Lực lượng CSBV:
Để tấn chiếm Quảng Trị , mặt trận B5
CSBV đã tung ra một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn gồm có :
– Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn phòng không 230, 232, 241 và 280, 2 Tiểu đoàn Hỏa tiễn, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị..
– Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn Pháo 164 và 84, một Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
– Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong.
– Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Lào Việt.
– SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di chuyển vào thung lũng Ashau áp lực mạnh trên thành phố Huế.
– 2 Trung Ðoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Ðà Nẵng..
– Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn phòng không 230, 232, 241 và 280, 2 Tiểu đoàn Hỏa tiễn, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị..
– Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn Pháo 164 và 84, một Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
– Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong.
– Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Lào Việt.
– SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di chuyển vào thung lũng Ashau áp lực mạnh trên thành phố Huế.
– 2 Trung Ðoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Ðà Nẵng..
Lực lượng Quân Lực VNCH :
Lực lượng VNCH có các đơn vị sau đây :
SÐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.
Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.
Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol. (hay Tân Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến) .
Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.
Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
LĐ147 / TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb và Sarge.
LĐ258 / TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và Barbara.
Liên Ðoàn 1 BÐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.
Liên Ðoàn 4, 5 BÐQ tăng cường
Trung Ðoàn 4/SĐ2BB.
Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh ,Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48),
Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + NQ
8 Tiểu Đoàn Pháo binh
SÐ TQLC.: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh
SÐ ND với 3 Lữ Ðoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.
SÐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.
Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.
Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol. (hay Tân Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến) .
Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.
Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
LĐ147 / TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb và Sarge.
LĐ258 / TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và Barbara.
Liên Ðoàn 1 BÐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.
Liên Ðoàn 4, 5 BÐQ tăng cường
Trung Ðoàn 4/SĐ2BB.
Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh ,Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48),
Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + NQ
8 Tiểu Đoàn Pháo binh
SÐ TQLC.: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh
SÐ ND với 3 Lữ Ðoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.
Lịch sử tỉnh Quảng Trị và Cổ Thành
Tỉnh Quảng Trị phía Bắc giáp Quảng Bình, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp
tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây là dãy Trường Sơn và nước Lào. Diện tích khoảng
4700 km2. Tỉnh lỵ Quảng Trị cách thành phố Huế 55 km (34 miles) và cách Sài Gòn
1227 km (767 miles) về hướng bắc.
Phía Đông Quảng Trị là đồng bằng hẹp, phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần hai phần ba diện tích tỉnh. Ba sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ và Sông Thạch Hãn. Sông Bến Hải phát nguồn từ dãy Trường Sơn ra đến biển ở cửa Tùng, dài 75 km (47 miles). Sông Thạch Hãn (còn gọi là sông Quảng Trị) chảy từ quận Hương Hóa và quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa Việt. Sông Cam Lộ (còn gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với sông Thạch Hãn, chảy qua hai quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh còn có một số dòng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung… Bờ biển Quảng Trị dài 66 km (41 miles), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá, suốt bờ biển đều bằng phẳng và có nhiều cát, nên không lập được các hải cảng.
Đất Quảng Trị xưa đã là đất Lập Quốc của Việt Nam, một phần của bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (bây giờ là Quảng Bình, Quảng Trị).
Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý làm sính lể để cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận, Châu Lý làm Châu Hóa. Châu Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng Trị ngày nay.
Tháng mười năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn đất Thuận Hóa, lập dình ở Ái Tử thuộc phủ Triệu Phong. Năm 1804. vua Gia Long đặt lại tên là dinh Quảng Trị. Tên Quảng Trị có từ đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh vào năm 1876.
Trước năm 1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương, Hương Hóa, Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh và Triệu Phong
Hơn
hai thế kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được
xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại
bằng gạch.
Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ
thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm
1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì
Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết
dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian như mủ cây Ô-Dước.
Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam
Bắc. Sau chiến dịch mùa “Hè đỏ lửa” 1972
toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng
Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên
ngoài chi chít vết bom đạn
Ðể bảo vệ khu vực Quảng Trị, Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị như sau:
SÐ3BB tân lập trách nhiệm bảo vệ Quảng
Trị. Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bản doanh Sư Ðoàn đặt tại Ái Tử.
Trung Ðoàn 2, một Trung Đoàn cũ của
SĐ1BB, đóng tại các căn cứ A4 hay là Cồn Thiện, Fuller, C2 và C3.
Trung Ðoàn 56 đóng tại các căn cứ Hỏa
Lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll).
Trung Ðoàn 57 đóng tại CCHL C1 ( Gio
Linh), A1, A2 và A3 .
Ngoài ra SÐ3BB còn được tăng phái 2 Lữ
Ðoàn TQLC.
Lữ Ðoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc,
núi Bá Hộ, Sarge, Holcomb.
Lữ Ðoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng
Hoàng), Anne, Jane, Barbara .
Hai Lữ Ðoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ
mặt phía Tây của Quảng Trị.
Sư
đoàn 3 bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971, có quân số vào khoảng
11.203 người.
Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn
vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai
trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào
binh,, quân dịch và các đơn vị ÐPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa
có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng.
