48 giờ dưỡng quân tại hậu cứ, ở Ngã Tư An Sương, Hốc Môn, đối với
tôi, ra Saigon làm một chầu cà phê ở Mai Hương, Pagode thế là đủ!
Khi chưa kết hôn, 7 ngày phép với tôi là… quá dài. Tới ngày thứ
tư, tôi đã bồn chồn, ngày thứ năm, tôi nhớ đồng đội, nhớ đơn vị… Rồi tôi không
thể nghỉ phép hết ngày thứ sáu. Tôi về
Đơn Vị. Không khí ở đó mặn nồng hơn, vui vẻ hơn. So với những ngày phép ở
ngoài, sao nó lạt lẽo, đôi khi vô vị. Đúng vậy! Chẳng có mùi vị gì hết.
Vì vậy, khi người bạn học cũ hỏi tôi:
– “Mày mới từ tử địa An Lộc về, bây giờ lại ra Miền Trung, bộ
không ngán súng đạn sao?”
– “Bây chừ thì chưa. Bây chừ tao còn thấy đi hành quân với đơn vị,
Anh Em, mà lại về Huế nữa, là… vui lắm.”
Với cái vui ấy, tôi cùng Anh Em 81 Biệt Cách Dù lên mấy chiếc
C-130 của Quân Đội Mỹ, bay ra Phi Trường Phú Bài ngày 28 tháng 6 năm 1972.
Chúng tôi phải đi gấp vì Lệnh của Tổng Thống đấy.
Hôm Đại Lễ Kỷ niệm Ngày
Quân Lực 19 tháng 6 năm 1972, Tổng Thống đọc diễn văn và ra lệnh cho Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa, trong vòng 3 tháng, phải chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị. Kể
từ hôm Tổng Thống ra lệnh, đến ngày chúng tôi lên máy bay, chỉ mới 9 ngày.
Ngoài ấy, Tướng Ngô Quang Trưởng đang là
Tư Lệnh Chiến Trường, ngoài các đơn vị của Quân Đoàn I, thì các Sư Đoàn Dù,
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng đã có mặt rồi. Không những chúng ta giữ được
phòng tuyến sông Mỹ Chánh, mà lại còn đang phản công ra phía Bắc con sông nầy.
Xuống ở Phi Trường Phú Bài, chúng tôi được đưa thẳng ra PK. 17, tức
là Đồn Cây Số 17, như dân chúng thường gọi. Đây là căn cứ của Trung Đoàn 3, Sư
Đoàn 1 Bộ Binh. Trung Đoàn đã ra trận, chỉ còn một ít binh sĩ ở lại phòng thủ doanh trại.
Đêm đó, như thường lệ, trước mỗi cuộc hành quân, chúng tôi nhận 7
ngày lương khô, và được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, chỉ thị nhiệm vụ
cho từng Đại Đội. Ông đã được vinh thăng đặc cách Đại Tá tại mặt trận Bình
Long, An Lộc, cũng như về sau này tất cả Quân Nhân khác trong đơn vị có tham dự
tại chiến trường An Lộc, mỗi người đều được thăng một cấp.
Tôi, Đại Đội
Trưởng Đại Đội 4, cùng Đại Úy Nguyễn Ích
Đoan, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 được lệnh đưa hai đại đội ngày mai lên đường
tăng phái cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ. Đơn vị nầy, mới từ
Charlie về, bổ sung, tái huấn luyện, ra Quảng Trị hồi đầu tháng 5, ngay sau khi
thành phố Quảng Trị bị mất, nay đang hành quân từ phòng tuyến Mỹ Chánh, tiến dọc
theo các ngọn đồi sát chân núi Trường
Sơn, phía Tây Quốc Lộ 1. Mục tiêu của Tiểu Đoàn 11 Dù là Nhà Thờ La Vang. Tiểu
Đoàn 11 Dù đã hoàn thành
nhiệm vụ.
Đại Đội tôi được quân xa vận chuyển đến gần ngã ba đường vào xã Ưu
Điềm, từ đây chúng tôi men theo hai bên Hương Lộ, để di chuyển về hướng Mỹ
Chánh, vượt qua cầu Mỹ Chánh vào khoảng trưa, Đại Đội phân làm 2 cánh, tiến ra
hướng Bắc, ở hai bên Quốc Lộ mới do Công Binh Mỹ vừa xây xong. Con đường nầy
không đi qua Diên Sanh, Phủ Lỵ Hải Lăng cũ. Trong suốt một ngày đường là chúng
tôi tới
khu vực Đại Lộ kinh hoàng.
