Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (1944 – 27 tháng 3, 2011) là một nhà
báo, đồng thời là một nhạc sĩ. Anh sinh năm 1944 ở Sơn Tây, Bắc Việt. Năm 1954
khi Việt Nam bị chia đôi thì anh theo gia đình di cư vào Nam, định cư ở Đà Lạt.
Anh nhập học và tốt nghiệp Trường Đại Học Đà Lạt – Phân Khoa Chính Trị Kinh
Doanh.
Bắt đầu từ thập niên 1960 anh được
biết đến qua nhiều nhạc phẩm với chủ đề thanh niên, tranh đấu, và cộng đồng.
Tác phẩm đầu tay của anh là “Gươm Thiêng Hào Kiệt”, viết vào năm 1961 cho Phong
Trào Hướng Đạo. Cuối năm 1965, anh cùng các bạn thành lập ban Trầm Ca, phổ biến
các bài hát có tinh nhận thức, nhạc tranh đấu xã hội và nhạc sinh hoạt thanh
niên.
Sau đó anh cùng với ban Trầm Ca và
một số huynh trưởng hoạt động thanh niên thành lập Phong Trào Du Ca Việt Nam
vào cuối năm 1966 tại Miền Nam Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng của anh phải kể
những bài “Chiều Qua Tuy Hòa”, “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”, “Về Với Mẹ Cha”,
“Bên Kia Sông”, “Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương”. Trong Phong Trào Hướng Đạo
tại Việt Nam, anh là một hướng đạo sinh và một trưởng hướng đạo.
Năm 1979 anh đến định cư ở Little
Saigon, California, Hoa Kỳ. Anh hợp tác với các Nhật báo Người Việt, Viễn Đông
rồi sau đó đứng ra lập tuần báo Chí Linh và Nguyệt san Phụ Nữ Diễn Đàn. Một
thời anh cũng đóng góp trên chương trình phát thanh và truyền hình VOC. Hướng
đạo Việt Nam đã tặng anh giải thưởng cao quý nhất: Bắc Đẩu Huân Chương.
Sau một thời gian lâm trọng bệnh sau
khi bị tai biến mạch máu não, anh từ trần lúc 4:00 AM ngày 27 tháng 3 năm 2011
tại California, Hoa Kỳ.
Phong Trào Du Ca Việt Nam được thành
lập năm 1966 tại Việt Nam cùng lúc với Phong Trào làm công tác xã hội của Thanh
Niên, Sinh Viên, Học Sinh. Hai sáng lập viên của phong trào là anh Nguyễn Đức
Quang và anh Đinh Gia Lập.
Phong trào Du Ca được thành lập với
tôn chỉ: “Dùng tiếng hát chung của cộng đồng để tô điểm cho nền văn nghệ dân
tộc một màu xanh đầy hy vọng, đưa mỗi người đến gần nhau hơn để cùng lo xây đắp
một quê hương tươi sáng”.
Chủ tịch phong trào từ 1967 là dược
sĩ Hoàng Ngọc Tuệ và đến năm 1972 được thay thế bởi Đỗ Ngọc Yến. Trưởng xướng
Du Ca do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang điều hành, đến năm 1972 được thay thế bởi Ngô
Mạnh Thu tức nhạc sĩ Trần Tú.
Phong trào được Bộ Quốc Gia Giáo Dục
và Thanh Niên Việt Nam Cộng Hòa công nhận chính thức và cấp giấy phép hoạt động
trên toàn quốc Nghị định số 319/GDTN/TN/NĐ ngày 24 tháng 1 năm 1969, tại Sài
Gòn.
Du Ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ
tên tuổi, cũng như nhiều nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang,
Phạm Duy, Ngô Mạnh Thu, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu, Nguyễn Quyết Thắng, Giang
Châu, Trần Đình Quân, Lý Văn Chương, Lê Quang Dũng, Nguyễn Văn Phiên, Võ Thị
Xuân Đào, Fa Thăng.
