có hy vọng sống. Còn những ai vừa kiết lỵ vừa phù thũng, thì chỉ ít ngày sau là đi về với Tổ tiên. Cũng có người chỉ bị phù thũng vì thiếu dinh dưỡng chớ không bị kiết lỵ. Tôi đã bị ở trong trường hợp kiết lỵ và sốt nặng, đến nỗi bị ngất xỉu bên thùng phân trong phòng giam ban đêm, phải kêu cấp cứu mới được đưa vào Bệnh xá nằm điều trị.

Bệnh xá có 2 phòng, mỗi phòng rộng khoảng 16 mét vuông. Mỗi phòng có 5 giường nhỏ loại 1 người nằm. Tôi và những người kiết lỵ nằm trong phòng “bệnh truyền nhiễm”. Lúc cấp cứu đưa vào, Tôi phải nằm tạm dưới đất, vì tất cả 5 giường đều đã có 2 người nằm chung. Gần sáng có người chết, sau khi bệnh nhân khiêng anh ấy ra túp lều chứa xác chết, nơi giữa bãi đất trống phiá sau Bệnh xá, Tôi được lên giường nằm thế vào đó.

Thuốc chữa trị hàng ngày, chỉ là 1 bát nước đủ loại lá thuốc Nam do nhân viên bệnh xá lên rừng kiếm về, băm nhỏ, phơi khô, bỏ vào vạc ninh nhừ để qua đêm, đến sáng phát cho bệnh nhân. Đây là loại thuốc trị Bá Bệnh. Ai đau ốm ra sao không cần biết, hễ cứ đến xin khám bệnh là được cho uống 1 bát. Nếu ai có sốt thì được thêm dăm chục viên Xuyên Tâm Liên, mầu vàng xậm như nghệ trộn với gì không biết, vê viên tròn nhỏ bằng hột đậu xanh, mùi vị hắc hắc the the lưỡi.

Ban ngày, mưa cũng như nắng, ở góc sân Bệnh xá phiá sau gần bếp có một thùng gỗ, để cho bệnh nhân ra xếp hàng thay phiên nhau ngồi rặn è è, ôm bụng rên đau quằn quại. Còn ban đêm, cửa các phòng bệnh bị khoá trái bên ngoài y như các láng giam, nên có một thùng gỗ để nơi góc phòng. Lúc nào cũng có 4, 5 người ngồi chồm hổm ôm bụng, chụm đít quanh thùng nhăn nhó rặn, cổ bạnh ra mặt mũi đỏ gay.

Tại Bệnh xá, có anh Tù Hình Sự được Cán bộ Y tế dùng làm “Thi Đua”, cho ở thường xuyên ngày đêm trong Bệnh xá kiểm soát bệnh nhân thay Cán bộ. Nếu bệnh nhân nào không gọi anh ta là Bác sĩ, hoặc không khéo lời tâng bốc anh ta, thì dù bệnh tình chưa thuyên giảm, cũng sẽ bị đề nghị cho xuất viện ngay để nhường chỗ cho người khác. Ai biết điều và nịnh bợ anh ấy, thì dù đã hết bệnh rồi cũng vẫn được ở nghỉ thêm vài 3 ngày mới phải rời Bệnh Xá.

Theo tin tức thâu lượm được qua những anh em nằm tại Bệnh xá trước Tôi, và phối kiểm qua những lời ba hoa của anh ta trong thời gian Tôi nằm tại Bệnh xá, biết được anh Tù Hình Sự này bị án tù trung thân, vì tội “làm giấy bạc Cụ Hồ giả”. Hồi còn ở ngoài xã hội, anh ta làm nghề Chăn Nuôi, chuyên trách về thiến Heo, thiến Gà trống, nên anh ta tự coi mình là Bác sĩ Thú Y.

Có một chuyện ly kỳ liên quan đến anh “Thi Đua” này, làm anh em Đội chúng tôi hoảng sợ không bao giờ quên được. Số là, Đại tá Tô văn Vân phụ trách nấu nước ngoài “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, một đêm kia tự nhiên bị đau bụng giữ dội phiá bên Phải, nghi là sưng ruột dư, phải kêu cấp cứu và được đưa vào Bệnh xá.

Sáng hôm sau, là ngày Chủ nhật nghỉ lao động, Đội chúng tôi bị tập họp lên Hội trường, để nghe anh “Thi Đua” này cùng Cán bộ Y tế, nói cho nghe về tình trạng nguy kịch của anh Vân, cần phải giải phẫu gấp nếu không thì chết. Họ đưa ra “phương án hành động khẩn trương, thực hiện ca mổ ngay tại Phân trại”, vì thời gian chuyển qua K5 (Trại trung ương) làm thủ tục đưa ra Tỉnh e không còn kịp. Họ tỏ ra rất tự tin, nhờø có rất nhiều kinh nghiệm về mổ sẻ súc vật (cũng chẳng khác gì người ta), nên rất bảo đảm không có gì phải lo ngại.

