Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố khó quên nhứt của đời người. Trong khi đó dư luân quốc tế nhận định cho rằng sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh vào ngày 9.11.1989 là biến cố lịch sử quan trọng nhứt của thế kỷ 20. Thực ra cả hai biến cố lịch sử này đều ảnh hưởng mạnh mẽ đến người Việt chúng ta. Cho nên cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, đã nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - từng đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về hai biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Khoa trưởng Đại Học Luật
Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc đối thoại với Giáo sư Huy và đã may mắn ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1989, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của Giáo sư Huy để nắm vững thêm mọi chi tiết thời cuộc. Nhờ vậy, chúng tôi mới thấy được tầm kiến thức uyên bác & đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được. Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.
1) Ai đã làm sụp
đổ Bức Tường Bá Linh?
Trong dịp kỷ niệm 20 năm ngày Bức Tường Bá Linh sụp đổ, chúng tôi đã trình bày
cái nhìn độc đáo của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy về vấn đề " Ai đã làm sụp
đổ Bức Tường Bá Linh ? "
Bức tường Berlin sụp đổ ngày 9.11.1989
Câu hỏi lịch sử này đã tranh cãi sôi nổi từ trên 20
năm qua và có nhiều câu trả lời chủ quan khác nhau tùy theo hoàn cảnh, trình độ
hiểu biết và nhứt là lòng tự hào của những dân tộc liên hệ.
a) Phía Ba Lan cho rằng nhờ hai công dân của họ. Đó là lãnh tụ nghiệp
đoàn Walesa và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã dám dũng cảm đi hàng đầu tranh đấu
chống độc tài cộng sản.
b) Phía Hung Gia Lợi cho rằng nhờ Cựu Thủ Tướng Nemeth đã sáng suốt dám
cho mở cửa biên giới Áo Hung tạo cơ hội cho làn sóng người tị nạn cộng sản bùng
nổ.
c) Phía Đông Đức cho rằng nhờ lực lượng cải cách trong đảng cộng sản Đông
Đức đã thành công lật đổ được nhà độc tài Honecker và tạo điều kiện cho lực lượng
đối lập dễ dàng tranh đấu.
d) Phía Tây Đức cho rằng nhờ chính sách hòa dịu của Cựu Thủ Tướng Brandt
từ từ tạo được biến đổi ôn hòa trong chế độ cộng sản.
e) Phía Liên Xô cho rằng chính Tổng Bí Thư Gorbachev với chính sách cởi mở
tạo ra tình thế vuột ra khỏi vòng tay kiểm soát.
f) Phía Hoa Kỳ cho rằng nhờ Cố Tổng Thống Reagan hành xử cứng rắn đối phó
với Liên Xô và quan trọng nhứt tại Bức Tường Bá Linh vào ngày 12.6.1987 đã lên
tiếng "khích tướng" kêu gọi Tân Tổng Bí Thư Gorbachev muốn chứng minh
thực tâm cởi mở thì nên mở cửa và phá sụp bức tường này (nguyên văn: “Come
here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down this
wall!“) Duy nhứt về phía Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã tiên đoán rất
sớm và trình bày rất cặn kẽ ngay trong tác phẩm "Perestroika" (
viết bằng Anh ngữ, dày 402 trang với trên 200 dẫn chứng tài liệu ) cho rằng
ông Gorbachev bắt buộc phải cởi mở thay đổi chính sách cai trị để đủ sức đối đầu
với Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Reagan đang trên đà leo thang võ
trang quân sự, điển hình là kế hoạch phòng thủ chống hỏa tiễn SDI (
Strategic Defense Initiative ).