Sinh Hoạt Văn Nghệ Vinh Danh Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang (1944-2011)
Dòng nhạc du ca của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và ca khúc “Việt Nam Quê
Hương Ngạo Nghễ”
“… Ta khuyên cháu con ta còn tiếp
tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm
người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày
của trần gian
Hỡi những ai gục xuống trỗi dậy
hùng cường đi lên… “
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang hát "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ" (2007)
Đó là lời
nhạc trong bài hát “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”, ra đời năm 1966, nhạc phẩm
tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, con chim đầu đàn của phong trào Du
ca Việt Nam. Những giai điệu của bài ca bất tử này, mỗi khi nghe lại đều khiến
lòng người rạo rực một nguồn sống dâng lên khó tả.
Liên Khúc: "Việt Nam !Việt Nam" & "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ"- Trần Huân Channel
Đường Việt Nam - Sáng tác: Nguyễn Đức Quang - Du Ca Phù Sa hợp ca năm 2020
Nhạc
sĩ Nguyễn Đức Quang sinh năm 1944 tại Sơn Tây, cùng gia đình vào miền Nam năm 1954 và sinh
sống tại Đà Lạt từ năm 1958. Về sau, ông theo học Viện Đại học Đà Lạt và tốt
nghiệp phân khoa Chính Trị Kinh Doanh Khóa I. Thuở thiếu niên, từ năm 12 tuổi,
ông tham gia Hướng-đạo, một phong trào trợ giúp giới trẻ trong việc phát triển
tâm linh, tâm trí và sức khỏe để đóng những vai trò xây dựng trong xã hội. Sáng
tác đầu tiên của ông vào năm 1961, ca khúc “Gươm
Thiêng Hào Kiệt”, được dành cho phong trào này, là khởi điểm cho những
sáng tác thể hiện trách nhiệm của giới trẻ với nội tình đất nước.
Gươm thiêng hào kiệt - Liên đoàn Trùng Dương
Từ những năm 1963-64, Nguyễn Đức Quang bắt đầu sáng tác các ca khúc chủ đề thái
độ của tuổi trẻ với quê hương và dân tộc, và cho ra đời tập ca khúc đầu tiên
mang tựa đề “Trầm
Ca” (những bài ca để suy nghĩ, trầm tưởng) với các tác phẩm để lại
dấu ấn như “Nỗi
Buồn Nhược Tiểu”, “Tiếng Hát Tự Do”và
đặc biệt là “Việt
Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”. Đó là những bài hát cho thanh niên và thời
cuộc khi ấy, phản ánh tâm trạng thao thức và muốn nhập cuộc.
Đây
cũng là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của phong trào Du-ca Việt Nam vào năm
1966, mà Nguyễn Đức Quang là một thành viên sáng lập. Hồi tưởng lại, ông cho biết: Cuối
năm 1965, sau khi đã sáng tác một số ca khúc, ông cùng một nhóm bạn học rất
thân tại Đà Lạt cùng học hành, chơi đùa, ca hát và làm việc với nhau. Tuy
nhiên, như ông nhớ lại: “Các bạn trong nhóm tôi không có ai sáng tác, chỉ có
mình tôi làm nhạc, hát cho các bạn tôi nghe. Tôi không đi vào những con đường
cũ của các nhạc sĩ đàn anh. Hầu hết những người làm thơ, viết nhạc đầu đời là
những bài thơ tình, nhạc tình, và sống mãi với dòng nhạc đó. Phần tôi, sau
những ngày tập tễnh với nhạc tình trẻ con, tôi quay hẳn sang một hướng khác
không có mấy người làm. Nhạc của tôi sau này người ta gọi là nhạc cộng đồng,
nhạc sinh hoạt, hay là một loại nhạc nào đó, một thứ tình cảm khác, một thứ
tình cảm không phải chỉ dành cho hai người đang yêu nhau, mà là một thứ tình
cảm thiết tha nói lên cái liên hệ giữa vùng đất và con người.”
