Tuesday, September 29, 2020

Đọc sách: "Tâm tư Tổng thống Thiệu". Tác giả: Nguyễn Tiến Hưng


 

AUDIO BOOK:

https://archive.org/details/TamTuTongThongThieu_NguyenTienHung/00_hGiang_rfa2010-05-14_.mp3


VIDEO CLIPS:

Part 1: 


Part 2:


Part 3: 


Part 4:


Part 5:


Part 6:


Part 7:


Part 8:


Part 9:


Part 10: 


Part 11: The last one


SOURCE: 

http://www.vietnamvanhien.org/TamTuTTNguyenVanThieuaudio.html

OR:

http://bonphuongsuutap.weebly.com/tacircm-t432-t7893ng-th7889ng-nguy7876n-v258n-thi7878u.html


Buổi ra mắt sách "Tâm tư Tổng Thống Thiệu' của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng

GS Nguyễn Tiến Hưng đang ký tặng tác phẩm mới của ông cho những độc giả ái mộ

(Hình Triết Trần/Người Việt)

http://guongmatcongdong.blogspot.com/2010/05/buoi-ra-mat-sach-tam-tu-tong-thong.html


.

Vài hình ảnh về Tổng thống Nguyễn văn Thiệu (1923-2001)

 





Tổng thống Nguyễn văn Thiệu quỳ gối cầu nguyện trong nhà thờ La Vang đổ nát 

ngày 20.9.1972 sau khi Quân lực VNCH tái chiếm Cổ thành Quảng Trị

(Source: Tư liệu LM Nguyên Thanh)









.



.

Monday, September 28, 2020

TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN THIỆU - TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA

 

TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN THIỆU (1923 - 2001)


(Tài liệu trích từ sách "LƯỢC SỬ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA

Tác giả: Trần Ngọc Thống. Hồ Đắc Huân. Lê Đình Thụy, trang 217 đến trang 221)


***

Số quân 43/300.661

Sanh ngày 05-4-1923 tại Tri Thủy, Tân Hải, Thanh Hải, Ninh Thuận (là em út của 7 anh chị em gồm 5 trai, 2 gái)

Thân phụ: Cụ Nguyễn văn Trung (từ trần năm 1969 tại Saigon)

Thân mẫu: Cụ Bùi thị Hành (từ trần tại Pháp)


Phu nhân: Bà Nguyễn thị Mai Anh (sanh năm 1930 tại Mỹ Tho), thành hôn 18-7-1951, là ái nữ của cụ Phạm Đình Thưởng, quê ở Mỹ Tho, từ trần năm 1964).

Sanh hạ 4 người con, gồm 2 trai và 2 gái.

Trưởng nữ: Nguyễn thị Tuấn Anh (phu nhân của Nguyễn Tấn Triều, Cao đẳng Thương mại Pháp, quý nam của ông Nguyễn Tấn Trung, Tổng Giám đốc Hàng không Việt Nam).

Trưởng nam: Nguyễn Quang Lộc (phu quân của Lục Hồng Kim Oanh, ái nữ của Thiếu tá Lục Sĩ Đức số quân 60/101.183. Sanh tháng 2-1940 Vũng Tàu. Khóa 16 Ấp Chiến lược trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam.

Thứ nữ: Nguyễn thị Phương Anh

Thứ nam: Nguyễn Thiệu Long

 

Anh: Ông Nguyễn văn Hiếu (Cử nhân Luật tại Pháp. Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tòa thánh La Mã).

Chị: Bà Nguyễn thị Phiếu (phu nhân của ông Phạm văn Tôn, từ trần năm 2004 tại Hoa kỳ)

Anh: Ông Nguyễn văn Kiểu (Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Trung Hoa Dân Quốc)

Chị: Bà Nguyễn thị Phận (phu nhân của ông Trần Phú Đường)

Chị vợ: Bà Marceline Nguyễn

Chị vợ: Bà Nguyễn thị Kim Xuyến (phu nhân của ông Phạm văn Mỹ)

Em vợ: Bà Nguyễn thị Hảo (phu nhân của ông Nguyễn Xuân Nguyên)

 

Học sinh trường Tiểu học Phan Rang

Học Trung học Pélerin Huế, kỹ thuật Lê Bá Cang Saigon

1946- 1947: Sinh viên Sĩ quan trường Hàng Hải Thương Thuyền

1949: Theo học Khóa 1 Bảo Đại (sau cải danh Phan Bội Châu) Trường Võ Bị Huế

Ngày 25-9, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy

Trung đội trưởng đồn trú Mõ Cày, Bến Tre

1949-1950: Tu nghiệp lớp Căn bản Bộ Binh tại Trường Võ Bị Liên Quân Saint Cyr, Pháp

 

