Tặng quí vị cựu SVSQ Thủ Đức
Sau trận Mậu Thân 1968, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành một sắc luật Quân Sự áp dụng vào học đường, trong đó Sinh Viên các trường Đại Học Sài Gòn phải tham dự một khóa huấn luyện quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung trong vòng một tháng.
Năm 1970, tôi và các anh em phân khoa Đại Học khác theo chân những khóa trước bắt đầu làm quen với súng ống và ngữi mùi quần áo nhà binh. Ngay từ ngày đầu bước chân vào quân trường tôi có cảm tưởng như bị thảy vào một thế giới không có... tình thương. Những hàng cây bã đậu xù xì, gai góc mọc dọc hai bên đường càng tăng thêm vẻ khô khan, lạnh lùng, thiếu sinh khí. Cũng may, mỗi chiều thứ sáu chúng tôi được về phép rong chơi cho tới xế chiều chủ nhật mới lọt tọt bưng đầu vô.
Trong khóa học này, đặc biệt có hai nhạc sĩ nổi tiếng qua những bài ca đấu tranh thịnh hành trong giới sinh viên học sinh thời đó, là nhạc sĩ Trương Quốc Khánh (bài Tự Nguyện) và nhạc sĩ Trần Long Ẩn (Không Ai Ngăn Nổi Lời Ca). Nhạc sĩ đi tới đâu, cây đàn đi tới đó. Nhạc sĩ với cây đàn mà! Thực vậy, sau tuần lễ đầu tiên về phép trở vô là khu trại Sinh Viên đã nghe tưng tửng âm thanh quen thuộc, giản dị, thân thiết của cây đàn guitar rồi. Từ đó, sau những buổi cơm chiều, trời vừa chạng vạng tối, Sinh Viên có máu văn nghệ thường rũ nhau xuống Hội trường Ban Quân nhạc tụ tập đờn ca xướng hát cho nhau nghe. Tôi còn nhớ một hôm tại nhà ngủ tập thể, có một anh cùng phòng, dáng người tầm thước, hơi mập, tự xưng là Hoàng Quốc Bảo đưa tôi coi một tập nhạc nói là của ông anh Hoàng Khai Nhan sáng tác. Cầm tập nhạc vuông vức trong tay, tôi chậm rải lật từng trang mà thầm công nhận sự nắn nót công phu của người đã tạo ra nó. Đáng tiếc đã hơn 30 năm qua tôi không còn nhớ tập nhạc tên gì. Hoàng Quốc Bảo lúc đó chưa có tác phẩm, nhưng Hoàng Khai Nhan thì tôi có thoáng nghe danh về thơ. Sau này ra hải ngoại tôi mới có dịp thưởng thức những bản nhạc thoát tục trong tuyển tập Tịnh Tâm Khúc của Hoàng Quốc Bảo. Nói về Thiền Ca, tôi cho rằng không ai có thể vượt qua sức sáng tạo phong phú, chứa chan mùi Thiền như nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo. Ngoài ra, phần hòa âm theo phương thức tân cổ điển vô cùng xuất sắc cũng góp phần tạo cho hồn nhạc thấm sâu vào lòng người và đọng lại rất lâu.
Cũng nhờ cái vụ hát hò này mà một buổi sáng trước ngày mãn khoá, thay vì vác súng ra bãi như thường lệ, thì nhóm Sinh viên Văn nghệ chúng tôi lại chỉnh tề trong bộ quần áo kaki màu vàng, đội mũ kalo cùng màu hăng hái vác đàn về Sài Gòn... đi Show, trình diễn văn nghệ tại đài Truyền Hình Việt Nam.
Cuối cùng, một tháng quân trường rồi cũng qua mau. Sau lễ mãn khóa, tất cả những Khóa Sinh (kể cả những thành phần lè phè, bất mãn) đều cầm trong tay mảnh bằng tốt nghiệp khoá Quân Sự Học Đường 1970 trở về trường tiếp tục dùi mài kinh sử.
Học hết một năm Đại Học Khoa Học Sài Gòn, ngành SPCN (Scient, Physic, Chemistry, Natural), qua năm thứ hai tự nhiên tôi đâm ra... ngu ngu. Cũng vì cái “ngu ngu” này mà từ trên Đại Học tôi rớt xuống, thành lính biên thùy trấn núi sông.
Tháng Tư năm 1971 nhờ mảnh bằng Quân Sự Học Đường, khi nhập ngũ tôi cứ việc đi thẳng vào trường Bộ Binh Thủ Đức mà không cần phải trải qua 3 tháng huấn luyện căn bản quân sự tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung như nhiều Tân Khoá Sinh khác. Tuy nhiên, trước đó tôi phải vào Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ tại Quang Trung làm thủ tục hồ sơ nhập ngũ, khám sức khỏe, lãnh quân trang, quân dụng xong mới vào Thủ Đức.
Ngay từ khi bước chân vào trường Bộ Binh Thủ Đức, Tân Khoá Sinh chúng tôi đã được các huynh trưởng đón tiếp một cách hết sức tận tình. Để khởi sự làm quen với đời lính, bài học quân sự đầu tiên của bọn đàn em chúng tôi là theo lệnh huynh trưởng chạy ba vòng Vũ đình trường gọi là “dàn chào Tân Khóa Sinh”:
Mới vòng đầu Vũ đình trường
Mà bao nhiêu đứa chán chường hẳn ra
Thằng thì mày váng, mắt hoa
Thằng thì như bóng ma gà, hết linh
Thực vậy, mới chạy vòng đầu đã có vài ba tên té xỉu. Chạy hết vòng thứ ba, một trăm chỉ còn vài chục, tuy còn đứng vững nhưng tưởng thở hết ra hơi. Đã vậy đám huynh trường nào tha! Những tiếng quát tháo, nạt nộ, hò hét, chạy lùa đầu này, xua đầu kia, xẹt đầu nọ như cố tình cướp tinh thần bọn đàn em ngơ ngác chúng tôi khiến cho bao nhiêu mộng lớn, mộng nhỏ mới cách đây vài tiếng đồng hồ vẫn còn xanh mướt, đã tan tành theo mây khói.