Vào thời điểm
đó, giới nhạc sĩ – ngoài các vấn đề muôn thuở như tình yêu, thân phận con người
– đã có nhiều sáng tác về thời cuộc, về vai trò và sự nhập cuộc của người dân
với những biến cố lớn của đất nước. Đó là lúc Trịnh Công Sơn bắt đầu những ca
khúc da vàng với xu hướng chính trị yếm thế, còn Phạm Duy thì cho ra đời nhiều
ca khúc trong loạt 10 bài “Tâm Ca” để kêu gọi đoàn kết và đồng lòng. Đối với
Nguyễn Đức Quang, “Tâm Ca” đã để lại ấn tượng rất lớn và là động cơ để ông theo
đuổi con đường nhập cuộc, sáng tác phục vụ cộng đồng, xã hội và dân tộc từ khi
mới 21 tuổi và đang theo học năm thứ nhất Viện Đại học Đà Lạt. Như ông kể lại,
trong một cuộc gặp gỡ giữa Phạm Duy và nhóm các thanh niên tham gia công tác xã
hội (dựng 200 căn nhà cho đồng bào Thượng, nạn nhân ᴄhιến cuộc), Phạm Duy đã
hát liền 5 bài “Tâm Ca”, và Nguyễn Đức Quang cũng được mời trình diễn các bản
“Trầm Ca”. Rốt cục, như ông nhớ lại:
“Tôi bị nhạc của Phạm Duy hớp hồn như thế
nào, thì ông ngạc nhiên về những ca khúc của tôi như thế. Sau đó hai bên gặp
gỡ, với Phạm Duy, ông cho tôi là một khám phá mới. Nó khác hẳn những dòng nhạc
của những người đi trước và cùng thời với ông. Do đó Phạm Duy đề nghị mỗi tuần
gặp nhau một lần để hát cho nhau nghe những sáng tác mới. Nếu không có sáng tác
mới thì đàm đạo chuyện văn nghệ. Tôi đã trình bầy cho Phạm Duy nghe toàn bộ
những ca khúc trong tập “Trầm Ca” đặt vấn đề thanh niên đối với vận mạng đất
nước, đưa ra những suy nghĩ của tuổi trẻ.”
Những buổi gặp mặt “hát cho nhau
nghe” ấy thúc đẩy nhóm “Trầm Ca” của Nguyễn Đức Quang tiếp tục các chuyến đi về
địa phương và hoạt động xã hội. Ông kể lại: “Chúng tôi làm việc như điên cuồng, sáng tác, tập tành, đi trình diễn,
đi huấn luyện. Chúng tôi không còn biết đến một điều gì khác ở cái tuổi 20 lúc
đó. Tôi không hiểu nhóm tôi sống bằng cách gì. Hễ có nơi nào “ới một tiếng”, là
chúng tôi khăn gói lên đường. Về phương tiện di chuyển thì nơi nào ới, nơi đó
chịu trách nhiệm. Còn ăn uống thế nào cũng xong, ngủ nghê chỗ nào mà chả được”.
Nhóm Du ca Việt Nam đã ra đời như thế vào năm 1966,
sau những chuyến đi bất tận phục vụ cộng đồng, quy tụ nhóm bạn từ ngày ở Đà
Lạt, với Trưởng xưởng Du-ca do Nguyễn Đức Quang điều hành và quy tụ nhiều nhạc
sĩ, các cây bút trẻ khác. Xuất phát từ lý tưởng phục vụ một xã hội sống tốt đẹp
với một tâm thức mới, Du-ca đẩy mạnh các công tác phục vụ văn hóa, để xây dựng
tâm hồn cho người tham dự. Hoạt động của Du-ca, dưới lời kể của nhà văn, nhạc
sĩ Nguyễn Đình Toàn:
“Du-ca
có nghĩa là đi đây, đi đó để hát. Các buổi trình diễn như thế thường diễn ra
tại các sân trường đại học, các giảng đường, sân vận động, các trại hè hay một
nơi nào đó có những sinh hoạt cộng đồng và đám đông tụ tập, vào thời ấy có thể
là một trại tị nạn, mục đích chính chỉ là để “hát cho nhau nghe”, cho đỡ buồn,
để thắp lại hy vọng… ᴄhιến tranh vừa xua đuổi vừa bao vây, người ta không còn
biết chạy đi đâu cho thoát. Cũng không ai biết đến bao giờ nó mới chấm dứt.