Một khung cảnh quá khủng khiếp hiện ra trước mắt, đã làm cho máu
tôi ứa trào lên. Tại sao Việt cọng tàn ác đến như vậy?
Đó là câu hỏi đầu tiên hiện ra trong trí tôi. Những cái ác mà tôi
không thể tưởng tượng nỗi, không thể chịu đựng nỗi, không thể chấp nhận được.
Tôi vốn là một Phật Tử mà. Nhưng dù là một Phật Tử, máu tôi không thể không sôi
sục dâng trào trước cảnh tượng bất nhân, tàn ác đó.
Trên mặt đường nhựa, xác người nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người
chết ở mọi tư thế khác nhau, nằm sấp, nằm ngửa, nghiêng. Xác thì chân tay giang
ra, xác thì chân hay tay co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một
mình co quắp bên lề đường… Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân. Có xác đàn ông,
có xác đàn bà, có xác trẻ em, có xác không còn nhìn ra là đàn ông hay đàn bà nữa.
Không thể nào tả hết được!!!
Đoạn đường
Việt cọng giết người nầy, xảy ra ngay ngày Việt cọng chiếm thành phố Quảng Trị,
ngày 1 tháng 5 năm 1972 và những ngày sau đó.
Vậy là đồng bào nằm đây đã gần hai tháng. Da thịt đã rữa. Có nơi
xương trắng đã bày ra, sọ, tay chân hay xương sườn. Dù Quân Nhân mặc đồ trận
hay thường dân, thì đồ trận, áo quần cũng đã phai màu, mục nát. Mái tóc dài của
mấy Mẹ, mấy Chị, mấy Cháu đã tróc khỏi sọ não, bay là đà theo từng cơn gió thoảng,
trên mặt cát còn xông đầy mùi tử khí.
Họ là những người trốn chạy, dù họ là dân sự hay quân nhân. Họ trốn
chạy cọng sản. Họ trốn chạy chiến tranh. Họ trốn chạy tên bay đạn lạc, dù không
biết rõ của phe bên nào. Giết chết những người trốn chạy. Vậy là vô nhân đạo,
là vô lương tri. Là kẻ giết người, họ đã đi tới chỗ tận cùng của lương tâm.
Trên mặt đường và cả hai bên vệ đường, bên cạnh xác người là lỗ chỗ
các hố sâu của đạn súng cối, đại bác, hỏa tiễn mà giặc cọng đã nhẫn tâm rót xuống
để giết hại đồng bào, trẻ thơ vô tội.
Đại Lộ kinh
hoàng Quảng Trị
Xe cộ nằm dọc theo đường đi, mũi xe hướng về Nam. Xe Quân Đội, xe
Dân Sự, xe Hàng, xe đò chở khách. Xe lớn nhỏ đủ các loại. Nhiều chiếc bị cháy,
sạm đen, nhiều chiếc bị đạn pháo bắn hư hại một phần hay hoàn toàn. Rải rác đây
đó là các loại xe gắn máy, Vespa, Lambretta, Honda, Mobilette và khá nhiều xe đạp.
Hầu hết, bị hư, cong vành, bể lốp chỉ còn là đồ phế thải.
Dù là một người lính trận, từng vào sinh ra tử, tôi không dám nhìn
kỹ những cái xác ấy. Kinh hoàng quá! Kinh hoàng quá! Tàn ác quá! tàn ác vô cùng
tận!!!
Chúng tôi lặng yên di chuyển trong đau buồn và tức giận, vừa sẵn
sàng súng đạn để phản công, nếu địch phục kích, lại cũng vừa để tránh địch phát
hiện. Chúng sẽ pháo, pháo dồn dập, nếu thấy chúng tôi.
Đêm mùa hè, trời tối chậm. Chúng tôi được lệnh dừng quân, nghỉ qua
đêm. Tôi cho lệnh các Trung Đội đào hố cá nhân phòng thủ ở cả bốn hướng, trải rộng
dọc theo hai bên Quốc Lộ 1, để tránh tổn thất khi bị địch pháo kích, đồng thời
là để phản ứng ngay nếu bị địch tấn công. Tôi và Ban Chỉ Huy Đại Đội đóng cạnh
một chiếc xe GMC của phe ta bỏ lại.