Họ yêu cầu chúng tôi góp ý kiến quyết định, đồng thời hỏi ai có lưỡi dao bào râu còn mới, thì cung cấp cho họ xử dụng làm dao mổ. Chúng tôi ngỡ ngàng, dứt khoát xin miễn góp ý kiến, vì mạng sống của anh Vân không thuộc phần trách nhiệm của chúng tôi quyết định. Đây là việc thuộc quyền quyết định của Nhà nước và thân nhân của anh ấy. Hơn nữa, trong chúng tôi không ai có lưỡi dao bào râu còn mới để cung cấp.

Buổi trưa ngày hôm sau là Thứ Hai, khi anh em đi lao động về, anh Trực Buồng cho biết, hồi sáng lúc đi ngang qua khu Bệnh Xá xuống bếp lãnh thực phẩm cho bữa trưa, đã gặp anh Vân đứng bên bờ rào Bệnh xá. Anh Vân cho biết đã hết đau, nhờ hồi hôm mửa ra mấy nùi giun đũa, trước khi mửa có con đã chui ra từ lỗ mũi. Thật khủng khiếp !!! Sau khi hết đau bụng, không biết anh Vân làm cách nào, được “biên chế” vào Bệnh xá phụ giúp anh “Thi đua” nấu thuốc, cháo, và nước uống chín cho Tù nằm điều trị tại đây.

Trong thời gian nằm tại Bệnh xá, Tôi còn phải chứng kiến một anh kiết lỵ nằm chung giường, chết rất thương tâm. Anh ấy được đưa vào nằm cạnh Tôi sau giờ khám bệnh buổi chiều, đến nửa đêm thì chết. Ngay sau khi được vào Bệnh xá, anh ấy mở vali quần áo ra kiểm điểm lại mọi thứ. Cầm những lá thư và ảnh của Vợ Con ra khoe Tôi, và chăm chú đọc lại rất vui vẻ, yêu đời.

Tôi thấy anh ấy còn giữ 2 hộp sữa bò đặc hiệu con chim, và một hộp bánh quy. Tôi nói chúng ta bị bệnh là do thiếu dinh dưỡng mà ra, sao anh không dùng sữa và bánh mà “bồi dưỡng” cho nó khoẻ, để dành làm gì. Lỡ chết vì đói kiệt sức cơ thể không chống nổi bệnh hoạn, thì chẳng phụ lòng Vợ Con lắm sao? Anh ấy cười trả lời chưa cần, Tôi còn đủ sức chịu đựng mà!

Đến khuya anh ấy lên cơn sốt nóng như lửa, rồi mê man. Tôi phải kêu cứu và xuống đất nằm, để nhường nguyên chiếc giường cho anh ấy. Anh “Thi Đua” nằm ở phòng khám bệnh kế bên, nói vọng sang trả lời để sáng sẽ tính. Đến gần sáng, anh Tù bệnh lịm dần, không nghe tiếng rên rỉ nữa. Anh ấy đã ra đi vĩnh viễn. Anh ấy là một Sĩ quan cấp Úy thuộc Công binh, Tôi không nhớ tên và đơn vị.
Phải đợi đến kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại vào mở khoá cửa phòng giam bệnh, và Cán bộ Y tế đến lập biên bản xong, mới ra lệnh cho chúng tôi, để anh chết nằm vào chiếc chăn dạ của anh ấy, khiêng ra bỏ tại túp lều tranh chứa xác giữa bãi cỏ hoang, cách Bệnh xá khoảng một trăm mét. Người ta đem anh ấy đi chôn lúc nào không ai thấy, chắc là ban đêm.

Tôi nằm Bệnh xá được một tuần lễ thì bệnh kiết lỵ thuyên giảm. Không biết nhờ 2 bát nước thuốc Nam và 60 viên Xuyên Tâm Liên mỗi ngày, hay nhờ 2 bát cháo gạo lỏng nêm muối, Bệnh xá cho Tù bệnh ăn thay vì “sắn duôi”, hay nhờ được nghỉ không phải lao động?

