30 Tháng Giêng 2015
Năm nay,
tháng 7/2010 trong dịp nghỉ hè tại Mỹ, chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư Đoàn 3BB
cư ngụ tại vùng Nam California. Trong cuộc trao đổi, anh em nhắc lại kỷ niệm
của những ngày binh lửa, trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3
trên " Đại Lộ Kinh Hoàng" năm 1972 . Sự kiện đó đã khơi lại trong tôi
nỗi bẽ bàng, đắng cay về một trận đánh oan khiên tới độ phi lý mà các đơn vị
trú phòng tại đây đã phải gánh chịu và đấy cũng là những băn khoăn, thắc mắc
nằm sâu trong ký ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua .
Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra,
tôi đang làm việc tại Ban Nghiên Cứu và Kế hoạch Đặc Biệt, dưới quyền Tr/Tá
Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không Ảnh/ Phòng 2/ Bộ Tổng Tham Mưu . Nhiệm
vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lãnh
thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Mòn HCM . Trung bình mỗi tuần,
chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp . Chúng tôi khẳng định là TT
Thiệu, Thủ tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rõ tình hình và biết chắc rằng
VC sẽ tấn công qua vùng Phi quân sự . Ba vị lãnh đạo cao nhất đã được chúng tôi
đệ trình những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm 1971
cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 vì từ mùa thu 1971, VC đã
ráo riết đưa hàng ngàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ trình mới từ đường
mòn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự .Con đường này đã được
hoàn tất vào khoảng tháng 1/72 . Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác sự
kiện đó . VC còn thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hỏa tiễn 122
ly ngay cạnh vùng Bắc PQS . Điều đó có nghĩa là các căn cứ hỏa lực của ta tại
vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của VC . Mỗi chiều thứ sáu, Đại tá Phạm
Ngọc Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết trình trước ba vị lãnh đạo quân sự cao
nhất của VNCH về tình hình QS tại tòa nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt động
địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục . Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn
đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự mà vẫn không thấy bên
ta động tĩnh gì, mặc dù nhiều lần chúng tôi đã xin Không Quân HK oanh kích . Sự
bỏ ngõ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt / Mỹ lúc đó đã làm cho chúng
tôi hết sức kinh ngạc
I/ Mạn đàm với Chuẩn
tướng Vũ văn Giai, Cựu Tư Lệnh SĐ3BB
Đây là huy hiệu cũ của Sư Đoàn 3 Bộ Binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971 tại Quảng Trị nên trên huy hiệu có chữ Bến Hải do cựu Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy và đã tan hàng vào ngày 2 tháng 4 năm 1972 sau 6 tháng thành lập
Cuộc chuyện trò với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc tìm hiểu thêm để
viết về những điều đã khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua . Bởi
vậy, tôi ngỏ ý muốn gặp Tướng Giai để hiểu biết thêm về những điều mà tôi nghĩ
rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được . Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng
7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California . Đi
cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Tr/đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3 . Khi VC
tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu đoàn trưởng TĐ3/2/SĐ3 . Ông là người
rất gần gũi với Tướng Giai vì đã cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ
Lào trước đây
Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà
người Mỹ đã đặt cho các căn cứ hỏa lực tại vùng nam vĩ tuyến 17 . Do đó, chúng
tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay VN trấn giữ thì
Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm .
Về việc VC sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo
trước, nhưng trong cương vị của mình, ông không thể làm gì hơn được . Khi cuộc
chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau, vì
theo họ, lực lượng trú phòng của ta không thể đương cự được . Được hỏi về dư
luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó
Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng điều đó
không đúng . Ngược lại, ông Lãm muốn SĐ3B giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các
trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ
hoang mang và vô cùng hoảng hốt .
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tướng Vũ Văn Giai
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc
thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp
nhận việc tăng quân viện cho VNCH . SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của
Bộ TTM/QLVNCH . Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó
khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm trách . Sự kiện trên khiến tôi
liên tưởng tới cái chết của Đại Tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ23 vì ông này không được
cảm tình của John Paul Vaunn, người Cố vấn Mỹ " rất đặc biệt " tại
Quân Đoàn 2 lúc đó
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn công và với tình hình sôi động như
vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không;
Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ
khá lâu . Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không
có thêm lực lượng nào khác .
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng
Lavelle, Tư Lệnh Không Quân Mỹ tại Thái Bình Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn
cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố !
Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những
biến chuyển của tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn
Hội Nghị Paris và từ trước năm 1971, hai bên đã thỏa thuận về việc cấm mọi hoạt
động của các phi cơ quân sự Việt - Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải . Sự kiện này
khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản " Đề nghị mục tiêu oanh kích "
mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Saigon, vào thời điểm đó, đã không được
thực hiện . Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công
và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng
Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hỏa lực và các đơn vị phòng thủ của VNCH tại
phía nam của vùng PQS . Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận
lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là " Tiền đồn chống
Cộng " của Thế Giới Tự Do . Tổng thống Thiệu, Đ.T. Viên dư biết các sự
kiện đó, nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng
bị hoặc đối phó ? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm
lược và tầm vóc ?
Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố
ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC .
Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn công
vào vùng hỏa tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư đoàn tân lập
với một quân số phức tạp như SĐ3BB để đương đầu với một lực lượng VC có một
quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng, pháo yểm trợ mạnh mẽ là một sai lầm
nghiêm trọng của Bộ TTM ở Saigon hay không ?
Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng
tôi chạnh lòng và xúc động . Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải
tỏa . Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng
vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ ít lâu sau đó bị tước đoạt binh
quyền và khi VC chiếm được miền Nam, ông lại bị Cộng sản đọa đầy thêm 13 năm
nữa . Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật và khép kín trong một chung cư dành cho
người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khỏe cũng không được khả quan
lắm
Có lẽ vì định mệnh, khi BTL/SĐ3BB di chuyển về căn cứ Hòa Khánh tại phía nam
đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Saigon ra tăng cường cho
P2/SĐ3 . Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3, tôi được gửi ra BTL Tiền
phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc
hành quân " lấn đất giành dân " trước khi bản Hiệp Định Paris được ký
kết vào ngày 27/1/1973 . Trong gần 3 năm, tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu
khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ
lúc nào .
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa . Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung
ương hao đi một ít vì không được bổ sung . Nguyên tắc " một đổi một "
được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện . Điều đó có nghĩa là
: VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết ! Chiến đấu trong hoàn cảnh
đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng . Ai chịu trách nhiệm về việc này ?
Tại Ngã Ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào
Đà Nẵng trong những ngày 21 & 22/3/75 . Đúng một tuần lễ sau, lúc 00 giờ 20
ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời căn cứ Hòa Khánh
bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại
BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng . Hai mươi mốt
ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Saigon đúng 10 ngày
trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS
II/ Phân tích và nhận
định về cuộc lui quân để tái phối trí của SĐ3BB khỏi Quảng Trị năm 1972:
Ngày 9 tháng 6 năm 1972, đơn vị được đưa về tái phối trí tại Quảng Nam, nhận bàn giao lại căn cứ Hòa Khánh
và do cựu Tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. Sư đoàn 3 Bộ Binh mang huy hiệu mới
Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh vì trong suốt mấy chục năm
qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đã viết khá đầy đủ . Hơn nữa, đó
cũng không phải là chủ đích của bài viết này .
Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay
chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách
quan để từ đấy rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất
là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ
bàng của ông cha chúng .
Để nhìn vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nhìn từ
" góc cạnh chính trị " của cuộc chiến VN vào thời điểm đó . Tuy
nhiên, trên bình diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi
nhận những khuyết điểm sau :
1. Thành phần :
Thành phần chủ lực của SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1 . Đặc biệt, Tr/đoàn này
có tới 5 tiểu đoàn . Khi được chuyển qua SĐ3 thì 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2 .
Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến .
Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 thì mỗi Trung đoàn có một tiểu đoàn còn lại của
Tr/ Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BBB; số còn lại là các tân binh
quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm
chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng,
pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu thì việc thất trận không làm
ai ngạc nhiên . Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đã
phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số và chiến trường
đã được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước
2. Tinh thần và khả
năng chiến đấu:
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn
ngập . Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Tr/đoàn trưởng Tr/đoàn 56 tại
căn cứ Tân Lâm cùng 1500 binh sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân
nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ
tiếp theo đối với các đơn vị khác . Hiện tượng này đã được lập lại trong cuộc
di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất
nước .
Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ
trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận
rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi
được tình thế bởi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy . Các đơn
vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ
không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai . Với quân số như thế,
cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả
năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng Chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào
1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị
hoang mang, giao động hết mức .