1951: Đầu năm, Trung úy học khóa Chỉ Huy Chiến thuật tại Trung tâm Huấn Luyện Chiến thuật Hà Nội

Ngày 1-7, Trung Đội trưởng Trung Đội 12, khóa sinh khóa 5 Trường Võ Bị Liên quân Đà Lạt

 

1952: Giữa năm, học khóa Tiểu Đoàn trưởng và Liên Đoàn trưởng lưu động tại Hà Nội

Phụ tá Trưởng Phòng 3 Khu Chiến Hưng Yên

 

1953: Trưởng Phòng 3 Khu Chiến Hưng Yên do Trung tá Dương Quý Phan Chỉ Huy Trưởng

Cuối năm, bàn giao Trưởng Phòng 3 Khu Chiến Hưng Yên lại cho Đại úy Cao văn Viên

 

1954:  Đầu năm, Thiếu tá Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Bộ binh số 11 (thành lập 1-12-1953, giải tán 15-12-1954 để thành 1 Trung Đoàn Bộ binh)

Tham dự Chiến dịch Atlante từ 20-1 đến 20-7-1954

Sau 20-7, Trưởng phòng 3 Đệ Nhị Quân khu Trung Việt Huế do Đại tá Trương văn Xương làm Tư Lệnh

Tháng 9, bàn giao Trưởng phòng 3 Đệ Nhị Quân Khu lại cho Thiếu tá Trần Thiện Khiêm

Tháng 10, Tham Mưu Trưởng Đệ Nhị Quân Khu Trung Việt

Cuối năm Tiểu Khu trưởng Ninh Thuận thay Thiếu tá Đỗ Mậu

 

1955: Đầu năm, bàn giao Tiểu khu trưởng Ninh Thuận lại cho Thiếu tá Thái Quang Hoàng

Tháng 3, Trung tá Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thay Trung tá Nguyễn Văn Chuân (thời gian làm Chỉ huy trưởng đã tổ chức 3 Lễ mãn khóa 11, 11 phụ và 12)

 

1957: Tháng 7, bàn giao Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt lại cho Đại tá Hồ văn Tố để du học khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp Leavenworth tại Kansas, Hoa Kỳ

 

1958: Tái nhiệm Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thay Đại tá Hồ văn Tố làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung

 

1959:

Tháng 2, bàn giao Chỉ huy trưởng trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt lại cho Thiếu tướng Lê văn Kim để du học khóa Tình báo Tác chiến tại Okinawa Nhật bản

Tham Mưu trưởng Hành quân tại Bộ Tổng Tham Mưu

Ngày 26-10, thăng Đại tá tạm thời (Nghị Định số 413/QP ngày 27-10-1959 của Bộ Quốc Phòng)

Du học lớp Phòng không tại trường Fort Bliss, Texas, Hoa Kỳ

 

1961: Đầu tháng 10, Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay Đại tá Nguyễn Đức Thắng làm Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh

 

1962:

Ngày 8-12, ban giao Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh lại cho Đại tá Đỗ Cao Trí, Chỉ huy trưởng Trường Hạ Sĩ quan QĐVNCH

Ngày 20-12, Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh thay Đại tá Nguyễn Đức Thắng làm Trưởng phòng Kế hoạch Hành quân Bộ Tổng Tham Mưu

 

1963:

Ngày 1-11, tham gia cuộc đảo chánh do Trung tướng Dương văn Minh cầm đầu

Ngày 2-11, vinh thăng Thiếu tướng

Ngày 5-11, Ủy viên Hội Đông Quân Nhân Cách Mạng

Ngày 8-12, tháp tùng phái đoàn ngoại giao do Ngoại trưởng Phạm Đăng Lâm hướng dẫn công du Nam Hàn tham dự lễ nhậm chức Tổng thống của Trung tướng Phác Chánh Hy

 

1964:

Ngày 30-1, tham gia cuộc Chỉnh lý Nội Bộ do Trung tướng Nguyễn Khánh Tư lệnh Quân Đoàn I cầm đầu

Ngày 31-1, Tổng Thư ký Hội Đồng Quân Nhân Cách mạng do Trung tướng Nguyễn Khánh làm Chủ tịch

Ngày 2-2, bàn giao Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh lại cho Đại tá Đặng Thanh Liêm, Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung

Cùng ngày nhậm chức Tham Mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng Tham Mưu thay thế Trung tướng Trần Thiện Khiêm

Ngày 8-2, kiêm Thứ trưởng Quốc phòng trong Nội các do Trung tướng Nguyễn Khánh thành lập

Ngày 9-9, từ nhiệmThứ trưởng Quốc phòng

Ngày 15-9, bàn giao Tham mưu trưởng Liên Quân lại cho Thiếu tướng Cao văn Viên Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù

Cùng ngày, nhận lãnh Tư lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật thay thế Trung tướng Dương văn Đức (bị giải nhiệm do cầm đầu cuộc biểu dương lực lượng vào ngày 13-9-1964)

 

1965:

Ngày 1-1, vinh thăng Trung tướng nhiệm chức (do Đại tướng Nguyễn Khánh gắn cấp bậc mới tại Bộ Tư lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật nhân ông chủ toạ lễ mừng kỷ niệm Đệ Nhị Chu niên ngày thành lập Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật tại Cần Thơ).