Cán bộ mặt mũi lầm lì
Còn đám huynh trưởng thôi thì hung hăng
Quát tháo vào mặt từng thằng
Chưa chi mộng lớn nó giằng mất tiêu
Chuyện đời ma cũ hiếp ma mới là việc thường tình. Huynh trưởng có bổn phận phải hướng dẫn đàn em đến nơi đến chốn; đàn em có lỗi bị phạt hít đất, thụt dầu, nhảy xổm hay phạt dã chiến... cũng là lệnh cán bộ đưa xuống cho huynh trưởng thi hành mà thôi. Luật quân trường mà! Ở lâu dần dà mới thấy:
Thật ra huynh trưởng hiền khô
Còn cán bộ, toàn những... đồ mắt ma
Để coi, trẻ cũng như già
Ngày đầu đụng mặt, ngó qua ghét liền
Nói ghét Cán Bộ là nói cho nó có vẻ “thơ” một chút, chớ sau khi mãn khóa ra trường tôi mới thực sự kính trọng quý vị Sĩ Quan Cán Bộ (nói chung) và Đại Đội 21 (nói riêng) đã nỗ lực hướng dẫn và huấn luyện SVSQ chúng tôi trở thành những Sĩ Quan xuất sắc (và không xuất sắc, như tôi) trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Sau khi phân chia quân số, tôi thuộc Tiểu Đoàn 1, Đại Đội 21, Trung Đội 1, Tiểu Đội 1 (toàn là số 1). Tiểu Đoàn 1 do thiếu tá Nguyễn Như Sơn làm Tiểu Đoàn Trưởng. Nay không biết rõ tình cảnh ra sao? . Đại Đội 21 đặt dưới quyền chỉ huy của Sĩ Quan Cán Bộ Đại đội trưởng Trung úy Huỳnh Trung Hiếu (hiện ở Houston, Texas) và hai Sĩ Quan Trung đội trưởng là Trung úy Nguyễn Hữu Thọ (sau 75 bị VC liệng lựu đạn chết trong tù cải tạo) và Thiếu úy Nguyễn Văn Bé (hiện còn ở VN); còn hai SQCB nữa, đáng tiếc, tôi không nhớ tên.
Ngày đầu tiên ở Đại Đội là ngày xuống tóc. Những chiếc tông-đơ tàn nhẫn dọc ngang rào rạt trên đầu không thương tiếc. Những ước mơ xanh ngát, những hoài vọng ngất trơì bám trên những sợi tóc xanh giật mình rụng lả tả xuống nền xi-măng, nằm ngơ ngác, lạc lỏng trên mặt đất, hoặc vương vải tội tình trên tấm khăn trắng choàng quanh cổ. Rồi những khoa bản, trí thức cho tới những anh sinh viên, học sinh đều đi tắm truồng ở nhà tắm tập thể cuối doanh trại. Rồi được chích thuốc chống nắng mưa cảm mạo đất trời. Rồi những bộ đồ lính màu cứt ngựa rộng thùng thình tương vào người, chiếc nón nhựa đội lên đầu để thực sự trở thành anh lính mới tò te.
Để phân biệt các khoá học đàn anh với đàn em, Khóa Sinh phải đeo bản tên của mình trên túi áo. Như khóa 24 mang bản tên nền đen chữ vàng, khóa 7/68 mang nền trắng chữ đỏ, khóa Sĩ Quan Đặc Biệt 6/69 mang nền đen chữ đỏ; còn khóa tôi, 1/71 thì nền xanh dương chữ trắng v.v...
Mang tâm trạng thư sinh đang tự do phơi phới ngoài đời mà đặt chân vào quân trường thì bất cứ hình ảnh nào trước mắt, ngó qua cũng thấy lạ, thấy khó chịu, thấy nhớ nhà, thấy rầu muốn chết.
Trại lính, tuyến, giao thông hào
Nhà thương, bệnh xá, hàng rào, băng ca
Vũng nước, lùm cỏ, bụi hoa
Những ngày đầu mới ngó qua, sầu liền
Cái gì chớ sức khỏe con người, nhất là Tân Khóa Sinh chúng tôi, thể dục thể thao là công việc hàng đầu khi trời vừa rạng. Có câu lâu ngày chuyện gì rồi cũng quen, vậy mà những buổi sớm đầu tiên ở quân trường nghe cán bộ thổi còi tu-huýt dựng dậy ra sân tập thể dục quả là... khủng khiếp. Trời Sài Gòn hay Thủ Đức, ngày đêm gì lúc nào cũng nóng chảy mỡ. Nhưng đó là chuyện dưới mái nhà. Thử ngủ một đêm trên cây, hay trong thùng xe nước mía, hay dưới gầm cầu Chữ Y, hay nhà ga xe lửa vân vân, như người viết đã từng, mới thấy cái lạnh nửa đêm về sáng của trời Sài Gòn năm 1979 nó buốt tận xương lạnh tận tủy ra sao.
Sáng sớm trời lạnh cắt da
Nghe còi dựng dậy ùa ra xếp hàng
Tập chạy, nhảy, tập bò càng
Không nở bề dọc cũng nở ngang thân hình
Đó là chuyện tinh sương. Ban đêm, trước khi đi ngủ Cán bộ thông báo là sẽ có một cuộc thực tập báo động giả để mọi người chuẩn bị tinh thần. Biết trước vậy mà đến hồi nghe còi báo động rúc lên hù hụ vào lúc nửa đêm tôi cứ tưởng như ai đang hớp hồn mình, phát sợ ngang.
Vừa nhào xuống giao thông hào
Một thằng chết tiệt nhảy ào trên lưng
Lãnh nguyên hai cái gót chân
Nghe một tiếng “hự” tưởng chừng hộc cơm
Trường Bộ Binh Thủ Đức có bốn tuyến A, B, C, D, suốt khóa học chúng tôi đã gác đủ cả bốn. Tuyến A ở mặt tiền, cổng chính. Tuyến B giáp với nghĩa địa và nhà dân xa xa. Tuyến C thuộc khu Thiếp Giáp. Tuyến D hướng ra bãi tập. Gác bất cứ tuyến nào vào lúc nửa đêm thanh vắng chung quanh không một bóng người, ngoài những ngôi mộ đá ong hoang phế và đám lau già tóc trắng quặt quại trong gió, dưới trăng, hay trong cơn mưa tôi đều nhớ tới hai câu thơ về non Kỳ và bến Phì trong Chinh Phụ Ngâm:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Rồi tôi cảm nhận hết nỗi cô độc tận cùng giữa đất trời tịch lặng, mênh mông.
Đêm hôm ra gác tuyến A
Nghe trong khuya khoắc tiếng gà vẳng đưa
Mưa rơi rắc hạt lưa thưa
Đời mình nước dột nên chưa hết buồn
Trong 6 tuần huấn nhục, Tân Khóa Sinh phải học đi, đứng, nghiêm, nghỉ, dặm chân tại chỗ, học chào tay, học hát... Học quay trái, quay phải làm sao cho đúng 90 độ. Học đằng sau quay 180 độ sao cho khỏi xiểng niểng, đằng trước bước phải bắt đầu bằng chân trái, tay đánh nhịp cho cao. Rồi còn phải tập đánh giày thật bóng, xếp drap, xếp mền thật kỹ, tủ quần áo thật ngăn nắp vân vân. Trong thời gian này, nhiều huynh trưởng có đầu óc khôi hài thường bày ra kiểu phạt rất độc đáo, như phạt đàn em chạy đi xin chữ ký của 300 người trong vòng 15 phút. Có chạy xì khói, chạy bỡ hơi tai, chạy phờ...râu cũng chẳng ma nào thỏa mãn nỗi cơn ác ý của bậc đàn anh chỉ vì lỡ bước trật nhịp như tôi.
