Tuesday, December 22, 2020

Sư Đoàn 23 Bộ Binh - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa


 


SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH

Nam-Bình Bắc-Phạt Cao-Nguyên-Trấn

Những Con Đại Bàng Trắng "Trấn Sơn Bình Hải"

Sư Đoàn 23 Bộ Binh là 1 đại đơn vị trực thuộc Quân Đoàn II & Quân Khu 2 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Được thành lập vào năm đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

Đây là đơn vị đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị tan hàng tại mặt trận Ban Mê Thuột vào trung tuần tháng 3 năm 1975, mở đầu cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa dẫn tới toàn bộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải buông vũ khí vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 

Lược Sử:

Sư Đoàn 23 Bộ Binh được thành lập vào ngày 1 tháng 8 tháng 1955 tại Nha Trang, Khánh Hòa với danh xưng ban đầu là Sư Đoàn Khinh Chiến số 5 của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam do Trung tá Nguyễn Thế Như làm Tư Lệnh đầu tiên.

Sau khi thành lập, Bộ Tư Kệnh Sư Đoàn di chuyển ra Dục Mỹ,quận Ninh Hòa, Khánh Hòa.

Ba tháng sau, Sư Đoàn được cải danh thành Sư Đoàn Khinh Chiến số 15.

Sau khi phế truất Quốc Trưởng Bảo Đại và tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho tổ chức lại Quân Đội Quốc Gia Việt Nam và chính thức đặt tên lại là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.

Khối Bộ Binh được tổ chức lại thành 4 Sư Đoàn Dã Chiến và 6 Sư Đoàn Khinh Chiến.

Đầu năm 1959, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa một lần nữa tổ chức lại các đơn vị Bộ Binh.Đầu tháng 4 năm 1959, Sư Đoàn 15 được thâu nhận thêm quân số của Sư Đoàn 16 Khinh Chiến để cải danh lần cuối thành Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

Cuối năm 1960, Sư Đoàn 23 di chuyển Bộ Tư Lệnh lên Ban Mê Thuột.

Địa bàn của Sư Đoàn phụ trách để Bảo An là 4 tỉnh Nam Cao nguyên Trung phần và 3 tỉnh nam Duyên Hải Trung phần.

Chính do trấn giữ địa bàn này mà về sau, Sư Đoàn xưng danh hiệu :

Nam Bình Bắc Phạt Cao Nguyên Trấn.

Tư Lệnh Sư Đoàn:

1 - Nguyễn Thế Như

Võ Bị Liên Quân Viễn Đông Đà Lạt.

8/1955-9/1956.

2 - Nguyễn Văn Vĩnh

Võ Bị Đà Lạt K5

9/1956-9/1958

3 - Bùi Dzinh

Võ bị Đà Lạt K3

9/1958-5/1959

4 - Trần Thanh Phong

Võ bị Huế K2

5/1959-5/1961

5 - Lê Quang Trọng

Võ bị Huế K2

5/1961-12/1963

6 - Hoàng Xuân Lãm

Võ bị Đà Lạt K3

12/1963-10/1964

7 - Lữ Lan

Võ bị Đà Lạt K3

10/1964-8/1965

8 - Nguyễn Văn Mạnh

Võ bị Huế K1

8/1965-11/1966

9 - Trương Quang Ân

Võ bị Đà lạt K7

11/1966-9/1968

10 - Võ Văn Cảnh

Võ bị Địa phương Trung Việt

Đập Đá Huế K3

9/1968-1/1972

11 - Lý Tòng Bá

Võ bị Đà Lạt K6

1/1972-10/1972

12 - Trần Văn Cẩm

Võ bị Địa phương Trung Việt

Đập Đá Huế K1

10/1972-11/1973

13 - Lê Trung Tường

11/1973-14/3/1975

14 - Lê Hữu Đức

Giáo phái Cao Đài

Từ 15/3/1975

Ngày 14 tháng 3 năm 1975 tại Phước An, Darlac, tướng Lê Trung Tường bị thương về Sài Gòn điều trị. Ngay ngày hôm sau, Đại tá Lê Hữu Đức, nguyên Tham mưu phó Đặc trách Bình định và Phát triển Quân khu 2 được Thiếu tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh Quân đoàn II cử thay thế chức vụ Tư lệnh Sư đoàn (Lúc này phiên hiệu Sư đoàn chỉ còn trên danh tính, thực tế thì tổ chức và quân số của Sư đoàn đã thất tán).

(Sưu tầm)

No comments:

Post a Comment