Diễn tiến :
Khởi động chiến dịch tại Quân Khu 1
VNCH, Tướng CSBV Võ Nguyên Giáp xua
45.000 quân vượt qua sông Bến Hải với hằng trăm chiến xa, hằng trăm đại pháo và
một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng
Trị, Ải địa đầu cực Bắc VNCH.. Ðồng thời tung SÐ324B cùng 2 Trung Ðoàn Biệt Lập
5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế
và Đà Nẵng
Ngày 30/3/1972 đúng 12 giờ trưa,lợi dụng cơ hội thay
đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57 thuộc SĐ3BB. Bô đội CSBV bắt đầu pháo kích dữ dội vào
các căn cứ trong vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn
Thiên, Ðông Hà và Quảng Trị. Pháo binh cộng sản, với các loại đại bác nòng
dài 130 ly, cũng như hỏa tiễn 122 ly tầm xa 27.5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu
Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá
kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và
56/SÐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị
trí phòng thủ bị bỏ ngỏ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung
đoàn 56 giao động mạnh. Sau đó, Cộng quân huy động các đơn vị chủ lực của 2 SÐ304
và 308 cùng 3 Trung Ðoàn biệt lập của B5, một Trung Đoàn Đặc Công và 2 Trung
Đoàn Chiến Xa 203 và 202 vượt khu Phi Quân Sư chia thành 4 mũi tấn công cường
tập vào tuyến phòng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa đang trấn
đóng các căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng Trị.
Các mũi tấn công đầu tiên nhắm vào các
căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là Fuller và Cồn Thiên A4, hai mũi khác nhắm vào
Trung Đoàn 57 tại các Căn cứ A1 và A2. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và
TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không yểm
trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi
cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và
trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đã không thể hoạt đông hữu hiệu để yểm
trợ đươc cho quân bạn.
Hỏa lực pháo binh CSBV đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam.
Hỏa lực pháo binh CSBV đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam.
Đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự phòng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch quân tập trung tấn công biển người tràn ngập căn cứ Sarge.
Đến 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4/1972, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng
phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4
gom về tập trung tại căn cứ Mai Lộc. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay
quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công.
Ngày 1/4/72, chiến trường càng trở nên
sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ
Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung
Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ
và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và lưu thông
trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để
điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH.
Các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị
pháo nặng, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị,
bắn vào yểm trợ, vì thời tiết xấu nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu.
Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SÐ3BB trấn giữ, bị
tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và
thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ,
Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp
tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ
sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà
theo quốc lộ 1. Một lực lượng chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, dọc theo bờ
biển tiến xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ
Đông Hà “bằng mọi giá”. Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của
TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ thời tiết
tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác
vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không
SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà. Để
đề phòng chiến xa địch vượt qua cầu Đông Hà, vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày,
chiếc cầu này được giật sập, để ngăn cản kế hoạch của CSBV đưa bộ binh và chiến
xa tiến xuống phía Nam.
Ngày
2/4/1972
BTL/SÐTQLC và Lữ Ðoàn 369 được không vận ra Huế để thiết lập tuyến phòng thủ
phía Bắc Sông Mỹ Chánh. TÐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số
1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh.
Trong ngày nầy, Cộng Sản cắt đứt QL9 từ Ðông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TÐ8TQLC, bị SÐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya .
Trong ngày nầy, Cộng Sản cắt đứt QL9 từ Ðông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TÐ8TQLC, bị SÐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya .
Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội cộng sản BắcViệt, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới, tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp chỉ huy của SÐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.
Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll
(Tân Lâm) của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn, Cộng quân vẫn tiếp tục pháo kích dữ
dội vào căn cứ nhưng không có quân tiếp viện. Đúng 14 giờ 30 chiều, Trung Tá Phạm Văn Ðính Trung Ðoàn Trưởng
Trung Ðoàn 56/3BB , đã đầu hàng Cộng Sản cùng với 1,500 binh sĩ VNCH bị
quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu
105 ly của pháo đội TQLC, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh
QĐ1 và SĐ3/BB. Biến cố nầy xảy ra trong
ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ
vùng giới tuyến.
Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất
thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đã
liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lịnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC
tại đây sau khi bắn hết đạn, đã được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối,
BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau,
LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung và tái trang bị.
Bộ Tư Lệnh SÐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy tiền phương tại căn cứ Ái Tử bị pháo kích nặng nề, để lui về Quảng Trị. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà và LÐ258 với các Tiểu Ðoàn 1,3 và 6 /TQLC được tăng cường thêm TÐ3PB/TQLC vẫn duy trì tại các căn cứ Ái Tử, căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà. TÐ7/TQLC đang trấn ngự tại QL1 được điều động ra tăng cường phòng thủ căn cứ Ái Tử. ( như vậy là bỏ ngỏ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ)
Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày tấn công của quân CSBV, 11 căn cứ
hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đã thất thủ liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng
pháo đủ loại làm cho Pháo Binh VNCH bị suy yếu, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương,
bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị.
Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xã Quảng Trị, Vì Cầu Ðông Hà bị giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây.
Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Các sư đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xã Quảng Trị, Vì Cầu Ðông Hà bị giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây.
Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ Đoàn 147/TQLC
rút lui về Huế để chỉnh trang, như vậy về phía tây, chỉ còn có 1TÐ/BÐQ, trấn
giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố.
Ngày 6/4/1972 lực lượng CS từ Ba-Lòng phía Nam sông Thạch Hản tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.
Ngày 8/4/1972, LÐ258 điều động TÐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TÐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng thay thế cho một TÐ/BÐQ.
Sáng ngày 9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Ðoàn cộng quân có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ đúng lúc, Bộ Ðội Cộng Sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải mìn bị nổ tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.
Ngày 6/4/1972 lực lượng CS từ Ba-Lòng phía Nam sông Thạch Hản tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.
Ngày 8/4/1972, LÐ258 điều động TÐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TÐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng thay thế cho một TÐ/BÐQ.