Ngày 18-1, Đệ Nhị Phó Thủ tướng trong nội các cải tổ của chánh phủ Trần văn Hương (Sắc lệnh số 9/QT/SL ngày 18-1-1965)

Ngày 20-1, bàn giao chức Tư lệnh Quân Đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật lại cho Thiếu tướng Đặng văn Quang Tư lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh

Ngày 18-2, Đệ Nhất Phó Thủ tướng trong nội các chánh phủ Bác sĩ Phan Huy Quát kiêm Tổng trưởng Quân Lực thay thế Trung tướng Trần văn Minh (Sắc lệnh số 040/QT/SL ngày 16-2-1965)

Ngày 3-3, Tổng Thư ký Ủy ban Thường Vụ Hội Đồng Quân Lực

Ngày 5-5, rời khỏi chức Tổng Thư ký Ủy ban Thường Vụ Hội Đồng Quân Lực khi Hội Đồng Quân Lực tự giải tán (do tuyên cáo số 7/HĐQL ngày 5-5-1965)

Ngày 11-6, vì chánh phủ dân sự gặp bất đồng chính kiến trong việc bổ nhiệm vài Bộ trưởng không thể giải quyết được, nên lúc 8 giờ đêm trong cuộc họp tại Phủ Thủ tướng, Quốc trưởng kỹ sư Phan Khắc Sửu và Thủ tướng bác sĩ Phan Huy Quát tuyên bố cùng từ nhiệm và giao quyền lãnh đạo quốc gia lại cho quý vị Tướng lãnh.

Quý vị Tướng lãnh chấp thuận sự từ nhiệm của nhị vị Quốc trưởng và Thủ tướng

Ngày 14-6, Đại hội Quân Lực gồm 50 thành viên Tướng lãnh họp tại trại Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt, cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (Quốc trưởng) và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh Không quân, giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (Thủ tướng)

Lúc 10 giờ 45 phút sáng, ngày 19-6-1965 tại Hội trường Diên Hồng lễ ra mắt của Đại hội Đồng, Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia và Nội các chiến tranh.

 

1966

Khởi đi từ 1966 ngày 19-6 hằng năm được Ủy ban Lãnh Đạo Quốc gia chọn làm ngày Quân lực

Ngày 6-2, hướng dẫn phái đoàn tham dự hội nghị Tối cao Honolulu từ ngày 7 đến ngày 8-2-1966 với Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson.

Ngày 23-10, hướng dẫn phái đoàn tham dự hội nghị Thượng Đỉnh Manila từ 24-25/10/1966

Ngày 31-10-1966, khánh thành Dinh Độc lập

 

1967

Ngày 19-3, hướng dẫn phái đoàn tham dự hội nghị Quân sự Guam với Tổng thống Hoa kỳ Johnson từ 20-21/3/1967

Ngày 1-4, ký ban hành Hiến pháp thay thế Hiến pháp 26-10-1956 tại tiền đình Dinh Độc lập (đã được Quốc hội Lập hiến thông qua ngày 18-3-1967 với số phiếu 102/117)

Ngày 15-6, ký ban hành Luật:

+ 01/67 bầu cử Tổng thống

+ 02/67 bầu cử Thượng viện

Ngày 30-6, nộp đơn đứng cùng ứng cử viên Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ (do dàn xếp của Hội Đồng Quân Lực). Sau đó đắc cử.

Ngày 31-10, nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (trước Hội trường Diên Hồng, trụ sở Quốc hội)

XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP

Friday, September 25, 2020

Sách: LƯỢC SỬ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA (Trần Ngọc Thống. Hồ Đắc Huân. Lê Đình Thụy)

Tác giả:

Cựu Đại tá Trần Ngọc Thống:

Giám đốc Nha Trừ Bị, Tổng Nha Nhân Lực, Bộ Quốc Phòng

Cựu Thiếu tá Hồ Đắc Huân

Cựu Trung úy Lê Đình Thụy

Xuất bản: 2011



Từ trái qua phải, cựu Đại Tá Trần Ngọc Thống, cựu Thiếu Tá Hồ Đắc Huân và quyển “Lược Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” trên tay, chuẩn bị ra mắt đồng hương vào lúc 1 giờ ngày Thứ Bảy, ngày 12 tháng 5 năm 2012, tại Hội Trường Thành Phố Wesminster, số 8200 đường Westminster, thành phố Westminster

