Friday, July 18, 2014
Gia đình chúng tôi tới Tân Sơn Nhất vào một buổi chiều cuối Tháng Tám năm 1954.
Phi cảng Tân Sơn Nhứt đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay
hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt
hạ cánh, đưa vào 213,635 người (Wikepidia).
Hình bìa ấn bản Tháng Sáu, 1955 của tạp
chí National Geographic, với phóng sự có tên "Passage to Freedom in
Vietnam" của ký giả Gertrude Samuels. (Hình: Người Việt)
Thử tưởng tượng ngần ấy con người với hành lý trút xuống sân bay, sau đó được
phân tán, trú ngụ tạm mấy ngày trong những lều vải, trước khi tìm được nơi chốn
cư trú lâu dài.
Cha mẹ, vợ chồng, con cái chen chúc trong đám đông đó. Thất lạc nhưng rồi cũng
tìm ra nhau.
Hành lý cá nhân mới là một chuyện khó lòng kiểm soát. Có người di tản với gánh
nặng ngàn cân trong lòng nhưng hành trang nhẹ hẫng, chỉ là một cái túi vải trên
vai. Có người đem theo tối đa những gì họ có thể đem được. Trên một khoảng đất
rộng mấy trăm thước vuông: va-li, thùng giấy, thùng gỗ, bao tải, túi vải, đủ
các cỡ lớn, nhỏ, vuông, tròn, dài, ngắn, được tháo đổ xuống. Mọi người tự tìm
hành lý của mình. Tôi và em tôi còn nhỏ, mọi việc đều do mẹ tôi và anh chị lớn
hơn lo.
Mẹ tôi tìm mãi vẫn thấy thiếu bốn cái thùng sữa đựng quần áo của chúng tôi. Ði
tới đi lui cả ngày xem ai có lấy nhầm sẽ đem trả. Ðến tối cả nhà lại kéo nhau
ra bãi thả đồ đạc để tìm mấy cái thùng sữa của nhà mình.
Vẫn chẳng thấy cái nào cả chỉ có mấy cái bao vải bố, loại bao đựng một tạ gạo
nằm chơ vơ còn lại. Mẹ tôi bảo:
- Thử xem trong này có gì mà người ta không lấy, lại lấy cái thùng của mình.
Cả nhà xúm lại, mở ra, bên trong toàn là sách cũ. Cả ba cái bao to tướng chất
đầy sách. Cái bao đầu tiên mẹ tôi lôi ra được cuốn Tam Quốc Chí, mẹ nói:
- Mang về lều đọc, họ lấy quần áo của mình, vứt lại ba cái bao này, không ai
nhận thì mình nhận vậy.
Thế là ba bao sách to bằng ba bao gạo được cả nhà hì hục kéo về lều. Sáng hôm
sau mẹ tôi lên Phòng Ðiều Hành báo cáo về bốn thùng quần áo thất lạc và ba bao
sách kéo về lều. Cho đến khi gia đình chúng tôi xuất trại, bốn thùng quần áo
vẫn ở trong tình trạng mất luôn và ba bao tải sách vẫn vô thừa nhận.
Từ đó ba bao tải sách di tản cùng chúng tôi qua những ngôi nhà ở tạm, ở nhờ, ở
thuê. Từ trung tâm thành phố đến ngoại ô. Ba bao sách đương nhiên được coi như
hành lý cần thiết được mang vác theo. Hữu ích lắm, cả năm sau, người lớn, trẻ
con trong nhà cho đến cả chị giúp việc, cũng thấy được hưởng những cuốn sách
đó. Có cuốn còn rất mới, nhưng có cuốn rất cũ, giấy ố vàng, mỏng mảnh, dễ rách.
Như cha mẹ tôi thì tối tối đọc lại Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Ðông Chu Liệt Quốc,
Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Gia Huấn Ca (Các cụ chắc biết mấy truyện này lâu rồi).
Tôi thì sáng trưa chiều gì cũng có một cuốn cầm tay, quên cả ăn.
Giữa những năm ở tuổi tóc chưa dài tới lưng, tôi đã đọc không biết bao nhiêu
cuốn sách: Sách của Tự Lực Văn Ðoàn, của Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công
Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng; Sách dịch như: Tâm Hồn Cao Thượng, Những Kẻ Khốn
Cùng...
Thơ Nguyễn Bính thì tôi thuộc nằm lòng không thiếu bài nào. Tôi thuộc cả tập
Ðồi Thông Hai Mộ nữa. (Một số sách vẫn được giữ lại cả mấy năm sau).