3. Các yếu tố chính trị
liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:
Trước tình hình hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngay QĐ đảo chính lật đổ
chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa, người Mỹ đến VN gọi là để giúp VNCH trong cuộc
chiến đấu chống Cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời
gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của võ khí . QĐ Mỹ
đã chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đã thắng trong cuộc chiến tranh
Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung Cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ
rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN . Những người làm sách lược và chỉ
huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du
kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản
và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc . Với phương thức đánh lén,
đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất
nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến . Giả dụ, nếu thua
họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông, quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua
biên giới các nước bên cạnh . Qua hình thái chiến tranh ấy, VC đã làm cho người
Mỹ chán nản vì bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết
quả đạt được không như dự tính
Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian . Làm việc gì họ cũng
đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất, bởi vậy cuối nặm 1964 họ đổ quân vào VN
và cuối năm 1967 họ đã nghĩ đến việc rút quân . Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động
khi VC tấn công QL/VNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đã một phần
chứng minh điều đó . Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan tình báo Mỹ
không biết gì về cuộc Tổng công kích này trước khi nó xảy ra . Là một nước cổ
súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lãnh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm
lý, lịch sử, truyền thống và văn hóa của người bản xứ . Người Mỹ cũng không
muốn hiểu rằng sự có mặt của QĐ Mỹ ở VN đã tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt
trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải
phóng Miền Nam; dù thực chất đó là cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT vì cuộc
chiến VN đã bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN . Mỗi năm CSQT đã chi ra hàng
trăm triệu Mỹ kim về lãnh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía
VC . Các cuộc biểu tình chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại
nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương . Điều đó mặc
nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH .
Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ
một nước xa xôi, không liên hệ gì đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi
phí quốc phòng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân . Đã
thế, họ còn bị cả thế giới lên án thì việc chống chiến tranh cũng là một phản
ứng dễ hiểu và tự nhiên . Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ viện Mỹ đả kích
chính phủ để kiểm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn
rút khỏi VN . Được sự viện trợ và thúc đẩy của CSQT, VC ngày càng mở những trận
đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn . Sinh mạng con người đối
với CS chẳng nghĩa lý gì, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đình họ phải
lo lắng nên họ đòi chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng
con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ
4. Mục tiêu của chính
phủ HK khi tham chiến tại VN:
Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do
đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lãnh thổ của mình vì sự
thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn . Đó là lý do
khiến HK tham dự vào 2 cuộc chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly .
Sau Thế chiến thứ 2, khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến
tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng . Với cương
vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến
tranh bằng chính ngân sách của mình để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế,
chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha đã làm từ cuối thế kỷ 19 . Riêng tại VN, trong cuộc chiến vừa qua, HK
muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chận CSQT bành trướng về phía ĐNA vì
theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ thì các nước lân bang
của VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của CS . VNCH không còn một lựa chọn nào khác
. Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đã được nói đến
ở trên .
5. Lý do khiến Mỹ muốn
rút quân ra khỏi VN:
Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ còn nghĩ
rằng nếu dùng ưu thế về võ khí để thắng trong cuộc chiến VN thì Mỹ lại phải
đương đầu trực tiếp với Trung Cộng . Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng
biên giới Việt - Trung . Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn .
Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những hình ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng
tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, HK biết rất rõ ràng tại biên giới
giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng
tác chiến vì sự xung đột về ý thức hệ và vì cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT .
Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga
mở rộng ảnh hưởng về phía nam vì vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa
thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ . Qua chiến lược đó, VNCH bắt
buộc trở thành vật hy sinh để tế thần, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy
ra khỏi các tổ chức Quốc tế . Đó là kết quả của chính sách " ngoại giao
bóng bàn " của Henry Kissenger va Richard Nixon . Tình nghĩa đồng minh với
VNCH và Đài Loan chấm dứt ! VNCH bị bức tử .
Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ . Trung Cộng mỗi
ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố về Biển Đông từ
hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ . Trong bối cảnh ấy, HK lại
tìm cách để làm thân với VC để tìm một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu, hầu
cân bằng thế lực tại khu vực này của thế giới
III/ Kết luận:
Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH . Họ có thể đúng nếu trên lãnh vực bang giao
QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín . Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao giờ trở thành sự thật như một quy
ước bắt mọi người phải tôn trọng, nên mỗi quốc gia đều làm những gì có lợi nhất
cho mình . Hơn ai hết, HK đã từ lâu theo đuổi chủ trương ấy . Tôi không nhớ tên
một nhà lãnh đạo nào đó của HK đã thẳng thắn xác định ngụ ý rằng HK không có
Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết . Cuộc chiến VN đã
kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3BB tại Vùng
Hỏa Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung của cả
dân tộc
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội
nón ra đi !
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ TƯỞNG TỰ DO và
chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đã bị đọa đầy,
khổ nhục sau cuộc chiến đấu " oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ "
để bảo vệ Đất Nước
THẾ HUY, Paris
Viết xong tại California ngày 19/7/2010
Nguồn
Bất Khuất
Ghi chú:
(1) Trung tá Phạm Đức Lợi tức nhà thơ Mạc Ly Châu trong Hội Văn Nghệ QĐ đã tự
sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay CS
SOURCE:
No comments:
Post a Comment