- ảnh: Băng Huyền/Viễn Đông

Source:

http://www.viendongdaily.com/luoc-su-quan-luc-viet-nam-cong-hoa-mot-quan-doi-co-chinh-nghia-co-qsCKNqMQ.html


 ***

Ghi Nhận Về Cuốn "Lược Sử Quân Lực VNCH"

Trích đoạn:

“… Cuốn "Lược Sử Quân Lực VNCH" dầy trên 900 trang, in trên giấy trắng, bìa cứng. Ngoài tài liệu và hàng ngàn tấm ảnh, trình bày về hệ thống tổ chức Quân Lực VNCH, còn có các Thông Tư, Nghị Định, Sắc Lệnh ân thưởng huy chương, thắng cấp, giáng cấp; đầy đủ phù hiệu, quân kỳ các Quân Binh Chủng Hải, Lục, Không Quân, từ cấp Sư Đoàn đến Quân Đoàn, các loại huân chương, huy chương của Quân Lực VNCH, tiểu sử, hình ảnh các Tướng lãnh QL/VNCH từ ngày thành lập Quân Đội Quốc Gia VN đến ngày miền Nam rơi vào tay CS. Hình ảnh, Nghị định thành lập các quân trường, Trường Võ Bị Quốc Gia, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Trường Bộ Binh Thủ Đức, quân trường Vạn Kiếp, trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang v..v., danh tánh các sĩ quan anh dũng tuẫn tiết trong thời điểm 30.4.1975, các chiến sĩ trong Quân Lực VNCH đã bỏ mình trong trại tù Cộng sản hay trên đường vượt thoát khỏi Việt Nam, và rất nhiều hình ảnh, chiến tích của Quân Lực VNCH cùng những lời nhận định, phẩm bình về Quân Lực VNCH của các Tướng lãnh đồng minh….”

Source: http://saigontimesusa.com/bai/sinhhoat/1291_ghi.shtml

.

Tiểu sử Cựu Đại Tá Trần Ngọc Thống (15.2.1924 - 1.2.2020)

Đại Tá Trần Ngọc Thống là Hậu duệ đời thứ 12 của Cụ Thủy Tổ Trạng Nguyên Trần Văn Bảo triều Nhà Mạc, vị Trạng Nguyên thứ 36 của Việt Nam. Khởi đầu ông học chữ Nho, chữ Quốc ngữ, sau đó lại học tiếng Pháp, tiếng Anh để trở thành một nhà giáo. Năm 1951 ông động viên vào Quân đội để đi làm nhiệm vụ của người trai thời loạn. 

Ông được gọi vào học Khóa 1 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, khóa đào tạo sĩ quan trừ bị đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

Source: https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/tuong-nho-cuu-dai-ta-tran-ngoc-thong/


Cựu Đại Tá Trần Ngọc Thống, đồng tác giả “Lược  Sử QLVNCH” qua đời

Trích đoạn:

"Cựu Đại Tá Trần Ngọc Thống, đồng tác giả cuốn “Lược Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” cùng với hai tác giả Lê Đình Thụy và Hồ Đắc Huân, vừa qua đời lúc 10 giờ 33 phút sáng Thứ Bảy, 1 Tháng Hai, ở bệnh viện UCI, Orange, hưởng thọ 96 tuổi...."

"...Về cuốn sách mà ba tác giả này nghiên cứu, tìm tòi, phỏng vấn, soạn thảo, và cho xuất bản hồi năm 2011, và được coi là “tự điển” nói về các sĩ quan cao cấp của quân đội miền Nam Việt Nam trước năm 1975..."

"...Theo phần tiểu sử được đăng trong cuốn “Lược Sử QLVNCH,” Cựu Đại Tá Trần Ngọc Thống sinh ngày 15 Tháng Hai, 1924, tại Hà Nam.

Trong lúc đang dạy học, ông được động viên nhập học Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, vào năm 1951.

Ra trường năm 1952, ông mang lon Thiếu úy, năm 1954 lên Đại úy, làm Đại đội trưởng ở Bộ Tham Mưu Đệ Nhị Quân Khu, Huế.

Từ năm 1956 đến năm 1971, ông làm việc tại Nha Nhân Viên và làm Trưởng Phòng Tổng Quản Trị, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.

Năm 1973, ông là Giám đốc Nha Trừ Bị, Tổng Nha Nhân Lực, Bộ Quốc Phòng, cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Sau đó, ông bị tù Cộng Sản 13 năm, và định cư tại Orange County, California, năm 1991..."

Source:

 https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/cong-dong/cuu-dai-ta-tran-ngoc-thong-dong-tac-gia-luoc-su-qlvnch-qua-doi/

.