Nó la đằng trước bước đều
Mình bước trật nhịp, nó khều mình ra
Khít hàm, rít giọng thiết tha:
“Chạy xin chữ ký của ba trăm người...”
Cũng trong 6 tuần huấn nhục, trừ khi đi bãi, Tân Khoá Sinh ngày hai buổi chỉ được phép ăn cơm nhà bàn chớ không được ăn tiệm như các vị huynh trưởng. Vô nhà bàn phải giữ im lặng, chờ huynh trưởng hô to nghiêm thì rán ưởng ngực lên mà đứng im. Khi nghe hô ngồi phải đáp thật to xuống. Nghe mời đàn em ăn cơm phải đáp lớn mời huynh trưởng ăn cơm, xong các thủ tục nhà binh mới được ăn. Khẩu phần ăn quanh đi quẩn lại cũng mấy món canh, đồ xào, cá hoặc thịt hộp. Hôm nào nhát thấy trong tô canh có một chú sâu đo xanh lè, hay chú trùng mềm oặt thì cứ coi như hôm đó ta có thêm... chất đạm. Đã là con nhà binh khi ăn phải ăn cho lẹ, lua cho nhanh. Lờ quờ, chậm chạp chỉ có nước đói.
Gắp thật lẹ, lùa thật mau
Ăn không kịp nghỉ, nuốt không cần chờ
Thằng nào lẹ, thằng đó nhờ
Thằng nào chậm chạp đói mờ người ra
Lại cũng trong thời kỳ này, Tân Khóa Sinh không được phép đi, mà phải cầm súng xeo xéo trước ngực vừa chạy vừa hát. Quân trường đổ mồ hôi. Chiến trường bớt đổ máu... Mỗi lần hai Đại đội đi ngược chiều, nhất là sau giờ cơm ra đụng mặt nhau là cứ y như gà tức nhau tiếng gáy, cả hai đội đều gân cổ hát với tinh thần ganh đua cao độ.
Đại Đội bạn đi ngược chiều
Chúng gân cổ hát thiếu điều bức gân
Phe mình thấy vậy nỗi sân
Quyết chẳng kém, cũng rướn gân cổ gào
Tôi còn nhớ hồi mới lóp ngóp vô quân trường, dù không soi gương cũng biết mặt mũi mình lúc nào cũng cứ như anh nhà quê. Hồi đó ngốc nghếch đến độ khi chẻ củi, thay vì dùng búa (làm gì có búa) thì tôi lại dùng... báng súng Garant M1, lấy sức giơ cao nện xuống sóng dao mà chẻ ngon lành. Vô phúc, tôi và thằng bạn chẻ củi bị huynh trưởng bắt gặp tại trận bèn đi một đường giáo dục tận lực rồi ghi tên tối đến phạt dã chiến.
Đúng 8 giờ tối, hai thằng tôi, thêm ba tên không biết bị tội gì, ba lô súng đạn đầy đủ ra tập họp trước sân đại đội chờ lệnh huynh trưởng. Sau khi điểm mặt xong, thay mặt cán bộ, hai tên huynh trưởng bắt đầu quần chúng tôi trong vòng một tiếng đồng hồ tả tơi không còn manh giáp. Trước hết là giơ súng lên khỏi đầu, vừa chạy ba vòng sân trại vừa la tôi-không-giống- ai, rồi tới hít đất, nhảy xổm, thụt dầu, cuối cùng là bò lê bò lết, bò ngửa bò càng, bò cho đúng cách từ đầu tới cuối sân trại rồi bò ngược lại. Vừa dứt màn phạt dã chiến để đời cũng vừa đủ để hai cùi chõ và hai đầu gối chúng tôi rướm máu hồng.
Ba lô, súng, đạn kềnh càng
Hết nhảy xổm lại bò càng giữa sân
Mình mẩy mình đau như dần
Mà đám huynh trưởng cứ quần ngất ngư
Hằng ngày, sau khi ăn sáng bằng bánh mì và chuối xứ, chúng tôi có hai địa điểm để đi học. Hoặc học tại Đại Giảng Đường (nhà tiền chế) hoặc tại bãi. Mỗi lần Đại đội đi học bãi thì có một Tiểu Đội Súng Nặng lên phiên nai lưng ra mà vác súng, đạn Đại liên 30, Chân ba càng, Súng chống tăng M72, Súng phóng lựu M79, Cối 81 ly gồm nồng súng, đạn cối và bàn tiếp hậu. Những thằng to xác còn kêu ca huống hồ mấy thằng ốm yếu, nhỏ con, vác vũ khí mà mặt nhăn như khỉ ăn ớt.
Thằng thì vác chân ba càng
Thằng vác đạn, thằng vác nồng trẹo vai
Một thằng nỗi cộc sủa dai:
“Mẹ. Đường ra bãi sáng nay dài quá cha !”
Đường ra bãi phải đi qua cổng số 9 ở tuyến D. Cách tuyến này khoảng 2 cây số là đồn Bến Nọc dựng sát bên cầu Bến Nọc. Cầu bằng gỗ không quá 10 thước bắt ngang qua con suối, tuy giản dị nhưng rất nổi tiếng vì có lần ban đêm Việt Cộng mò về gài mìn gây thương vong cho một số SVSQ khóa 25 của nhà thơ Thành Tôn và nhạc sĩ Vũ Thành An tại cầu này.
Cầu, xưa Việt Cộng gài mìn
Làm bao nhiêu mạng bỏ mình tại đây
Giờ nghe như gỗ than vay
Khóc hồn ai chảy máu day vết cầu
Cũng tại cầu này không biết từ hồi nào, tại sao lại xuất phát ra câu châm biếm “dân chơi cầu Bến Nọc”. Ý ám chỉ thứ dân chơi cù lần, keo kiệt, nhà quê..., như một cựu Sĩ quan Cán bộ trường BB Thủ Đức cho tôi biết.
Ngày học bãi đầu tiên, chúng tôi được trường cho xe GMC chở lên đồi Bác Sĩ Tín, lúc về thì đi bộ, sau đó là lết cho tới mãn khoá. Mà bãi học có gần gì cho cam, cách quân trường từ 5 tới 10 cây số đường chim bay hoặc hơn, như bãi Xa Lộ 5 Km, bãi Nhà Xập 7 Km, bãi Vườn Thơm ... Bài học đầu tiên ở bãi lội về mới thấy đường ơi sao mà dài vô tận !
