Cách đây khoảng 5,7 năm, lúc còn sống, bác sĩ Phạm Hữu Trác đưa tặng một vị tướng Quân Y Gia Nã Đại, sống tại vùng Montréal, một bản của cuốn sách Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, song ngữ Pháp-Việt xuất bản năm 2000 phát hành tại Paris. Sau mấy tuần, vị Tướng này tìm gặp lại bác sĩ Trác và bảo: - Tôi không ngờ các quân y sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã trải qua những khoảng thời gian như vậy. Thật đáng phục. Tôi rất kính trọng họ.
Đây không phải là lần đầu tiên một bác sĩ cao cấp trong ngành quân y ngoại quốc có cảm tình và kính trọng các Bác sĩ Việt Nam.
Trong nửa đầu của thập niên 50’các khoá sinh Quân Y Việt Nam Phạm Vận,Trần Nguơn Phiêu, Dương Hồng Mô học trường Quân Y Bordeaux, Pháp. Đến khoảng cuối năm 1956 thì họ trình luận án tốt nghiệp ở trường Y khoa Đại Học Bordeaux. Vào thời gian đó Thủ tướng Ngô Đình Diệm mở cuộc trưng cầu dân ý để truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Trong cuốn “Những ngày qua” Bác sĩ Trần Nguơn Phiêu đã viết: “Phó giám đốc Trường Quân Y Bordeaux lúc đó đã bán chính thức tiếp xúc riêng từng khoá sinh Việt Nam và cho biết là sau khi tốt nghiệp, các sinh viên có thể ở lại Pháp, không nhất thiết phải trở về Việt Nam, vì chính thể đã đổi. Ông cho hay chính phủ Bỉ đã biết tin và nhờ ông tiếp xúc với vài sinh viên để xin nếu đồng ý có thể ký giao kèo làm việc ở các thuộc địa Congo Belge của họ ở Phi Châu. Các anh em đã bàn với nhau và đã trả lời cho trường là các anh em đã đi học với học bổng tuy là của Pháp nhưng là tiền của dân chúng Việt Nam, nên anh em đã lựa chọn là phải về phục vụ lại dân chúng Việt Nam.
Người viết bài không quên được giây phút cảm động khi Y sĩ Đại tá Phó Giám đốc trường là Đại Tá Simon, trong văn phòng riêng của ông, sau khi nghe tôi giãi bầy,đã từ từ đứng lên, nghiêm nghị tuyên bố: _“Anh hiện nay tốt nghiệp mang cấp hiệu Trung úy, tôi mang cấp bậc Đại tá, nhưng tôi xin đứng lên cung kính chào lòng thương nước của các anh.” …Y sĩ trở về đầu tiên là Bác sĩ Phạm Vận. Bác sĩ Dương Hồng Mô và tôi về sau một tuần…” Vừa tốt nghiệp xong, được cho ở lại Pháp, nhưng các bác sĩ Phạm Vận, Trần Nguơn Phiêu, Dương Hồng Mô, đã có quyết định trở về, do lòng yêu nước. Cao quý thay!
Tại sao những Quân y sĩ Việt Nam Cộng Hòa , hiện dịch hay trừ bị, lại đáng trọng? Trong giới hạn của bài này, người viết chỉ có thể kể ra được một số những đức tính tiêu biểu của giới này. Và những người được đề cập tới là những đại diện cho một tập thể quên mình cứu người, trong bộ quân phục của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
(Chú thích: Cấp bậc của những nhân vật trong bài này là cấp bậc lúc câu chuyện xẩy ra. Hàng số đi theo chỉ thời điểm của chuyện.)
I. Sự Tận Tâm Đối Với Bệnh Nhân.
1- Y Sĩ Trung Úy Bạch đình Minh, 1959. Một sĩ quan, tên là Vũ Văn Tâm, đã viết về Y sĩ Trung Úy Bạch Đình Minh vào năm 1959, là thời mà các phương tiện liên lạc, truyền tin ,và giao thông còn rất giới hạn: “Một kỷ niệm và cũng là một ấn tượng về bác sĩ Minh mà tôi không bao giờ quên là một buổi chiều mưa, mà như anh đã rõ, đường xá Pleiku khi mưa thường lầy lội. Tôi đứng cửa nhìn trời, thấy bác sĩ Minh mặc áo mưa đi bộ ngoài đường. Tôi hỏi: “Anh đi đâu giữa lúc trời mưa này?” Bác sĩ Minh đáp: “ Tôi sang trại gia binh”. Tôi nói : “ Trời gần tối rồi, trại gia binh mãi bên kia đồi, sao không để mai hãy đi?” Ông đáp: “Buổi chiều nay, tôi có khám và cho thuốc một anh lính thượng. Tôi đã dặn dò cách uống, nhưng sợ anh ấy không hiểu rõ, nên phải đến tận nơi xem lại.”