Đêm trôi đi trong bóng tối tĩnh mịch, thỉnh thoảng có ngọn gió thổi
qua, tôi thấy dễ chịu đôi chút. Nhưng suốt đêm, tôi chỉ chợp mắt từng chặp. Tôi
không sợ chết. Nếu thần chết có đến, tôi sẽ chống lại, như cái bản năng sinh tồn
của muôn loài muôn vật. Chính tôi đã viết trên tường Đài Tử Sĩ ở An Lộc: “Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Nói câu
đó, và khắc viết lại câu nói đó của người xưa, tức là tôi đã chấp nhận cái kỷ
kiến ấy rồi. Có chi mà tôi phải thắc mắc.
Nhưng những thây người ngổn ngang, đang rửa mục, trên đoạn đường
đi qua hồi chiều ám ảnh tôi, làm tôi không ngủ được. Chiến tranh là tàn ác. Những
người đi đánh trận như tôi, vì Tổ Quốc, vì Đồng Bào, tôi chấp nhận nó. Nhưng với
những người nằm chết kia, tôi thấy tội nghiệp cho họ, hay như câu Mẹ tôi thường
nói: “tội vô cùng”. Tội cho họ quá, không làm sao một con người còn có lương
tâm, có thể chấp nhận được.
Sáng hôm sau thức dậy, nhìn vô thùng xe, nhìn chung quanh lại đầy
rẫy xác người chết khô, nằm co quắp, nằm dọc dài trên thảm cát, bên vệ đường.
Thật là quá thương tâm, não ruột. Tôi không kềm chế được nỗi xúc động, hai dòng
nước mắt ứa trào.
Đại Đội tiếp tục tiến ra hướng Bắc. Tới một cây cầu, có phải là Cầu
Dài như tên dân chúng thường gọi đã bị sụp đổ, chúng tôi phải trầm mình lội nước
vượt qua song.
Tôi xem lại bản đồ, bên cạnh Quốc Lộ 1, phía trái hướng Tây, song
song với Quốc Lộ là đường Xe Lửa Saigon, Đông Hà. Bên kia đường Xe Lửa là khu đồi
hoang, lúp xúp cây dại, cây mua và cây sim. Có lẽ vùng nầy tới mùa hoa nở, hoa
mua và hoa sim phủ kín ngọn đồi. Nó giống như những ngọn đồi miền Trung, Bình
Trị Thiên hay Thanh Nghệ Tĩnh vậy. Đây là “Những đồi hoa sim, màu tím hoa sim,
tím cả chiều hoang biền biệt”. Tiếc rằng, tôi là người chiến binh, không có thì
giờ lang thang qua những đồi Sim nầy để thấy màu tím của Quê Hương.
Di chuyển thêm chừng cây số nữa, bên trái là một Căn cứ Pháo Binh
của Sư Đoàn Dù, tình cờ tôi gặp Chuẩn Úy Hoàng Công Thức, Khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị
Thủ Đức, là em một người bạn học cùng xóm, con trai Thầy Hoàng Văn Ngũ, Giáo Sư
Sinh Ngữ Trường Trung Học Công Lập Nguyễn Tri Phương, Huế. Anh là Tiền Sát Viên
Pháo Binh của Sư Đoàn Nhảy Dù, đang hoạt động vùng nầy.
Sau cùng, Đại Đội tôi cũng đã tiếp cận tuyến phòng thủ của Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù, tôi trình diện Mê Linh,
tức là Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù. Cùng gặp Mê
Linh với tôi sau đó là Đại Úy Nguyễn Ích
Đoan, Đại Đội Trường Đại Đội 1 Biệt Cách Dù.
Mê Linh giao nhiệm vụ cho hai Đại Đội Biệt Cách Dù là tái chiếm
Nhà Thờ La Vang, tên mới là Vương Cung Thánh Đường La Vang:
– “Đại Đội các anh phải chiếm lại Nhà Thờ nầy, và giữ nó, không
cho địch chiếm lại”.
Có nghĩa là Dù đã chiếm nó. Đó là công lao của “Hùng móm”. Nhưng
Hùng phải bỏ nó lại đi tiếp xuống để đánh vào thành phố Quảng Trị. Thừa cơ hội
đó, Việt cọng chiếm lại mục tiêu nầy.
Con đường tiến quân của Cọng sản đánh vào Quảng Trị là con đường từ
Ba Lòng xuống Như Lệ, Phước Môn, bên hữu ngạn sông Thạch Hãn, theo một con đường
bỏ hoang đã lâu, có cái tên cũ là “Đường Bảo Đại”. Nó không giống như “Đường Trần
Lệ Xuân” ở Phước Long, con đường đi lấy gỗ rừng, của dân xe be, khai thác gỗ.