Part 1:


Part 2:

.


Blogger chúng tôi có cơ duyên may mắn để nhận được sách quý "LƯỢC SỬ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA" từ Thiếu tá Hồ Đắc Huân là đồng tác giả của quyển sách.

Khởi nguồn từ Thiếu tá Nguyễn Khắc Tung, hiện cư ngụ tại Orlando, Florida (Thiếu tá Tung xuất thân từ Khóa 20 Nguyễn Công Trứ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam. Đơn vị cuối cùng: Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 Bộ Binh) và sau đó Thiếu tá Tung đã giới thiệu chúng tôi với Thiếu tá Hồ Đắc Huân.

Rất cảm tạ hai vị Thiếu tá đã cho chúng tôi cơ hội nhìn lại và lưu giữ những trang Quân sử của Việt Nam Cộng Hòa.

Trân trọng,

Blogger Phạm Lê Hương

.

Mũ Nâu Trần Thy Vân tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút nơi hải ngoại

 

Ông Trần Thy Vân giới thiệu quyển sách “The Black Tigers - Rangers of the Second Indochina War” viết về Biệt Động Quân của hai tác giả Michael N. Martin và McDonald Valentine, Jr. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

 

HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, “Đại Lộ Kinh Hoàng” là một địa danh kinh hoàng theo đúng nghĩa của nó, với hàng chục ngàn thường dân vô tội đã chết thảm vì những trận pháo kích của Cộng Sản.

Sau những trận tấn công của Việt Cộng bằng pháo kích dữ dội ngày đêm vào các tỉnh địa đầu, từ căn cứ Ái Tử, phía Bắc sông Thạch Hãn, do bị những trận tàn sát tập thể năm Mậu Thân 1968 ở Huế ám ảnh, người dân đã bỏ chạy loạn.

Biệt Động Quân ghi chiến sử trận đánh Cầu Bến Đá

Ngồi trong căn nhà ở Huntington Beach, California, Mũ Nâu Trần Thy Vân kể tiếp với phóng viên nhật báo Người Việt về trận đánh Cầu Bến Đá.

Ông kể, từ Quảng Trị vào Nam, cả dòng người gồng gánh tháo chạy, người dân, binh lính, các loại xe quân sự, xe đò, chen chúc nhau kẹt cứng trên quốc lộ 1, để rồi làm mồi ngon cho những trận đạn pháo Cộng Sản bắn đuổi theo.

Ông nhớ lại: “Khi ấy Quảng Trị đã thất thủ, dân chúng và binh sĩ đều bỏ lại Quảng Trị sau lưng, theo Quốc Lộ 1 chạy về Huế, Đà Nẵng. Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn còn đầy đủ quân số, từ hướng Tây nhà thờ La Vang nhắm hướng Đông kéo ra. Trên đường gần tới Cầu Bến Đá chúng tôi dừng lại để phá hủy tất cả xe Jeep của Tiểu Đoàn 21, riêng Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chúng tôi tiến về Cầu Bến Đá, cách đó hơn 200 mét, đã bị đại đội C7 thuộc Trung Đoàn K8 Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt chiếm cứ. Mục đích của chúng là chận đường của dân quân VNCH đang rút chạy về phía Nam.”

 

Thương binh Trần Thy Vân trước khi rời Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, Tháng Ba, 1975. (Hình: Trần Thy Vân cung cấp)

“Lúc đó chúng tôi sôi máu lên vì thấy đồng bào và thương binh đồng đội của mình bị đạn pháo chết quá nhiều, sau khi nhận lệnh của Thiếu Tá Quách Thưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân, bằng mọi giá phải tiêu diệt địch đang chiếm giữ cây cầu. Sau khi yêu cầu dân chúng hai bên đường lui về sau xa hơn 200 mét để tránh thương vong, chúng tôi xông thẳng vào địch quân đóng ngay trên cầu. Có một khẩu cối 60 ly nhưng vì quá gần không xài được, lúc đó tất cả hỏa lực súng trường chúng tôi đều khai hỏa, cùng lựu đạn nổ vang trời. Trong chiến trận, hỏa lực bên nào mạnh hơn sẽ thắng, bọn Việt Cộng bị đánh chịu không nổi, trước khi bỏ chạy vô núi, chúng giật mìn sập cầu,” ông Vân kể.

“Chiếc cầu sập làm tình hình càng bi thảm hơn, khi dòng người dừng lại không tiến cũng không lùi được, bị pháo binh Việt Cộng tàn sát vô kể, hiện nay sách vở đã viết lại rất đầy đủ chuyện này. Và Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân là đơn vị đã giao chiến với Đại Đội C7 Trung Đoàn K8/ Sư Đoàn 304 Cộng Sản lần cuối cùng trong trận đánh tại Cầu Bến Đá trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ năm 1972,” ông kể tiếp.