Theo quy định của trại, Tù bệnh nằm điều trị tại Bệnh xá, được phát mỗi bữa 3 muổng đường để ăn với cháo. Nhưng anh “Thi Đua” chặn lấy dùng riêng, và nói rằng kiết lỵ mà ăn đường bệnh sẽ tăng chữa không được. Chẳng ai dám tố cáo, vì sợ bị anh “Thi Đua” hại ngầm thì thiệt thân. Tôi biết được là nhờ anh Tô văn Vân, nói nhỏ lúc anh em gặp nhau tại bếp của Bệnh xá. (Anh Vân và Tôi biết nhau từ năm 1967, khi anh ấy còn là Thiếu tá được đưa về làm Chánh văn phòng cho Đại tá Hoàng Gia Cầu Tổng cục Trưởng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Bộ Tổng Tham mưu, thay thế Đại tá Trương văn Xương thuyên chuyển đi Vùng 4 Chiến thuật ở Cần Thơ. Lúc đó Tôi đang giữ chức vụ Tổng cục Phó.)

Những người nằm điều trị kiết lỵ trước Tôi, khi nào họ hết hẳn không đi cầu ra máu nữa thì mới phải ra viện. Nhưng phần Tôi, không biết vì sao bệnh chỉ mới thuyên giảm chưa dứt, ngày đêm vẫn còn đại tiện ra mũi và máu khoảng 6, 7 lần, gầy ốm hốc hác, mệt đi bộ xa chưa nổi. Thế mà Cán bộ Y tế nói là Cán bộ Quản giáo Đội đến yêu cầu, phải cho Tôi ra khỏi Bệnh xá theo Đội đi lao động để bảo đảm ngày công quy định.

Tôi ra theo Đội đi phát cỏ và vun gốc sắn. Trong thời gian này, các anh Phạm Tài Điệt, Trần văn Thăng (An ninh quân đội), Nguyễn văn Phúc (Chính huấn Tổng cục Chiến tranh Chính trị) vì lao động lơ là kém năng xuất, và Tôi (Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến) còn thêm cái tội nằm Bệnh xá lâu không bảo đảm đủ ngày công, nên bị phạt giảm mức ăn hàng tháng xuống còn 11 kí lô. Hai người khác trong Đội “lao động năng nổ”, được thưởng tăng mức ăn lên 13 kí lô là Mục Sư Dương Kỳ và anh Tôn Thất Hùng.

Bốn người bị phạt giảm mức ăn, để tăng mức ăn cho 2 người lao động giỏi được thưởng, thật là bất ngờ làm mọi người xửng sốt. Người bị phạt buồn đã đành, người được thưởng cũng xốn xang áy náy.

Thoạt đầu các vị này chỉ muốn cố gắng “năng nổ lao động” để được coi là “ cải tạo tiến bộ” sớm được tha. Đâu ngờ Cách Mạng lại thâm độc áp dụng luật bù trừ, lấy của người bị phạt thưởng cho người “lao động năng nổ”, để gây thù hận chia rẽ giữa anh em Tù với nhau.

Việc xẩy ra rồi, 2 người được thưởng mới tỏ ra hối hận, vì biết đã bị lừa mắc bẫy của “Vẹm” (chữ lóng dân chúng dùng để ám chỉ Việt Minh từ hồi 1946). Anh Tôn Thất Hùng thỉnh thoảng đưa nguyên phần ăn một bữa của anh ấy, tăng cường cho chúng tôi để tỏ lòng hối hận. Còn Mục sư Kỳ thì không dám. Ông nói qua trung gian cho anh em biết, sợ làm như anh Hùng, Cán bộ bắt được sẽ buộc tội vi phạm Nội quy, Điều lệ của Trại, nguy hiểm cho cả người nhận lẫn người cho.

Mới tới K1 Tân Lập được khoảng 2 tháng, ai nấy đã hốc hác, nhất là sau dịch kiết lỵ phù thủng. Mọi người suy xụp rõ ràng, chỉ còn da bọc xương, bơ phờ. Ai cũng sụt đi phân nửa cân nặng của mình, trông chẳng khác nào những hình “nộm bù nhìn” trong những bộ quần áo tế thần lụng thụng. Ngày đi trình diện tập trung Tôi cân nặng 67 Kí lô, đến lúc này chỉ còn được 30 kí. Chiếc thắt lưng da mang theo, bây giờ muốn dùng để giữ quần cho khỏi bị tụt xuống, phải đục thêm lỗ cách lỗ cũ khoảng 20 phân. Biết chắc là mình chỉ còn nặng đúng 30 kí lô, vì thời gian Đội chúng tôi phụ trách phơi đong cân thóc cất vào kho, anh em đã lén đứng lên chiếc cân bàn để cân, trước khi cân các bao thóc.