Cả ngày cứ ê a đọc: Anh Ðinh Lăng giờ đây đâu nhỉ/Anh của em yêu quý nhất đời.
Rồi: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn.
Trong nhà có ai cần hỏi câu gì về chữ nghĩa thơ văn là có tôi "hướng
dẫn" ngay.
Chị giúp việc nhà tôi thì mỗi lần nhóm bếp là xé ngay một quyển sách, không cần
biết sách mới hay cũ, Tây, Tàu hay Việt gì cả. Có lần tôi xuống bếp gặp chị
đang xé tập truyện ngắn mỏng của Thạch Lam, tôi hốt hoảng giật ra khỏi tay chị
thì cuốn sách đã bị thần hỏa thiêu hết một nửa rồi, đành ngậm ngùi đưa trả lại
chị, vì giữ cũng chẳng làm gì được nữa.
Mấy anh chị em tôi, chỉ có tôi là người mê sách, thích chạm tay vào chữ từ hồi
còn rất bé, nên tôi được hưởng hết những lợi lộc từ ba cái bao gạo đựng sách di
tản vào nhà tôi, Các anh chị, chỉ cầm lên, bỏ xuống, hoặc họa hoằn lắm mới đọc
một nửa quyển. Người thứ hai được lợi là chị giúp việc nhà, cứ vớ đại quyển nào
mong mỏng dễ xé giấy làm mồi nhóm bếp là chị xé. Chị còn kéo hẳn một bao vào
trong bếp cho tiện tay.
Trái: Mỗi người di cư đều mang theo một
hình tượng nào đó về niềm tin tôn giáo của họ. Niềm tin này cho họ sức mạnh
trên đường trốn chạy.
Phải:
Nấu ăn kiểu miền Bắc Việt Nam, mắt chim, cánh dơi, đầu cá, tất cả nấu thành một
loại nước lèo để ăn bún. (Hình Người Việt, chụp từ cuốn "Deliver Us From
Evil" của Bác Sĩ Tom Dooley)
Nhờ có ba bao tải sách đó mà tôi đã được thấm vào tâm hồn tuổi thơ của mình
những tinh túy của văn chương sách vở. Nó thấm một cách tự nhiên, như mưa rơi
xuống mặt đất và lúc đó bé quá tôi nào có biết mình được lợi lộc như vậy.
Những tinh tế trong văn chương của Nhất Linh, lãng mạn dịu dàng của Thạch Lam
đến nổi loạn của Vũ Trọng Phụng. Những cuốn sách mà những đứa trẻ ở tuổi tôi
lúc đó không có cơ hội được đọc.
Tôi học được sự giáo dục về lòng nhân ái, tấm lòng cao cả của người nghèo và đạo
đức trong Tâm Hồn Cao Thượng, do Hà Mai Anh dịch; chuyện người đàn ông ăn cắp
một mẩu bánh mì cho cháu bị 19 năm tù, rồi bị theo dõi suốt một đời cho đến
chết trong Những Kẻ Khốn Cùng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch.
Bâng khuâng, thương xót hay cảm động, hồi hộp, phân biệt giữa xấu và tốt, tôi
cũng điều được hưởng từ tuổi thơ qua văn chương.
Tất cả lần lượt chất vào tâm hồn tôi như người ta xếp những món nữ trang quý
giá vào một cái hộp bí mật, rồi cất đi. Tôi không hề biết tâm hồn tôi chính là
cái hộp quý đó cho đến khi trưởng thành, được học, được thầy giáo dạy văn
chương. Tôi mới biết là mình may mắn được đọc những áng văn chương đó trước
tuổi.
Càng lớn tuổi tôi càng hiểu: văn chương là một phần đời sống của mình, không
tách rời ra được.
Sáu mươi năm rồi, mỗi lần nhớ lại những ngày đầu tản cư. Mỗi buổi trưa, đi học
về, lục một cuốn sách trong cái bao tải đó, kiếm một chỗ vắng người ngồi đọc.
Chao ôi là thích!
Những thế giới kỳ bí mở tung từng cánh cửa bằng giấy cho một cô bé lên 10.
Tôi cám ơn biết bao, người nào đó đã để lại ba cái bao tải sách đó trên bãi
hành lý của cả mấy trăm gia đình, mà chỉ có nhà tôi kéo về.
Mưa đã thấm xuống đất, đất mềm mại, đất hiền hòa và đất cho những hạt giống nẩy
mầm, sinh hoa kết trái.
Trần Mộng Tú
Source: nguoiviet.com
No comments:
Post a Comment