2- 2- Y sĩ Đại Tá Phạm Hà Thanh, 1968. Trong thời gian cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, tuy đang giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Y Viện Cộng Hoà nhưng Ông vẫn cùng với những Y sĩ đàn em, suốt ngày đêm giải phẫu mổ xẻ cứu chữa thương binh.
3- 3- Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Hoàng Hải,1973. Y sĩ trưởng Bệnh viện 1 Dã chiến Quảng Ngãi kể lại câu chuyện Ông và chỉ với hơn một chục Y Tá đã cứu đám thương binh nặng, (đã được giải phẫu rồi), thoát khỏi chết vì lụt như thế nào: Trận Lụt Miền Trung Quảng Ngãi nằm trên một giải đất hẹp, ép giữa dãy Trường Sơn và biển cả.
Mùa mưa nước tràn từ núi đổ xuống quá nhanh, bị ứ ở cửa sông, nước thoát ra biển không kịp, nhiều khi gây nên lũ lụt trong thời gian ngắn, khó đoán trước được. Miền Trung còn nằm trên đường gió mùa thổi, có khi tụ lại chuyển thành bão.Thiên tai do mưa lụt từ núi đổ xuống, gió bão từ biển thổi thốc vào, liên miên không dứt, năm nào bình yên mới là chuyện lạ. Bệnh Viện 1 Dã Chiến gồm hơn ba chục căn trại thấp đa số mái lợp tôn, một vài căn có mái bằng xi măng, nằm đối diện với Bệnh Viện Dân Y cách nhau một con đường cái. Bệnh viện Dân y xây bằng gạch và có hai tầng lầu. Có một năm bị lụt lớn. Mưa liên tiếp hai ngày, mực nước bắt đầu dâng lên đe dọa có thể ngập tới mái bệnh viện. Lụt xảy ra vào lúc chiều tối.
Các thương bệnh binh còn di chuyển được tự động chạy sang bên Dân Y tá túc. Đa số các binh sĩ cơ hữu đã chạy về nhà lo cho vợ con, chỉ còn gần hơn một chục y tá cùng với tôi lo lắng cho số thuơng binh mới bị mổ hay bị thương nặng đang nằm chờ người tới cứu. Trước tiên phải lấy hai tấm nệm giường, chồng lên nhau dùng làm phao và khiêng họ nằm trên đó tạm chờ, để có đủ thời gian cấp cứu số đông còn kẹt lại. Trông cái cảnh một đoàn nệm phao với các thương binh, nổi lềnh bềnh lênh đênh trên mặt nước trong lúc hoàng hôn, phó thác số mệnh cho sự rủi may thật là não nùng và trớ trêu. Trong đêm tối bọn tôi vừa lội, vừa lôi, vừa đẩy, vừa kéo hì hục cũng di chuyển kịp đám thương binh này sang bệnh viện Dân Y ở bên kia đường. Lúc đó vừa may nước bắt đầu từ từ ngập tới mái nhà và đã sang đêm, có ánh sáng mơ hồ của trăng non trông lung linh ma quái lạ lùng. Tới sáng thì mực nước ngừng lại, bắt đầu rút.
4- 4- Y Sĩ Trung Úy Bạch Thế Thức, 1975. Trong những ngày cuối tháng 3-1975, Đà Nẵng ở trong một tình trạng kinh hoàng. Đã có thể hơn cả 100.000 người chạy từ Quảng Trị và Huế vào. Người ở Đà Nẵng cũng đang cuống cuồng chạy đi. Bằng bất cứ phương tiện nào. Dân dùng những phương tiện dân sự như tầu buôn, thuyền. Lính dùng phương tiện của quân đội như máy bay , tầu chiến, xuồng máy, vân vân… Rồi tới mức, lính và dân không còn phân biệt nữa. Dân cố leo lên tầu lính. Và ngược lại, lính xuống cả thuyền đánh cá, ghe nhỏ của dân.
Các đơn vị tan rã vì không còn bom đạn để xử dụng. Trong lúc mọi người chỉ còn lo chạy, không ai có thì giờ lo cho người khác thì Bác sĩ Bạch Thế Thức, lại chỉ đứng trong phòng mổ Tổng Y viện Duy Tân, chuyên tâm giải phẫu chữa trị cho những người bị thương, bất kể là lính hay là dân. Một người bạn cùng lớp, là bác sĩ Ngọc, thấy tình trạng cấp bách, rủ bác sĩ Thức bỏ hết đi, để cùng chạy . Bác sĩ Thức từ chối, khiến bác sĩ Ngọc phải phát khóc, vì nghĩ khi vào tới Sài Gòn sẽ không biết nói sao với vợ của bác sĩ Thức là bác sĩ Thúy San đang có đứa con đầu lòng được bốn tháng.
