“Những người lính già không bao giờ chết,
họ chỉ nhạt mờ đi thôi.”
(General Douglas MacArthur)
Xa nhìn thấp thoáng trong mây
muôn bóng quân Nam chập chùng…(1)
Câu hát ấy, từ bao nhiêu năm nay vẫn cứ theo tôi, theo tôi mãi.
Câu chuyện bắt đầu từ những ngày xa xưa, thuở tôi còn là cậu học trò nhỏ vừa bước vào năm học đầu tiên của một trường trung học ở thành phố cao nguyên có cái biệt danh nghe buồn buồn là “Buồn-muôn-thuở”. Cậu học trò ấy, vào mỗi sáng thứ Hai, cùng chúng bạn đứng xếp hàng ngay ngắn trước sân cờ, nao nức chờ đợi phút giây được tham dự vào nghi thức thượng kỳ đầu tuần trong bầu không khí thật trang nghiêm giữa sân trường thuở ấy.
“Đứng thẳng người,” thầy tôi dặn, “ngực ưỡn ra, miệng hát lớn, mắt hướng về lá quốc kỳ cho đến khi bài quốc ca chấm dứt.” Tôi đã làm theo đúng lời thầy, mắt dõi theo lá cờ từ từ, từ từ được kéo lên, nhẹ bay trong gió. Lá cờ màu vàng tươi phất phới bay trong nắng sớm giữa bầu trời lồng lộng có từng cụm mây trắng lững lờ... Bỗng nhiên, trong một thoáng, câu hát ấy–không phải câu hát trong bài quốc ca–nghe vẳng lên trong đầu tôi, “Xa nhìn thấp thoáng trong mây / Muôn bóng quân Nam chập chùng”. Cùng lúc, tôi như nhìn thấy, thoáng ẩn thoáng hiện trong những cụm mây nơi phía chân trời mờ xa, chập chùng những đoàn quân đang tiến bước.
Tôi không thể biết chắc, có phải những gì tôi nghe thấy và trông thấy ấy là tiếng nhạc ở trong đầu, là “bóng mây ảo giác”, hay là vì những bài hùng ca, những bài học lịch sử mà chúng tôi học được từ những người thầy đã in hằn trong tâm trí, khiến mỗi lần dõi mắt trông theo lá cờ vàng lất phất trong nắng trong gió là mỗi lần câu hát ấy lại vẳng lên và đoàn quân ấy lại “thấp thoáng trong mây”.
Chúng tôi trông đợi những sáng thứ Hai, trông đợi những phút được đắm mình vào không khí đầy vẻ cuốn hút của buổi lễ thượng kỳ. Không khí ấy, với tôi, như mang một vẻ gì thiêng liêng, như nhuốm một vẻ gì bi tráng của những trang sử Việt hào hùng, của những chiến công thần kỳ và những nợ máu xương chồng chất. Trong những phút ấy, lòng tôi dâng lên những cảm xúc thật kỳ lạ, vừa là niềm ngưỡng phục, vừa là nỗi tự hào, vừa ngùn ngụt hào khí trong máu trong tim cậu học trò ở tuổi vừa lớn, hòa cùng tiếng nhạc trầm hùng như giục giã những bước chân đi tới.
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!...
Những năm học nối tiếp theo nhau, và ngày tháng trôi đi bình lặng.
Thế rồi, tất cả vụt biến mất, tất cả đều sụp đổ... Cơn bão tàn khốc của lịch sử đã nhận chìm và cuốn phăng đi tất cả, cuốn phăng đi những năm tháng êm đềm, cuốn phăng đi biết bao nhiêu là số phận. Thành phố quê tôi bị chiếm đóng vào một ngày tháng Ba năm 1975. Tất cả lá cờ trong thành phố đều bị thay bằng lá cờ khác. Lá cờ phất phới trên đỉnh cột cờ trong sân trường tôi cũng cùng chung số phận. Không còn nữa lá cờ vàng phất phới giữa bầu trời lồng lộng, không còn nữa những đoàn quân “thấp thoáng trong mây”.
Ngôi trường ấy không còn là ngôi trường của chúng tôi nữa. Chúng tôi tan tác như bầy chim hoảng loạn. Không có nỗi đau đớn và mất mát nào lớn hơn thế trong đời tôi.