Ông Vân cho biết Cầu Bến Đá với hai bờ sông thẳng đứng, không có bờ dốc thoai thoải như các bờ sông khác, thành ra khi cầu bị sập, không ai có thể qua được bờ bên kia, người dân, cả những xe GMC quân đội chở thương bệnh binh từ bệnh viện Quảng Trị về cũng không qua được, làm chết thêm một số thương bệnh binh nữa.

“Sau đó Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chúng tôi phải kéo quân dẫn hàng trăm ngàn người đi thẳng ra hướng Đông, qua cánh đồng ruộng về phía bờ biển, trước khi gặp sông Mỹ Chánh về phía Nam, lại bị Hải Quân của phe ta từ biển bắn đại bác vô vì tưởng lầm là Việt Cộng, làm chết thêm một số dân chúng đi theo. Tới bờ sông Mỹ Chánh là 2 giờ khuya, phải tạm dừng quân chờ trời sáng, lại kéo ngược trở ra Quốc Lộ 1, qua cầu Mỹ Chánh do Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ, phía sau là dòng người chạy theo chúng tôi để về Huế, Đà Nẵng,” ông nói.

Bị thương, cụt hai chân

Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh vào Tháng Hai, 1973, Việt Cộng vẫn tái diễn trò lấn đất giành dân, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng khắp vùng quê quanh tỉnh Quảng Ngãi.

Đầu Tháng Ba, 1974, Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân ở Đà Nẵng trở lại đổ quân xuống vùng đất thênh thang phía Đông quận Mộ Đức, hướng Nam tỉnh lỵ.

Ông Trần Thy Vân kể lại trận tái chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, và trận đánh tại Cầu Bến Đá trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” năm 1972. (Hình: Văn Lan/Người Việt)


Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân do Đại Đội Trưởng, Trung Úy Trần Thy Vân trách nhiệm càn quét các nhóm du kích đang hoạt động mạnh tại Đức Lương, Đức Quang và các xóm liên ranh. Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, không có trận đánh lớn nào xảy ra, Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chỉ hành quân tảo thanh Việt Cộng lấn đất giành dân, tháo gỡ cờ Mặt Trận Giải Phóng, hoặc nằm giữ an ninh trên các khu đồi núi.

Ông Vân cho hay, lần đó vào xóm, rất dè dặt vì sợ mìn bẫy, rủi ro có thể bị thiệt hại nặng, nên ông không cho anh em đi theo đông, kể cả toán Thám Báo đi trước cũng không, chỉ có ông và Thượng Sĩ Nguyễn Văn Thiệp, thường vụ Đại Đội, cùng đi vào xóm.

“Vậy mà cũng không tránh khỏi, vừa vào trong khu vườn đầy cỏ dại, chính tôi đạp phải trái mìn nội hóa khá lớn, nổ tung như đại bác 105 ly. Thượng Sĩ Thiệp bị gãy một chân, còn tôi hai chân sụp xuống giữa một hố sâu to bằng cái nia, tuy không giập nát nhưng máu ra nhiều ở hai mắt cá, cơ thể nóng ran như lửa đốt. Tôi bảo anh em ở ngoài hết, đề phòng địch lợi dụng tấn công, và có thể còn mìn bẫy ở đâu đó nữa, chỉ có y tá và hai người lính thân cận vào băng bó,” ông nhớ lại.

“Sau đó xe cứu thương chở ra bệnh viện Duy Tân Đà Nẵng, Thượng Sĩ Thiệp mất một chân, còn tôi bị mất hai chân lần đầu từ mắt cá, sau đó bị cụt cả hai chân trên đầu gối lần hai, vì nhiễm trùng quá nặng,” ông cười buồn.

Nói tới đây, ông Vân đọc câu thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai về) do Vương Hàn (687-726) làm ra năm 713 khi ông bị triều đình nhà Đường đày ra Lương Châu do tính bộc trực của mình, khi kể lại khúc phim thật ngắn nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời chinh chiến của mình. Ông cười nói: “Người xưa đã bảo chinh chiến xưa nay mấy ai về, vậy mà mình còn được trở về là may mắn quá rồi!”

Năm 1975, khi Cộng Sản tràn ngập Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, chĩa súng đuổi hết các thương binh miền Nam ra đường. Trừ những người không đi được nằm tại chỗ, còn lại kẻ thì xe lăn, người chống nạng, có người mang bịch máu ngang bụng, đi vất vưởng, lang thang như những hồn ma bóng quế.