Bản Đồ mặt
trận Quảng Trị năm 1972
Ở đây, “Đường Bảo Đại” là đường đi săn của Nhà Vua trước năm 1945,
khi Ông Vua ham săn bắn nầy còn ngồi trên Ngai Vàng.
Quân Cọng sản, theo con đường này, đưa quân chiếm lại Nhà Thờ La
Vang. Nó cũng có nghĩa là khi Tiểu Đoàn 11 Dù từ hướng Tây đánh vào Thành Phố,
thì coi như Tiểu Đoàn đưa lưng ra cho địch từ sau đánh tới. Trong ý nghĩa đó,
hai Đại Đội Biệt Cách Dù có nhiệm vụ lấy lại Nhà Thờ La Vang, và giữ nó là nhằm
mục đích bẻ gãy ý đồ của địch.
Bây giờ chúng tôi lại phải áp dụng chiến thuật sở trường: đánh
đêm.
Vị trí giữa địch và ta đã thay đổi. Trước kia, chúng ta ở trong đồn, Việt cọng công đồn.
Chúng phải đánh ta vào ban đêm, chúng ta khó phát hiện địch. Bây giờ thì chúng
ta phải công đồn. Chúng ta cũng đánh đêm, địch không thể phát hiện được ta.
Nhà Thờ La Vang mặt quay về hướng Đông. Đại Đội 1 đánh từ hướng
Tây Tây Nam, phía có Hang Đá Đức Mẹ. Đại Đội tôi cũng đánh từ hướng Tây Tây Bắc,
phía có con đường đi lên Nhà Thờ Phước Môn ở phía Tây Nhà Thờ La Vang, gần chân
núi Trường Sơn hơn.
Vào nửa đêm, chúng tôi âm thầm hai cánh quân tiến sát vòng đai Nhà
Thờ La Vang, vừa dàn quân lại gặp một trận mưa lớn. Chúng tôi án binh bất động.
Trời vừa sáng, dứt cơn mưa, quan sát các bố phòng của địch, tôi điện
báo cho Đại Úy Đoan để phối hợp tác chiến, rồi bắt đầu phát lệnh xung phong, tấn
công chớp nhoáng, ào ạt. Địch bị quá bất ngờ, nên một số bị tiêu diệt, một số vất
súng đầu hàng, vài ba tên tháo chạy vào bên trong Nhà Thờ dùng B.40, AK.47 chống
trả, bị cánh quân hướng Tây Bắc của Đại Đội 4 chúng tôi, ném lựu đạn triệt hạ
20 tên, bắt sống 05 tên.
Chúng tôi 03 tử thương và 12 bị thương. Thu dọn chiến trường xong,
Đại Đội 1 được lệnh ở lại bố phòng Nhà Thờ La Vang. Đại Đội tôi tiếp tục tiến về
hướng Đông Đông Bắc để thanh toán mục tiêu kế cận: Chi Khu Mai Lĩnh.
Chi Khu Mai Lĩnh, thuộc Quận Mai Lĩnh, tọa lạc trên đoạn đường rẽ,
tên thường gọi là Ngã ba Long Hưng, là con đường cũ đi vào Thành Phố, phía
ngoài Sân Vận Động Quảng Trị cũ, kế cận Trường Trung Học Nguyễn Hoàng.
Trên con đường tiến quân từ Nhà Thờ La Vang đến Chi Khu Mai Lĩnh,
Đại Đội tôi bị tử thương một khinh binh và một Tiểu Đội Trưởng vì đụng chốt Việt
cọng tại ngã ba đường La Vang và Quốc Lộ 1. Nhổ chốt là sở trường của Biệt Cách
Dù, theo chiến thuật của Đại Tá Huấn. Pháo Binh cho nổ một tràng vào vị trí địch
buộc địch phải thụt đầu xuống, núp trong các hố cá nhân. Các viên đạn cuối là đạn
lép. Trong khi, nghe tiếng đạn đi, Việt cọng còn núp thì chúng tôi biết đó là đạn
lép, không có gì nguy hiểm, liền nhanh chóng áp sát chỗ chúng ẩn núp. Nhờ đó,
chúng tôi thanh toán bọn chúng không mấy khó khăn.