Chiều về mới thấy đường dài
Thằng nào thắng nấy mệt nhoài người ra
Uớc gì có ly đá trà
Mình ực, mình xối, mình xoa mát người
Đã vậy chân lại chưa quen mang giày bố. Mới có chuyện.
Bãi xa lội bộ tơi bời
Cái chân mình muốn bức rời hẳn ra
Đôi giày cọ sức miếng da
Thành mọng nước đau thấy bà tổ luôn !
Đi bãi còn một cái đáng gờm nữa là nắng. Cái thứ nắng trưa hừng hực, nắng lăn quăn, nắng xiên khoai, nắng đổ mồ hôi, nắng sôi nước mắt. Làm gì có cây cao bóng mát mà núp – dẫu có cũng chẳng được phép – toàn là đất, cát, cỏ khô và bụi cây bùi nhùi. Có bữa chúng tôi ra bãi bắn học xử dụng súng nặng như Đại Liên M30, M72, súng Cối 80 ly, Đại Bác 105 ly không giựt và ném lựu đạn M26.
Những loại vũ khí hạng nặng ác ôn này hình như thứ nào tôi cũng xử dụng một cách rất ư là... bết bát. Thấy thằng bạn đứng thế thủ, kê khẩu M72 lên vai nhắm bắn xe tăng, biết là nó trúng rùa nhưng tôi vẫn bái phục, móc gói Bastos xanh chia cho nó một điếu.
Trưa hừng hực nắng lăn quăn
Ra bãi tập bắn xe tăng lật lìa
Bắn khu tử giác, bắn bia
Mà cứ tưởng bắn từng tia nắng thù
Rồi chín tuần huấn nhục (đáng lẽ là sáu) cũng chấp chới trôi qua. Có trải qua thời kỳ cam go này mới thắm thía hai chữ “huấn nhục”. Tôi nghe kể trước kia có một Tân Khóa Sinh bị một tên huynh trưởng “có máu lạnh” huấn nhục ( giáo huấn và lăng nhục) trong nhà cầu căng thẳng tới mức đứng tim, nghẹt thở mà chết. Từ đó, những loại “dạy dỗ” quá đáng, thiếu tính người đều bị hũy bỏ.
Chín tuần qua một cái vù
Thằng nào thằng nấy như tù được tha
Thằng thì ngồi thở hắt ra
Thằng thì sướng tít như là gặp tiên
Sau đó, Tân Khóa Sinh được làm lễ gắn Alpha tại Vũ đình trường, hãnh diện trở thành Sinh Viên Sĩ Quan trường Bộ Binh Trừ Bị Thủ Đức.
Hôm nay lễ gắn Alpha
Diện đồ tiểu lễ mình ra xếp hàng
Vũ đình trường nắng chang chang
Mà sao mình vẫn thấy man mác trời
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Lúc này, SVSQ không phải bồng súng chạy nữa, mà đi đứng thong thả hơn, oai phong lẫm liệt hơn và có quyền tới phiên đi... bắt nạt đàn em. Huynh trưởng mà em! Thi hành trước khiếu nại sau. Còn cơm nhà bàn nhiều anh chê, ra ăn cơm ngoài ở khu Gia Binh, khu Sinh Hoạt, hoặc khu Thiết Giáp, tuy tốn tiền nhưng ngon hơn, lại có nhạc để nghe và có các em để... nhìn lén cho đã thèm.
Giờ thì chê cơm nhà bàn
Ăn cơm ghi sổ có màn khá hơn
Lại được nghe nhạc xình xang
Nhất là được hỏi: “Dạ, chàng dùng chi?”
Thực vậy, lính tráng học tập lâu ngày được phép xuống khu gia binh chơi vừa thấy nhà cửa, quán xá đèn đuốc tùm lum, nhất là nhát thấy bóng hồng ai mà không nôn nao, háo hức.
Có xuống chơi khu gia binh
Mới thấy quán xá rất tình, rất thơ
Đèn đóm dìu dịu, mờ mờ
Còn mấy con nhỏ đẹp mơ đẹp màng
Bất cứ khóa huấn luyện quân sự nào hầu như cũng đều có các bạn ngoài Trung vào học. Những vị này thường tụ thành một nhóm chơi chung với nhau. Trong phòng tôi có hai anh Quảng Nam hiền lành, nẫu nẹc, sau lễ gắn Alpha về xù xì tâm sự với nhau. Tôi nằm nhắm mắt làm bộ ngủ, nhưng tò mò lóng tai nghe mà cười thầm trong bụng. Đại khái như (xin ghi bằng thơ) :
Ra trường mầy đi lính chi?
Nhất định là lính Rằn Ri. Còn mầy?
Tao thì Quân Cảnh, tối ngày
Tìm ba thằng lính như mầy, nhốt chơi
Ngoài ra, Đại Đội 21 còn có những vị khoa bản, trí thức mà tôi mạn phép liệt kê dưới đây:
1- Anh Nguyễn Quốc Trụ, Cao học Bang Giao Quốc Tế, Giảng viên Đại Học Hòa Hảo, sau cùng là Giảng viên trường Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Anh gốc Bắc chung Trung đội với tôi. Sau 75, trong tù cải tạo Trảng Lớn anh Trụ đã cải lý với Chính Trị Viên Việt Cộng rồi Chính Ủy VC khiến chúng nó cứng họng đâm ra thù ghét anh. Kết quả anh Trụ bị nhốt conex lâu ngày. Cuối cùng chúng đưa anh ra tòa, bị buộc tội phản động, chống chế độ và bị xử bắn.
2- Anh Võ Duy Thưởng, cựu lãnh tụ Sinh Viên Luật Khoa, sau là nhân viên Trung Ương Tình Báo, chức vụ sau cùng là Thứ Trưởng Bộ Tư Pháp QLVNCH. Hiện sống ở California.