Rời Bệnh Viện Đà Nẵng vào Tháng Ba, 1975, ông Trần Thy Vân đưa cả gia đình lên Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, kiếm miếng đất nhỏ, khai là binh nhì lính bộ binh bị cụt chân, nay làm ruộng rẫy kiếm sống, đó là lần thứ nhất có chỗ ở ổn định.

Với tính lạc quan, ông Vân nói: “Với hai chân cụt quá đầu gối, tôi phải bò lết ngoài đồng suốt ngày, trồng rau củ cho bà vợ bán ngoài chợ kiếm sống, còn nuôi heo thêm để nuôi mấy đứa nhỏ. Khi rảnh viết lại những gì cần phải viết, cũng may tuy thân thể không toàn vẹn nhưng cái đầu vẫn còn minh mẫn để viết lách là tốt rồi!”

 

Trang trong của quyển sách “The Black Tigers – Rangers of the Second Indochina War” có đoạn giới thiệu về Trung Úy Biệt Động Quân Trần Thy Vân (trái) và trang giới thiệu Binh Chủng Biệt Động Quân Quân Lực VNCH. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

 

Gặp lại kẻ thù xưa trong trận Cầu Bến Đá, buộc phải dời chỗ ở

Vùng cao nguyên Lâm Đồng coi như là nơi tạm yên cho người cựu sĩ quan Biệt Động Quân khi cuộc sống dần thích nghi, mọi người trong xóm quen thuộc với gia đình anh thương binh hiền lành, chỉ biết lo làm ăn.

Mọi chuyện trở nên ly kỳ khi có một đại đội Cộng Sản đóng gần đó, trong những lúc rảnh rỗi họ thường đến ghé nhà ông Vân chơi, và ông rất ngạc nhiên khi thấy trên cánh tay của những người lính Việt Cộng, ai cũng có xăm hàng số 13/12/72, khi hỏi ra mới biết chính đó là ngày họ bị Biệt Động Quân VNCH pháo kích nặng nề trong một trận đánh gần chân núi Trường Sơn.

Ông Thy Vân kể tiếp: “Khi những người Cộng Sản kể chuyện trận pháo kích này, tôi bèn hỏi tới. Nghe họ kể về trận đánh trùng khớp với trận đánh của mình, tôi bèn lên tiếng xác nhận câu chuyện là có thật và cho biết chính tôi là đại đội trưởng Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân trong trận pháo kích ấy, về sau là chỉ huy trận đánh Cầu Bến Đá trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ năm 1972. Lúc đó ông Nguyễn Văn Đường đang chỉ huy đại đội đóng quân gần nhà tôi, cũng chính là đại đội trưởng Đại Đội C7/K8, thú nhận rằng trong trận Cầu Bến Đá năm 1972 bị Biệt Động Quân đánh nặng quá, đại đội của ông chết gần chết, chỉ còn 9 ‘mống.’”

Thấy ông Đường, người chỉ huy phía bên kia nói sự thật, ông Thy Vân bèn hỏi: “Vậy khi anh rút lui bỏ chạy, vì sao lại phải giựt mìn sập cầu Bến Đá, để bao nhiêu người dân vô tội phải chết oan ức như vậy! Anh Đường trả lời đó là lệnh trên, phải thi hành.”

Ông cũng nói với ông Đường: “Chúng tôi cũng có lệnh trên là buông súng, phải thi hành. Tôi nói như vậy để người lính bên kia hiểu rằng người lính VNCH thi hành lệnh trên mà buông súng chứ không phải vì thua trận. Nếu không vì lệnh trên, chúng tôi sẽ đánh tới chết mới thôi.”

Lần thứ hai phải đổi chỗ ở khi ông Vân bị lộ tung tích là sĩ quan Biệt Động Quân, nhà cầm quyền địa phương đuổi về nguyên quán. Không dám trở về nguyên quán, ông Vân đưa cả gia đình về Định Quán, ở gần khu chợ Phú Lộc để sinh sống qua ngày. Bà xã thì buôn bán nhỏ ở chợ, còn ông làm nghề chuyên viết đơn cho bà con xin phép mua bán ở chợ. Ở đó sau hai năm thì ông bị lộ tông tích, bị yêu cầu hồi hương.

Lần thứ ba ông đưa gia đình về Nhà Bè gần Sài Gòn, sống nương nhờ nhà người anh nuôi, sinh sống bằng nghề xay bột. Khoảng một năm sau có người bạn mới quen, tổ chức vượt biên, cho cả gia đình ông đi không lấy tiền. Ông Vân quyết định chỉ đem thằng con mới 11 tuổi đi theo, với suy nghĩ nếu có kẹt bị bắt thì còn có người ở ngoài lo tiếp tế được, hoặc nếu chết thì chỉ có hai cha con, còn nếu đi thoát được, ông sẽ bảo lãnh cả nhà.