Chỉ trong lúc đi thuyết trình cho đồng bào Việt Nam, Giáo sư Huy mới kín
đáo tiết lộ đưa ra một cái nhìn độc đáo rằng dân Nga có truyền thống chơi cờ
vua ( Chess ) nên có thói quen suy nghĩ đa nghi nhiều, còn dân Mỹ thích
chơi bài phé ( Poker ) nên thường phải " tháu cáy " với
cây bài xấu nhưng vẫn có thể " tố " cho địch thủ bỏ chạy. Theo
Giáo sư Huy thì Tổng Thống Hoa Kỳ Reagan đang dùng kế hoạch SDI để " hù
" Tổng Bí Thư Liên Xô Gorbachev với bản chất đa nghi buộc phải cải tổ
nền tảng chính trị và kinh tế để có đủ thực lực đương đầu lại với Hoa Kỳ. Quả
nhiên ông Gorbachev đã xúc tiến cải tổ, trước hết về kinh tế (Perestroika ),
và sau đó về chính trị ( Glasnost ). Nhưng chính vì sự cải tổ chính trị
đã khiến làn sóng đòi hỏi tự do dân chủ dâng cao, kiểm soát không nổi và vuột
ra khỏi tầm tay. Bức Tường Bá Linh sụp đổ, Đông Âu thoát khỏi sự chi phối của Mạc
Tư Khoa và Liên Xô tan rã vào ngày 21.12.1991 là hậu quả tất nhiên đó. Chính vì
vậy, bên ngoài Liên Xô ông Gorbachev được vinh danh là nhân vật có công với cuộc
cách mạng dân chủ hóa Đông Âu, nhưng ở trong nước thì trái lại không có chút uy
tín gì vì bị chỉ trích là không có khả năng lãnh đạo làm cho Liên Xô tan vỡ và
nước Nga không còn sức mạnh gì trên bàn cờ thế giới. Cái nhìn độc đáo của Giáo
sư Huy được chứng thực là rất đúng, vì kế hoạch SDI của Mỹ sau đó đã được
Mỹ âm thầm hủy bỏ khi mục tiêu đã xí gạt được Liên Xô rồi. Tương tự về biến cố
30.04.1975 của Việt Nam chúng ta, Giáo sư Huy cũng có câu trả lời độc đáo với lời
giải thích bất ngờ sau đây.
2) Ai đã gây ra
biến cố 30/04/1975?
Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ trên 35 năm
qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận.
Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại"
( “Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference” ) tại Washington
D.C. vào ngày 9.4.2010 quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng
như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph,
Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale
Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công,
Đại tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc
mắc: Ai đã gây ra biến cố 30.04.1975? Nhìn trở lại, người ta có thể thấy
rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ
chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm
mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến
xảy ra biến cố 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982,
chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết
nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết ( bỏ mọi cam kết
bảo vệ miền Nam! ) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Về thế lực nào
ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường
Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan ( Ireland )
và sắc tộc gốc Do Thái ( Israel ).
- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần
thắng cử chức vụ Tổng Thống.
- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu
quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự
vào bên hành pháp, lập pháp cũng như tư pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như
ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái
và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng
Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính
đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho
chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.
Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger ( một người Mỹ gốc
Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon ) có thái độ
đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ( "đi đêm"!
) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng
sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính
trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng
sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người
Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến
Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người,
trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải
rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với
2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (
- World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald
Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy
còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với
mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng
Albright
Nữ Ngoại trưởng Albright & Ngoại trưởng Kissinger
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam.
Linh mục Cao Văn Luận / Viện trưởng Đại Học Huế
Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa
Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến
Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 ( mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu
da tử sĩ! ), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ
rút quân được an toàn!).
Như vậy biến cố 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có
chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được
thực hiện qua bè đảng Kissinger.
3) Tại sao thế lực
Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?
a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ Đối với
chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào
năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do
Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại hải ngoại và qua
nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng. Điển hình là
cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/
- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu
gốc Do Thái ( so sánh trước đây chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông
Cao Quang Ánh! ). - trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới
thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton...
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon
và thời TT Ford.
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin
dưới thời TT Clinton.