3- Anh Đoàn Kỉnh, sinh viên Đại Học Khoa Học Sài Gòn, lãnh tụ Sinh Viên tranh đấu rất nổi tiếng. Hiện ở đâu bên Arkansas. Tôi còn nhớ năm 1969, sau nhiều lần Sinh viên Học sinh phối hợp xuống đường tập thể, một buổi trưa, Đoàn Kỉnh, Phạm Quang Phước, Trần Văn Quí, Trần Nhật Nam và tôi âm thầm đèo nhau trên 3 chiếc Honda tới Quốc Hội biểu tình. Sau khi quan sát tình hình, bất thần Đoàn Kỉnh và Phạm Quang Phước xô ngã hàng rào sắt, chạy ùa vô tới trước cửa Quốc Hội ngồi xuống, giăng biểu ngữ. Sáng ngày hôm sau báo chí hùa nhau đăng tải tin tức giựt gân bằng những tít lớn như : Lãnh Tụ Sinh Viên Đoàn Kỉnh đơn thương độc mã xông vào Quốc Hội hoặc Lãnh Tụ Sinh Viên Đoàn Kỉnh bị đánh ngất xĩu trước Quốc Hội, chở đi mất tích... Năm 1980 tại trại tỵ nạn Leam Sing, Thái Lan tôi có đọc một bài báo phỏng vấn cựu sinh viên Đoàn Kỉnh về vai trò lãnh tụ sinh viên của anh trong quá khứ đã được anh bày tỏ sự hối tiếc muộn màng.
4- Đoàn Đình Đông Hải, một cái tên nghe mênh mông như... đường vào biển Triết. Tên như người, rất lập dị. Cũng vì hay lừng khừng, lãng đãng hướng vào nội tâm mà Hải thường hay bị phạt và nằm phòng kỷ luật đều chi.
Sau này, một vị cựu Sĩ quan Cán bộ Đại đội 21 nhắc tôi mới nhớ thêm Trương Nhị Đông (Quân Cụ), hiện ở VN. Phùng Ngọc Thịnh (Quân Cảnh), hiện ở Đà Lạt hoạt động trong ngành Du Lịch. Lê Phát Được (Pháo Binh) đi diện H.O qua Mỹ năm 1995 v.v...
Một hôm, Đại đội chúng tôi ba lô, súng đạn nhận lệnh đi gác tuyến D nguyên ngày. Sau buổi cơm trưa (do toán ẩm thực mang ra tuyến), tôi vừa leo lên chòi gác thì con buồn ngủ quái ác từ đâu ào ào ập tới. Mặc dù rán banh mắt ra mà nhìn về phía trước, hoặc lắc đầu nguầy nguyậy cho tỉnh táo hay móc thuốc lá ra hút liền tù tì mấy điếu, cuối cùng gió vẫn đưa con buồn ngủ nó lên chòi. Thế là, thay vì ôm súng gác như trách nhiệm của một người lính ngoài giới tuyến thì tôi rũ xuống như tàu lá làm luôn một giấc ngon lành, chẳng còn biết trời trăng mây nước là cái chi chi. Lúc tỉnh dậy mới hay mình... mất súng! Mất gì chớ mất súng quả là chuyện tầy đình. Có đường ra Tòa Án Quân Sự như chơi. Thì ra ông Cán bộ Trung đội trưởng đi kiểm soát tuyến bắt gặp tôi đang say giấc nồng bèn đi một đường tịch thu vũ khí. Chiều về tôi bị Cán bộ dũa te tua trước ba quân đứng im phăng phắc như trời trồng. Sau đó tôi khăn gói quả mướp vào phòng kỷ luật 301 hai ngày nằm chơi xơi nước. Tại đây, tôi lại hân hạnh tái ngộ với “giáo chủ Vô Vi” Đoàn Đình Đông Hải. SVSQ trong suốt khóa học không ai mà không nghe danh F301. Căn phòng vuông vức khoảng 9, 10 thước, u ám và khai nồng. Có nằm phòng kỹ luật nhìn gió bay ngoài trời, mây bay trên cao mới thắm thía thân phận tù đày của một anh lính trẻ bê bối như tôi.
Nằm ba-lẻ-một cũng... vui
Cái hồn mình chợt tối thui như rừng
Nói tới F301 mà không nói tới Bệnh Xá là một thiếu xót. Nhưng cũng vì cúm nó hành phải nằm Bệnh Xá mà tôi hụt mất một ngày đi bãi học Vượt Sông. Buổi tối, cơn nóng lạnh ùn ùn kéo tới, tôi mê mang thấy mình lăn qua hóa thành đá, lộn lại hóa thành núi, cuối cùng con bệnh hóa thành... một bài thơ.
Gần chẳng rõ, nhìn xa xa
Thấy mình hoa đá lăn qua mơ hồ
Thấy kỳ cục, đâm nghi ngờ
Rồi như núi đứng ngu ngơ mình buồn
Sau lễ gắn Alpha, cuối tuần SVSQ được cho về phép lần thứ nhất. Diện bộ đồ tiểu lễ kaki màu vàng nhạt, vai đeo dây biểu chương màu vàng, đầu đội cascette, dây nịt sáng chói, giầy botte de saut bóng lưỡng, tay cầm tờ giấy phép hiên ngang bước ra khỏi cổng số 1 về Sài Gòn đi phép.
Những ngày cuối tuần sau đó, trừ đại đội tới phiên trực ở lại, ba đại đội còn lại phải ra Vũ đình trường thi diễn hành, đội nào bết nhất sẽ bị cúp phép. Một tuần học tập mệt xì khói, chỉ còn lợi dụng hai ngày nghỉ phép về Sài Gòn du hí mà bị cúp thì còn gì là đời trai. Có lần, Đại Đội 21 thi diễn hành bị đánh rớt liên tiếp hai tuần lễ, bị cúp phép, bị Cán Bộ “xì nẹt”, nhiều thằng nổi sùng “len lén tâm tư ”, chữi vung xích chó. Có thằng hẹp lượng giận cá chém thớt đi tìm đàn em lôi ra phạt cho hả giận.
Ba đại đội thi diễn hành
Đội mình bết nhất thì đành loại ra
Bị cúp phép, còn bị la
Nhiều thằng bất mãn kêu ca um sùm
Riêng tôi buồn tình thả ra khu Tiếp Tân, gần phía cổng chính, coi thiên hạ đi thăm nuôi cho đỡ buồn. Ngồi dòm bức tượng trắng toát của anh Sinh Viên Sĩ Quan đứng bắn cung chán rồi ra dựa gốc cây bã đậu hút thuốc nhìn trời đất, nhìn người, nhìn tôi.
Buồn tình ra khu tiếp tân
Dựa gốc bã đậu ngó gần ngó xa
Ngó thì ngó vậy, thật ra
Chẳng ngó gì hết, nên tha hồ buồn
Ngó cái “chẳng ngó” no con mắt rồi lững thững đảo xuống Khu gia binh chơi. Đang buồn thả hồn lãng đãng theo một bóng hồng trong mơ, có gặp huynh trưởng cũng chẳng còn hồn với vía đâu mà chào. Vậy là có cái họng hung dữ gào lên “ Hai mươi cái bơm. Hai mươi cái hít đất. Hai mươi cái nhảy xổm! Thi hành!” Đáp tuân lệnh xong là vừa thi hành vừa đếm thật to tổng cộng một hơi sáu chục cái không thiếu cái nào. Hồi đó sao mà khỏe ơi là khỏe!