“Vậy mà chuyến đi thành công, được tàu Mỹ vớt đưa vô đảo ở Thái Lan. Vì tôi có giấy tờ sĩ quan mang theo, hơn nữa lại tốt nghiệp thủ khoa Khóa 2 Reconnaissance, từng nhảy Viễn Thám cho Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, lại còn là trung đội trưởng Recon cho Sư Đoàn đồng minh này. Sau 57 ngày ở đảo, hai cha con được đến Hoa Kỳ, sau đó tôi bảo lãnh cho vợ con qua Mỹ, gia đình đoàn tụ. Nhờ ơn trên hiện nay con cái đều lớn, học hành đỗ đạt, có công ăn việc làm hết rồi,” ông Trần Thy Vân nói.

 

Thương binh Trần Thy Vân luôn sát cánh cùng đồng bào trong những cuộc biểu tình chống Cộng Sản tại Little Saigon. (Hình: Văn Lan/Người Việt)


Tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút

Ngày xưa ông Trần Thy Vân chống Cộng Sản bằng vũ khí trên chiến trường, và đã để lại nửa phần thân thể trên quê mẹ cho lý tưởng tự do. Nay ông vẫn tiếp tục chiến đấu nơi hải ngoại qua những thể loại văn, thơ, dùng ngòi bút để chuyển đi những tư tưởng văn học nhưng tràn đầy khí thế đấu tranh chống Cộng Sản.

Dù đã hơn gần nửa thế kỷ giã từ vũ khí, người chiến sĩ Biệt Động Quân năm xưa vẫn hiên ngang chiến đấu như thuở nào nơi hải ngoại, với ông, mỗi con chữ là một viên đạn bốc lửa, những bài viết đều nói lên sự thật, không thêu dệt, nồng nàn tình yêu đất nước, luôn đấu tranh cho một tương lai tươi sáng trên quê hương Việt Nam.

Ông đã xuất bản hai tác phẩm “Anh Hùng Bạt Mạng” (truyện dài, tái bản lần thứ 4) và “Tiếng Hờn Chân Mây” (truyện dài, tái bản lần thứ 1).

Ông dự định sẽ in “Rừng Vang Biển Động” (truyện ngắn) và “Sa Mù Tuổi Ngọc” (thơ người lính trận).

Mũ Nâu Trần Thy Vân sinh ngày 31 Tháng Mười Hai, 1944, tại Phan Rang, Ninh Thuận. Nguyên quán Hòa Vang, Quảng Nam.

Trước 1975, đỗ Tú Tài 2, cựu học sinh các trường Phan Thanh Giản Đà Nẵng, Bồ Đề, Quốc Học Huế, Duy Tân Phan Rang. Có thơ đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Năm, Phụ Nữ Ngày Mai, Tiếng Vang. Bắt đầu làm thơ năm 18 tuổi.

Năm 1966, tình nguyện nhập ngũ, Khóa 22 Sĩ Quan Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức.

Năm 1970, đỗ thủ khoa Khóa 2 Reconnaissance do Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đào tạo tại Đà Nẵng. Trung đội trưởng Recon cho Sư Đoàn đồng minh này.

Chín năm Biệt Động dự nhiều cuộc hành quân vùng I, II, và hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào. Nhận 18 huy chương Anh Dũng Bội Tinh gồm 1 Đồng, 1 Bạc, 10 Ngôi Sao Vàng, 4 Nhành Dương Liễu là loại tuyên dương cấp quân đội, và hai Chiến Thương Bội Tinh Ngôi Sao Đỏ.

Chức vụ sau cùng là trung úy Đại Đội Trưởng 1/21 Biệt Động Quân. Bị thương lần thứ hai cụt hai chân nơi chiến trường miền Trung, Tháng Ba, 1974

Thành viên sáng lập các Hội Thương Phế Binh, Biệt Động Quân và Hội Tù Nhân Chính Trị là các đoàn thể đầu tiên tại Nam California Hoa Kỳ, 1985. Đã gởi 98 chiếc xe lăn tay cùng quà cáp về giúp các thương phế binh Quân Lực VNCH trong nước từ 1984

Hội viên Hội International-PEN (Poets, Essayists and Novelists – Tổ Chức Văn Bút Quốc Tế). Phó chủ tịch II Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại 2001-2003. Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Nam California ba nhiệm kỳ 2000-2002, 2002-2004, 2007-2010. Tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế London, Anh, 2001. Trưởng ban tổ chức Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Kỳ 6, 2003, tại California. (Văn Lan)

Source:

https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/mu-nau-tran-thy-van-tiep-tuc-chien-dau-bang-ngoi-but-noi-hai-ngoai/?fbclid=IwAR0lq9c2ra5xblBIQ0DB7DgyUAPrPcJ4ezlaOC2-93roM4jGTOodS4CzkYU

.