5- 5- Y Sĩ Thiếu Tá Nhảy Dù Trần Đức Tuờng, 1975. Là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Quân Y Nhẩy Dù, Bác sĩ Tường đã nói với các thương binh trong Bệnh viện Đỗ Vinh rằng “tôi sẽ không bỏ anh em mà chạy.” Quả thật thế. Trong vài ngày chót trước khi thảm họa mất nước xẩy ra, Bệnh viện Đỗ Vinh tràn ngập thương binh. Bác sĩ Tường đích thân chỉ huy việc di chuyển số lượng vượt mức này tới những cơ sở điều trị khác như Tổng Y Viện Cộng Hòa và Quân Y Viện Trần Ngọc Minh. Và vào ngày 30-4-1975 trong lúc ông đang chuyển giao các thương binh Nhẩy Dù, Biệt Kích Dù, và cả vài thương binh Việt Cộng nữa, cho Quân Y Viện Trần ngọc Minh, thì quân Bắc Việt ập vào đây.
6- 6- Y Sĩ Trung Úy Thân Trọng An, 1974. Sự tận tâm của các quân y sĩ đối với thương bệnh binh không chỉ nhắm vào một người,vào một trại bệnh hay một quân y viện, mà lại đối với tất cả những ai đang trong tình trạng bị hành hạ bởi bệnh tật hay bị thương tích nguy hiểm đến tính mạng, dù người đó là một thương binh Việt Cộng. Xin nghe Bác sĩ Thân Trọng An kể: “… Khi Phước Long thất thủ, tụi tôi cũng bị tấn công khá nặng và phải chăm sóc thêm nhiều thương binh từ Sông Bé chạy về, thêm nhiều trường hợp tâm thần phải khuyên giải và chữa trị.
Ðích thân tôi đã ba lần cứu sống cán binh và cán bộ VC bị quân trinh sát Tiểu Khu phục kích bắt về, một lần tôi đã cả gan từ chối phòng 2 Quân Ðoàn không cho thẩm vấn ngay tù binh lúc sức khỏe anh ta chưa ổn định.” Một cách tổng quát, muốn hiểu Quân Y Quân Lực Việt nam Cộng Hòa đối xử ra sao với những bộ đội Việt Cộng đã bị thương, xin mời độc giả đọc đoạn dưới đây của Y sĩ Trung tá Phạm Viết Tú, chỉ huy trưởng Tổng Y viện Duy tân, Đà Nẵng, trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến 1972. … “Một vấn đề khác làm nhức nhối tim óc là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, và ngành Quân Y nói riêng, theo truyền thống nhân đạo, đã cứu chữa thương binh cộng sản tại mặt trận và sau đó di chuyển họ về các Quân Y viện để điều trị tiếp Tổng Y viện Duy Tân dù chật hẹp, không đủ chỗ cho thương bệnh binh của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng cũng phải dành một trại riêng biệt để điều trị tù thương binh cộng sản.
Họ đa số là những người trẻ, bị tuyên truyền nhồi sọ, trở thành những tên ác ôn khát máu một cách đáng thương hại. Có gì mỉa mai, vô lý, bất công cho bằng khi các chiến hữu thương binh phải nằm hai người một giường, hoặc nằm ngoài hành lang, thì kẻ tử thù, Việt Cộng, lại được mỗi người một giường và cũng được điều trị đúng mức và có lương tâm." Sẽ có người hỏi:_ “Thế còn đối với tù binh cộng sản thì ra sao.” Xin độc giả đọc phần tường trình dưới đây của Y sĩ Trung tá Phạm hữu Trác: “Ngành Quân y cũng phụ trách cấp cứu và điều trị tù binh cộng sản.. Riêng tại Tổng Y viện Cộng Hòa, trại bệnh của tù binh cộng sản chiếm tới 100 giường. Tại bốn trại giam tù binh cộng sản ở bốn quân khu có một ban quân y gồm một bác sĩ và nhiều y tá để săn sóc tù binh cộng sản. Đặc biệt tại Phú Quốc, Quân y đặt một bệnh viện 100 giường gồm có 5 bác sĩ, một nha sĩ, một dược sĩ và trợ y, y tá để yểm trợ y vụ cho hơn 30,000 tù binh cộng sản bị giữ tại đó. (Trích Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 2000)
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP