Lực lượng
địch:
Để tấn chiếm
Quảng Trị, mặt trận B5 CSBV đã tung ra một
lực lượng tương đương 6 Sư đoàn gồm có :
·
Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với
sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn phòng không 230, 232, 241 và
280, 2 Tiểu đoàn Hỏa tiễn, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công
Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị.
·
Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy
gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng
cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn
Pháo 164 và 84, một Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204,
hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công
và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
·
Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa
phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn
công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong.
·
Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới
Lào Việt.
·
SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3
Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di
chuyển vào thung lũng Ashau áp lực mạnh
trên thành phố Huế.
·
2 Trung Ðoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường
Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Ðà Nẵng..
Lực lượng
bạn:
Lực lượng
VNCH có các đơn vị sau đây:
·
SÐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.
·
Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ
Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.
·
Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol (hay Tân
Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến) .
·
Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ
C1, A1, A2 và A3.
·
Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
·
LĐ147 / TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb
và Sarge.
·
LĐ258 / TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và
Barbara.
·
Liên Ðoàn 1 BÐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.
·
Liên Ðoàn 4, 5 BÐQ tăng cường
·
Trung Ðoàn 4/SĐ2BB.
·
Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh ,Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48)
·
Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + NQ
·
8 Tiểu Đoàn Pháo binh
·
SÐ TQLC: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh
·
SÐND với 3 Lữ Ðoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.
Lịch sử
Tỉnh Quảng Trị và Cổ Thành
Tỉnh Quảng
Trị phía Bắc giáp Quảng Bình, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Thừa
Thiên Huế, phía Tây là dãy Trường Sơn và nước Lào. Diện tích khoảng 4700 km2. Tỉnh
lỵ Quảng Trị cách thành phố Huế 55 km
(34 miles) và cách Sài Gòn 1227 km (767 miles) về hướng bắc.
Phía Đông Quảng
Trị là đồng bằng hẹp, phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần hai phần
ba diện tích tỉnh. Ba sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ và Sông Thạch Hàn.
Sông Bến Hải phát nguồn từ dãy Trường Sơn ra đến biển ở cửa Tùng, dài 75 km (47
miles). Sông Thạch Hàn (còn gọi là sông Quảng Trị) chảy từ quận Hương Hóa và quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa
Việt. Sông Cam Lộ (còn gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với
sông Thạch Hãn, chảy qua hai quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh còn có một
số dòng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung... Bờ biển Quảng Trị dài 66 km
(41 miles), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá, suốt bờ biển đều bằng phẳng và
có nhiều cát, nên không lập được các hải cảng.
Đất Quảng Trị
xưa đã là đất Lập Quốc của Việt Nam, một phần của bộ Việt Thường, một trong 15
bộ của nước Văn Lang. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được
vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (bây
giờ là Quảng Bình, Quảng Trị).
Năm 1306, Chế
Mân dâng hai châu Ô, Lý làm sính lễ để
cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận,
Châu Lý làm Châu Hóa. Châu Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng
Trị ngày nay.
Tháng mười
năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn đất Thuận Hóa, lập dinh ở Ái Tử
thuộc phủ Triệu Phong. Năm 1804 vua Gia Long đặt lại tên là dinh Quảng Trị. Tên
Quảng Trị có từ đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh
vào năm 1876.
Trước năm
1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương, Hương Hóa, Hải Lăng, Cam
Lộ, Mai Lĩnh và Triệu Phong
Hơn hai thế
kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được xây cất từ
đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch.
Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ
thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm
1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được
xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông
được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác
trong dân gian như mủ cây Ô-Dước. Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam Bắc. Sau
chiến dịch mùa "Hè đỏ lửa" 1972 toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị
san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn
tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn
Ðể bảo vệ
khu vực Quảng Trị. Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị như sau:
SÐ3BB tân lập
trách nhiệm bảo vệ Quảng Trị. Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bản doanh Sư
Ðoàn đặt tại Ái Tử.
Trung Ðoàn
2, một Trung Đoàn cũ của SĐ1BB, đóng tại các căn cứ A4 hay là Cồn Thiện, Fuller, C2 và C3.
Trung Ðoàn
56 đóng tại các căn cứ Hỏa Lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll). Trung
Ðoàn 57 đóng tại CCHL C1 ( Gio Linh), A1, A2 và A3 .
Ngoài ra
SÐ3BB còn được tăng phái 2 Lữ Ðoàn TQLC. Lữ Ðoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc, núi Bá Hộ,
Sarge, Holcomb. Lữ Ðoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara
. Hai Lữ Ðoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ mặt phía Tây của Quảng Trị.
Sư đoàn 3 bộ
binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người.
Trong các đơn vị cơ hữu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn
vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai
trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào
binh,, quân dịch và các đơn vị ÐPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa
có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng..
Diễn Tiến:
Khởi động
chiến dịch tại Quân Khu 1 VNCH, Tướng CSBV Võ Nguyên Giáp xua 45.000 quân vượt
qua sông Bến Hải với hằng trăm chiến xa, hằng trăm đại pháo và một lực lượng
tương đương 6 Sư đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng Trị, Ải địa đầu
cực Bắc VNCH. Ðồng thời tung SÐ324B cùng 2 Trung Ðoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa
thành phố Huế và Ðà Nẵng...
Ngày 30/3/1972 đúng 12 giờ
trưa,lợi dụng cơ hội thay đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung
Đoàn 57 thuộc SĐ3BB. Bô đội CSBV bắt đầu pháo kích dữ dội vào các căn cứ trong
vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn Thiên, Ðông Hà và
Quảng Trị. Pháo binh cộng sản, với các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa
tiễn 122 ly tầm xa 27.5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn
phá các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có.
Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SÐ3BB, đang hoán chuyển
vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị trí phòng thủ bị bỏ ngỏ, đồng
thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh. Sau đó, Cộng
quân huy động các đơn vị chủ lực của 2 SÐ304 và 308 cùng 3 Trung Ðoàn biệt lập
của B5, một Trung Đoàn Đặc Công và 2 Trung Đoàn Chiến Xa 203 và 202 vượt khu
Phi Quân Sư chia thành 4 mũi tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của các đơn
vị bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa đang trấn đóng các căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng
Trị.
Các mũi tấn
công đầu tiên nhắm vào các căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là Fuller và Cồn Thiên
A4, hai mủi khác nhắm vào Trung Đoàn 57 tại các Căn cứ A1 và A2. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB
và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không yểm
trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi
cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và
trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đã không thể hoạt động hữu hiệu để yểm
trợ được cho quân bạn.
Hỏa lực pháo
binh CSBV đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến,
khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa,
chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố
Quảng Trị phía Nam.
Đến 6 giờ
chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích
trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự phòng thủ bị phá
hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch quân tập
trung tấn công biển người tràn ngập căn cứ Sarge. Đến 4 giờ sáng hôm sau ngày
1/4/1972, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô
và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 gom về tập trung tại căn cứ Mai Lộc. Đây là
2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công.
Ngày 1/4/72, chiến trường
càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị
tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc
Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc,
xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và lưu
thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản
để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH.
Các căn cứ
Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo nặng, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ
ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, vì thời tiết xấu nên không quân không thể
yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do
SÐ3BB trấn giữ, bị tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực
để gom quân và thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông
Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai
Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc
9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về
Đông Hà theo quốc lộ 1. Một lực lượng chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, dọc
theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh
tử thủ Đông Hà "bằng mọi giá". Toán chống chiến xa trang bị đại bác
106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ thời
tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính
xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa
không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông
Hà. Để đề phòng chiến xa địch vượt qua cầu Đông Hà, vào 16 giờ 30 chiều cùng
ngày, chiếc cầu này được giật sập, để ngăn cản kế hoạch của CSBV đưa bộ binh và
chiến xa tiến xuống phía Nam.
Ngày 2/4/1972 BTL/SÐTQLC
và Lữ Ðoàn 369 được không vận ra Huế để thiết lập tuyến phòng thủ phía Bắc Sông
Mỹ Chánh. TÐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng
về Mỹ Chánh.
Trong ngày nầy,
Cộng Sản cắt đứt QL9 từ Ðông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TÐ8TQLC, bị
SÐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya .
Tình hình
chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa,
Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau
chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng
ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội cộng sản BắcViệt,
gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại
vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ
tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành
phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà
trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới, tình cảnh
của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp chỉ huy của
SÐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn
định tình thế.
Trong lúc đó
căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn, Cộng quân vẫn
tiếp tục pháo kích dữ dội vào căn cứ nhưng không có quân tiếp viện. Đúng
14 giờ 30 chiều, Trung Tá Phạm Văn Ðính Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 56/3BB, đã
đầu hàng Cộng Sản cùng với 1,500 binh sĩ VNCH bị quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác
175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly
của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Biến cố nầy
xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của
các chiến sĩ vùng giới tuyến.
Sau khi căn
cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC
trở thành tuyến đầu, đã liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lịnh tái phối
trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hết đạn, đã được phá hủy bằng chất
nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà.
Sáng hôm sau, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung và tái trang bị.
Bộ Tư Lệnh
SÐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy tiền phương tại căn cứ Ái Tử bị pháo kích nặng nề, để
lui về Quảng Trị. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ
nam Đông Hà và LÐ258 với các Tiểu Ðoàn 1,3 và 6 /TQLC được tăng cường thêm
TÐ3PB/TQLC vẫn duy trì tại các căn cứ Ái Tử, căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà.
TÐ7/TQLC đang trấn ngự tại QL1 được điều động ra tăng cường phòng thủ căn cứ Ái
Tử. (như vậy là bỏ ngỏ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ)
Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày
tấn công của quân CSBV, 11 căn cứ hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đã thất thủ
liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng pháo đủ loại làm cho Pháo Binh VNCH bị suy yếu,
trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị.
Ngày 3/4, Bộ
TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1.
BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn
cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị
và Thừa Thiên.
Các sư đoàn
CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xã Quảng Trị, Vì Cầu Ðông Hà bị
giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ
để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9
tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ
558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn
công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây.
Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ
Đoàn 147/TQLC rút lui về Huế để chỉnh trang, như vậy về phía tây, chỉ còn có
1TÐ/BÐQ, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố.
Ngày 6/4/1972 lực lượng
CS từ Ba-Lòng phía Nam sông Thạch Hản tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị
thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.
Ngày 8/4/1972, LÐ258 điều
động TÐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TÐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng
Hoàng thay thế cho một TÐ/BÐQ.
Sáng ngày
9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Ðoàn cộng quân
có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ
đúng lúc, Bộ Ðội Cộng Sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải mìn bị nổ
tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.
Hai Ðại Ðội
/ TÐ1TQLC cùng 1 chi đoàn chiến xa M48 và 1 chi đoàn Thiết Vận Xa M113 từ Ái Tử
đến trợ chiến phá tan cuộc tấn công của địch. 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa,
21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt-Mỷ oanh kích, bãi mìn cùng
pháo binh. 2 chiếc bị bắt sống. Trước tình hình nghiêm trọng, Bộ TTM quyết định
tăng cường Liên Ðoàn 4 và 5 BÐQ cho Quân Ðoàn I.
Ngày 13/4/1972 Lữ Ðoàn
258TQLC được điều động giữ tuyến phòng thủ từ Ái Tử đến Phượng Hoàng. Từ Ái Tử
lên mạn Bắc tới QL1, Ðông Hà là vùng trách nhiệm của LÐ5BÐQ và Thiết Ðoàn 17 Kỵ
Binh. Từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là
tuyến án ngữ của LĐ4BÐQ và Thiết Ðoàn 20 Kỵ Binh. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm
khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên Đoàn 1/BĐQ phòng thủ thị xã
Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hãn.
Ngày
14/4/1972 với sự yểm trợ hỏa lực của Mỹ, sự chiến thắng của LÐ/TQLC tại Pedro
và sự tăng cường lực lượng của BÐQ, Tướng Hoàng Xuân Lãm đã mở cuộc hành quân
Quang Trung 729 để tái chiếm vùng lãnh thổ bị mất về tay CS: Trung Ðoàn 57BB
phòng giữ tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BÐQ, TQLC và Thiết Giáp chĩa mũi
dùi tấn công vào mặt phía Tây của Tỉnh Quảng Trị.
Chiến cuộc
bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch Công quân đã chống trả và pháo
kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị
giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của
LÐ5 BÐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ
vững đựợc các vị trí trách nhiệm.Do vì việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và
pháo trận cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hữu hiệu và
còn làm suy yếu tiềm lực phòng thủ sẵn có.
Ngày 18/4/1972 thất bại
trong trận tấn công căn cứ Phượng hoàng, Cộng Sản Bắc Việt đã tung thêm quân áp
lực nặng căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.
Ngày 23/4/1972 bất chấp sự
thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Cộng sản Hà Nội vẫn
điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người,
trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.Trong lúc đó khắp các nẻo đường Quảng
Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm, bởi cảnh pháo kích bừa bãi của cộng sản.
Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
Ngày 24/4/1972 Lữ đoàn 147 TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và
TĐ2/PB/TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị thay
thế vùng trách nhiệm của LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm
TĐ1/TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng
Trong đêm nầy CS pháo kích làm cháy kho tiếp
liệu của SÐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế
quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẵng tới.
Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích,
SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đã mở nhiều mũi tấn công tuyến phòng thủ của
LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa
T-54. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái
Tử từ 2 đến 3 cây số.
Ngày 27/4/1972 cộng quân tổng
tấn công tất cả tuyến phòng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến căn cứ Phượng
Hoàng. Tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung vào tỉnh lỵ,
căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lĩnh và Hải Lăng. Đêm 27/4, pháo binh CSBV bắn
trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ.
Ngày 28/4, Cộng quân pháo dữ dội vào tuyến
phòng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Ðông Hà, trong 2 ngày khoảng 7,000 quả
đạn, đồng thời với chiến xa yểm trợ đã tấn công vào tuyến phòng thủ của đơn vị
nầy, Tiểu Ðoàn 30/LÐ5BÐQ đã bắn hạ 13 chiến xa T54 và bắt sống một chiếc khác tịch
thu hằng trăm vũ khí. Tuy nhiên LÐ/BÐQ và Thiết Ðoàn 20 Kỵ Binh bị thiệt hại
năng vì pháo địch. Để bảo toàn lực lượng, các đơn vị nầy đã được lịnh triệt
thoái để tăng cường bảo vệ phòng tuyến căn cứ Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp
giáp với TĐ8/TQLC. Trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xã Quảng
Trị. Trong đêm nầy cộng quân cũng tung chiến xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng
Trị nhưng đã bị đẩy lùi.
Trong lúc
đoàn người tị nạn thay vì tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về
Huế tị nạn, gây cảnh hỗn loạn trên quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho pháo binh cộng
sản. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó
nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SÐ3BB cũng là đầu não chiến
trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.
Trong đêm 29/4, địch liên
tiếp pháo kích và tấn công vào phòng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây
và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được
điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ
rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đã triệt thoái về Quảng Trị, chỉ
còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa
ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế
hoạch triệt thoái được thi hành tốt đẹp.
Trong khi đó
ngày 28/4/1972 mặt trận B4 CSBV tại mật khu 611 tung SÐ324B gồm 2 Trung Ðoàn 29
và Trung Ðoàn 803 bao vây rồi tràn ngập căn cứ Bastogne ở phía Tây thành phố Huế
do một Tiểu Ðoàn của SÐ1BB trấn giữ. Trước áp lực quá nặng của CS căn cứ Checkmate gần đó được lịnh
di tản. Đồng thời với việc tấn chiếm 2 căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn
66/304 CSBV cũng đang vân tập về vùng thung lủng Ashau để chuẩn bị tấn công Huế.
Trong ngày 30 tháng 4, thế trận
phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại Quảng Trị đã trở nên nguy ngập.Lúc
2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn 2/3BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ
biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công tràn ngập các Tiểu
đoàn ÐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ
ĐỌC TIẾP
Quảng
Trị thất thủ:
Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam
sông Thạch Hãn phòng thủ. Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ
đã rã ngủ , để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị cộng sản
đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh vì Tiểu đoàn 7 TQLC đã di chuyển
ra phòng thủ căn cứ Ái Tử.
Cùng với những
cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực
lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến
hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.
Do đó đoạn
đường huyết mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cộng sản đóng chốt, đã
trở thành con đường xương trắng máu đào., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ
Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa
Hè Năm 1972.
Trước các biến
động chiến sự ngày càng nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4, Chuẩn Tướng Vũ Văn
Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, triệu tập buổi họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn
trong Cổ Thành Quảng Trị (tức trại Đinh Công Tráng). Tướng Giai trình bày kế hoạch
triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hãn.
Theo sự phối
trí, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xã Quảng
Trị để lập vòng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ. Một tuyến phòng thủ mới dọc theo bờ
Nam sông Thạch Hãn sẽ được thiết lập bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân
(BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa. Thành phần
Thiết Giáp (TG) còn lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về
hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau.
Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.
Trưa ngày 30
tháng 4 khi các đơn vị của Lữ Đoàn 147 TQLC về đến bờ Bắc sông Thạch Hãn thì cả
hai cây cầu ngang sông Thạch Hãn đã bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập
đêm 28 tháng 4/1972, còn cầu Sắt thì do thiếu phối hợp, toán Công Binh đã đặt
chất nổ phá cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu
đoàn 1, 4 và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đã được phá hủy trước
khi vượt sông Thạch Hãn, và các đơn vị
TQLC đến chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xã.
Sáng ngày
1/5/72, BTL/SĐ3/BB thông báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: "5 giờ
chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị",
và cho lệnh các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân
tránh pháo nầy đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản
cư về Huế theo quốc lộ 1.
Ngày 2/5 Tướng
Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên chẳng những
làm cho mười bảy triệu quân dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho
toàn thể thế giới sửng sốt.Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị,
lại bị lọt vào tay giặc một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt
vía, trời long đất lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là
địa ngục An Lộc lúc đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa
chốn ba quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá mà còn giữ được.
Ngay sau khi
kế hoạch lui binh bắt đầu, Tướng Hoàng Xuân Lảm ra lịnh tử thủ Quảng Trị. Lênh
Sư Ðoàn và phản lệnh của Quân Ðoàn bất nhất làm cho các đơn vị trưởng bất mãn,
bất tuân thượng lệnh. Hệ thống chỉ huy phòng thủ Quảng Trị bị gảy đổ ngay từ
đó, các đơn vị tự ý rời vị trí rút lui về hướng Nam. Tướng tư lệnh SÐ3BB đã
cùng với các cố vấn Mỹ và một ít sĩ quan tham mưu thân cận, đã được 3 trực
thăng CH-54 bốc đi từ Cổ Thành Quảng Trị
bay về Ðà Nẳng lúc 16 giờ 40 cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng
Trị, một căn cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ
ngỏ và lọt vào tay cộng sản Bắc Việt , tối ngày 2-5-1972.
Giữa cảnh hổn
loạn đó, Ðại Tá Khoái Chi Huy Trưởng BÐQ Quân Khu I đã họp các cấp chỉ huy 3
Liên Ðoàn BÐQ và ra quyết định LÐ5BÐQ làm nổ lực chính đánh trì hoản để cho các
cánh quân còn lại lui binh trên QL1. Sự dũng cảm và hy sinh vì màu cờ Binh Chủng,
trên một chiến trường do đich chọn sẳn, Các chiến sĩ BÐQ đã đánh một trận phản
phục kích để đời tại Sông Trường Phước mặc dù địch có chiến xa yểm trợ.
Vào lúc 14
giờ 30 chiều, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn và gần 30 chiến xa & thiết vận xa
còn lại của LĐ1 Kỵ binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ
1. Thêm nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này gây
trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực lượng TQLC đã đụng
độ suốt đêm với trung đoàn CSBV tại Hải Lăng, có nhiều quân nhân và đồng bào
tháp tùng đã tử thương trong lúc giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của thiết
giáp, địch rút lui vào buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa và đoàn người
chạy giặc đã tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC đang án ngữ.
Trên đường
lui binh, Lữ đoàn 147 TQLC, và các đơn vị của SÐ3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng
di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc.
Quốc lộ 1,
đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, mất an ninh nhiều ngày trước, đang bị quân cộng sản
chiếm và đóng chốt., nhất là cầu sông Nhung, trên Quốc Lộ I, đoạn đường đã bị
gián đoạn giao thông, vì đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây
là mục tiêu chính, để quân Bắc Việt phục kích tấn công, tha hồ tác xạ dữ dội và
tàn bạo, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết
giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm
thương trong những xác xe cháy nằm la liệt khắp mặt đường, dưới ruộng. Chỉ những
kẻ biết bơi lội, mới sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.Một
phóng viên chứng kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đã đặt tên cho đoạn đường
này là "Đại Lộ Kinh Hoàng".
Lúc đó Lử
đoàn 369 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ, giữ phòng tuyến Mỹ Chánh từ sông Ô
Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị.
Sáng sớm
ngày 2/5/1972 Trung Ðoàn VC với 18 chiến xa yểm trợ tấn công Lử Ðoàn 369 TQLC tại
tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sau nữa ngày giao tranh với pháo binh cơ hữu và hải
không yểm trợ, 17/18 chiến xa T54 bị bắn cháy. VC bị thiệt hại năng và tháo lui
về hướng Hải Lăng bỏ lại trận địa trên 500 xác chết..
Ngày
2/5/1972 Tỉnh Quảng Trị thất thủ, Thiết Ðoàn 20 chỉ còn lại 6/48 chiến xa, Các
đơn vị TQLC bị thiệt hại nặng, cầu Mỹ Chánh được Công Binh VNCH giật sập để cản
bước chiến xa của địch. Cố đô Huế hiện giờ trong tình trạng hoảng loạn vô trật
tự.
Tuyến
phòng ngự Mỹ Chánh:
Ngày
3/5/1972 Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng nguyên Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 được Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế Tướng Hoàng Xuân Lảm Tư Lệnh Quân Ðoàn I
trong buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Dinh Độc Lập.
Ngày
4/5/1972, sau khi được chỉ định, Tướng Trưởng cấp tốc bay ra Quân Khu I và lập
ngay phòng tuyến cố thủ tại cố đô Huế chống lại áp lực của các SÐ304, 308 và
325 CSBV ở phía Bắc sông Mỹ Chánh và SÐ324B ở phía Tây.
Tướng Trưởng
cấp tốc thành lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương tại Huế và ban lệnh thiết quân luật,
buộc tất cả quân nhân phải trở về trình diện đơn vị, cho lệnh bắn tại chổ những
người mang vũ khí lang thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp,bắn
bỏ tại chổ những tên cướp giựt, tổ chức lực lượng quân cảnh tuần tiểu bằng Thiết
Vận Xa V100. Đồng thời thành lập “Trung Tâm Điều Hợp Hỏa Lực” và một “Toán Đặc
Biệt” chỉ nhằm thâu nhận các mục tiêu và vị trí địch quân, để phối hợp khai
thác khả năng dồi dào của không địa hải pháo Việt Mỹ yểm trợ chiến trường.
Ngày
5/5/1972 Tướng Trưởng cũng phổ biến kế hoạch phòng thủ cho các vị Tư Lệnh Sư
Ðoàn 1BB trách nhiệm phòng thủ phía Tây và Tây Nam Huế . Nhằm ngăn chận địch
quân từ hướng mật khu Ba Lòng; SÐ/TQLC trách nhiệm phòng thủ phía Bắc và Đông Bắc
Huế, chận đứng mọi toan tính xâm nhập của địch từ phương Bắc. Các Tư Lệnh SĐ
toàn quyền điều động và phối hợp Ðịa Phương Quân, Nghỉa Quân và Chủ Lực Quân
vào kế hoạch tác chiến của Quân Ðoàn. Ðồng thời lập kế hoạch Lôi Phong, tập
trung hỏa lực Không, Hải và địa pháo chiến thuật cũng như chiến lược cơ hửu Việt
Mỹ nhằm ngăn chận, và tiêu diệt sự tập trung quân của địch. để có đũ thời gian
tái tổ chức trang bị và huấn luyện các đơn vị bị thiệt hại vừa qua.( lần đầu
tiên các đơn vị VNCH được trang bị hỏa tiển TOW.
Ngày nầy, Ðại
Tá Bùi Thế Lân được chỉ định giữ chức vụ Tư Lệnh SÐ/TQLC thay thế Trung Tướng
Lê Nguyên Khang .
Ngày 7/5 sự ổn
định về phòng thủ tại Huế đã vững vàng, an ninh trật tự công cộng cũng được vãn
hồi. Mặc dù giao tranh còn đang xảy ra tại một vài nơi nhưng dân chúng Huế cũng
cảm thấy yên tâm, một số gia đình chạy loạn đã lục tục trở về. Các chiến cụ bị
mất mát hay hư hỏng cũng được các phi cơ khổng lồ C141 và C5 Hoa Kỳ ồ ạt chở đến
phi trường Đà Nẳng.
Ngày
8/5/1972, toàn bộ LÐ2ND với 3 TĐ 2, 7 & 11ND do Đại Tá Trần Quốc Lịch làm Lữ
Đoàn Trưởng, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Phi Trường Phú Bài tăng
viện cho Quân Ðoàn I.
TÐ11ND sau
trận chiến tại đồi Charlie ở Quân Khu 2, được tái chỉnh trang, tăng cường cho mặt
trận Quân Khu I và khi vừa đến Huế thì nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ
Chánh. Vừa vuợt tuyến xuất phát tại Phong Ðiền dọc QL1, VC pháo dữ dội bằng đũ
loại đại pháo và xung phong tấn công biển người vào TÐ11ND. Thiếu Tá Mể TÐT bị
thương vì pháo kích. Th/Tá Thành thay thế. Ðến 3 giờ sáng, 3 chiếc T54 xuất hiện,
ÐÐ111 dùng M72 tiêu diệt, bắt sống 1 tù binh cấp Thượng Tá, 1 Tiền Sát Viên và
1 Âm Thoại Viên. Tịch thu 11 súng phòng không 30 ly.
( Khi TÐ11ND
nhận lệnh lên đường ra Huế, Ðại Tá Trần Quốc Lịch, LÐT/LÐ2ND đã lưu ý vị Tân Tiểu
Ðoàn Trưởng TÐ11ND, Thiếu Tá Lê Văn Mể rằng “ Chắc chắn bọn CSBV sẽ tấn công
Anh tới cùng vì theo kinh nghiệm về chiến thuật CS nếu nó đã đụng mạnh một đơn
vị nào của ta một lần rồi khi ra quân lại bọn chúng sẽ tìm cách triệt hạ bằng mọi
giá, Nếu Anh cảm thấy chưa đũ sức tôi sẽ cho thằng khác đi thay Anh” Thiếu Tá Mễ
tỏ vẽ rất tự tin và xin tiếp tục nhiệm vụ và VC đã dàn chào Ông một cách tận
tình )
Các Tiểu
Đoàn 2 và 7ND sau đó được triển khai dọc theo bờ phía Nam sông Mỹ Chánh cùng Tiểu
Đoàn 11ND trấn giữ tuyến đầu. Tất cả chiến binh Nhảy Dù đều được trang bị súng
chống chiến xa M72 và XM202 bốn nòng. Các đơn vị Nhảy Dù thường thả các toán
Trinh Sát và viễn thám vào vùng địch chiếm đóng và biết được cộng quân đang
tăng cường nhiều chiến xa, bộ binh , phòng không và đại pháo phía bên kia bờ
sông Mỹ Chánh.
Ngày
10/5/1972 tình hình tại Huế tạm ổn định. Liên Ðoàn 1BÐQ vừa hoàn tất việc bổ
sung quân số và tái huấn luyện tại Ðà Nẳng được tăng phái cho SÐ/TQLC. Ngày nầy,
quân số QL/VNCH tập trung quanh thành phố Huế lên đến 35,000 người.
Ngày
12/5/1972, ÐÐTS/LÐ369TQLC vượt sông Mỹ Chánh, thám sát địa thế để lập đầu cầu
chuẩn bị cho chiến dịch Sóng Thần 5/72. Sáng hôm sau, ngày 13/5/1972, 2 Tiểu
Ðoàn 3 & 8TQLC được trực thăng vận đổ
vào Quận Hải Lăng, cách Quảng Trị 11Km về hướng Nam đánh bọc hậu trở về sông Mỹ
Chánh. Ðồng thời TÐ9TQLC vượt sông Mỹ Chánh đánh ngược lên phía Bắc. Trung Ðoàn
66 CSBV bị kẹp giữa hai gọng kềm nên bị thiệt hại nặng nề.
Ngày
14/5/1972 CSBV quyết chí trả thù, 23.00 giờ Trung Ðoàn 66/SÐ324 pháo dữ dội vào
ÐÐ111ND. Ðịch vẫn áp dụng chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung và nhị thức bộ
binh tùng thiết, dùng biển người dự định tràn ngập đơn vị Nhảy Dù nầy.
ÐÐ111ND phản
công quyết liệt với sự tiếp ứng kịp thời của 2 Ðại Ðội 112, 114ND và dưới sự yểm
trợ hỏa lực của Pháo Binh Dù và 24 chiếc Phantom của Không Quân Mỹ. Ðến sáng sớm
hôm sau TÐ11ND hoàn toàn tiêu diệt các đơn vị CSBV, 26 chiến xa bị bắn cháy gồm
cả T54, BTR85 và PT76, xác địch ngổn ngang bên ngoài rào phòng thủ. TÐ11ND bị
thương vong 20 binh sĩ vì đạn pháo kích.
Ngày
15/5/1972 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lịnh SÐ1BB, tung 2 Trung Ðoàn /SÐ1BB
hành quân tái chiếm hai căn cứ Bastogne và Birmingham phía Tây Nam cố đô Huế.
Ngày
16/5/1972 hai Tiểu Đoàn Bộ Binh thuộc Trung Đoàn 3/SĐ1 bất ngờ được trực thăng
vận đổ ngay vào Bastogne. Buổi chiều Trung Ðoàn 3/1BB hoàn toàn làm chủ tình
hình tại căn cứ nầy.. Đến ngày 20/5/1972 SÐ1BB cũng tái chiếm căn cứ Checkmate.
TÐ3ND sau
khi tham chiến tại mặt trận An Lộc giải tỏa QL 13, được tái trang bị và không vận
ra Huế. ÐÐ33ND được tăng phái cho TÐ11ND và đến trấn đóng tại rặng Hồ Lầy phía
Tây Bắc TÐ11ND.
Ngày
21/5/1972, Hỏa tiển Tow được Hoa Kỳ vận chuyển đến Ðà Nẳng bằng vận tải cơ khổng
lồ C141 và C5.và lần đầu tiên trang bị cho các đơn vị / QL VNCH.
Ngày
22/5/1972 BTL/SÐND và BCH LÐ3ND được không vận tới Huế.Trung Ðoàn 4/2BB cũng được
tăng cường để bảo vệ Huế. Trung Ðoàn nầy được tăng phái cho SÐND trấn giữ phần
lảnh thổ phía Nam sông Mỹ Chánh để các đơn vị Nhảy Dù rảnh tay vượt sông tái
chiếm Quảng Trị.
Ngày
24/5/1972 QÐ1 mở cuộc hành quân Sóng Thần 6/72 thăm dò bằng 2 mủi tấn công vào
phía Ðông và phía Nam tỉnh Quảng Trị : Mũi thứ nhất TÐ7TQLC đổ bộ vào bờ biển dọc
theo “Dảy Phố Buồn Thiu”(tức là Hương lộ 555) phía Đông thành phố Quảng Trị.
Mũi thứ hai gồm 2 Tiểu Ðoàn 4 và 6 TQLC đổ bộ bằng trực thăng xuống giao điểm hương lộ 555 và 602, chạm địch khá mạnh với
Trung Ðoàn 18 CSBV. Sau đó các đơn vị TQLC rút về tuyến Mỹ Chánh.
Trong lúc đó
Cộng quân lại tấn công vào mặt phía Tây trong 3 ngày liên tiếp, với chiến xa và
bộ binh tùng thiết chỉa mũi dùi vào tuyến của LÐ369TQLC. Một Tiểu Ðoàn của CS
đã tấn công vào vị trí của TÐ9TQLC trong
khi hai Tiểu Ðoàn CS khác mưu toan tràn ngập Tiểu Ðoàn 1 TQLC. Cả hai cuộc tấn
công nầy đều bị đẩy lui và hằng trăm xác công quân bỏ lại tại trận địa.
Ngày
28/5/1972 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm chiến trường Quân Khu I, ban
quân lịnh mở chiến dịch”Lôi Phong” tái chiếm Quảng Tri và thăng cấp Chuẩn Tướng
tại mặt trận cho Ðại Tá Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SÐ/TQLC tại Huế.
Trong ngày nầy,
LÐ1ND sau khi giải tỏa An Lộc được không vận ra Huế tăng cường lực lượng chuẩn
bị tái chiếm Quảng Trị. BTL/SÐND đóng tại An-Lổ, 17 cây số phía Bắc thành phố
Huế, căn cứ Hiệp Khánh.
Ngày
2/6/1972 một lần nửa quân cộng sản thuộc Trung Ðoàn 66 có chiến xa yểm trợ đã
vượt cầu ngầm tấn công vào TÐ11ND tại bờ
Nam sông Mỹ Chánh, đồng thời địch cũng pháo dữ dội vào vị trí đóng quân của
TÐ2ND tại căn cứ Nancy do 1 Ðại Ðội Nhảy Dù trấn giữ cầu phao bắt qua sông do
Công Binh QÐI thiết lập.
Nhờ chuẩn bị
sẳn, Khi chiến xa địch vừa vượt qua sông càn vào tuyến phòng thủ, các chiến sỉ
Dù đã dàn chào bằng những loạt đạn M72, và XM202 chống chiến xa cùng Pháo binh
yểm trợ. Các chiến xa địch lật gọng, những chiếc khác tháo chạy. Bộ binh VC
nhào lên xung phong biển người, từng đợt bị rơi rụng vì mìn claymore, lựu đạn,
đại liên ,tiểu liên thi nhau nhả đạn. Sáng sớm hôm sau, Cộng quân tháo lui bỏ lại
chiến trường trên 100 xác, 5 tù binh bị bắt sống. 4 chiếc T54 bị bắn cháy, 7
chiếc khác còn nguyên vẹn bị tịch thu vì xa đoàn bỏ trốn, tại bờ sông 9 chiếc nữa
bi đâm vào nhau vì hoảng loạn tháo chạy.Về sau, khi Trung Ðoàn 4/2BB đến thay
thế trấn giữ đồi Trần Văn Lý, các chiến sỉ TÐ11Nhảy dù bung rộng lục soát về
phía Bắc tận sông Nhung đã phát hiện thêm nhiều chiến xa BTR85 do VC cất dấu
trước khi tháo lui.( Các chiến xa nầy được đem về trưng bày tại căn cứ Hiệp
Khánh)
Ngày
8/6/1972,4 Tiểu Ðoàn TQLC đã vượt sông Mỹ Chánh đánh qua phía Bắc mở cuộc hành
quân Sóng Thần 8/72. Quân CS đã phản kích kịch liệt dọc theo hương lộ 555.
Nhưng TQLC cũng đã mở rộng được tuyến bờ
sông phía Bắc Mỹ Chánh.
Ngày
18/6/1972 tiếp nối cuộc hành quân Sóng Thần 8/72, ba Tiểu Ðoàn 1, 5 và 6 TQLC mở
cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72. Cộng quân tung bộ binh và chiến xa kháng cự dữ
dội. BCH hành quân gọi phi pháo yểm trợ và pháo đài bay B52 can thiệp. Ðịch
quân bị thiệt hại nặng, TQLC đã mở rộng phòng tuyến phía Bắc sông Mỷ Chánh thêm
6 km.
Ngày
28/6/1972, thấy chiều hướng thuận lơi, BTL/QÐI phát động kế hoạch phản công tái
chiếm Quảng Trị. Trong kế hoạch nầy, nổ lực chính là SÐND , SÐTQLC, LÐ1BÐQ và
Thiết Ðoàn7KB. SÐIBB mở rộng vòng đai an ninh về hướng Tây Huế nhằm tái chiếm
các căn cứ trong khu vực thung lủng Ashau, Trung Ðoàn 57BB hành quân lục soát
vùng Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự chung quanh Đà Nẳng. Thành phần trừ bị gồm Trung
Ðoàn 4/2BB, Trung Ðoàn 51 và Thiết Ðoàn 17KB.
Theo kế
hoạch hành quân của Quân Đoàn I:
Ngày N-2 và
N-1 ta khởi động một cuộc không tập toàn diện bằng hỏa lực B52, các loại hải
pháo, phi pháo và pháo binh diện địa vào các vị trí tập trung quân của địch,
các kho tàng cơ giới và các vị trí súng lớn của địch.
Ngoài ra, QĐ
I còn tung ra một kế hoạch hành quân nghi binh bằng một lực lượng Nhảy Dù sẽ nhảy
xuống Cam Lộ và TQLC sẽ đổ bộ vào cửa Việt nhằm cắt đường tiếp vận của đối phương để đánh lạc hướng và gây hoang mang cho địch
quân.
Ngày N bắt đầu,
SÐND bên trái QL1, SÐ/TQLC bên phải QL1, hai đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH tiến
song song theo thế gọng kềm về hướng Bắc, từ bờ biển đến tận đỉnh núi Trường
Sơn, đánh đuổi đoàn quân xâm lược khát máu CSBV tận sào huyệt của chúng. Theo kế
hoạch hành quân nầy của Quân Đoàn I, SĐND sẽ được trực thăng vận vượt sông Mỹ
Chánh rồi dàn quân tấn công về hướng Bắc. Nhưng để giữ bí mật, 5.00 giờ chiều
ngày hôm trước, Trung Tướng Dư Quốc Đống thay đổi chiến thuật, không dùng trực
thăng vận mà dùng cầu phao và xuồng máy M2 của Công Binh Nhảy Dù để chuyển quân
sang bờ sông Mỹ Chánh.
Để chuẩn bị
vượt tuyến xuất phát, Thiếu Tá Lê Hồng, TĐT/TĐ1ND họp khẩn các cấp chỉ huy
trong đơn vị và ban lệnh hành quân. Ông nghiêm trọng chuyển lệnh thẳng cho Bác
Sỉ Phạm Gia Cổn, Y Sỉ TĐ1ND: “Theo ước lượng của BTL/SĐND cuộc hành quân nầy sẽ
tổn thất ít nhất là 2/3 về nhân mạng vậy Bác Sĩ hảy chuẩn bị thuốc men và những
dự phòng cần thiết”.
3.00 giờ
sáng ngày 28/6, mở đầu cuộc hành Quân Lam Sơn 72, Ðại Tá Trần Quốc Lịch
LÐT/LÐ2ND điều động 3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù vượt sông Mỹ Chánh. Tiểu Ðoàn 2ND do
Thiếu Tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh trái, TÐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng
là Thiếu Tá Lê Hồng chỉ huy đi giửa và TÐ3ND ( Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT) đi
cánh phải.
Có lẻ do tin
tình báo nội tuyến, địch biết kế hoạch hành quân của ta nên tất cả súng phòng
không của CSBV ở bên kia bờ sông Mỹ Chánh đã sẳn sàng chỉa mũi lên trời định
dàn chào các Thiên Thần Mũ Đỏ. Nhưng chúng không ngờ, trời vừa lờ mờ sáng, các
Thiên Thần Sát Địch đã độn thủy sang sông một cách yên lặng và bất ngờ. Sau
phát súng lịnh, từng đoàn, từng đoàn lính Dù hô xung phong vang trời, tấn công
vào phòng tuyến địch. Vì bị đánh bất ngờ các cấp chỉ huy Cộng Sản không kịp trở
tay, hốt hoảng bỏ chạy. TÐ2ND đánh thẳng vào BCH Trung Ðoàn 203 chiến xa của
VC, tịch thu nhiều súng cối 61 ly và 82 ly cùng đạn dược, ba chiến xa T54 còn
đang nổ máy, trong lúc TÐ1ND đã xông trận đánh xáp lá cà tiêu diệt hết các xạ
thủ đang ghìm tay súng nhìn lên trời, và tịch thu được 14 khẩu đại bác phòng
không 12.7 ly & 2 khẩu 57 ly phòng không với bệ ngồi xoay tròn cho xạ thủ,
cùng bắt sống 5 tù binh.
TÐ3ND đi
cánh phải sau khi vượt sông Mỹ chánh chiếm vùng Lương Ðiền ,Tân Tường, Trường
Vinh đến tận phía Nam sông Ô-Khê để bảo vệ bải đáp cho 2 TÐ9ND và TÐ11ND. Khi vừa
qua sông Mỹ Chánh TÐ3ND đã tiêu diệt 2 cán binh CS tịch thu 2 khẩu AK-47
và bắt được 3 khẩu pháo 105 ly mà địch
đã lấy được của ta trước đây rồi dấu vào
bụi tre. Sau đó TÐ3ND tiến về phía Bắc để tiêu diệt các chốt địch dọc theo Quốc
Lộ I (Ðại Lộ Kinh Hoàng) rồi mở mũi dùi về phía Ðông để tái chiếm Quận Hải
Lăng.
Sáng ngày,
TÐ9ND (Trung Tá Trần Hửu Phú TÐT) và TÐ11ND ( Thiếu Tá Lê Văn Mể TÐT ) được trực
thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung, hai Tiểu Ðoàn Dù đi song song chiếm từng
thước đất, từng cái hố, từng chốt địch, trên những dảy đồi trọc không một bóng
cây dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa. Chiến sĩ Dù phải vận dụng tối đa
tai, mắt, hơi thở , trí óc rồi bằng lựu đạn, bằng dao gâm đánh cận chiến với địch.
Ngày
2/7/1972 mở đầu giai đoạn 2, Trung Tá Lê Văn Ngọc tân LÐT/LÐIND trách nhiệm càn
quét quân giặc doc theo phía Tây dưới chân dãy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ
Chánh qua sông Nhung đến La Vang dọc theo bờ sông Thạch Hản rồi vào Thị Xả Quảng
Trị.
Ðể cản bước
tiến của quân ta, CSBV đã pháo hằng loạt đũ loại từ 130 ly,122 ly hỏa tiển 107
ly...Nhưng đoàn quân Mủ Ðỏ vẫn không chùng bước trên đoạn đường dài 9 cây số đầy
dảy những cảnh tượng chết chóc từ Giáp Hậu, qua Mai Ðằng rồi đến La Vang Thượng.
TÐ9ND chia
quân thành 2 cánh tiến đánh vùng Tân Lê Phước Môn, trong trận nầy tất cả 4 Ðại
Ðội Trưởng đều bị thương vì pháo địch, Ðại Úy Ngưu ÐÐT94 bị tử thương tại Tân
Téo.
TÐ11ND là trục
chính của cuộc tiến quân, từ Hải Lâm cũng chia làm 2 cánh tiến chiếm mục tiêu
là nhà thờ La Vang. Ðường vào La Vang thật là hung hiểm, khi đến cầu Trường Phước,
cách La Vang 2 cây số về phía Nam, Ðoàn chiến xa BTR85 và PT76 chuyển quân của
địch di chuyển trên QL1 ngược chiều với quân Dù.Quân TÐ11ND xung phong với M72
chống chiến xa, gọi Pháo Binh và không quân yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo, chiến
xa địch quay đầu bỏ chạy, quân ta truy kích, chiến xa địch hoảng loạn khi qua cầu
nên dồn đè lên nhau lật xuống sông.
Trong khi đó
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được trực thăng vận xuống khu vực nhà thờ La Vang. Khi vào nhà thờ
La Vang, TÐ7ND bắn cháy 2 chiến xa T54 cộng sản bố trí trước sân nhà thờ và sau
3 giờ kịch chiến, lực lượng Nhảy Dù đã làm chủ tình thế.
Sau 5 ngày vừa
đi vừa bứng chốt địch, buổi trưa ngày 7/7, TÐ3ND bắt đầu tấn công vào quận Hải
Lăng. Thiếu Tá Sơn Tiểu Đoàn Trưởng cho các Đại Đội 31, 32 và 34 tiến dọc 2 bên
QL1 theo đội hình chân vạt, trong khi đó Đại Đội 33 tiến dọc theo đường rầy xe
lửa và “Đại lộ kinh hoàng”bứng chốt địch để cho các toán Công Binh dọn dẹp
(ĐLKH). Khi Đại Đội 32 tới khu trường học, nằm lại án ngữ tại đây. Đại Đội 33 cặp
theo tỉnh lộ 602 tấn công thẳng vào quận lỵ. Ðich ở trong quận đường phản kích
mảnh liệt, nhưng với kinh nghiệm chiến trường, Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ÐÐT/
ÐÐ33ND bình tỉnh gọi pháo binh và phi cơ yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo địch quân
tháo chạy về hướng Bắc, TÐ3ND tái chiếm lại Quận Hải Lăng vào lúc 4.00 giớ chiều.
Trong lúc điều quân tái chiếm quận Hải Lăng, Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT chẳng
may bị mảnh đạn pháo địch bị thương, Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng TÐP/TĐ9ND về thay
thế chức vụ TĐT/TĐ3ND.
Ngày
8/7/1972 sau khi chiếm Hải Lăng xong, TÐ3ND được lịnh tiến về trước cùng TÐ8ND
càn quét giặc cộng dọc 2 bờ Sông Nhung từ Ðông sang Tây tới tận chân núi Trường
Sơn. Trên đường hành quân, ÐÐ33ND đã phối hợp với một đơn vị của TĐ8ND do Đại
Úy Trần Cao Khoan chỉ huy bên kia bờ sông, đã tiêu diệt được một đơn vị đặc
công CS toan đặt mìn giật phá cầu Trường Phước trên QL1. Bốn tên bỏ xác tại trận
với 4 khẩu AK47 cùng bắt được một Thượng
Úy VC tên Thanh mới 28 tuổi là TÐT Tiểu Ðoàn 31 Ðặc Công cộng sản.
Hai ngày sau
( 10/7) Tiểu Đoàn 3ND lại tấn công địch quân trên ngọn đồi có độ cao 30m. trên
nguồn sông Nhung. ĐĐ33ND được chỉ định, chia làm hai mũi dò lần theo thế chân vạt
tiến chiếm mục tiêu. Khi toán khinh binh đi đầu chạm địch, toàn đại đội đồng loạt
xung phong chớp nhoáng trong vòng 10 phút giao tranh, Nhảy Dù đã làm chủ trận địa.
Cộng quân hoảng hốt bỏ chạy để lại 2 xác chết, ta tịch thâu 3 súng phòng không
37 ly bên cạnh có một xác trực thăng UH1-D của VNCH bị bắn rơi trước đây. Sau
khi bung rộng ra lục soát tìm thấy thêm 2 khẩu đại bác 122 ly nòng ngắn, rất
nhiều đạn chưa kịp bắn, một máy phát điện và
một xe cơ giới sửa chữa. Ngày hôm sau Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù cho 5 chiếc Thiết Vận Xa vào kéo 3 khẩu
phòng không, 2 khẩu đại bác 122 ly và chuyên viên Công Binh phá huỷ tất cả đạn
đại bác.
Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị:
Tiểu Đoàn 5
Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu làm Tiểu Đoàn Trưởng, với 5 Đại Đội : Đại Đội
50 hay là Đại Đội Chỉ Huy, ĐĐT là Trung Úy Chiêu, Đại Đội 51 ĐĐT là Trung Úy
Trương Đăng Sỷ, Đại Đội 52, ĐĐT là Trung Úy Hồ Tường, Đại Đội 53 ĐĐT là Trung
Úy Thân, Đại Đội 54 ĐĐT là Trung Úy Dương, sau ngày giải tỏa An Lộc được không
vận đến Huế và trú đóng tại căn cứ Nancy khoảng một tuần lể.Tại đây, Tiểu đoàn
tái huấn luyện cho binh sỉ về chiến thuật đánh trong thành phố phân tán mỏng từng
tổ ba người, cách thức ngụy trang khi di chuyển và thực tập bắn hỏa tiển TOW,
M72, XM202…chống chiến xa.
Ngày
5/7/1972, TĐ5ND di chuyển bằng đường bộ đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây.
Sau khi B52 trải thảm dọc bờ sông, TĐ5ND tung quân vào lục soát đến tận bờ sông
Thạch Hản, thấy rất nhiều xác cộng quân tại hiện trường. Tiểu đoàn tịch thu được
2 khẩu phòng không 37 ly.
Ngày
9/7/1972, bàn giao khu vực lại cho TĐ7ND, TĐ5ND di chuyển về hướng Đông, băng
ngang QL1, hôm sau dừng quân tại khu vực
thôn An Thái cách cổ thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Tại đây BCH/TĐ lập sa
bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ Thành.
Ngày
10/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu triệu tập các Đại Đội Trưởng ban lệnh hành
quân, Sỉ quan các Đại Đội có 3 ngày để huấn luyện và hướng dẩn binh sỉ thuộc
quyền chuẩn bị tác chiến. Đặc biệt trong trận nầy yếu tố ngụy trang triệt để áp
dụng.
Ngày
11/7/1972 TÐ1TQLC được trực thăng vận đổ xuống hương lộ 560 cách TX Quảng Trị 2
km về hướng Ðông Bắc để ngăn chận đường tiếp vận của địch muốn tăng cường cho lực
lượng của chúng trong Cổ Thành. Hai trực thăng chuyển quân CH53 của Mỹ bị hỏa
tiển SA-7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC và Phi Hành Ðoàn bị tử trận.
Ngày
13/7/1972 hai ngày sau, một đơn vị thuộc SÐ312CSBV với chiến xa yểm trợ đã tấn
công vào TÐ1TQLC nầy. TQLC phản công quyết liệt bắn hạ hằng chục chiến xa địch
và cho đến ngày 22/7 mới quét sạch quân CS tới cửa Việt.
Sau ba ngày
cho binh sỉ chuẩn bị học tập, đêm 14/7/1972, TĐ5ND bắt đầu di chuyển vượt con
sông nhỏ bằng thuyền của Công Binh Nhảy Dù và tiến vào làng Tri Bưu dọc theo đường
Nguyễn Hoàng, phía Đông Bắc Thị Xả. Tại đây cộng quân có đặt một chốt chặn tại
nhà thờ Tri Bưu phản ứng báo động. TĐ5ND dứt chốt bằng cận chiến dể dàng để
không gây tiếng động và đã giải thoát cho trên 10 Dì Phước bị chúng bắt làm con
tin phục dịch và đở đạn cho chúng.
Ngày hôm
sau, TĐ5ND đã tiến đến sát bờ thành cổ, vẫn còn nguyên vẹn rào kẻm gai và hào
nước bao bọc chung quanh. Công quân vẫn hoạt động bình thường vì Nhảy Dù ngụy
trang hoa lá trên người nên chúng không phân biệt được ta hay đối phương. Chúng
lùa dân trên đường di chuyển về hướng Đông, có lẻ bắt dân đi theo để đở đạn cho
chúng.
Hôm sau,
Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lịnh Sư Đoàn Nhảy Dù đã ra lịnh dùng đại bác 90 ly M41 gắn trên
chiến xa M48 bắn thẳng để phá huỷ một góc phía Đông Bắc cổ thành làm cửa ngỏ
cho các đơn vị Nhảy Dù xâm nhập vào bên trong.
Ngày
17/7/1972 trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù, các cánh quân đã được
triển khai như sau : Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi chỉ huy đă
kiếm soát được ṿòng đai phía Tây thị xă, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê
Văn Mễ chỉ huy tiếp tục truy kích Cộng quân ở quanh khu vực Thạch Hản đến ngã
ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Trung Tá Trần Hữu Phú Tiểu Đoàn Trưởng và
Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhỏ Tiểu Đoàn Phó, là lực lượng ứng chiến trừ bị cũng đă kiểm
soát được khu vực phía Nam thị xă. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh
Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thành Tiểu Đoàn Phó chỉ huy đă làm chủ được
chiến trường ở pḥòng tuyến dọc phía Đông thị xả.
Sau một thời
gian quần thảo với cộng quân ở ṿòng đai Cổ Thành, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă quyết định tấn công thành Đinh Công Tráng bằng
hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đưa một
toán tiền thám xâm nhập vào trong thành,
với nhiệm vụ là thám sát địa thế cũng như vị trí của địch quân bên trong
cổ thành rồi báo cáo về Tiểu Đoàn. Giai đoạn này sẽ bắt đầu vào đêm 18/7/1972 .
Giai đoạn 2: Cả Tiểu
Đoàn sẽ đồng loạt tấn công vào Cổ Thành, và trong 2 ngày, phải đánh chiếm lại
ít nhất là phân nửa chu vi bờ thành.
Để thực hiện
được kế hoạch trên, Trung Tá Hiếu đă quyết định thành lập ngay một toán
"thám sát cảm tử" bằng cách tuyển chọn trong các quân nhân gốc người
sở tại Quảng Trị tình nguyện, vì sống tại địa phương nầy nên họ hiểu rỏ địa thế.
Có rất nhiều chiến sĩ xung phong xin nhập vào toán cảm tử này nhưng chỉ có 6
quân nhân thuộc Đại Đội 51 được chọn: “Trưởng toán là Hạ sĩ Trần Văn Sáu, cọ̀n
chiến sĩ được giao trách nhiệm cấm cờ VNCH trên mặt bờ Cổ Thành Quảng Trị là
Binh 1 Hồ Khang.
Chiều ngày
18/7/1972, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu cho tập hợp toán “cảm tử” để từ giă những
chiến hữu thân thương quyết ra đi theo truyền thống “Nhảy Dù Cố Gắng”, Vị Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã ban quyết định thăng cấp trước cho 6 cảm tử
quân mỗi người lên hai cấp. Và́ đêm đến,
toán cảm tử quân sẽ lên đường để đột kích vào Cổ Thành.
Đêm đến, Giờ
G đã điểm, toán cảm tử quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù vượt tuyến xuất phát lao
vào bóng đêm đột kích vào thành. Từ vị trí xuất phát đến mục tiêu khoảng cách
hơn 200 mét. Trung Tá Hiếu và cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn nín thở nhìn theo toán
quân cảm tử đi vào bóng đêm và chờ đợi.
Vào
khoảng quá nửa đêm, toán cảm tử quân đã ḅò lên được trên mặt Cổ Thành. Một
bóng đen nhô lên giữa bầu trời và tung bay theo chiều gió. Đó chính là lá quốc kỳ VNCH mà Binh I Hồ Khang đă được lệnh mang theo
khi xuất phát. Từ xa, các chiến sĩ Nhảy Dù vui mừng la lên: "Lá cờ dựng được
rồi...?".
Lá
quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥòa đã tung bay trên mặt bờ Cổ Thành rồi kia. Đó cũng là
một tín hiệu của toán tiền thám báo cho Trung Tá Hiếu biết nhiệm vụ của họ giai
đoạn đầu đã hoàn tất và họ sẽ tiếp tục nhiệm vụ kế tiếp. Trong giây phút đó, bỗng nhiên có những tiếng
hô dỏng dạc từ trên bờ thành vọng đến bên tai những người chiến sĩ Tiểu Đoàn 5
Nhảy Dù đang ghì́m tay súng hướng về bờ Cổ Thành chờ đợi và trước mắt họ đã hiện
rỏ bóng cờ. Tiếng Binh I Hồ Khang hô lớn
:
- "Nhảy Dù cố gắng - Nhảy
Dù chiến thắng - Việt Nam Cộng Ḥòa muôn năm".
Liền
ngay sau đó quân CSBV tử thủ bên trong cổ thành đã tập trung hoả lực như mưa bắn
xối xả vào toán cảm tử cuả TĐ5ND, Binh Nhất Hồ Khang và 3 đồng đội khác tử trận
ngay bên bờ thành, chỉ có Hạ sĩ Sáu và Binh Nhất Tâm còn may mắn, hai ngày sau
lần mò trở về lại chiến tuyến.
Ngày 21/5
các đơn vị TĐ5ND được lịnh lui về vị trí củ để phi pháo hoạt động, Đại Đội 52
trên đường lui binh trở lại nhà thờ Tri Bưu bị quân CS phát giác nên cho một
Trung Đoàn vây đánh và bắn theo bằng đại bác trực xạ không giật 82 ly. Các đơn
vị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã tử chiến, tả xông hữu đột mới thoát khỏi vòng vây của
giặc. Thiếu Úy Trịnh Văn Bé bị tử thương và 56 quân nhân khác bị thương vong.
Hai ngày sau các đơn vị lại tiến lên trở lại. TĐ5ND phát hiện và hạ sát hai tên
tiền sát viên pháo binh VC bám theo sau Tiểu Đoàn.
Ngày
25/7/1972, TÐ5ND tiến quân tái chiếm cổ thành. Để yểm trợ cho trận đánh quyết tử
này, “Minh Hiếu” được tăng cường Đại Đội 111/ND của Tiểu Đoàn “Song Kiếm Trấn Ải”
do Trung Úy Đinh Viết Trinh “ba búa” chỉ huy đánh trợ lực từ hướng Tây Bắc vượt
qua cánh đồng trống, tiến dưới làn mưa pháo địch, đánh thóc vào khu nghĩa địa
làng Tri Bưu, chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại Đội 52/ND do Trung úy Hồ
Tường chỉ huy và để cùng đồng loạt tiến đánh chiếm lại Cổ Thành bằng mọi giá. Cạnh
sườn phía Bắc Cổ Thành có Đại Đội 2/TSND do Đại Úy “Út Bạch Lan” chỉ huy tấn
kích nghi binh trợ chiến.
Đúng 3 giờ
sáng, Đại Đội 51 do Trung Úy Trương Đăng Sĩ, Đại Đội Trưởng, làm nổ lực chính
tiên phong đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ Thành, sau đó là ĐĐ52/ND do Trung
úy Hồ Tường chỉ huy, nổ lực phụ trợ chiến, một Trung Ðội của ĐĐ51ND đã cấm cờ lần
thứ hai trên bờ tường cổ thành. Trước khi xuất quân, Trung Tá Hiếu lệnh cho các
đơn vị trực thuộc nếu không tiến lên được vì bất cứ lý do gì, các Đại Đội cố gắng
rẻ sang phía trái sẽ có TĐ6ND trợ chiến.
Khi bình
minh vừa ló dạng, hai Đại Đội tiên phong / TĐ5ND dàn đội hình trên bờ thành chờ
đợi xuất phát, trong khi 2 phi cơ A37 vào vùng triệt hạ khẩu đại bác trực xạ 82
ly của địch theo sự chỉ dẩn của trinh sát cơ OV-10. Tiếp theo đó Pháo Binh đang
trải màn khói, chuẩn bị tác xạ yểm trợ…ngay khi đó, hai chiếc phi cơ Fantom Hoa
Kỳ chúi xuống trút bom ngay trên đầu của các Đại Đội 51 và 52 ND. Sự việc xảy
ra trước mắt của Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, trong khi ông cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù đang theo dỏi diễn tiến trận đánh quyết tử để sớm kết thúc giai
đoạn 2, nhưng cũng không thể nào ngăn kịp. Muộn rồi!!! TĐ5ND gần như tan nát !.
Với những khối bom năng đã thả xuống chính xác làm cho hơn 50% chiến sĩ Mũ đỏ
ưu tú của TĐ5ND bị thương vong. Đại Đội 51 của Trung Úy Trương Đăng Sỉ chỉ còn
38 quân nhân sống sót, tất cả 5 Sỉ Quan của Đại Đội 52 của Trung Úy Hồ Tường đều
bị thương và gần 50 HSQ và Binh Sỉ bị thương vong. Tổn thất nặng nề đó đă giáng
một đòn chí tử lên nỗ lực tột cùng của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, và Trung Tá Nguyễn
Chí Hiếu phải ra lịnh cho các đơn vị trở lại tuyến xuất phát.
( Việc ném
bom lầm nầy, có dư luận cho rằng là một sự cố ý từ cấp thẳm quyền nào đó muốn
ngăn chận sự tái chiếm toàn bộ của QLVNCH. Và sau đó, trên hệ thống liên lạc
Siêu Tần Số cơ hữu của SĐND chúng tôi đã nghe cuộc điện đàm ngắn giữa Trung Tướng
Dư Quốc Đống, Tư Lịnh SĐND và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lịnh Quân Đoàn I
như sau :
- Trung Tướng
Đống : Trưởng có thấy không ? trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống Thiệu
ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy cổ thành, đến khi vừa vào được trong thành
thì bom dội xuống trên đầu như thế nầy thì đánh giặc cái gì đây. Đánh giặc như
thế nầy thì Tôi không đánh nửa, Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi.
- Trung Tướng
Trưởng : Thưa Trung Tướng được rồi, để sáng
ngày mai, Tôi bay ra Sally gập Trung Tướng sẽ bàn định lại… )
Ngày
27/7/1972 Tướng Trưởng trong cuộc họp với các Tư Lệnh chiến trường để duyệt xét tính hình chiến sự,
ông đả cho biết là theo tin tức tình báo nhận được, cộng quân đă đưa thêm 2 Sư
Đoàn CSBV vào vùng cận sơn Trị Thiên. Hai Sư Đoàn này sẽ tung vào mặt trận Quảng
Trị làm lực lượng trợ lực cho Sư Đoàn 325/CSBV và Ông quyết định thay đổi lực
lượng tấn công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Theo đó TQLC trách nhiệm khu vực
duyên hải và mặt trận Cổ Thành Quảng Trị. Lực lượng Nhảy Dù trách nhiệm bảo vệ
phòng tuyến Thạch Hản, và khống chế lực lượng tăng viện của địch ở mặt trận
phía Tây Quảng Trị. Đúng 12.00 giờ trưa, Ðại Tá Trần Quốc Lịch LÐT/ LÐ2ND bàn
giao khu vực trách nhiệm cho Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh LÐT/ LÐ258TQLC trong khi trận
chiến hai bên đang giao tranh ác liệt giữa Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với 1 Trung Đoàn
Cộng quân cố thủ trong Cổ thành. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù cũng lần lượt được thay
thế bởi các Tiểu Đoàn/TQLC.
Tiểu Đoàn 9
TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Kim Để chỉ huy hoán đổi cho TĐ11ND tại khu vực phía Nam
thị xă, cạnh Quốc Lộ 1. Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu Tá Hồ Quang Lịch chỉ huy nhận
lảnh trách nhiệm thay thế TĐ6ND tại ngã ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 3/TQLC do Thiếu
Tá Nguyễn Văn Cảnh chỉ huy thay thế TĐ5ND tại làng Tri Bưu gần Cổ Thành Quảng
Trị.
Mặt trận
phía Tây Quảng Trị:
Sau khi bàn
giao khu vực trách nhiệm chung quanh Cổ thành và Thị xả Quảng Trị cho lực lượng
TQLC, SĐND mở mặt trận mới tấn công quân CSBV trong vùng rừng núi phía Tây thị
xả Quảng Trị và phía Nam sông Thạch Hản, gọi là Động Ông Đô, để ngăn chận sự
chuyển quân và tiêu diệt các ổ súng đại bác 122 ly, 130 ly thường pháo vào
thành phố chung quanh cũng như yểm trợ cho cánh quân cố thủ của chúng trong
thành cổ Đinh Công Tráng.
Ngày
12/8/1972, Ðại Tá Trương Vĩnh Phước LÐT/LÐ3ND mở cuộc hành quân trong vùng
trách nhiệm cận dãy Trường Sơn. Việc tiến quân vào vùng nầy rất khó khăn vì rừng
núi trùng điệp, càng lên cao càng hiểm trở lại gặp thời tiết khắc nghiệt nên hỏa
lực yểm trợ bị giới hạn rất nhiều. Tuy nhiên các chiến sỉ Nhảy Dù vẫn không
chùng bước.
Mở đầu chiến
dịch, TÐ3ND từ bờ sông Nhung được lịnh tiến chiếm ngọn đồi 118 ở phía Đông căn
cứ Barbara. Nơi ngọn đồi nầy địch quân dùng làm đài quan sát theo dỏi tất cả mọi
hoạt đông quân sự của VNCH trong vùng từ Ái Tử, Quảng Trị đến quận Hải Lăng…
Tiểu Đoàn 3
Nhảy Dù chia thành 2 cánh quân tấn công. Cánh thứ nhất gồm BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội
30 và Đại Đội 33 tiến chiếm đỉnh đồi 118 dễ dàng không gặp một sự chống cự nào
của cộng quân, Đại Đội 32 án ngữ làm thành phần trừ bị và giữ an ninh bải tiếp
tế và suối nước. Cánh thứ hai gồm hai Đại Đội 31 và 34 tiến về hướng căn cứ
Barbara.. Cánh quân nầy gặp sự kháng cư mạnh mẽ của địch. Sau hai ngày quần thảo
Cộng quân rút lui bỏ lại nhiều xác và vũ khí gồm súng cối 62 ly, đại liên 12,8
ly, và hằng trăm khẩu AK 47 và đạn dược.
Ngày
14/8/1972 Ðại Tá Nguyễn Trọng Bảo, Phụ Tá hành quân / SÐND và Ðại Tá Hùynh Long
Phi trên đường đến thăm vị trí đóng quân
của LÐ1ND đã bị tử nạn trực thăng tại phía Ðông Bắc cầu Mỹ Chánh, trên QL1 (khoảng
đại lộ kinh hoàng).
Trong ngày nầy,
Tiểu Đoàn 3 ND nhận được tiếp tế tại đồi 118, Trung Đội 1/33ND do Thiếu Úy Toàn
chỉ huy được chỉ định xuyên rừng mang tiếp tế cho 2 Đại Đội 31 và 34 đang trấn
ngự trên lưng chừng núi giữa đường đến căn cứ Barbara..
Đến 6.00 giờ
sáng ngày 16/8 Trung Đội 1/33 của Thiếu Úy Toàn vừa trở về căn cứ sau khi phải
di chuyển băng rừng suốt đêm thì 2 Trung Đoàn của SĐ308 cộng quân ào ạt tấn
công vào vị trí phòng thủ của TĐ3ND trên
đồi 118.
Khởi đầu cuộc
tấn công, vào lúc 6.00 giờ sáng Cộng quân áp dụng trận địa pháo kinh hồn pháo
vào vị trí TĐ3ND sau đó dùng biển người tấn công vào mặt phía Tây căn cứ do 2 Đại
Đội 30 và 33 ND trấn thủ. Các chiến sỉ Dù phản công quyết liệt, giao tranh từ
sáng đến chiều. Thiếu Úy Lê Ngọc Bản SQTT, Chuẩn Úy Phạm Lê Phong Trung Đội Trưởng/ĐĐ33,
TSI Trần Văn Dũng và Hạ Sỉ Truyền Tin Lê
Thiều bị tử thương. Thiếu Tá Nguyễn
Văn Định TĐP, Đại Úy Phạm Xuân Thiếp Ban 3, Đại Úy Dương Văn Xuân ĐĐT 30, Trung
Úy Trần Văn Tâm Phụ tá Ban 3 bị thương. Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ĐĐT 33 bị
thương hộc máu và Trung Sỉ Sỉ cận vệ cho
Tiểu Đoàn Trưởng lảnh nguyên một quả đạn 75 ly trực xạ bị tan xác. Đến 6.00 giờ
chiều, công quân thấy không thắng được và bị thiệt hại nhiều nên rút lui, các
chiến sỉ Dù cấp tốc tu bổ lại công sự phòng thủ, kiểm điểm quân số và trị liệu
cho thương binh.
Sáng sớm hôm
sau 17/8 , địch quân tập trung quân đông đảo quyết dứt điểm ngọn đồi 118, vẫn
áp dụng chiến thuật tiền trận địa pháo hậu xung biển người. Trước áp lực quá nặng
của địch quân, BCH Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù cho Đại Đội 30 di tản tản tất cả thương
binh ra khỏi cứ điểm về hướng Bắc. Đại Đội 33 ở lại tử thủ.
Đại Đội 33
Nhảy Dù với quân số chỉ còn lại 70 người, kiên cường chống trả lại. Nhiều đợt
xung phong biển người của địch quân bị rơi rụng bên ngoài rào phòng thủ.. Đặc
biệt ngày nầy Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đánh giặc không pháo yểm cũng không có không
yểm, cũng không có tiếp viện, Nhảy Dù chỉ “đánh khô” vậy thôi. (Lý do là thời
tiết xấu, hết đạn pháo binh, tiếp tế từ Đà Nẳng chở ra không kịp, còn phi cơ có
lẻ cũng hết… đạn luôn ). Đến xế chiều, vì áp lực cộng quân quá mạnh và quá đông
lại không có pháo binh và phi pháo trợ giúp nên Thiếu Tá Võ Thanh Đồng, TĐT cho lệnh Đại Đội 33 triệt thoái khỏi cứ
điểm. Đến 5.00 giờ chiều, cộng quân đã tràn ngập căn cứ. Lúc nầy 2 chiếc Oanh tạc
cơ A37 của Không Quân VNCH bay tới oanh tạc ngay giửa đỉnh đồi 118. Đại Đội 33
chỉ còn lại 43 người trong đó có 3 Sỉ Quan là Trung Úy Viên ĐĐT, Chuẩn Úy Đào
Văn Oai, Chuẩn Úy Lê Thanh Vân, Trung Đội
Trưởng.
Chiều hôm
đó, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được rút về ngọn đồi 30 với Đại Đội 32 và sáng ngày hôm
sau rút ra Trường Phước, cạnh QL 1 để nhận tiếp liệu và bổ sung quân số. Sau
khi được chỉnh bị, TĐ3ND trở lại trận địa án ngử ngọn đồi 90 dưới chân núi Động
Ông Đô để cho các đơn vị Nhảy Dù khác
tái chiếm căn cứ Barbara và Anne.
Ngày
8/9/1972 LÐ3ND điều động TÐ8ND tái chiếm
căn cứ Barbara.TÐ8ND chia quân thành hai mủi tấn công ban đêm vào hai phía Ðông
và Tây của căn cứ. Ðịch bị đánh bất ngờ khi còn đang ngáy ngủ. 2 Ðại Ðội TÐ8ND
đã đột kích vào căn cứ một cách dễ dàng. Rất nhiều tù binh thuộc SÐ324CSBV bị bắt, hơn 20 xe molotova chở đầy lương khô, đạn dược
bị tịch thu còn nguyên vẹn cùng nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng. Một Thiếu Úy
ND bị hy sinh và một binh sỉ bị thương.
TQLC
Tái chiếm cổ thành:
Ngày
28/7/1972 sau khi nhận bàn giao khu vực trách nhiệm từ LĐ2ND, Lữ đoàn 258 TQLC
lập ngay phòng tuyến sát với các vị trí của đối phương. Trận chiến càng ngày
càng diễn ra khốc liệt. Đại bác Cộng quân ở bờ Bắc sông Thạch Hãn đã pháo kích
liên tục, cùng lúc đó, súng cối của Cộng quân từ các vị trí gần Cổ Thành bắn từng
đợt hàng trăm quả vào các vị trí chiến đấu của các đơn vị TQLC.
Ngày
9/9/1972 trong khi Sư đoàn Nhảy Dù tiếp
tục truy kích các đơn vị CSBV ở phía Tây Quảng Trị, thì dọc theo vùng núi tỉnh
Quảng Trị từ phía Tây Nam cho đến phía Tây Bắc, hàng loạt phi vụ B52 trải thảm
lửa xuống các vị trí được ghi nhận là có cụm pháo binh và tập trung của Cộng
quân. Cùng lúc đó, tại thị xã Quảng Trị, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đồng
loạt tấn công CSBV từ nhiều hướng vào Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Từ ga Quảng
Trị, tiểu đoàn 1 TQLC Quái Điểu do thiếu tá Nguyễn Đăng Hòa chỉ huy đã điều động
các đại đội xuất quân tấn công vào khu vực gần bệnh viện Quân Dân Y Hỗn Hợp và
khu vực trường Bồ Đề.
Tại ngã ba
Long Hưng, tiểu đoàn 2 Thủy quân Lục chiến có biệt danh là tiểu đoàn Trâu Điên
do thiếu tá Trần Văn Hợp làm tiểu đoàn trưởng đã tung 2 đại đội tấn công vào
các chốt chận của CSBV trong làng Thạch Hãn nằm sát thị xã Quảng Trị về phía
Nam, được bao bọc bởi những lũy tre xanh. Lợi dụng từng cụm tre, Cộng quân đã
đào hầm theo chữ A và chữ T rất kiên cố để ngăn chận các cuộc tấn công của Việt
NamCộng Hòa.
Các tiền sát
viên Pháo binh đã điều chỉnh mục tiêu tác xạ cho từng khẩu pháo 105 ly với đầu
đạn nổ chậm xê dịch từng 10 mét một (chứ không phải 50 mét theo quy định an
toàn khi gọi Pháo binh bắn yểm trợ) để bật tung từng ổ kháng cự của Cộng quân.
Một cánh
quân của tiểu đoàn Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung, Duy Tân với sự yểm trợ của
Pháo binh và chiến xa M 48 đã tấn công “dọn sạch” các chốt Cộng quân ở bên đường
Quang Trung, để từ đây đánh chiếm cụm điểm phòng ngự của Cộng quân ở rạp chiếu
bóng Đại chúng và các mục tiêu dọc theo đường Lý Thái Tổ, ở phía Nam Cổ Thành
Quảng Trị.
Tại hướng
Đông Bắc, các tiểu đoàn 3 và 7 TQLC đã tiến chiếm các vị trí trọng điểm để tiến
sát đến Cổ Thành. Tại phía Đông Nam, tiểu đoàn 6 TQLC Thần Ưng (do thiếu tá Đỗ
Hữu Tùng chỉ huy) được giao trọng trách phải vào Cổ Thành bằng mọi giá.
Tại phòng
tuyến ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Trị, ở khu vực quanh trục lộ tiếp vận của Cộng
quân (hương lộ 560), lực lượng tăng cường cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến là
liên đoàn 1 Biệt động quân đã gặp sự kháng cự mạnh của Cộng quân khi liên đoàn
tung 2 tiểu đoàn bung rộng khu vực kiểm soát về phía Đông. Không quân Việt-Mỹ
đã xuất trận để yểm trợ cho Biệt động quân đánh bật Cộng quân ra khỏi trận địa.
Ngày
13/9/1972 Ðại đội 5 tiểu đoàn 2 Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung Trần Hưng Đạo mở
cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đã diễn ra quanh khu vực chợ,
dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đã quần thảo nhau quanh
các đống bê tông đổ nát mà CQ đã biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu
đoàn TQLC này đã chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu
hành chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh
trưởng-nơi 1 đại đội Cộng quân đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ. Một
cánh quân khác, đại đội 4 làm nỗ lực chính do đại bàng Long Hồ-đại đội trưởng
chỉ huy đã tiến quân thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đình
Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt của CQ bố trí tại cơ quan USOM và
Tòa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại
đội 5 của tiểu đoàn 2 Trâu Điên đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh và Ty Tiểu
học Quảng Trị nơi 1 trung đoàn CQ đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh
đã bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy CQ tại đây đã phải tháo chạy ra hướng bờ
sông
Ngày
15/9/1972 LÐ2ND mở cuộc hành quân tảo thanh VC vùng sườn núi phía Tây, nhằm mục
đích mở rộng vùng hoạt động và càn quét các đơn vị Cộng quân lẩn khuất trong
vùng cũng như ngăn chận địch tiến xuống vùng đồng bằng ở phía Ðông.
Cùng ngày nầy,
4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng loạt xung
phong tiến về hướng Tây cổ thành Đinh Công Tráng. Trong đêm 15/9/72, Cộng quân
đã pháo dữ dội vào đội hình của hai tiểu đoàn này để yểm trợ cho thành phần CQ
đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4 đại đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong,
những tổ kháng cự của Cộng quân đã chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó
đã bị đánh bật khỏi phòng tuyến.
Rạng ngày 16
tháng 9, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị
xã Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy
quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát
và triệt hạ các chốt còn lại của CSBV. Đến 8 giờ, một toán Cọp Biển của tiểu
đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa trên cổng tường
phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho sự toàn thắng của Quân lực VNCH
trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Sau 4 tháng
16 ngày chiếm giữ Cổ Thành và thị xã Quảng Trị, Cộng quân đã bị đánh bật và tổn
thất rất nặng. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 CSBV) với hơn 1,500
quân cố thủ trong Cổ Thành đã bị hạ gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ còn chưa
đến 1 tiểu đội ( 10 người ) thoát chạy ra ngoài.
Ngoài trung
đoàn Triệu Hãi bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320 B CSBV- đơn vị chiếm
giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số.
Theo ghi nhận
của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chỉ trong trận chiến tại trung tâm thị xã Quảng
Trị và Cổ Thành, có 2,767 Cộng quân đã bị hạ sát tại trận, 43 địch quân bị bắt
sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung bình mỗi ngày có 150 chiến binh Cọp
Biên hy sinh. Chiều ngày 16 tháng 9/1972, sau khi đánh bật CSBV ra khỏi trung
tâm thị xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến
đã bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự của tàn quân CSBV trong Cổ Thành và
nới rộng vùng kiểm soát.
Mặt trận
phía Tây Quảng Trị trước ngày ngưng bắn:
Đầu tháng
10/1972, LĐ2ND điều động các đơn vị tái chiếm căn cứ Anne (Ðộng Ông Ðô). Ðể tái
chiếm căn cứ nầy TÐ5ND tiến quân bên cánh trái, chạm địch nhiều lần cấp Ðại Ðội
tịch thu nhiều đại bác 122 ly, 130 ly hỏa tiển 107 ly và bắt sống nhiều tù binh
thuộc các Trung Ðoàn 141 và Trung Ðoàn 165 của SÐ324CSBV.Trong khi đó,TÐ11ND
ngăn chận đường tiếp viện của địch quân từ phương Bắc đồng thời bảo vệ cạnh sườn
bên phải để cho TÐ7ND làm trục tấn công chính vào đối phương.
Ðộng Ông Ðô
( Căn Cứ Anne) là một dảy đồi trọc, rất ít cây cối. Ðứng trên đỉnh đồi ta có thể
quan sát từ chi khu Cam Lộ, Ðông Hà đến thị xả Quảng Trị. Trước kia Căn cứ nầy
có một pháo đội 155 ly do quân đội Mỹ thiết lập, sau nầy bàn giao lại cho Quân
Lực Việt Nam CH. Vào mùa nầy thời tiết ẩm ướt, mây mù bao phủ suốt ngày nên việc
tiếp tế và tản thương rất khó khăn. Sau khi VC chiếm giữ khu vực nầy, địch đã
thiết lập hệ thống địa đạo cũng như hệ thống đường xá có thể di chuyển và điều
động dể dàng bộ binh, cơ giới và chiến xa dọc theo khu vực phía Bắc sông Nhung
đến đồi 24 phía dưới chân căn cứ. Bên trong căn cứ cộng quân ẩn núp trong những
hầm hàm ếch nên rất khó bị tiêu diệt bằng phi pháo.
Cuối tháng
10, TÐ7ND đã làm chủ tình hình từ khu đồi yên ngựa đến dảy đồi 24 tiến sát
quanh chân núi bằng những trận cận chiến đẩm máu, giành từng thước đất, từng
chiếc hầm hố cá nhân. Ðến cả tháng sau TÐ7ND mới dứt điểm được căn cứ Anne hoàn
toàn, bắt sống 30 tù binh thuộc Trung Ðoàn 66 và Trung Ðoàn 165 thuộc SÐ324CSBV
tịch thu trên 300 vũ khí đũ loại kể cà súng
cối 160 ly do Nga Sô chế tạo. TÐ7ND bị thiệt hại mất khoảng một Ðại Ðội. Sau đó
đượcTÐ6ND lên thay trấn giữ căn cứ, TÐ7ND lui về tái trang bị và bổ sung quân số.
Ðầu tháng
11/1972, sau khi thay thế đơn vị bạn, TÐ6ND điều động một Ðại Ðội trấn đóng tại
đồi 24 cách căn cứ Anne khoảng 1km để chế ngự khu vực đường thông thủy cũng như
quan sát cả hai mặt Ðông Tây.
Ðể giành lại
những vị trí đã bị Nhảy Dù chiếm giữ Công quân tung SÐ308CSBV với chiến xa yểm
trợ liên tiếp trong 2 tuần lể tấn công vào căn cứ Anne. Nhưng TÐ6ND đã phản
công quyết liệt và gây thiệt hại nặng nề cho đối phương, hơn 2 Tiểu Ðoàn cộng
quân đã bị loại khỏi vòng chiến. 2 ÐĐT/TÐ6ND bị thương, khoảng 150 HSQ & BS
bị thương vong.
Ðồng thời để
yểm trợ cho lực lương cộng quân tấn công vào căn cứ Anne, nhằm cắt đứt nguồn tiếp
liệu cho TĐ6ND. SÐ324CSBV tung một Trung Ðoàn tấn công vào vùng phụ cận ở mặt
phía Ðông là dảy đồi 90 phía đưới căn cứ Barbara do TÐ3ND trấn đóng. Trận đánh
tại đồi 90 rất khốc liệt. BTL/SÐND đã tăng cường TÐ8ND vào vùng hành quân cho LÐ2ND. Sau hai ngày tác chiến TÐ8ND đã
chiếm giữ vị trí chiến lược 18 giữa TÐ3ND và TÐ6ND. Nhiều hầm vũ khí cộng quân
đã chôn giấu tại đây như đạn súng cối 82 ly, 62 ly, hỏa tiển 107 ly, lựu đạn và
đạn dược đũ loại khác.
Giửa tháng
12/72, TÐ8ND tiến đánh căn cứ Suzie , khoảng 3 km phía tây căn cứ Anne và mở rộng
vùng hoạt động kiểm soát đến bờ sông Thạch Hản.
Ðồng thời
TÐ2ND cũng được điều động tấn công tái chiếm vùng Ðộng Tiên cách Suzie khoảng 4
km về phía Tây Nam. Sau một tuần hành quân, TÐ2ND đã càn quét và làm chủ tình
hình, tịch thu nhiều vũ khí và nhiều kho
lương phạn như cá hộp, lương khô do Trung Cộng sản xuất.
Ðến cuối
tháng 12/72 lực lượng Nhảy Dù làm chủ tình hình dọc bờ phía Tây dảy Trường Sơn.
Vùng trách nhiệm của SÐND hoàn toàn được yên tỉnh trước khi hiệp định Ba-Lê được
ký kết để người bạn đồng minh “dỉ đại”của VNCH được “tháo chạy trong danh dự.”
Tháng 3/1973
Sân bay Hòa Mỹ (tức căn cứ Evan do LĐ2ND trấn đóng) tiếp nhận các phi cơ C130
đáp xuống để chở các tù binh trao trả cho VC.
Tài liệu tham khảo:
- The Easter Offensive Of 1972 của Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng, TTQS/BQP/HK xuất bản năm 1980, Việt dịch Kiều Công Cự.
- Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam với cuộc Tổng
Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của CSBV tại
Vùng I CT.- Tài liệu tổng hợp của Cựu Trung Tá Trần văn Hiển
TP3/SĐ/TQLCVN trên trang web
www.tqlcvn.org.
- Mặt Trận Cổ Thành Quảng Trị của Mũ Đỏ Trịnh
Ân .
- Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất
bản lần thứ nhất năm 2004.
- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức
Phương, Làng Văn xuất bản năm 2001
- Đời Chiến Binh của Thiếu Tá Nhảy Dù Trương
Dưởng, Tác giả xuất bản 15/5/1999.
- Lời tường thuật của Trung Úy Thạch Hớn,
Trung Đội Trưởng Trung Đội 1/52ND hiện cư ngụ tại OC, CA.
- Lời tường thuật của Đại Úy Nguyễn Văn Qúi,
Trưởng Ban 3 /TĐTT/SĐND hiện cư ngụ tại San Diego CA.
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất
mong được đón nhận những ý kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót vì
vấn đề thời gian đã trên 32 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. email:
votrungtin@hotmail.com
.
No comments:
Post a Comment