Lúc nào cũng đói, lại phải lao động vất vả với “chỉ tiêu” cao, thiếu dinh dưỡng trầm trọng, nên trong khi lao động ở ngoài đồng, hễ thấy sinh vật nào nhúc nhích ăn được là vồ ngay. Ngoé, nhái, ễnh ương, chằng hiêu, cóc, thằn lằn, rắn, cào cào, châu chấu, rế cơm, rế mèn, chuột nhắt, gì cũng chộp hết, ngoại trừ điả và giun. Mặc dù biết làm như vậy là vi phạm Điều lệ, Nội quy Trại giam, mọi người đã phải học thuộc lòng, nhưng vẫn làm. Thà mưu sinh để sống còn cho tới ngày được cứu thoát, còn hơn tôn trọng Nội quy để chết, trước khi thấy “ánh sáng ló dạng nơi cuối đường hầm”.

Thoạt đầu, bắt được nhái ngoé còn bỏ túi chờ tới giờ giải lao, mò đến chỗ nấu nước giả bộ hút thuốc lào, để bỏ vào đống than nướng chín rồi mới ăn. Nhưng về sau, anh nấu nước sợ vạ lây không cho, đành lột da ăn sống tại chỗ, hoặc nhét vào túi đem về ngâm nước muối trại phát 3 thià canh mỗi bữa, ăn với “sắn duôi”. Ăn vào thấy cũng rất ngon chẳng khác gì thịt gà cá gỏi.

Có lẽ trong số anh em mưu sinh linh tinh bất hợp pháp này, Tôi là người “năng nổ” nhất. Nên thỉnh thoảng được anh Tổ trưởng (trước 30 tháng 4 năm 1975 làm Tỉnh trưởng Bình Dương) thương, lo lắng cho sức khoẻ của Tôi, chiếu cố xây dựng hoài trong các giờ họp “kiểm thảo, phê và tự phê” trong Đội ban đêm, luôn luôn có sự rình nghe của “Thi Đua” và Quản giáo Đội từ phiá ngoài cửa sổ phòng giam.

Anh ấy cũng thường xuyên bị anh em bắt gặp, lén mưu sinh như Tôi và nhiều bạn khác, nhưng chẳng ai góp ý kiến “xây dựng” anh ấy bao giờ. Có lẽ anh ấy làm như vậy, vì phải thi hành trọn vẹn trách nhiệm do Quản giáo giao phó cho các Tổ trưởng và Đội trưởng, là phải theo sát anh em trong Đội để báo cáo thì mới được coi là “cải tạo tiến bộ”. Tuy nhiên, anh ấy cũng rất khôn. Mỗi lần “xây dựng” Tôi mưu sinh linh tinh, anh ấy “tự phê” trước, nhận rằng bản thân cũng có vi phạm, nhưng hứa sẽ “khắc phục” không tái phạm. Anh ấy cũng phân bua, sở dĩ phải “xây dựng” anh em vì thương, muốn anh em giữ được sức khoẻ tốt, “cải tạo cho mau tiến bộ” để về với Vợ Con.

Qua đầu năm 1979, chúng tôi bị chuyển về K5 (nơi có Ban Chỉ huy Trung ương Trại Tân Lập). Vài tháng sau thì anh ấy bị cảm sốt nặng, được vào Bệnh xá điều trị không hết, lại biến chứng ho sưng phổi, rồi chết vì ngộp không thở được. Người ta phải đâm kim vào ngực rút nước ở buồng phổi ra để cứu nhưng vô hiệu.

Vấn đề vệ sinh cá nhân ở K1, mỗi tuần lễ Tù chỉ được đưa ra sông, cách trại khoảng 2 cây số để tắm rửa giặt giũ quần áo có một lần, vào sau giờ lao động chiều thứ bẩy. Ngày thường, sau buổi lao động chiều, Tù được đưa tới hồ nước bên Đội Gạch cách trại 2 cây số để tắm rửa. Đây là hầm lấy đất làm gạch, lâu ngày sâu dần xuống và rộng ra thành hồ chứa nước mưa tù đọng, rong rêu cỏ rác đủ thứ xà bần dơ bẩn hôi tanh. Thế mà vẫn phải nhào xuống tắm rửa, cho sạch mồ hôi bụi bặm và bùn đất bám đầy chân tay mặt mũi, sau cả ngày lao động vất vả. Cả ngàn con người chờ đợi nối đuôi nhau. Mỗi đợt chỉ cho 2 Đội cỡ 80 người xuống, trong vòng 5 phút là phải lên. Những người xuống sau bao giờ cũng phải tắm rửa nước bùn đục ngầu. Vì phải đứng gần ven bờ, ra xa một chút là hụt chân ngập đầu không đứng được.

Làm xong các ruộng sắn, Đội chúng tôi đổi công tác. Đến kho phụ trách việc đập, vò, đạp các bó luá cho thóc rơi ra, ban mỏng trên sân gạch, phơi cho khô, dồn vào bao, cân và cất vô kho. Trước khi dồn thóc vào bao, còn phải quạt bỏ thóc lép. Một người xúc thóc vào thúng, nâng để lên một bên vai, từ từ nghiêng thúng cho thóc chẩy xuống đất. Người khác đứng kế bên, 2 tay cầm chiếc mẹt quạt liên tục, cho thóc lép bay ra khỏi dòng thóc mẩy đang chẩy xuống. Công việc phải làm giữa sân gạch nắng chang chang cả ngày, bụi bặm bám đầy người, phải dùng khăn bịt mồm mũi để bảo vệ buồng phổi. Những bó rơm đã rụng hết thóc, phải chất thành đống cao cả chục mét ở góc sân, gọi là cây rơm, sau này dùng làm gì không biết.

Lúa thóc do Tù reo, cấy, trồng, gặt, đập, phơi khô, xay xát ra gạo, cho Cán bộ canh Tù ăn hàng ngày. Còn Tù thì quanh năm ăn toàn sắn, bắp. Trong mùa thâu hoạch ồ ạt sắn, bắp, thì một phần cấp cho Tù ăn tươi hàng ngày. Phần còn lại, bắp thì phơi khô tách hạt ra khỏi cùi, sắn thì lột vỏ sắt lát mỏng hoặc chặt thành những khúc ngắn sấy khô, xong xuôi đem cất kho, phát ra ăn dần về sau.

Sau khi hết lúa để đập, để phơi, Đội chúng tôi được chỉ định vào quét dọn hót cám lẫn trấu, trong nhà máy cà xát lúa ra gạo, nhồi vào bao tải. Cả ngày chìm đắm trong bụi bậm mịt mù, vất vả hơn đập phơi lúa ngoài sân rất nhiều. Nhưng được cái may, hàng ngày mỗi người được “bồi dưỡng” một túi cám lẫn trấu, đem về sàng rây bỏ trấu đi, còn lại cám lẫn tấm nấu chín mà ăn.

Quản giáo Đội cho phép anh đun nước, giúp anh em nấu chín trong giờ lao động. Ai muốn nhờ thì đổ tấm cám và nước vào Gô riêng, giao cho anh nấu nước vào lúc đầu giờ lao động. Đến giờ nghỉ giải lao giữa buổi, là có cháo bột tấm cám chín sền sệt để ăn. Mùi vị hơi đăng đắng hôi hôi khó ăn, nhưng phải ráng mà nuốt, cho cơ thể có thêm chất bổ của cám để chống phù thũng.

Một tai họa thảm thương đã xẩy ra, làm ai nấy đau đớn và lo sợ vô cùng. Có anh ở một đội khác bị trướng bao tử, nghẽn ruột và chết vì ăn cám. Trong khi anh em chúng tôi cũng ăn, mà chưa có người nào làm sao cả. Sau này có tin từ Bệnh xá loan ra cho biết, anh bạn tử nạn vì không rây bỏ trấu vụn lẫn trong cám tấm, cứ để nguyên như vậy nấu ăn cho được nhiều, trấu không tiêu làm nghẽn đường tiêu hoá bể ruột chết. Cũng kể từ đấy, Tù không được mót cám về “bồi dưỡng” nữa.

Kho vừa hết “sắn duôi” cung cấp cho Nhà Bếp, thì vừa đúng mùa thâu hoạch sắn tươi. Mọi người được ăn sắn tươi luộc dài dài, ngày 3 bữa. Sắn tươi dùng thay gạo theo tiêu chuẩn 4 kí lô sắn còn cả vỏ bằng 1 kí lô gạo. Ăn sắn tươi có một số người bị say. Nghe anh em nói, sắn trồng trên đồi tranh, củ nào bị rễ tranh xuyên qua, ai chẳng may ăn phải những củ này thì khoảng 2 tiếng đồng hồ sau khi ăn là bị say. Khi say sắn, cơ thể cảm thấy nao nao buồn tiểu đại tiện, nôn khan, hoa mắt chóng mặt, người bải hoải như bị trúng gió. Say nặng có thể ngất xỉu vài phút sau mới tỉnh lại. Tôi chẳng may bị say sắn tới 2 lần.

Lần đầu vào khoảng 9 giờ đêm, lúc mọi người chuẩn bị đi ngủ. Tôi mót đại tiện, mò vào góc nhà, khu để thùng cho Tù đi vệ sinh ban đêm, đứng xếp hàng chờ. Tự nhiên Tôi thấy ánh sáng ngọn đèn dầu đổi mầu, từ vàng trong sang vàng đục, rồi đỏ và tối xầm đi, không biết gì nữa. Anh bạn đứng sau, thấy Tôi đang đứng bỗng dưng xỉu và ngã gục xuống đất, phải xốc nách bế đặt đại lên một chỗ nằm kế đó, hô hoán kêu mọi người xúm lại cạo gió cấp cứu, vài phút sau thì tỉnh lại.

Lần thứ 2 nguy hiểm hơn, nó xẩy ra vào khoảng quá nửa đêm. Chỗ ngủ của Tôi ở sàn gỗ trên cao cách mặt đất 2 mét, đang ngủ tự nhiên thấy bụng quặn đau mót đại tiện.Tôi chui ra khỏi mùng, bò men theo bià sạp, phiá chân của 3 bạn nằm bên, để tới cái cột có các cục gỗ nhỏ làm thang, bấu chân vào tụt xuống đất. Sau khi đạp được đầu bàn chân trái lên mẩu gỗ thứ nhất, bắt đầu xoay người tụt xuống để đặt đầu bàn chân phải lên cục gỗ kế theo, thì Tôi thấy choáng váng, chân tay bủn rủn không kiểm soát được và rớt xuống đất cái rầm, rung động cả nền nhà làm mọi người giật mình thức giấc, tưởng có động đất.

Tai nạn này đã làm cổ chân phải của Tôi sưng vù, đau đớn không đứng được bằng 2 chân, và cũng không leo lên chỗ ngủ ở tầng sạp trên cao của Tôi được. Anh Đội trưởng đã phải nói khó với các bạn nằm ở sạp dưới, vui lòng đổi chỗ cho Tôi nằm tạm qua đêm.

Sau vài phút im lặng, có một bạn tốt bụng đã đáp ứng lời yêu cầu, khiến Tôi vô cùng cảm kích, và nhớ ơn bạn ấy đến bây giờ vẫn chưa quên. Ngày hôm sau, bạn ấy còn quyết định cho Tôi nằm tạm trên chiếc nệm cao su bơm hơi của bạn ấy thêm mấy ngày, đến khi Tôi chống gậy đi và leo lên sàn cao được mới thôi. Người tốt bụng này là Đại tá Nguyễn văn Hãn (An ninh Quân đội). Tôi chưa có dịp quen trước 30-4-1975. Anh Hãn không những bị cận thị nặng hơn Tôi nhiều, mà lại còn bị loạn thị nữa, thật vất vả, làm gì cũng phải sờ sờ mò mò gần như người khiếm thị vậy.

Mỗi buổi sáng, ngay sau khi cửa phòng giam được mở, Tôi phải 2 tay vịn chiếc đòn gánh dư của anh trực nhà cho mượn, co chân phải lên, cà nhắc nhẩy từng bước một với chân trái, để xuống Bệnh xá khám bệnh. Khám xong lại vội vã cà nhắc nhẩy về sân tập họp, trình sổ khám bệnh cho anh Đội trưởng biết là mình được nghỉ lao động ngày hôm đó.

Những Tù bệnh được nghỉ không phải theo Đội ra ngoài lao động. Nhưng sau khi các Đội xuất trại hết, phải tập trung vào một nhà giam riêng ở cuối sân bên khu Hình Sự, cửa khóa trái bên ngoài, cho đến hết giờ lao động các Đội trở về nghỉ mới được thả ra.

Khoảng 2 tuần lễ sau, tình trạng chân của Tôi hết sưng, có thể đi lại với chiếc gậy nạng, Cán bộ Y tế coi là lành không cho nghỉ nữa, phải theo Đội đi lao động. Cũng may, lúc này Đội không còn làm Nông Nghiệp nữa, mà phụ trách Cưa xẻ và Lò rèn, ở sát ngay bên cạnh Đội Mộc (đóng giường, tủ, bàn, ghế…) cách cổng Trại giam chừng 500 mét. Chúng tôi xẻ những cây gỗ to tướng ra ván cung cấp cho Đội Mộc, và nung sắt làm cuốc, xẻng, dao… theo “yêu cầu” của Trại. Tôi được cử vào toán Rèn do anh Đại úy gốc Cảnh sát làm Toán trưởng. Anh Trịnh Đình Đăng phụ tá quai buá tạ. Tôi lo nhóm Lò, kéo Bễ thổi lửa cho than đá lúc nào cũng hồng, đủ độ nóng để nung sắt.