Hơn bao giờ hết, tôi hiểu được vì sao đã có những người tìm đến cái chết trong những ngày đen tối ấy. Lá cờ vàng, biểu tượng thiêng liêng của tình yêu đất nước, từ lâu lắm đã nằm sâu trong đáy tim họ và đã như một phần đời sống không thể nào tách lìa. Khi cái phần đời sống ấy bị tước đoạt, cuộc sống như mất hết ý nghĩa, và khi nỗi mất mát ấy lớn quá mức chịu đựng thì họ đi tìm cái chết. Họ đã chọn cái chết hơn là sống mà không còn được trông thấy lá cờ ấy. Họ muốn được chết theo lá cờ ấy.
Tình yêu của họ dành cho lá cờ ấy sâu đậm quá, mãnh liệt quá, đến độ sẵn lòng đổi cả mạng sống mình cho tình yêu ấy. Họ chết đi để không phải nhìn thấy lá cờ họ yêu quý bị thay bằng lá cờ khác. Họ chết đi để giữ cho tình yêu ấy trở thành bất diệt, để cho ngọn lửa tình yêu ấy trở thành ngọn lửa vĩnh cửu, đời đời.
Trong số những người yêu lá cờ ấy và chọn cái chết theo lá cờ ấy có đứa em tôi, đứa em gái duy nhất trong số mấy anh em tôi. Em chết khi vừa tròn tuổi đôi mươi, giữa những tháng năm tươi đẹp nhất của một đời người. Em chết khi tóc còn xanh, khi môi còn thắm, còn tràn đầy những ước mơ. Trước mắt em ngày ấy là chân trời rộng mở, là khung trời bát ngát có hoa có bướm, có trăng có sao, có sân trường lớp học, có thầy cô bạn bè, có tình đầu tuổi học trò... Trong phút chốc, tất cả đều tan biến, sụp đổ, như bức màn đen bất thần phủ chụp xuống đời em. Lá cờ bị vùi dập như những ước mơ của em bị dập tắt phũ phàng. Em chết đi cùng những giấc mơ tươi đẹp nhất của đời em.
Chiến tranh đã đi qua, nhưng hình tượng hào hùng và những khúc hát về người lính quả cảm cầm súng chiến đấu dưới màu cờ tổ quốc để bảo vệ từng tấc đất quê hương mỗi lần nghe lại vẫn nghe dậy lên niềm kiêu hãnh, nỗi tự hào về một thiên anh hùng ca của dân tộc.
Những người lính năm xưa ấy, một số đã lìa đời, một số tóc đã điểm sương hay đã bạc trắng mái đầu, tôi vẫn gặp đâu đó, vẫn sống lặng lẽ đâu đó trong buổi hoàng hôn của đời người.
Những người lính “một thời ngang dọc” ấy, những người lính “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” (2) ấy, từng phụng sự cho những lý tưởng cao đẹp, từng trải những vinh quang và nhục nhằn của một thời kỳ bi tráng nhất trong lịch sử dân tộc.
Những người lính ấy hẳn có trái tim rất lớn.
Sau những vẻ mặt lặng yên, tưởng như bình thản ấy, là những tơi bời của lửa đạn đã im tiếng, là những giông bão của lịch sử đã lắng chìm. Những người lính cũ tôi gặp lại hôm nay, lòng vẫn hướng về quê hương tội tình, vẫn nhớ về những “mảnh đất chiến trường xưa” của một thời binh lửa, vẫn ngậm ngùi một nỗi tiếc thương những đồng đội đi mãi không về.
Tôi nhớ, ngày đầu đặt chân lên miền đất tự do của người Việt tỵ nạn này, tôi đã xúc động như thế nào khi được trông thấy lại lá cờ ấy. Nỗi xúc động vỡ ra thành những giọt nước mắt. Những giọt nước mắt trộn lẫn những mừng vui và tiếc hận.