Phong trào du ca được hình thành trong những ngày khốn khổ đó”. Hòa mình và hết sức với phong trào,
Nguyễn Đức Quang đã để lại nhiều sáng tác lừng danh, như “Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương”
(phổ thơ Nguyễn Ngọc Thạch) với tâm thức không chối bỏ đất nước trong cơn binh
biến gian khổ:
Xin chọn nơi này làm quê hương dẫu
cho khó thương
Ta cùng lo chạy từng lưng cơm áo che
thân tàn
Khi mùa mưa về cùng lem nhem bước
trên ngõ trơn
Khi giặc lan tràn cùng lo âu trắng
đôi mắt đen…
Nói về ma
lực của Nguyễn Đức Quang qua các bản hùng ca mà ông cùng nhóm Du-ca trình diễn
trong các chuyến đi, Nguyễn Đình Toàn nhận xét: “Loại nhạc để trình diễn trên sân khấu, trước những đám đông, ngoài âm
điệu và lời ca thường còn phải có vài điều gì khác để cho ca sĩ biểu diễn, bằng
động tác, bằng nét mặt, nếu không sẽ trở thành nhạt nhẽo đối với khán giả.
Nguyễn Đức Quang có đủ các điều kiện để thành công trong “thế giới du ca” của
ông: đàn ngọt, hát hay, có duyên, nắm vững nghệ thuật nói trước đám đông, trình
diễn nồng nhiệt”.
Còn nhà báo Bùi Bảo Trúc thì lại nhìn thấy sự quyến rũ
của ông qua hành động nhập cuộc: “Nguyễn
Đức Quang không đứng ngoài để đi hành quân làm lính cậu. Không một lời thù hận
bên này hay bên kia. Nguyễn Đức Quang là tiếng hét nhân bản, là lời réo gọi của
nguyên một thế hệ sắp bị mất đi những giá trị của một xã hội đang bốc cháy.
Nguyễn Đức Quang không phòng trà não ruột, không tình ái bi thảm, không chính
trị một chiều, không thù hận đằng đằng. Nguyễn Đức Quang đến với người nghe và
nhất là những người hát nhạc của ông bằng tất cả chân tình của một thanh niên
Việt”.
Trong cảnh chinh ᴄhιến không có điểm dừng, khi không ít nhạc sĩ
đương thời có cái nhìn bi quan, yếm thế, oán trách quá khứ, thời cuộc, thì
Nguyễn Đức Quang đã đem lại góc nhìn trách nhiệm và khỏe khoắn, hướng người
nghe về những bổn phận công dân trong tinh thần dân tộc, như trong bài “Về với mẹ cha”:
Từ Nam Quan, Cà Mau
Từ non cao rừng sâu
Gặp nhau do non nước xây cầu
Người thanh niên Việt Nam Quay về
với xóm làng
Tiếng reo vui rộn trong lòng
Cùng đi xoay Hoành Sơn
Cùng đi lay Trường Sơn
Cùng đi biến rừng hoang ra lúa thơm
Vượt khơi ra đảo xa, Lướt ngàn nước
sang nhà
Ta đắp bồi cho Mẹ Cha
Nhìn non sông tả tơi
Tình quê hương đầy vơi
Người thanh niên Việt Nam ngậm ngùi
Chờ chi không vùng lên
Thiết tha với dân lành
Cứ co ro ngồi sao đành
Nào anh em cùng nhau
Người trước lo người sau
Cùng đi cho quên hết tiếng nghẹn
ngào
Ðường gân căng bàn tay
Mắt trong như sao trời
Nơi quê hương là sáng ngời
Cũng có lúc,
Nguyễn Đức Quang đau xót và giận giữ trước cảnh lòng người ly tán, bất hòa:
“Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau – Nghi ngờ nhau, khích bác nhau – Cho cay
cho sâu, cho thật đau”, và khẳng định trong ca khúc “Không Phải Là Lúc”:
Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn
đề nữa rồi
Mà phải cùng nhau ta làm cho tươi
mới
Không phải là lúc ta ngồi mà cãi
suông
Không tin nơi nhau thế ta định nhờ
ai dẫn đầu
Thế giới ngày nay không còn ma quái
Thần tượng tàn rồi, còn anh với tôi
Chúng ta đi tới bằng cái tầm thường
thôi
Làm việc đi không lo khen chê
Làm việc đi hãy say và mê
Cứ bắt tay từ từ chúng ta giải quyết
Mình chậm chân theo sau người ta
Còn ngồi đây nghĩ lo viển vông
Thắc mắc ngại ngùng đến lúc nào mới
làm xong
Như thế,
không chỉ ngồi ngoài đặt vấn đề, Nguyễn Đức Quang còn trực tiếp xắn tay nhập
cuộc cùng giới trẻ, kêu gọi tuổi trẻ đến với nhau cùng xây dựng một đất nước và
niềm tin. Do đó, nhạc của ông có tâm cảm của một con người khao khát hòa bình,
nhưng không thiên về bên nào, như theo lời ông, không làm chính trị cho dù mang
ý thức chính trị cao. Cũng như vậy, Nguyễn Đức Quang tự hào vì tính độc lập,
không lệ thuộc vào bất cứ cá nhân hoặc phe nhóm nào của phong trào Du-ca, điều
khiến nó có được tác động mạnh mẽ và sâu rộng trong cộng đồng. Tuy nhiên,
Nguyễn Đức Quang không chỉ sáng tác thể loại nhạc hùng, kêu gọi xã hội. Ông còn
làm những bản tình ca được nhiều người biết đến và tới nay vẫn nhớ, mà điển
hình là “Cần
Nhau”, “Vì Tôi Là Linh Mục”và nhất
là “Bên Kia
Sông” (phổ thơ Nguyễn Ngọc Thạch):
Này người yêu, người yêu tôi ơi
Bên kia sông là ánh mặt trời
Này người yêu, người yêu anh hỡi
Bên kia đồi cỏ hoa đan lối
Bên kia núi, núi cao chập chùng
Bên kia suối, suối reo lạnh lùng Là
bài thơ toàn chữ hư vô
Này người yêu anh ơi!
Cho anh nồng ấm cuộc đời
Hoa thơm có ánh mặt trời
Ôi núi mừng vì mây đến rồi!
Này người yêu, người yêu anh hỡi!
Yêu nhau mình đưa nhau tới
Bước nhẹ và nói bên môi
Nói cho vừa… mình anh nghe thôi!
Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia sông đường vẫn còn dài
Này người yêu, người yêu anh hợi!
Bên kia đồng cỏ non đan lối
Trong cơn gió, thoáng nghe nực cười
Trong khe núi, thánh thót lòng người
Lòng đòi tình vật vã không nguôi
Này người yêu anh ơi!
Ðêm đêm lòng vỗ tình dài
Dây xanh quấn quít vào đời
Cho trái tình nở trên tiếng cười
Này người yêu, người yêu anh hỡi!
Bên trong lòng nôi êm ái
Rắc nhẹ từng cánh sao rơi
Sẽ âm thầm mình em nghe thôi!
Yêu người,
yêu đời để sống có trách nhiệm với đất nước, dân tộc là điểm chính yếu trong
con người và sự nghiệp ca hát của Nguyễn Đức Quang, và được ông giữ trong suốt
phần đời còn lại khi sống xa quê hương.