Sáng ngày 9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Ðoàn cộng quân có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ đúng lúc, Bộ Ðội Cộng Sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải mìn bị nổ tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.
Hai Ðại Ðội / TÐ1TQLC cùng 1 chi đoàn
chiến xa M48 và 1 chi đoàn Thiết Vận Xa M113 từ Ái Tử đến trợ chiến phá tan
cuộc tấn công của địch. 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa, 21 chiến xa T54 bị
cháy, phần lớn do Không quân Việt Mỹ
oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. 2 chiếc bị bắt sống. Trước tình hình nghiêm
trọng, Bộ TTM quyết định tăng cường Liên Ðoàn 4 và 5 BÐQ cho Quân Ðoàn I.
XIN
BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Mật trận Quảng Trị 1972
Ngày 13/4/1972 Lữ Ðoàn 258TQLC được
điều động giữ tuyến phòng thủ từ Ái Tử đến Phượng Hoàng. Từ Ái Tử lên mạn Bắc
tới QL1, Ðông Hà là vùng trách nhiệm của LÐ5BÐQ và Thiết Ðoàn 17 Kỵ Binh. Từ
Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là tuyến án ngữ của LĐ4BÐQ và Thiết Ðoàn 20 Kỵ Binh.
Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên
Đoàn 1/BĐQ phòng thủ thị xã Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Thạch
Hãn.
Ngày
14/4/1972
với sự yểm trợ hỏa lực của Mỹ, sự chiến thắng của LÐ/TQLC tại Pedro và sự tăng
cường lực lượng của BÐQ, Tướng Hoàng Xuân Lãm đã mở cuộc hành quân Quang Trung
729 để tái chiếm vùng lãnh thổ bị mất về tay CS: Trung Ðoàn 57BB phòng giữ
tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BÐQ, TQLC và Thiết Giáp chĩa mũi dùi tấn
công vào mặt phía Tây của Tỉnh Quảng Trị.
Chiến cuộc bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch Công quân đã chống trả và pháo kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LÐ5 BÐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững đựợc các vị trí trách nhiệm.Do vì việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và pháo trận cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hữu hiệu và còn làm suy yếu tiềm lực phòng thủ sẵn có.
Ngày
18/4/1972
thất bại trong trận tấn công căn cứ Phượng hoàng, Cộng Sản Bắc Việt đã tung
thêm quân áp lực nặng căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.
Ngày
23/4/1972
bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ vừa qua với QLVNCH, Cộng
sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng
con người, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.Trong lúc đó khắp các nẻo
đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa bãi
của cộng sản. Quảng Trị đã thật sự trở
thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
Ngày 24/1972 – 4 Lữ đoàn 147 TQLC với 2
TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh
trở ra Quảng Trị thay thế vùng trách nhiệm của LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử
và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng
Trong đêm nầy CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SÐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới.
Trong đêm nầy CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SÐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẳng tới.
– Đêm
26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đã mở nhiều
mũi tấn công tuyến phòng thủ của LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều
đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ của TQLC
phải thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số.
– Ngày
27/4/1972
cộng quân tổng tấn công tất cả tuyến phòng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến
căn cứ Phượng Hoàng. Tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung
vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh và Hải Lăng. Đêm 27/4,
pháo binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ.
Biệt Động Quân VNCH phòng thủ tại thị trấn Đông Hà
Biệt Động Quân VNCH phòng thủ tại thị trấn Đông Hà
– Ngày
28/4,
Cộng quân pháo dữ dội vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Ðông
Hà, trong 2 ngày khoảng 7,000 quả đạn, đồng thời với chiến xa yểm trợ đã tấn
công vào tuyến phòng thủ của đơn vị nầy, Tiểu Ðoàn 30/LÐ5BÐQ đã bắn hạ 13 chiến
xa T54 và bắt sống một chiếc khác tịch thu hằng trăm vũ khí. Tuy nhiên LÐ/BÐQ
và Thiết Ðoàn 20 Kỵ Binh bị thiệt hại năng vì pháo địch. Để bảo toàn lực lượng,
các đơn vị nầy đã được lịnh triệt thoái để tăng cường bảo vệ phòng tuyến căn cứ
Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC. Trong khi đó, Trung Đoàn
57/BB triệt thoái về Thị xã Quảng Trị. Trong đêm nầy cộng quân cũng tung chiến
xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng Trị nhưng đã bị đẩy lùi.
Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tâp
trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hỗn
loạn trên quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho pháo binh cộng sản. Các cánh quân cũng
bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động
di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SÐ3BB cũng là đầu não chiến trường, mất liên lạc với
một số lớn đơn vị trực thuộc.
– Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào phòng tuyến của
TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các
chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC.
Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên
cũng đã triệt thoái về Quảng Trị, chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ căn cứ Ái
Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút
khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được thi hành
tốt đẹp.
– Trong khi đó ngày 28/4/1972 mặt trận B4 CSBV tại mật khu 611 tung SÐ324B gồm 2
Trung Ðoàn 29 và Trung Ðoàn 803 bao vây rồi tràn ngập căn cứ Bastogne ở phía
Tây thành phố Huế do một Tiểu Ðoàn của SÐ1BB trấn giữ. Trước áp lực quá nặng
của CS căn cứ Checkmate gần đó được lịnh di tản. Đồng thời với việc tấn chiếm 2
căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn 66/304 CSBV cũng đang vân tập về vùng
thung lũng Ashau để chuẩn bị tấn công
Huế.