Buồn tình xuống khu gia binh
Thả hồn ôm ấp bóng hình nơi nao
Gặp huynh trưởng, quên, không chào
Thôi thì nó thét, nó gào điếc tai
Học binh pháp thì có hằng ngàn mưu thần chước qủy để mà học. Bể học mênh mông, có học cả đời cũng không hết. Như chiến thuật hành quân phối hợp bộ binh và thiết giáp chẳng hạn. Thiết giáp chạy trước bánh xích ầm ầm ngiếng từng tất đất vừa hù vừa rãi đại liên càn quét địch quân, bộ binh chạy lúp xúp phía sau lên tiến chiếm mục tiêu.
Thiết giáp nó chạy trước mình
Địa thế gập ghềnh, mình chạy phía sau
Chạy xì khói, chạy phờ... râu
Ba chân bốn cẳng chạy mau như gì
Đi hành quân tùy tình hình, địa thế mà ngụy trang để địch quân khó bề phát hiện. Lá cây rừng là phương tiện thiên nhiên hữu hiệu nhất . Tha hồ mà be,û mà cắm, mà vắt trên đầu trên lưng là có điểm.
Quơ tay bẻ cụm lá rừng
Mình cắm, mình vắt trên lưng trên đầu
Soi mình xuống vũng nước trâu
Một thằng lạ hoắc nghoẻo đầu nhìn lên
Mệt mà vui, thời giờ trôi qua rất mau là đi địa hình. Từ điểm đứng trên bản đồ hành quân (được bọc cẩn thận trong bao nylon), ta vạch một đường thẳng hướng theo kim địa bàn xuyên qua địa hình, địa vật để đến mục tiêu. Mục tiêu là những cộc gỗ được đánh dấu bằng mẫu tự Alphabet đã bài trí sẵn theo tuyến hàng ngang cách điểm xuất phát non chục cây số đường rừng.
Mới tảng sáng, Đại Đội 21 đã có mặt đầy đủ quân số tại điểm học tập. Tại đây, các Khóa sinh được Huấn luyện viên giảng dạy lý thuyết, học cách đọc bản đồ, chấm tọa độ, sử dụng kim địa bàn, đo phương giác... Sau đó, mỗi tiểu đội dùng địa bàn xác định điểm đứng của mình rồi nhắm hướng mà đi. Đơn giản như vậy mà lúc đi cứ bị lạc hoài. Trên lý thuyết nghe thì dễ, lúc thực hành mới gian nan. Có điều, không có gì sướng cho bằng lính lâu ngày được thả cho tự do bương đồng, lội suối, xuyên qua vườn tược, nhà dân, gần gũi với bờ tre, cây lúa, ụ rơm, thở hít không khí trong lành của miền đồng nội. Cũng nhờ thằng Tiểu đội trưởng hướng dẫn đi địa hình lạng quạng mà tình cờ Tiểu đội 1 chúng tôi lạc vào khu vườn thơm, lưa thưa vài chục mái nhà tranh nằm hiền hòa dưới những tàn cây rậm mát. Hầu hết các SVSQ đi địa hình đều biết tiếng Vườn Thơm. Vì nghe đồn ở đây có một cô gái tên Lan đẹp chim sa cá lặn. Biết là chẳng bao giờ có chuyện bèo mây gặp gỡ, nhưng nghe qua tiếng đồn, lòng ai mà chẳng nao nao.
Cuối cùng, mọi người cũng đi đến đích. Tuy nhiên, thay vì mục tiêu là cộc C như đã chỉ định thì chúng tôi đi lạc xuống tới tận cộc M. Báo hại 12 thằng dỡ hơi phải hộc tốc chạy ngược lên cộc của mình đánh dấu để về báo cáo lấy điểm. Thi địa hình mà! Có một điều an ủi là chẳng riêng gì Tiểu đội cà chớn chúng tôi, mấy Tiểu đội gà mờ bạn cũng đi sai địa hình không kém. Đúng là sai một ly đi một dặm.
Kim địa bàn chỉ hướng Đông
Cái chân lội suối, bương đồng mà đi
Địa hình, địa vật chi li
Cái chân mắc dịch dẫn đi lạc hoài
Nhiều người nói Dây Tử Thần là môn đứng tim nhất, nhưng khi tới phiên tôi thì tôi cảm thấy chẳng có gì làm... tim đứng lại cả. Dây Tử Thần được chế tạo bằng một sợi cáp nối từ đỉnh đồi ngang qua hồ nước xuống tới bờ hồ. Sợi cáp luồn xiên qua tâm ròng rọc có hai móc câu bằng sắt (hoặc khoen) để nắm. Tuần tự từng người khi đu xuống tới mức an toàn thấy tên thủ hiệu phất cờ thì buông tay cho thân mình rớt xuống hồ nước sâu lút ngực. Lóp ngóp lội lên bờ là xong.
Ròng rọc lao xuống ào ào
Tiếng dây cáp rít, gió gào hai bên
Thằng thủ hiệu phất cờ lên
Mình buông tay rớt sát bên bờ hồ!
Tôi không ngán đu dây Tử Thần, nhưng lại ớn đi dây Kinh Dị.
Dây Kinh Dị có ba sợi cáp thiết trí theo hình chữ V hoa giăng ngang qua một cái vực. Đi dây Kinh Dị đừng bao giờ nhìn xuống đất, vì độ cao cộng với sức nhún nhảy, ngã nghiêng của sợi dây dễ làm ta lạng quạng, mất thăng bằng, trật tay té xuống không chết cũng tàn phế.
Dây Kinh Dị ác ôn hơn
Sợ xám mặt, ớn thấu xương sóng mình
Sợi dây nhún nhảy bấp bênh
Dưới sâu Thần Tử ngó lên cười cười
Tuột Núi là môn tôi tỏ ra bết nhất. Mặc dù tôi góc núi, sinh trưởng ở núi, nhưng chẳng leo núi bao giờ. “Núi” (hay Đài Tuột Núi) ngoài bãi là một tấm vách hình khối chữ nhật dựng sừng sững giữa trời. “Núi” cao khoảng 15 tới 20 thước, bề ngang chừng 1.5 thước. Đứng trên đỉnh tứ bề gió lộng, người không quen độ cao thoạt nhìn xuống sẽ chới với, thụt lùi ngay. Nghệ thuật tuột núi đặt trọng tâm vào hai sợi dây và cái móc dây an toàn. Hai sợi dây giống loại dây dù, nhưng đường kính to bằng ngón tay cái, được buột từ đỉnh của Đài Tuột Núi thả dài xuống tới mặt đất; sợi còn lại dùng để quấn quanh thắt lưng và háng rồi luồn vô cái móc chữ O có cửa sổ bên hông chữ O. Khi tuột phải tuột đằng lưng, mặt dây vô vách. Muốn tuột nhanh hay chậm đều tùy vào bàn tay phải hoặc trái bóp hay nhả sợi dây luồn qua cái móc hình chữ O.