Đại Đội tôi cũng áp dụng chiến thuật đánh đêm để tiến chiếm Chi
Khu Mai Lĩnh. Đơn vị Việt cọng chốt lại đây không đông, khoảng 15 hay 20 chục
tên, chúng nằm trong các công sự có sẵn trong Chi Khu để chống trả. Tin vào hệ
thống phòng thủ, chúng không ngờ binh sĩ của Đại Đội tôi, một nửa ém quân bên
ngoài, thỉnh thoảng tác xạ Súng Phóng Lựu M.79 vào bên trong Chi Khu, một nửa lợi
dụng trời tối đen như mực, bò vào nằm sát bên ngoài công sự. Khi chúng tác xạ
chống trả là để lộ mục tiêu, nên bị chúng tôi ném lựu đạn giết chết và làm trọng
thương hầu hết.
Ở lại trấn thủ Chi Khu Mai Lĩnh được hai hôm, Đại Đội tôi được lệnh
tăng phái cho Tiểu Đoàn 5 Dù, Tiểu Đoàn
Trưởng là Thiếu Tá Bùi Quyền, Thủ Khoa Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt, đang hành quân
ở phía Đông
Thành Cổ. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đang đóng tại khu vực thôn An Thái,
cách Cổ Thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Trình diện danh tánh, cấp bậc, chức
vụ với Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Bùi Quyền nhìn tôi nói đùa:
– “Tôi thì nhỏ con, Trung Úy Lực thì to con, vậy tôi gọi ông là “Lực
đô” nhé. À à… mà “Lực đô” nói lái là “Lộ Đức”, vậy thì Lộ Đức là ám danh đàm
thoại vô tuyến tôi đặt cho Trung Úy trong cuộc hành quân này. Trung Úy chịu
không?”
Nói xong, Thiếu Tá Quyền cười vui vẻ vì cái sáng kiến độc đáo của
Ông. Nhờ Ông, mà cái biệt danh “Lộ Đức” đeo đẳng theo tôi từ đó cho tới bây giờ.
Trung Úy Lê
Đắc Lực và Đại Úy Nguyễn Ích Đoan
Hôm sau Đại Đội 3 của Đại Úy Phạm Châu Tài cũng được điều động đến
tăng cường cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Thiếu Tá Bùi Quyền họp các Đại Đội Trưởng
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và Biệt Cách Dù để ban lệnh hành quân. Ông giao cho tôi nhiệm
vụ tấn công chiếm “Nhà Thờ Hạnh Hoa thôn”, thuộc làng Cổ Thành, quận Triệu Phong.
Đai Đội 3 là lực lượng trừ bị. Thôn nầy ở bên sông, đẹp như cái tên của nó, nằm
trên con đường đất hẹp, từ phía đông Thành Cổ ra tới bờ sông Vĩnh Định.
Thôn Hạnh Hoa có những ngôi nhà cổ, vườn rộng, cây lá xanh tươi,
nhiều gốc mai lưu niên, có thể là trồng từ lâu lắm, đã mấy chục đời. Nhà Thờ Hạnh
Hoa nhỏ, đối diện với bên kia đám ruộng nhỏ là Nhà Thờ Trí Bưu cao lớn, có tháp
chuông vươn khỏi những ngọn tre làng.
Địch đang chiếm giữ Nhà Thờ. Đánh trận ở đây, khi thấy địch chiếm
Nhà Thờ, tôi thường nhớ lại một câu trong bài hát “Hoa trắng thôi cài trên áo
tím”:
“Từ khi giặc tràn qua Xóm Đạo,
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương”
Vâng, tôi là người Chiến sĩ giữ Quê Hương và tôi đang đuổi giặc ra
khỏi xóm quê nầy, mặc dù tôi chẳng có một em nhỏ nào ở đây cả, “để nghe khe khẽ
lời em nguyện” mà chỉ có “Luyến thương chan chứa Tình Quê Mẹ ” mà thôi.
Hình như quân Cọng sản chỉ quen với chiến thuật tấn công hơn phòng
thủ. Nhờ vậy chúng tôi lần nữa xử dụng kỹ thuật đánh đêm.
Tôi bung bốn Trung Đội men theo các nhà dân bị đổ nát, song song
tiến sát Nhà Thờ Hạnh Hoa Thôn. Lại một trận mưa rào đổ xuống giúp xóa bớt tiếng
động di hành của chúng tôi, nhờ đó mà Đại Đội đã vào chiếm cứ Nhà Thờ không một
tiếng súng nổ. Đáng buồn là khi trời hừng sáng, địch đã nổ súng phản công và
trong lần đụng độ này, tôi mất người Hiệu Thính Viên mà tôi rất thương mến: Hạ
Sĩ Chấn. Anh hy sinh ngay khi đang cầm ống nghe liên lạc báo cáo với Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, thì bị một viên đạn bắn trúng đầu.