– Trong ngày 30 tháng 4, thế trận phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại
Quảng Trị đã trở nên nguy ngập. Lúc 2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn
2/3BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ
biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công tràn ngập các
Tiểu đoàn ÐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị.
Quảng Trị thất thủ:
Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, Tướng
Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam sông Thạch Hãn phòng
thủ. Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngũ , để chạy
theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị cộng sản đóng chốt nhiểu
đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh vì Tiểu đoàn 7 TQLC đã di chuyển ra phòng thủ căn
cứ Ái Tử.
Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.
Do đó đoạn đường huyết mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu đào., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.
Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.
Do đó đoạn đường huyết mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu đào., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.
Trước các biến động chiến sự ngày càng
nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB,
triệu tập buổi họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ Thành Quảng Trị
(tức trại Đinh Công Tráng). Tướng Giai trình bày kế hoạch triệt thoái về phía
Nam sông Thạch Hãn.
Theo sự phối trí, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xã Quảng Trị để lập vòng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ. Một tuyến phòng thủ mới dọc theo bờ Nam sông Thạch Hãn sẽ được thiết lập bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa. Thành phần Thiết Giáp (TG) còn lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.
Trưa ngày 30 tháng 4 khi các đơn vị của
Lữ Đoàn 147 TQLC về đến bờ Bắc sông Thạch Hãn thì cả hai cây cầu ngang sông
Thạch Hãn đã bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972,
còn cầu Sắt thì do thiếu phối hợp, toán Công Binh đã đặt chất nổ phá cầu trước
khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu đoàn 1, 4 và 8 TQLC
đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đã được phá hủy trước khi vượt sông Thạch
Hãn, và các đơn vị TQLC đến chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xã.
Sáng
ngày 1/5/72,
BTL/SĐ3/BB thông báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: “5 giờ chiều địch sẽ
pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị”, và cho lệnh
các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo
nầy đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế
theo quốc lộ 1.
Ngày
2/5 Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật.
Tin trên chẳng những làm cho 17 triệu
quân dân miền Nam đau xót bùi ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng
sốt.Tất cả không ai tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị, lại bị lọt vào tay giặc
một cách quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, trời long đất
lở, hoàn cảnh nguy ngập tại hai mặt trận Kon Tum và nhất là địa ngục An Lộc lúc
đó, không một chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn ba quân bạt
ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá mà còn giữ được.
Ngay sau khi kế hoạch lui binh bắt đầu,
Tướng Hoàng Xuân Lãm ra lịnh tử thủ Quảng Trị. Lênh Sư Ðoàn và phản lệnh của
Quân Ðoàn bất nhất làm cho các đơn vị trưởng bất mãn, bất tuân thượng lệnh. Hệ
thống chỉ huy phòng thủ Quảng Trị bị gãy đổ ngay từ đó, các đơn vị tự ý rời vị
trí rút lui về hướng Nam. Tướng tư lệnh SÐ3BB đã cùng với các cố vấn Mỹ và một
ít sĩ quan tham mưu thân cận, đã được 3 trực thăng CH-54 bốc đi từ Cổ Thành
Quảng Trị bay về Ðà Nẵng lúc 16 giờ 40 cùng ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị, một căn
cứ hỏa lực và phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ ngỏ và lọt
vào tay cộng sản Bắc Việt , tối ngày 2-5-1972.
Giữa cảnh hỗn loạn đó, Ðại Tá Khoái Chi Huy Trưởng BÐQ Quân Khu I đã họp các cấp chỉ huy 3 Liên Ðoàn BÐQ và ra quyết định LÐ5BÐQ làm nổ lực chính đánh trì hoãn để cho các cánh quân còn lại lui binh trên QL1. Sự dũng cảm và hy sinh vì màu cờ Binh Chủng, trên một chiến trường do đich chọn sẵn, Các chiến sĩ BÐQ đã đánh một trận phản phục kích để đời tại Sông Trường Phước mặc dù địch có chiến xa yểm trợ.
Vào lúc 14 giờ 30 chiều, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn và gần 30 chiến xa & thiết vận xa còn lại của LĐ1 Kỵ binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ 1. Thêm nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này gây trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực lượng TQLC đã đụng độ suốt đêm với trung đoàn CSBV tại Hải Lăng, có nhiều quân nhân và đồng bào tháp tùng đã tử thương trong lúc giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của thiết giáp, địch rút lui vào buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa và đoàn người chạy giặc đã tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC đang án ngữ.
Trên đường lui binh, Lữ đoàn 147 TQLC,
và các đơn vị của SÐ3BB, vừa phải bảo vệ dân chúng di tản, vừa mở đường máu,
vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích nặng nề của giặc.
Trên đường triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế
Trên đường triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế
Quốc lộ 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ
Chánh, mất an ninh nhiều ngày trước, đang bị quân cộng sản chiếm và đóng chốt.,
nhất là cầu sông Nhung, trên Quốc Lộ I, đoạn đường đã bị gián đoạn giao thông,
vì đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số. Đây là mục tiêu chính, để
quân Bắc Việt phục kích tấn công, tha hồ tác xạ dữ dội và tàn bạo, bằng đủ loại
súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng, đại bác tới thiết giáp. Hàng ngàn xe cộ,
quân xa cũng như xe dân sự, đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác
xe cháy nằm la liệt khắp mặt đường, dưới ruộng. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới
sống sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh.Một phóng viên chứng
kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đã đặt tên cho đoạn đường này là “Đại Lộ Kinh
Hoàng”.