Vách núi dựng đứng giữa trời
Sợi dây thừng quấn quanh người lắc lư
Chưa tuột mà đã lừ đừ
Ba hồn chín vía sặc sừ rút lui
Cuối cùng rồi cũng đụng Đoạn Đường Chiến Binh, môn học mà hầu hết SVSQ nào cũng lắc dầu ngao ngán. Đoạn đường này không dài mấy, non chừng một ngàn thước, nhưng đầy những chướng ngại vật mà mọi người đều phải vượt qua. Nào là đu dây, vượt tường, leo lên cầu cao, chạy qua cầy khỉ; nào là băng qua những bãi lầy, đụn cát, nhảy qua gò, bay qua ụ, phóng qua hầm, vượt qua hố, rồi chui dưới địa đạo, bò dưới rừng kẽm gai, trong khi hỏa lực nó khạt rát phía trên đầu, lâu lâu lại nghe mìn nổ bậy bạ đâu đó! Đoạn Đường Chiến Binh hiểm ác một điểm nữa là súng cầm tay, ba lô trên lưng, SVSQ phải chạy từ đầu cho tới cuối chặng đường. Một người khỏe mạnh cách mấy, vượt hết đoạn đường này cũng phải đổ mồ hôi mà thở hắt ra.
Leo, trèo, chạy, nhảy, phóng, bò
Vượt chướng ngại vật có trò lọi xương
Mình đi tám hướng, mười phương
Bây giờ mới gặp đoạn đường chiến binh
Một buổi sáng mùa thu, Tiểu Đoàn chúng tôi được lệnh đi ứng chiến tại Sài Gòn trong vòng một tháng. Ba Đại đội bạn ứng chiến ở đâu tôi không biết, riêng Đại đội 1 chúng tôi cắm trại tại sân Hoa Lư, Đa Kao dưới cơn mưa nắng thất thường. Sân vận động này tọa lạc ngay tại ngã tư Hồng Thập Tự và Đinh Tiên Hoàng, đối diện với đài Truyền Hình Việt Nam mà anh em Sinh Viên Quân Sự Học Đường năm ngoái đã vào Đài trình diễn văn nghệ. Đặc biệt nữa là sân Hoa Lư đâu lưng với quán Tre của Khánh Ly, tối tối lỏng một chút là chúng tôi chui rào qua uống cà phê nghe Khánh Ly hát... từ trong máy.
Ứng chiến non một tháng, Đại Đội chúng tôi được lệnh nhổ trại trở về Thủ Đức. Nhiều SVSQ có nhà ở Sài Gòn, được thân nhân thăm nuôi cung cấp đủ thứ lương thực nhét đầy trong ba lô căng cứng. Riêng cá nhân tôi thuộc “con bà phước”, nên trưa hôm đó tôi đã âm thầm mang theo trọn... một mùa thu, một hồn quán Tre và mưa nắng Sài Gòn trở về lại quân trường Thủ Đức.
Mình đi ứng chiến Sài Gòn
Chừng non một tháng thì mòn đám mưa
Trở về Thủ Đức ban trưa
Mình mang theo hết đám mưa Sài Gòn
Tháng 9 năm 1971, sau buổi điểm tâm bánh mì và chuối xong, Đại đội chúng tôi được lệnh đi gác tuyến B đến chiều mới trở về. Sau buổi cơm chiều, trời vừa sụp tối, Đại đội 21 lại được lệnh trang bị vũ khí, ba lô lần lượt ra tập họp trước sân Đại đội. SVSQ Nghiêm Văn Hiệp, đại diện SVSQ Trung đội trưởng Đại đội 21 hô gióng hàng nghiêm chỉnh trước hàng quân im phăng phắc. Sau khi kiểm điểm quân số, kiểm tra vũ khí, anh Hiệp quay qua Trung úy Huỳnh Trung Hiếu giơ tay chào báo cáo:
- Đại Đội đã tập họp xong! Tổng số 179. Bất khiển dụng 4. Công tác ẩm thực nhà bàn 8. Hiện diện 164. Trình Trung Úy. Đủ!
Sau đó, chúng tôi lặng lẽ hướng về Vũ đình trường. Tại đây ba Đại đội 2, 3, 4 cũng tuần tự đến hợp thành một Tiểu Đoàn để chuẩn bị Đêm Di Hành, một môn học cuối cùng trước khi mãn khóa. Tôi còn nhớ đêm hôm đó giữa Vũ đình trường, hằng trăm hằng ngàn người đều chìm vào trong bóng tối. Những ngọn đèn điện lạnh lẽo trên khán đài hay quanh Vũ đình trường không đủ sáng để soi tới những khuôn mặt xạm nắng quân trường. Không một tiếng thì thầm. Không một tiếng cười, kể cả tiếng ho. Hình như ai cũng trầm mình vào trong suy tư, lo lắng. Rồi đoàn quân bắt đầu rời tuyến xuất phát là Vũ đình trường, hết Đại đội này tới Đại đội khác hướng về cổng 9 ra bãi. Quân đi âm thầm, lặng lẽ như một đoàn quân ma. Quân đi qua những con đường, những ngọn đồi thấp, những rừng cây, những nơi chốn trong suốt gần 9 tháng trời đã đi qua. Buổi tối, trên trời trăng bắt đầu lên. Xa xa về hướng Đồng Ông Cộ, những trái hỏa châu như những chiếc đèn lồng đong đưa trong gió, toả ra những tia sáng lạnh lẽo, vàng vọt, lấp lánh, đứt quảng, rưng rưng như những giọt lệ. Khi chúng tôi từ trên đồi thả lài lài xuống dưới trũng thì găïp một cái hồ nước, đúng lúc những trái sáng xèn xẹt bắn lên cao, soi sáng cả một vùng đêm sâu mù tối.
Ngoài bãi tập có một cái hồ đủ để trâu đầm gọi là hồ Lệ Thủy mà Đại đội 21 vừa đăït chân tới. Đêm di hành gặp trời quang mây tạnh, vừa tới sát bên bờ hồ thì tôi khá giựt mình vì cái đẹp lạnh lùng của bóng trăng vằng vặc dưới đáy nước nhìn ngược lên tôi bằng một ánh mắt cực kỳ lạnh lẽo. Tôi thường mắc cái tật hay giựt mình trước những vẻ đẹp có tính cách mỏng mảnh, đơn phương mà dữ dằn ở thế thủ của thiên nhiên, thú vật, kể cả con người.