Vào ngày hôm sau, từ tờ mờ sáng đại bác của Việt cọng tác xạ liên
hồi từ hướng Tây vào các vị trí phòng thủ của các đơn vị Nhảy Dù, Đại Đội tôi
và rải rác quanh khu vực phía Đông của Cổ Thành.
Vừa ngưng pháo thì Việt cọng bắt đầu mở cuộc tấn công qui mô với một
đơn vị cọng quân đông hơn quân số Đại Đội tôi tới khoảng 5 lần.
Bọn chúng từ một ngôi làng ở hướng Bắc Thôn Hạnh Hoa, ồ ạt xung
phong biển người tấn công vào Nhà Thờ Tri Bưu và Nhà Thờ Hạnh Hoa. Chúng tôi xử
dụng hết hỏa lực của mình để ngăn giặc. Nhưng kỳ lạ chưa? Bọn chúng như điên cuồng,
như rồ dại, như uống bùa mê, thuốc lú, hết lớp nầy ngã xuống, lớp sau tiến lên.
Lớp sau ngã xuống, lớp sau nữa tiến lên. Không những chúng tôi ngạc nhiên, thấy
kỳ lạ mà còn kinh hoảng nữa, tự hỏi: “Sao bọn chúng ngu xuẩn, điên rồ vậy?” Cứ
tình trạng nầy, Đại Đội tôi, với quân số ít ỏi, chưa kịp bổ sung sau trận An Lộc,
sẽ bị chúng tràn ngập mất thôi.
Nhưng cuối cùng, trước hỏa tập TOT của Pháo Binh Dù và Sư Đoàn 1,
cùng sự chiến đấu dũng cảm của các Đại Đội Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và Đại Đội 4
chúng tôi. Bọn chúng quay đầu tháo chạy như lũ chuột, bỏ lại trên chiến trường
la liệt xác chết của đồng bọn, của những tên giặc cọng cuồng tín, vô thần, mất
hết cả lương tri, nhân tính.
Tôi ngồi nghỉ mệt, lật tấm bản đồ ra xem lại vị trí của mình. Tôi
bỗng giật mình khi chợt nhớ câu chuyện của một người bạn cũ kể lại. Tết năm Mậu
Thân, Việt cọng dùng con đường nầy để tiến quân đánh vào Thị Xã Quảng Trị. Ngay
tại điểm nầy, chỗ tôi đang ngồi: Thôn Hạnh Hoa, Việt cọng đụng phải một Tiểu
Đoàn Nhảy Dù và thiệt hại không ít. Nhờ đó mà Quảng Trị được yên hơn Huế là vì
vậy.
Nhà Thờ Hạnh Hoa
Hèn chi, Việt cọng cố chiếm lại Nhà Thờ Hạnh Hoa Thôn, là vì nó nằm
trên con đường chiến thuật. Mất Nhà Thờ Hạnh Hoa Thôn, là chúng mất con đường
tiếp cận với binh lính của chúng đang cố thủ trong Cổ Thành. Giữ được Nhà Thờ Hạnh Hoa Thôn là Đại Đội tôi đã đóng góp
sức mình cho công việc tái chiếm Cổ
Thành Quảng Trị.
Tình hình chiến sự ở khu vực cận Cổ Thành vẫn còn sôi động. Súng đạn
từ trong bắn ra từ ngoài bắn vào liên tục. Tiểu Đoàn 5 Dù được tăng cường thêm
Đại Đội 111 và Đại Đội 2 Trinh Sát Dù, đang nỗ lực tấn công tái chiếm Cổ Thành.
Thiếu tá Bùi Quyền ra lệnh cho Đại Đội 3 và Đại Đội 4 Biệt Cách Dù cùng tiến
lên chiếm lĩnh Nhà Thờ Trí Bưu, địch phòng thủ tại đây, bảo vệ sườn cánh phải,
hướng Bắc của Cổ Thành…
Tôi dẫn Đại Đội thi hành nhiệm vụ. Chẳng còn “thằng cùi” nào trong
Nhà Thờ Trí Bưu cả. Bọn chúng đã bị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù triệt hạ hầu hết trong
lần tập kích trước, rút chạy cả rồi. Ngay nhà dân chúng chung quanh Nhà Thờ,
dân thì di tản đã lâu, từ đầu trận đánh. Bây giờ Việt Cộng chẳng còn thằng nào
bén mảng đến đây. Tôi vẫn cho Binh sĩ lục soát kỹ ở Nhà Thờ. Không có gì hết,
ngoài một số xác chết của đám “sinh Bắc tử Nam” bị sình thối nằm vương vãi một
vài nơi trong và ngoài khuôn viên Nhà Thờ. Nhưng tôi rất buồn khi nhìn lên Bàn
Thờ Thánh. Tượng Chúa Giê Su còn đó, một mình, trên Thập Giá. Cha Xứ và con
chiên chạy trốn giặc cọng hết rồi. Cảnh tượng ấy làm cho tôi thấy đau lòng hơn
cả câu thơ của Phạm Văn Bình “Chúa buồn trên Thánh Giá. Mắt nhạt nhòa mưa qua!
”.
Tôi không khóc, vốn dĩ từ nhỏ tôi ít khi khóc. Nhưng xúc động thì
tình cảm của tôi không thua kém ai, nhất là khi tôi nhìn lên gác chuông Nhà Thờ.
Gác chuông đã bị đổ sập, chỉ còn một nữa. Là một Phật Tử, không mấy khi tôi vào
quì lạy trong Nhà Thờ để nhìn lên tượng Chúa, nhưng gác chuông Nhà Thờ là một
hình ảnh không xa lạ gì với số đông người Việt Nam. Vì vậy, khi nhìn cái gác
chuông gãy đổ, lòng tôi xúc động hơn. Nơi đây không còn tiếng chuông Nhà Thờ nữa,
tiếng chuông rộn rã tôi đã từng nghe khi tôi còn tuổi ấu thơ.
Đại Đội được lệnh nằm án ngữ tại Nhà Thờ Trí Bưu, ban đêm bung
quân ra bên ngoài để ngăn chặn địch có thể trở lại quấy phá. Trong một lần kích
đêm, Tiểu Đội tiền đồn của Trung Sĩ Khưu Công Quí bắn tử thương hai tên cọng mò
mẫm đi vào hướng khu nhà đổ nát của dân, chắc là chúng tìm lương thực (?).
Không lâu sau đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, ra lệnh Đại Đội 3 và 4 chúng
tôi đưa quân về hướng Đông tiếp cận Cổ Thành. Có đơn vị Nhảy Dù đang chờ ở đó.
Từ Nhà Thờ Trí Bưu, Đại Đội đi lom khom, lẩn khuất trong các khu
vườn nhà dân, từ vườn nầy qua vườn khác để tránh địch phát hiện. Tới phía ngoài
Cổ Thành, trong vị trí bố phòng của các Đại Đội Nhảy Dù, tôi nhìn thấy có một số
Binh Sĩ Nhảy Dù tử thương, bị thương đang nằm trên các băng ca chưa kịp di tản.
Ngay vào lúc đó, hàng loạt trái đạn do Pháo Binh tác xạ, rồi tiếp
theo sau là các Chiến Đấu Cơ A.37, Skyraider của Không Quân Việt Nam thay nhau
oanh tạc, nổ dồn dập, inh ỏi trên Kỳ Đài Cổ Thành Quảng Trị. Bỗng dưng, không
rõ từ đâu có hai chiến đấu cơ loại F.5 của
Mỹ bay vào khu vực dội bom, nổ lạc hướng về phía phòng thủ của Nhảy Dù, gây nên
tổn thất nặng nề về nhân mạng cho Đại Đội 51 và 52 của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và một
ít cho hai Đại Đội Biệt Cách Dù 3 và 4 đang bố phòng kế cận.
Sự kiện nầy làm cho quân số Nhảy Dù hao hụt nhiều hơn. Họ tham gia
cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị kể từ
đầu tháng 5 cho đến bây giờ, vậy là đã hơn 2 tháng. Hai tháng đánh trận
liên miên, ngày đêm không nghỉ, “sức voi” cũng không chịu nỗi, nói chi sức người.
Tôi nghĩ thầm mà thấy thương cho các chiến hữu của tôi.
Ngày
27 tháng 7 năm 1972, ba Lữ Đoàn Nhảy Dù và hai Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù có lệnh
triệt thoái, bàn giao chiến trường cho Thủy Quân Lục Chiến. Vì là lực
lượng tăng phái, Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù được rút trước. Nhảy Dù còn ở lại,
chờ quân bạn tiến lên tiếp nhận phòng tuyến.
Barbara và Helène là hai cao điểm nằm ở thượng nguồn, giữa sông Ba
Lòng và sông Nhùng về phía Tây Tỉnh Quảng Trị, gần Trường Sơn. Đỉnh Helène cao
hơn, thường bị mây mù bao phủ sớm chiều, nhất là về mùa mưa, mây che mờ mịt.
Còn Barbara thì thấp hơn một chút, ít mây mù hơn, thuận tiện công việc quan sát
đường chuyển quân của cọng sản quanh mật khu Ba Lòng.
Rút khỏi Quảng Trị, mấy chiếc Chinook bốc thả Đại Đội 1 và Đại Đội
4 xuống Căn cứ Babara, với nhiệm vụ là từ cao điểm này tung các Toán Thám Sát của
Đại Đội, thâm nhập vào phía Nam mật khu Ba Lòng để theo dõi, phát hiện sự chuyển,
rút quân của địch, mà hướng dẫn Pháo Binh tác xạ và Khu Trục oanh kích.
Căn cứ nầy trước kia là của Quân Đội Mỹ trú đóng. Họ đã rút đi,
nay chỉ còn lại những công sự ngầm và hàng rào phòng thủ bao quanh phòng tuyến.
Chiến trường Quảng Trị vẫn còn tiếp diễn. Nhưng có lẽ địch đã núng
thế rồi, không còn hy vọng gì giữ Cổ Thành lâu hơn được nữa. Do đó, các Toán
Thám Sát báo cáo thấy địch rút quân ra nhiều hơn là đưa quân vào tăng cường cho
quân phòng thủ trong Thị Xã. Các Toán Thám Sát nhận lệnh theo dõi và định vị
chính xác đường mòn, căn cứ địch. Từ đó, tôi thông báo về Bộ Chỉ Huy để xin
Pháo Binh, Phi Cơ tiêu diệt, thiêu hủy.
XXX
Công việc cứ tuần tự như thế cho đến khi nghe tin Chiến Thắng. Sư Đoàn Thủy
Quân Lục chiến giương cao ngọn Cờ Vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc Việt Nam trên Cổ
Thành Quảng Trị. Hôm ấy là ngày 16 tháng 9 năm 1972 trước kỳ hạn ba
tháng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa.
Có một điều, trong suốt gần ba tháng dài cùng phối hợp chiến đấu
bên cạnh các Tiểu Đoàn Dù, tôi vẫn không hiểu tại sao Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù
là một đơn vị tinh nhuệ, chiến đấu can trường, đã mang lại nhiều chiến công hiển
hách, mà gần nhất, điển hình nhất là An Lộc, nhưng khi đưa vào chiến trường Quảng
Trị lại không là một nỗ lực chính, giao phó riêng một vùng trách nhiệm như hồi
Mậu Thân ở Ngã Ba Cây Quéo, Cây Thị, hay vừa qua tại An Lộc, mà lại xé lẻ,
riêng rẽ từng Đại Đội, để tăng cường cho các Tiểu Đoàn Dù và đặt dưới quyền điều
động, sinh sát của họ mà thôi.
Phải chi với sở trường đánh địch trong thành phố với chiến thuật
du kích, đánh đêm tài tình, điêu luyện, với tài chỉ huy mưu lược của Đại Tá
Phan Văn Huấn, khi tham chiến tại Quảng Trị mà được hoạt động riêng rẻ chắc chắn
Liên Đoàn sẽ lại tái diễn thêm một kỳ công, chiến tích lẫy lừng, để sớm mang lại
chiến thắng, rút ngắn thời gian tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị mà Sư Đoàn Dù đã đổ
máu không ít.
Cổ Thành Quảng Trị sau trận chiến
Thế là tàn một cuộc chiến. Lòng tôi vui mừng vì chúng ta đã chiến thắng, nhưng không khỏi bâng khuâng tự hỏi:
– “Tại sao Cộng Sản Bắc Việt không ở yên ngoài kia mà đem quân xâm
lăng chúng ta, gây nên hàng vạn, hàng vạn người “Sinh Bắc tử Nam”. Câu hỏi
không dễ trả lời, nhưng có bao nhiêu người khi gây ra một cuộc chiến, nghĩ đến
câu: “ Nhất tướng công thành, vạn cốt
khô!”.
Liên Đoàn 81
Biệt Cách Dù trong đó có Đại Đội 4 Biệt Cách Dù do tôi chỉ huy, một lần nữa
đã góp một phần công lao, xương máu, để viết lên thêm một chiến thắng oai hùng,
lừng lẫy trong trang Sử Chiến Tích của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa, để mãi mãi
lưu truyền cho Hậu Thế.
TQLC cắm cờ
trên Cổ thành Quảng Trị
Source:
.
No comments:
Post a Comment