Tôi mừng vui vì sau bao nhiêu năm tôi được gặp lại lá cờ ấy như gặp lại khuôn mặt người thân yêu tưởng sẽ không bao giờ còn được trông thấy nhau lần nữa. Tôi mừng vui vì sau bao nhiêu năm tôi được gặp lại tôi, gặp lại cậu học trò nhỏ của mấy mươi năm về trước, gặp lại tình yêu của tôi với lá cờ và trái tim bừng bừng cảm xúc. Tôi mừng vui vì những kỷ niệm cũ không chết đi mà vẫn còn tươi rói, như mới ngày hôm qua đây thôi. Bao nhiêu thứ ùa về cùng một lúc trong khoảnh khắc hạnh phúc ấy.
Tôi tiếc hận vì những người thân yêu của tôi, những anh em tôi, những bạn bè tôi đã không còn nữa để mọi trái tim cùng hòa chung nhịp đập, hòa chung niềm vui lớn của hàng triệu người Việt yêu tự do trên quê hương thứ hai này. Tôi tiếc hận vì đứa em tôi đã không còn nữa để thấy giấc mơ của em vẫn chưa bị dập tắt, để thấy màu cờ của em vẫn còn tươi thắm, và để anh em tôi được sánh bước bên nhau trên những đường phố lớn rợp bóng cờ bay. Lá cờ hôm nay được các em các cháu, được thế hệ tiếp nối giương cao trong những lễ diễn hành đông vui của cộng đồng người Việt. Lá cờ phơi phới như mang theo niềm tin yêu mới. Lá cờ phần phật reo vui trong gió như những bước chân rộn ràng tiếp bước cha anh đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người đã nằm xuống cho một vận hội mới về trên quê hương.
Tôi hiểu được vì sao đôi lúc tôi gặp những con mắt đỏ hoe trong những lễ chào quốc kỳ. Câu chuyện của họ chắc không giống như câu chuyện của tôi nhưng cùng chung một nỗi xúc động trào ra thành những giọt nước mắt. Tôi cũng hiểu được vì sao tôi vẫn gặp những người cựu chiến binh ấy trong những lễ chào quốc kỳ. Tình yêu của họ dành cho lá cờ ấy vẫn còn nguyên vẹn, vẫn không hề nhạt phai.
Hơn bao giờ hết, tôi nhận rõ một điều, những người cựu chiến binh ấy, những người lính già ấy “không bao giờ chết, họ chỉ nhạt mờ đi thôi”. Những người lính dũng cảm của một quân lực dũng cảm vẫn đang sống và còn sống mãi trong tâm tưởng người đời, như ngọn lửa vĩnh cửu vẫn lung linh tỏa sáng trên những đài tưởng niệm chiến sĩ anh hùng, như ngọn cờ màu vàng tươi vẫn còn bay ngờm ngợp trong nắng trong gió giữa bầu trời mênh mông tự do.
Ngước mắt trông theo lá cờ ấy, tôi vẫn còn trông thấy “muôn bóng quân Nam chập chùng”, vẫn còn trông thấy “thấp thoáng trong mây” những anh hùng tử sĩ, những chiến sĩ vô danh, những người lính “nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây”.(3)
Ngước mắt trông theo lá cờ ấy, tôi vẫn còn trông thấy những hy sinh thầm lặng, vẫn còn trông thấy tình yêu của biết bao người, những người tôi thương tôi yêu và tôi ngưỡng phục. Những người đã dám sống và dám chết cho màu cờ ấy. Những người đã nằm xuống để giữ cho tình yêu ấy còn nguyên vẹn màu cờ.
Tình yêu ấy không mất đi, như lá cờ ấy không mất đi. Tình yêu ấy còn sống mãi, như lá cờ ấy còn sống mãi, còn bay bay mãi trong nắng sớm, trong gió chiều.
Ôi, những đoàn quân ra đi. Ôi, bao chiến sĩ hiên ngang đã “hiến thân dưới cờ”.
Ôi, lá cờ tôi nhìn thấy hôm nay mang theo tình yêu của biết bao người. Những người đang sống và những người đã chết cho màu cờ ấy còn tươi mãi, cho tình yêu ấy còn thắm mãi.
Lê Hữu
(1) “Lục quân Việt Nam”, nhạc Văn Giảng & Hương Việt
(2) “Tây tiến”, thơ Quang Dũng
(3) “Chinh phụ ngâm khúc”, Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị Ðiểm
Nguồn ảnh: Internet
.
No comments:
Post a Comment