Qua hồ Lệ Thủy ban đêm
Con trăng bảnh chọe ngủ trên mặt hồ
Nước hồ trâu đẫm đục lờ
Mình dọng trái sáng làm mờ con trăng
Tôi có hỏi một vị SQCB mới biết nguyên nhân tại sao có tên gọi là hồ Lệ Thủy. Ông nói không biết chắc là hồ này thiên nhiên hay nhân tạo, nhưng có lẽ do việc khai thác đá sạn mà tạo nên. Hồi trào ông Ngô Đình Diệm, lực lượng Thanh Niên Cộng Hòa thường lên trường Võ Khoa Thủ Đức (tên cũ của trường Bộ Binh) lấy các bãi tập để huấn luyện, trong đó có cô Ngô Đình Lệ Thủy (đã quá cố, con của ông bà Ngô Đình Nhu) đã nhiều lần ngâm mình tại hồ đó nên đặt tên là hồ Lệ Thủy.
Ngoài hồ Lệ Thủy, bãi tập còn có đồi Tăng Nhơn Phú. Ngồi trên đồi nhìn xuống dưới xa là xa lộ Biên Hòa, xa hơn nữa xeo xéo bên trái là Nghĩa Trang Quân Đội hàng hàng mộ bia trắng toát. Có lên ngồi đây lúc chiều tà mới thắm thía cái thân phận người lính trong một đất nước chiến tranh.
Chiều rơi mấp mé lưng đồi
Mình còn thở mãi nhịp đời chông chênh
Ngồi đây giữa cõi bấp bênh
Hồn mình ai thả sầu lênh đênh hoài
Cuối cùng vào nửa đêm, tất cả bốn Đại đội của Tiểu đoàn chúng tôi lần lượt trở về tập họp tại Vũ đình trường. Sau khi kiểm điểm lại quân số và vũ khí, những tiếng hô lệnh lạc, tiếng báo cáo lại lanh lãnh vang lên giữa đêm trường. Theo hệ thống quân giai Trung đội báo cáo lên Đại đội. Đại đội báo cáo lên Tiểu đoàn. Tiểu đoàn báo cáo lên Liên đoàn.
Thời gian, không gian và sự mệt mỏi sau một đêm di hành đã đọng lại trong tất cả chúng tôi để thực sự trở thành những người lính, những Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, những lực lượng mai đây sẽ tung ra khắp bốn vùng chiến thuật.
Mình đi từ sáng tới chiều
Từ chiều đến tối muốn xiêu thân rồi
Cái tay cầm súng rã rời
Cái chân đạp trúng bóng đời nhà binh
Thời gian suốt chín tháng trong quân trường lần hồi cũng đi tới cái đêm cuối cùng của nó. Đó là đêm bồng súng gác Trung Nghĩa Đài. Hai người một ca, hai tiếng. Mặc đồ tiểu lễ, mang dây biểu chương, găng tay trắng, đội nón caskette có quai vòng quanh cằm, súng trên tay áp vào ngực vào vai, lưỡi lê chọc thẳng lên trời, chúng tôi như hai xác tượng đứng gác giữa đêm, canh cho những người đã khuất. Dựng Trung Nghĩa Đài là để tưởng niệm linh hồn các khóa đàn anh đã hy sinh vì tổ quốc. Đêm càng sâu trời càng sao sáng, gió càng lạnh. Gió thổi bập bùng những ngọn đuốc cắm chung quanh Trung Nghĩa Đài. Gió thổi xào xạc trên cây. Gió thổi ù ù trên mặt đường. Gió thổi người gục xuống. Gió thổi tôi đi.
Bồng súng gác Trung Nghĩa Đài
Nghe đời mình cũng thở dài đâu đây
Thương lòng đêm gió trắng lay
Khóc hồn tử sĩ tàn bay về nhà
Đêm tịch mịch như vậy mà sáng hôm sau lại rền vang những tiếng hô nghiêm nghỉ đứng lên quì xuống giữa Vũ đình trường của tất cả các khóa sinh khóa 1/71 đang làm lễ mãn khóa ra trường. Ôi, ngày hôm đó quân trường tràn ngập nắng và Vũ đình trường đầy ngập người. Trên khán đài là thân nhân, bạn bè, là người yêu của lính đến tham dự chia vui. Giữa sân Vũ đình trường, chúng tôi oai phong trong bộ đồ đại lễ, vai mang biểu chương, đầu đội caskette, một chân quì xuống nôn nao chờ các huynh trưởng đến gắn cấp bậc : Chuẩn Úy.
Cái lon Chuẩn úy vàng khè
Bu trên cổ áo nặng è cổ ra
Cái lon Chuẩn úy, nhìn qua
Giống hai con cá vàng da vẫy vùng
Cuối cùng, cổng số 1 lại mở ra. Lần này hằng ngàn tân sĩ quan hân hoan bước ra khỏi cổng mà không bao giờ trở lại. Chúng tôi như những con chim ra ràn bay đi khắp bốn vùng chiến thuật, để rồi những năm tháng sau này, có những con chim trở thành hồn tử sĩ, có những con chim thành người thương binh...
Bây giờ tôi đang ngồi đây, ngồi ngoài đất nước để nhớ về một Việt Nam bên kia trái đất, ở đó có một quân trường trước kia gọi là Trường Võ Khoa Thủ Đức, sau đổi tên thành Trường Bộ Binh Trừ Bị Thủ Đức cách Sài Gòn 15 cây số hướng Đông Bắc. Nhớ tới Trường Bộ Binh như nhớ tới một bước ngoặc lớn đời tôi, từ một chàng sinh viên hoài mộng ngất trời tới một anh lính chiến băng mình trong bom đạn quê nhà. Rồi, sau ngày 10 tháng 3 năm 1975 tại Ban Mê Thuột, Thiếu Úy Tấn trở thành tù binh cải tạo, thành tù vượt ngục, sau cùng thành thuyền nhân sống lưu vong nơi đất khách quê người đến nay ngót 21 năm.
Hôm nay tôi đặt bút viết xuống những dòng này để tặng quí vị cựu Sĩ Quan Thủ Đức trong và ngoài nước, cũng như để tưởng nhớ những người lính Thủ Đức (nói riêng) và những chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (nói chung) đã bỏ mình vì lý tưởng tự do, vì đồng bào, vì đất nước, một đất nước đã mất cách đây 26 năm ròng.
Phan Ni Tấn
SOURCE:
https://www.luanhoan.net/GioiThieuTacGia/html/tg%20pnt%2003.htm
.
No comments:
Post a Comment