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- trong Ngân Hàng Trung Ương ( Fed ) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan
Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo
chí, truyền thanh, truyền hình và điện ảnh... Đặc biệt, ngành truyền thông,
quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại
Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng
nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison
Ford... (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/
b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người
Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu
vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên
Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ
phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân
Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin
mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả
Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel ( Thụy sĩ ) vào
năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến
thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để
họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút
sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi
chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc
tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến
xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm "lá
bùa hộ mạng". Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm
cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết ( veto )
nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết ( phản bội! ) bỏ
rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống
chết" hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại
lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính
vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới
Hồi Giáo dân số rất đông đảo ( 1,3 tỷ ) và rất quan trọng về năng lượng
dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận
huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái
ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay
bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại
chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ
một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm.
Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm
lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập
niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá
mức của ông Averell Harriman ( đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao
Mỹ ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 - 1986) là một
nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của
đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ
can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực
lượng miền Bắc kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết
lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền
Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson ( dân Texas ! ) cùng ban tham
mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong
nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh
phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của
Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ
bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi
với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử
thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau
hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn
Ngọc Loan ! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc
Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến
lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng
khắp nơi trên nhiều quốc gia khác . Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc
phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày ( từ 25 tới 27 tháng 7
năm 1966 ) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực
lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng
độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì
không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem
xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy
! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào
phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này vẫn còn có
những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của
ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã
góp phần "khai tử" miền Nam!
Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966
Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống
Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn
tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử
viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được
Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller ( Thống đốc New
York ) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng
Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống.
Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn
An ninh.
Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy
cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc
trách Nội vụ John Ehrlichmann ( 1925 – 1999 )... Với những chức vụ then
chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với
chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước
giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Đến
năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Cộng tìm cách tái bang giao với chính quyền
Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon.
Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ
rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm
sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của
Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh
khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo miền Nam, thành công trong việc
ép buộc ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an
toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của
Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt
Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn
đặc trách Nội vụ John Ehrlichman của T.T Nixon như sau:
"Tôi nghĩ rằng nếu họ ( chánh phủ miền Nam ) may mắn thì được 1 năm rưỡi
mới mất". Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “ Huê Kỳ phải
tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm
sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là
bãi hoang vắng ”.
Bởi vậy biến cố 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự
trù của Kissinger và thế lực Do Thái.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày
6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên
trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm
đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ
chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên
tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan
phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.
4) Kết luận
Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực
Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường
Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước
đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ
trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
Bởi vậy mới xảy ra biến cố 30.4.1975 . Từ thời điểm đó đến nay Do Thái ung dung
tồn tại được, vì không những " độc quyền " hưởng trọn vẹn sự yểm
trợ hữu hiệu của Hoa Kỳ, mà còn khôn khéo tạo được mâu thuẩn chia rẻ để xô đẩy
siêu cường số 1 này phải ra tay đối phó với kẻ thù Hồi Giáo của mình.
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miền Nam
được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền
thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm
soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism
) . Cho nên đến nay dư luận vẫn còn bị lường gạt . Điển hình , về phía dư luận
ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen
Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam –
a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010
) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với
Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang
câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế
hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia
tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh . Về phía miền Bắc, họ không ngờ có được sự giúp
đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng
" Đồng Minh tháo chạy " ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến
Hưng !) bỏ rơi miền Nam . Thực tế, nếu không có sự phản bội của thế lực Do
Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì miền Bắc sớm thắng
trận. Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống
Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này
chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và
A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng sụp đỗ như đã xảy ra trong ngày
30.4.1975.
Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái
( một phần ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất hứa / Exodus
" của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu
dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc
gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ . Cũng
trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức
ra viết tác phẩm " Bài học Israel ( Do Thái ) " .
Nhưng thực tế chính trị cho thấy thủ đoạn & tham vọng xâm chiếm đất
đai láng giềng của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại
lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu độc của thế
lực Do Thái khiến xảy ra biến cố 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam mà nay đang dẩn
tới đại họa mất nước vào tay Trung Cộng.
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã
đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai
sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để dư
luận Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị lường gạt nữa .
Mong thay!
Phạm Trần Hoàng Việt tháng tư 2010
& 2013
SOURCES:
https://vietbao.com/a303021/giai-ma-ly-do-then-chot-dan-den-30-04-1975-
.
No comments:
Post a Comment