Ít lâu sau, cổ chân của Tôi bình thường trở lại. Tổ Rèn không còn nhiều việc để làm, Tôi được chuyển qua Tổ Cưa xẻ gỗ, cặp với anh Phan Trọng Thiện. Vì anh Thiện đã làm lâu rành kỹ thuật kéo cưa xẻ gỗ, nên đứng trên cao để giữ mực cưa đi được thẳng tắp, cho bề dầy của ván đều đặn. Còn Tôi mới vào nghề nên phải đứng phiá dưới, phụ nâng cưa lên và kéo cưa xuống cho được nhịp nhàng, đều đặn. Cái khổ của người đứng phiá dưới xúc gỗ đang xẻ là, từ lúc bắt đầu kéo cho đến khi ngưng, lúc nào cũng bị mạt cưa rớt ra bay phủ đầy người từ đầu xuống đến chân, miệng và mũi phải dùng khăn quàng bịt kín để lọc cho bụi không lọt vào phổi, nên rất khó thở và mau mệt.

Từ ngày làm trong xưởng, không còn dịp mưu sinh linh tinh các sinh vật ngó ngoáy ngoài đồng nữa, anh em chờ giờ giải lao chạy ra các bãi cỏ sát hàng rào quanh sân để mót rau má, rau tầu bay đem về ăn độn với “sắn nút chai”. Đây là sắn nguyên củ, sau khi lột bỏ vỏ, chặt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt ngón tay, đem phơi hoặc sấy khô, cất kho. Những mẩu sắn khô đổi mầu từ trắng sang nâu xám, trông như những mẩu gỗ dùng để nút miệng chai. Muốn làm chín để ăn, người ta dùng nước luộc như luộc khoai. Thấy ngoài mặt các cục “sắn nút chai” luộc đổi mầu từ đục sang trong, tưởng là đã chín nhưng lúc ăn mới thấy, trong lõi cục nào cũng còn sống nguyên.

Mùa Hè năm 1978, có lẽ là mùa tử vong cao nhất tại K1 trại Tân Lập-Vĩnh Phú. Có hôm, trong khi các Đội ngồi phơi nắng cả tiếng đồng hồ, chờ gọi xuất trại lao động buổi chiều, có đến 3, 4 người ngất xỉu vì say nắng giữa sân tập họp, được anh em xốc nách đem vào Bệnh xá cấp cứu. Tối lao động về nghe tin 2 người đã chết. Một buổi khác, một anh Đội trưởng Nông Nghiệp cũng cải thiện linh tinh, ăn thịt Cóc và trứng Cóc vào bữa trưa, đến chiều ra tập họp đi lao động bị ngất xỉu. Anh em cõng vào Bệnh xá cấp cứu không được, anh ấy đã vĩnh viễn ra đi trước mọi người.

Đi lao động bị tai nạn chết tại K1, Tân Lập, Vĩnh Phú, có trường hợp Trung tá Hưng (trước 30-4-1975 làm Tham mưu trưởng Trường Đại học Chiến tranh Chính trị ĐàLạt). Nghe anh em bạn cùng đi với anh Hưng, theo xe tải của Trại công tác ngoài lãnh thổ trại giam trở về kể lại : “-Xong công tác, lúc xe quay trở về trại trời đã tối mịt. Xe phải lội qua khúc sông cạn đá lổn nhổn. Bánh xe bị kẹt ở giữa dòng sông nước chảy xiết, không nhúc nhích được. Anh em Tù phải xuống xúm chung quanh đẩy cho xe tiến tới, anh Hưng chẳng may bị hụt chân chìm mất tích. Mãi mấy ngày sau mới tìm được xác. Trại loan tin anh Hưng không biết bơi nên bị chết đuối.”

Nữ Văn sĩ Bích Huyền là vợ Trung tá Hưng, hiện đang định cư tỵ nạn tại Nam California, đã viết một tuyển tập “Lối cũ chẳng sao quên”. Trong đó có đoạn kể lại chuyện đi thăm nuôi anh Hưng tại K1 Tân Lập- Vĩnh Phú, phải lặn lội gian nan khổ cực như thế nào. Ít lâu sau có người nhắn tin về nhà cho biết là anh Hưng đã chết, chị ấy lại phải đi cùng 3 người anh ở Hà Nội (theo Cách mạng từ 1945) trở ra Tân Lập. Khi đến Phân Trại gặp anh Hưng lần trước, người ta nói anh Hưng đã chuyển trại, nhưng không cho biết tên trại mới. Mấy anh em phải chạy ngược chạy xuôi qua hết các Phân trại, chẳng nơi nào nhận đang “quản lý” anh Hưng. Sau cùng phải đến Ban chỉ huy Trại Tân Lập tại K5, mới xin được phép bốc hài cốt anh Hưng đem về cải táng. Vào đêm thứ Sáu, mồng 7 tháng 1 năm 1994, Bà Bích Huyền đã được Tổng Hội Ái hữu Chiến tranh Chính trị Quân lực Việt Nam Cộng hoà Hải ngoại tại Nam California, bảo trợ tổ chức Ra Mắt cuốn “Lối cũ chẳng sao quên” lần đầu tiên tại Vũ trường Ritz ở Quận Orange. Lúc đó Trung tá Nguyễn Ngọc Thông (còn sống) là Chủ tịch Tổng hội, Nhạc sĩ Nguyễn Hiền Phó Chủ tịch Nội vụ, và Tôi là Phó Chủ tịch Ngoại vụ. Nhân dịp tổ chức Dạ Vũ Ra Mắt sách này, Tôi đã cảm đề một bài Thơ tặng Bà Bích Huyền như sau:

DÒNG KỶ NIỆM ĐẸP

Bích Huyền “Lối cũ chẳng sao quên”,
Lẻ bóng duổi dong một chiếc thuyền.
Xã hội nhiễu nhương lòng sắt đá,
Tình đời trao đảo dạ trung kiên.
Chồng đền nợ nước gương anh dũng,
Vợ giữ gia phong tiếng nữ hiền.
Trí sáng khéo ghi dòng kỷ niệm,
Bút tài giỏi họa khúc chuân chiên.
Quận Cam, Nam Cali, 7-1-1994

 

Anh em Tù chết bệnh tại K1 thì nhiều, nhưng cấp bậc Đại tá chỉ có anh Phạm văn Sơn, tác giả cuốn “Việt Nam tranh đấu sử Cận đại”. Anh Sơn chết vì bệnh tiểu đường biến chứng. Trước 30-4-1975 anh Sơn là một trong những người có công lớn trong việc nghiên cứu, biên soạn, và ấn hành tập “Quân Sử Việt Nam Cộng hoà”, do Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH chủ trương. Hiện nay thấy mấy tập Quân sử này được in lại và bầy bán tại các nhà sách trong Khu Little Saigon, Quận Cam, Nam California.

Sau đợt Trung Cộng tấn công các Tỉnh biên giới Bắc Việt vào năm 1978, rất nhiều Tù bị giam tại các vùng Sơn La, Lào Kay, được chuyển về K1. Nhờ thế Tôi có dịp gặp Trung úy Nguyễn Trung Hoà, bút hiệu Huy Vân, Chủ bút tờ Nhật báo Tiền Tuyến thời Tôi làm Chủ nhiệm trước 30-4-1975. Khoảng 1 tháng sau khi chúng tôi gặp nhau thì Huy Vân phải chuyển sang Phân trại khác cũng thuộc trại Tân Lập. Đến đầu năm 1979, Đội các Đại tá chúng tôi bị chuyển về K5, gặp Tù quen thuộc ngành Chiến tranh Chính trị cho biết, anh Huy Vân đã qua đời trong mùa Hè chết chóc kinh khủng vừa qua, vì bệnh không thuốc chữa.

 

NỖI LÒNG TÙ KHÔNG ÁN.

Hùng Vương Quốc Tổ thấy không ?
Đồng bào cùng giống Tiên Rồng diệt nhau.
Vì không thần phục Nga Tầu,
Không theo Bác Đảng làm trâu kéo cầy.
Sa cơ bắt nhốt vào đây,
Hoà mình chịu nhục cùng bầy ác gian.
Đọa đầy cực khổ cơ hàn,
Sức mòn lực tận tiêu tan xác phàm.
Người vì Chính nghĩa chịu giam,
Bọn vô nhân đạo lên làm Chủ dân.
Giang sơn gấm vóc tiêu lần,
Nhân tài yêu nước chung thân ngục tù.
Đình, Chùa, Lăng, Miếu, Nhà Thờ,
Hoang tàn vì thuyết Tam Vô bạo tàn.
Nhân dân đói khổ lầm than,
Bởi bầy Cộng sản ác gian lọc lừa.
Nỡ nào Quốc Tổ làm ngơ,
Để cho lang sói dòng Hồ hại dân ?

K1-Tân Lập -Vĩnh Phú, Mùa Đông 1978

 

SOURCE:

https://phunulamvien.org/2013/04/30/hoi-ky-tu-cai-tao-cua-dai-ta/

 

.

 .

No comments:

Post a Comment