Đại Lộ Kinh Hoàng
Lúc đó Lữ đoàn 369 TQLC được tăng cường
với nhiệm vụ, giữ phòng tuyến Mỹ Chánh từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh, ranh
giới hai tỉnh Thừa Thiên-Quảng Trị.
Sáng sớm ngày 2/5/1972 Trung Ðoàn VC với 18 chiến xa yểm trợ tấn công Lử Ðoàn 369 TQLC tại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sau nữa ngày giao tranh với pháo binh cơ hữu và hải không yểm trợ, 17/18 chiến xa T54 bị bắn cháy. VC bị thiệt hại năng và tháo lui về hướng Hải Lăng bỏ lại trận địa trên 500 xác chết..
Ngày 2/5/1972 Tỉnh Quảng Trị thất thủ, Thiết Ðoàn 20 chỉ còn lại 6/48 chiến xa, Các đơn vị TQLC bị thiệt hại nặng, cầu Mỹ Chánh được Công Binh VNCH giật sập để cản bước chiến xa của địch. Cố đô Huế hiện giờ trong tình trạng hoảng loạn vô trật tự.
Tuyến phòng thủ Huế ngày 5/5/1972
Sáng sớm ngày 2/5/1972 Trung Ðoàn VC với 18 chiến xa yểm trợ tấn công Lử Ðoàn 369 TQLC tại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sau nữa ngày giao tranh với pháo binh cơ hữu và hải không yểm trợ, 17/18 chiến xa T54 bị bắn cháy. VC bị thiệt hại năng và tháo lui về hướng Hải Lăng bỏ lại trận địa trên 500 xác chết..
Ngày 2/5/1972 Tỉnh Quảng Trị thất thủ, Thiết Ðoàn 20 chỉ còn lại 6/48 chiến xa, Các đơn vị TQLC bị thiệt hại nặng, cầu Mỹ Chánh được Công Binh VNCH giật sập để cản bước chiến xa của địch. Cố đô Huế hiện giờ trong tình trạng hoảng loạn vô trật tự.
Tuyến phòng thủ Huế ngày 5/5/1972
Tuyến
phòng ngự Mỹ Chánh :
Ngày
3/5/1972
Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng nguyên Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 được Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu chỉ định thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Quân Ðoàn I trong buổi
họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Dinh Độc Lập.
Ngày 4/5/1972, sau
khi được chỉ định, Tướng Trưởng cấp tốc bay ra Quân Khu I và lập ngay phòng
tuyến cố thủ tại cố đô Huế chống lại áp lực của các SÐ304, 308 và 325 CSBV ở
phía Bắc sông Mỹ Chánh và SÐ324B ở phía Tây.
Tướng Trưởng cấp tốc thành lập Bộ Chỉ
Huy Tiền Phương tại Huế và ban lệnh thiết quân luật, buộc tất cả quân nhân phải
trở về trình diện đơn vị, cho lệnh bắn tại chỗ những người mang vũ khí lang
thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp,bắn bỏ tại chỗ những tên
cướp giựt, tổ chức lực lượng quân cảnh tuần tiểu bằng Thiết Vận Xa V100. Đồng
thời thành lập “Trung Tâm Điều Hợp Hỏa Lực” và một “Toán Đặc Biệt” chỉ nhằm
thâu nhận các mục tiêu và vị trí địch quân, để phối hợp khai thác khả năng dồi
dào của không địa hải pháo Việt Mỹ yểm trợ chiến trường.
Ngày 5/5/1972 Tướng
Trưởng cũng phổ biến kế hoạch phòng thủ cho các vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 1BB trách
nhiệm phòng thủ phía Tây và Tây Nam Huế . Nhằm ngăn chận địch quân từ hướng mật
khu Ba Lòng; SÐ/TQLC trách nhiệm phòng thủ phía Bắc và Đông Bắc Huế, chận đứng
mọi toan tính xâm nhập của địch từ phương Bắc. Các Tư Lệnh SĐ toàn quyền điều
động và phối hợp Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và Chủ Lực Quân vào kế hoạch tác
chiến của Quân Ðoàn. Ðồng thời lập kế hoạch Lôi Phong, tập trung hỏa lực Không,
Hải và địa pháo chiến thuật cũng như chiến lược cơ hữu Việt Mỹ nhằm ngăn chận,
và tiêu diệt sự tập trung quân của địch để có đủ thời gian tái tổ chức trang bị
và huấn luyện các đơn vị bị thiệt hại vừa qua.( lần đầu tiên các đơn vị VNCH
được trang bị hỏa tiễn TOW
Ngày nầy, Ðại Tá Bùi Thế Lân được chỉ
định giữ chức vụ Tư Lệnh SÐ/TQLC thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang .
Ngày 7/5 sự ổn định về phòng thủ tại Huế đã vững vàng, an ninh trật tự công cộng cũng được vãn hồi. Mặc dù giao tranh còn đang xảy ra tại một vài nơi nhưng dân chúng Huế cũng cảm thấy yên tâm, một số gia đình chạy loạn đã lục tục trở về. Các chiến cụ bị mất mát hay hư hỏng cũng được các phi cơ khổng lồ C141 và C5 Hoa Kỳ ồ ạt chở đến phi trường Đà Nẳng.
Ngày 8/5/1972, toàn bộ LÐ2ND với 3 TĐ 2, 7 & 11ND do Đại Tá Trần Quốc Lịch làm Lữ Đoàn Trưởng, từ mặt trận Tây Nguyên được không vận đến Phi Trường Phú Bài tăng viện cho Quân Ðoàn I.
TÐ11ND sau trận chiến tại đồi Charlie ở Quân Khu 2, được tái chỉnh trang, tăng cường cho mặt trận Quân Khu I và khi vừa đến Huế thì nhận được lệnh tái chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh. Vừa vuợt tuyến xuất phát tại Phong Ðiền dọc QL1, VC pháo dữ dội bằng đủ loại đại pháo và xung phong tấn công biển người vào TÐ11ND. Thiếu Tá Mễ TÐT bị thương vì pháo kích. Th/Tá Thành thay thế. Ðến 3 giờ sáng, 3 chiếc T54 xuất hiện, ÐÐ111 dùng M72 tiêu diệt, bắt sống 1 tù binh cấp Thượng Tá, 1 Tiền Sát Viên và 1 Âm Thoại Viên. Tịch thu 11 súng phòng không 30 ly.
( Khi TÐ11ND nhận lệnh lên đường ra Huế, Ðại Tá Trần Quốc Lịch, LÐT/LÐ2ND đã lưu ý vị Tân Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ11ND, Thiếu Tá Lê Văn Mễ rằng “ Chắc chắn bọn CSBV sẽ tấn công Anh tới cùng vì theo kinh nghiệm về chiến thuật CS nếu nó đã đụng mạnh một đơn vị nào của ta một lần rồi khi ra quân lại bọn chúng sẽ tìm cách triệt hạ bằng mọi giá, Nếu Anh cảm thấy chưa đủ sức tôi sẽ cho thằng khác đi thay Anh” Thiếu Tá Mễ tỏ vẽ rất tự tin và xin tiếp tục nhiệm vụ và VC đã dàn chào Ông một cách tận tình )
Các Tiểu Đoàn 2 và 7ND sau đó được
triển khai dọc theo bờ phía Nam sông Mỹ Chánh cùng Tiểu Đoàn 11ND trấn giữ
tuyến đầu. Tất cả chiến binh Nhảy Dù đều được trang bị súng chống chiến xa M72
và XM202 bốn nòng. Các đơn vị Nhảy Dù thường thả các toán Trinh Sát và viễn
thám vào vùng địch chiếm đóng và biết được cộng quân đang tăng cường nhiều
chiến xa, bộ binh , phòng không và đại pháo phía bên kia bờ sông Mỹ Chánh.
Quảng Trị 1972 trong cơn mưa pháo
Ngày
10/5/1972
tình hình tại Huế tạm ổn định. Liên Ðoàn 1BÐQ vừa hoàn tất việc bổ sung quân số
và tái huấn luyện tại Ðà Nẵng được tăng phái cho SÐ/TQLC. Ngày nầy, quân số
QL/VNCH tập trung quanh thành phố Huế lên đến 35,000 người.
Ngày
12/5/1972,
ÐÐTS/LÐ369TQLC vượt sông Mỹ Chánh, thám sát địa thế để lập đầu cầu chuẩn bị cho
chiến dịch Sóng Thần 5/72. Sáng hôm sau, ngày 13/5/1972, 2 Tiểu Ðoàn 3 &
8TQLC được trực thăng vận đổ vào Quận Hải Lăng, cách Quảng Trị 11Km về hướng
Nam đánh bọc hậu trở về sông Mỹ Chánh. Ðồng thời TÐ9TQLC vượt sông Mỹ Chánh
đánh ngược lên phía Bắc. Trung Ðoàn 66 CSBV bị kẹp giữa hai gọng kềm nên bị
thiệt hại nặng nề.
Ngày
14/5/1972
CSBV quyết chí trả thù, 23.00 giờ Trung Ðoàn 66/SÐ324 pháo dữ dội vào ÐÐ111ND.
Ðịch vẫn áp dụng chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung và nhị thức bộ binh
tùng thiết, dùng biển người dự định tràn ngập đơn vị Nhảy Dù nầy.
ÐÐ111ND phản công quyết liệt với sự tiếp ứng kịp thời của 2 Ðại Ðội 112, 114ND và dưới sự yểm trợ hỏa lực của Pháo Binh Dù và 24 chiếc Phantom của Không Quân Mỹ. Ðến sáng sớm hôm sau TÐ11ND hoàn toàn tiêu diệt các đơn vị CSBV, 26 chiến xa bị bắn cháy gồm cả T54, BTR85 và PT76, xác địch ngổn ngang bên ngoài rào phòng thủ. TÐ11ND bị thương vong 20 binh sĩ vì đạn pháo kích.
ÐÐ111ND phản công quyết liệt với sự tiếp ứng kịp thời của 2 Ðại Ðội 112, 114ND và dưới sự yểm trợ hỏa lực của Pháo Binh Dù và 24 chiếc Phantom của Không Quân Mỹ. Ðến sáng sớm hôm sau TÐ11ND hoàn toàn tiêu diệt các đơn vị CSBV, 26 chiến xa bị bắn cháy gồm cả T54, BTR85 và PT76, xác địch ngổn ngang bên ngoài rào phòng thủ. TÐ11ND bị thương vong 20 binh sĩ vì đạn pháo kích.
Ngày
15/5/1972
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lịnh SÐ1BB, tung 2 Trung Ðoàn SÐ1BB hành quân tái
chiếm hai căn cứ Bastogne và Birmingham phía Tây Nam cố đô Huế.
Ngày
16/5/1972
hai Tiểu Đoàn Bộ Binh thuộc Trung Đoàn 3/SĐ1 bất ngờ được trực thăng vận đổ
ngay vào Bastogne. Buổi chiều Trung Ðoàn 3/1BB hoàn toàn làm chủ tình hình tại
căn cứ nầy.. Đến ngày 20/5/1972 SÐ1BB cũng tái chiếm căn cứ Checkmate.
TÐ3ND sau khi tham chiến tại mặt trận An Lộc giải tỏa QL 13, được tái trang bị và không vận ra Huế. ÐÐ33ND được tăng phái cho TÐ11ND và đến trấn đóng tại rặng Hồ Lầy phía Tây Bắc TÐ11ND.
TÐ3ND sau khi tham chiến tại mặt trận An Lộc giải tỏa QL 13, được tái trang bị và không vận ra Huế. ÐÐ33ND được tăng phái cho TÐ11ND và đến trấn đóng tại rặng Hồ Lầy phía Tây Bắc TÐ11ND.
Ngày
21/5/1972,
Hỏa tiễn Tow được Hoa Kỳ vận chuyển đến Ðà Nẳng bằng vận tải cơ khổng lồ C141
và C5.và lần đầu tiên trang bị cho các đơn vị / QL VNCH.
Ngày
22/5/1972
BTL/SÐND và BCH LÐ3ND được không vận tới Huế.Trung Ðoàn 4/2BB cũng được tăng
cường để bảo vệ Huế. Trung Ðoàn nầy được tăng phái cho SÐND trấn giữ phần lảnh
thổ phía Nam sông Mỹ Chánh để các đơn vị Nhảy Dù rảnh tay vượt sông tái chiếm
Quảng Trị.
Ngày
24/5/1972
QÐ1 mở cuộc hành quân Sóng Thần 6/72 thăm dò bằng 2 mũi tấn công vào phía Ðông
và phía Nam tỉnh Quảng Trị : Mũi thứ nhất TÐ7TQLC đổ bộ vào bờ biển dọc theo “Dãy
Phố Buồn Thiu”(tức là Hương lộ 555) phía Đông thành phố Quảng Trị. Mũi thứ hai
gồm 2 Tiểu Ðoàn 4 và 6 TQLC đổ bộ bằng trực thăng xuống giao điểm hương lộ 555
và 602, chạm địch khá mạnh với Trung Ðoàn 18 CSBV. Sau đó các đơn vị TQLC rút
về tuyến Mỹ Chánh.
Trong lúc đó Cộng quân lại tấn công vào
mặt phía Tây trong 3 ngày liên tiếp, với chiến xa và bộ binh tùng thiết chỉa
mũi dùi vào tuyến của LÐ369TQLC. Một Tiểu Ðoàn của CS đã tấn công vào vị trí
của TÐ9TQLC trong khi hai Tiểu Ðoàn CS khác mưu toan tràn ngập Tiểu Ðoàn 1
TQLC. Cả hai cuộc tấn công nầy đều bị đẩy lui và hằng trăm xác công quân bỏ lại
tại trận địa.
Ngày 28/5/1972 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm chiến trường Quân Khu I, ban quân lịnh mở chiến dịch”Lôi Phong” tái chiếm Quảng Trị và thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận cho Ðại Tá Bùi Thế Lân, Tư Lệnh SÐ/TQLC tại Huế.
Tướng Ngô Quang Trưởng, Cao Văn Viên. Bùi Thế Lân và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Quảng Trị 1972
Trong ngày nầy, LÐ1ND sau khi giải tỏa
An Lộc được không vận ra Huế tăng cường lực lượng chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị.
BTL/SÐND đóng tại An Lỗ, 17 cây số phía Bắc thành phố Huế, căn cứ Hiệp Khánh.
Ngày 2/6/1972 một lần
nữa quân cộng sản thuộc Trung Ðoàn 66 có chiến xa yểm trợ đã vượt cầu ngầm tấn
công vào TÐ11ND tại bờ Nam sông Mỹ Chánh, đồng thời địch cũng pháo dữ dội vào
vị trí đóng quân của TÐ2ND tại căn cứ Nancy do 1 Ðại Ðội Nhảy Dù trấn giữ cầu
phao bắt qua sông do Công Binh QÐI thiết lập.
Nhờ chuẩn bị sẵn, Khi chiến xa địch vừa vượt qua sông càn vào tuyến phòng thủ, các chiến sĩ Dù đã dàn chào bằng những loạt đạn M72, và XM202 chống chiến xa cùng Pháo binh yểm trợ. Các chiến xa địch lật gọng, những chiếc khác tháo chạy. Bộ binh VC nhào lên xung phong biển người, từng đợt bị rơi rụng vì mìn claymore, lựu đạn, đại liên ,tiểu liên thi nhau nhả đạn. Sáng sớm hôm sau, Cộng quân tháo lui bỏ lại chiến trường trên 100 xác, 5 tù binh bị bắt sống. 4 chiếc T54 bị bắn cháy, 7 chiếc khác còn nguyên vẹn bị tịch thu vì xa đoàn bỏ trốn, tại bờ sông 9 chiếc nữa bi đâm vào nhau vì hoảng loạn tháo chạy.Về sau, khi Trung Ðoàn 4/2BB đến thay thế trấn giữ đồi Trần Văn Lý, các chiến sỉ TÐ11Nhảy dù bung rộng lục soát về phía Bắc tận sông Nhung đã phát hiện thêm nhiều chiến xa BTR85 do VC cất dấu trước khi tháo lui.( Các chiến xa nầy được đem về trưng bày tại căn cứ Hiệp Khánh)
Nhờ chuẩn bị sẵn, Khi chiến xa địch vừa vượt qua sông càn vào tuyến phòng thủ, các chiến sĩ Dù đã dàn chào bằng những loạt đạn M72, và XM202 chống chiến xa cùng Pháo binh yểm trợ. Các chiến xa địch lật gọng, những chiếc khác tháo chạy. Bộ binh VC nhào lên xung phong biển người, từng đợt bị rơi rụng vì mìn claymore, lựu đạn, đại liên ,tiểu liên thi nhau nhả đạn. Sáng sớm hôm sau, Cộng quân tháo lui bỏ lại chiến trường trên 100 xác, 5 tù binh bị bắt sống. 4 chiếc T54 bị bắn cháy, 7 chiếc khác còn nguyên vẹn bị tịch thu vì xa đoàn bỏ trốn, tại bờ sông 9 chiếc nữa bi đâm vào nhau vì hoảng loạn tháo chạy.Về sau, khi Trung Ðoàn 4/2BB đến thay thế trấn giữ đồi Trần Văn Lý, các chiến sỉ TÐ11Nhảy dù bung rộng lục soát về phía Bắc tận sông Nhung đã phát hiện thêm nhiều chiến xa BTR85 do VC cất dấu trước khi tháo lui.( Các chiến xa nầy được đem về trưng bày tại căn cứ Hiệp Khánh)
Ngày 8/6/1972, 4 Tiểu Ðoàn TQLC đã vượt sông Mỹ Chánh đánh qua phía Bắc mở cuộc hành quân Sóng Thần 8/72. Quân CS đã phản kích kịch liệt dọc theo hương lộ 555. Nhưng TQLC cũng đã mở rộng được tuyến bờ sông phía Bắc Mỹ Chánh.
Ngày 18/6/1972 tiếp nối cuộc hành quân Sóng Thần 8/72, ba Tiểu Ðoàn 1, 5 và 6 TQLC mở cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72. Cộng quân tung bộ binh và chiến xa kháng cự dữ dội. BCH hành quân gọi phi pháo yểm trợ và pháo đài bay B52 can thiệp. Ðịch quân bị thiệt hại nặng, TQLC đã mở rộng phòng tuyến phía Bắc sông Mỹ Chánh thêm 6 km.
Tái chiếm Quảng Trị : Hành Quân Lam Sơn
72
Ngày 28/6/1972 thấy chiều hướng thuận
lơi, BTL/QÐI phát động kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị. Trong kế hoạch
nầy, nổ lực chính là SÐND , SÐTQLC, LÐ1BÐQ và Thiết Ðoàn7KB. SÐIBB mở rộng vòng
đai an ninh về hướng Tây Huế nhằm tái chiếm các căn cứ trong khu vực thung lũng
Ashau, Trung Ðoàn 57BB hành quân lục soát vùng Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự chung
quanh Đà Nẳng. Thành phần trừ bị gồm Trung Ðoàn 4/2BB, Trung Ðoàn 51 và Thiết
Ðoàn 17KB.
Bản đồ hành quân tái chiếm Quảng Trị
Theo kế hoạch hành quân của Quân Đoàn
I:
Ngày N-2 và N-1 ta khởi động một cuộc không tập toàn diện bằng hỏa lực B52, các loại hải pháo, phi pháo và pháo binh diện địa vào các vị trí tập trung quân của địch, các kho tàng cơ giới và các vị trí súng lớn của địch.
Ngoài ra, QĐ I còn tung ra một kế hoạch hành quân nghi binh bằng một lực lượng Nhảy Dù sẽ nhảy xuống Cam Lộ và TQLC sẽ đổ bộ vào cửa Việt nhằm cắt đường tiếp vận của đối phương để đánh lạc hướng và gây hoang mang cho địch quân.
Ngày N bắt đầu, SÐND bên trái QL1,
SÐ/TQLC bên phải QL1, hai đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH tiến song song theo thế
gọng kềm về hướng Bắc, từ bờ biển đến tận đỉnh núi Trường Sơn, đánh đuổi đoàn
quân xâm lược khát máu CSBV tận sào huyệt của chúng.
3.00 giờ sáng, mở đầu cuộc hành Quân Lam Sơn 72, Ðại Tá Trần Quốc Lịch LÐT/LÐ2ND điều động 3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù vượt sông Mỹ Chánh. Tiểu Ðoàn 2ND do Thiếu Tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh trái, TÐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Hồng chỉ huy đi giữa và TÐ3ND ( Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT) đi cánh phải.
3.00 giờ sáng, mở đầu cuộc hành Quân Lam Sơn 72, Ðại Tá Trần Quốc Lịch LÐT/LÐ2ND điều động 3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù vượt sông Mỹ Chánh. Tiểu Ðoàn 2ND do Thiếu Tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh trái, TÐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Hồng chỉ huy đi giữa và TÐ3ND ( Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT) đi cánh phải.
Vì bị tấn công bất ngờ lúc tờ mờ sáng, địch hốt hoảng bỏ chạy. TÐ2ND đánh thẳng vào BCH Trung Ðoàn 203 chiến xa của VC, tịch thu nhiều súng cối 61 và 82 ly cùng đạn dược, ba chiến xa T54 còn đang nổ máy, trong lúc TÐ1ND đã lấy được 14 khẩu đại bác 37 & 57 ly phòng không cùng bắt sống 5 tù binh.
Trong khi đó, TÐ3ND đi cánh phải vượt
sông Mỹ chánh chiếm vùng Lương Ðiền ,Tân Tường, Trường Vinh đến tận phía Nam
sông Ô-Khê để bảo vệ bãi đáp cho 2 TÐ9ND và TÐ11ND. Khi vừa qua sông Mỹ Chánh
TÐ3ND đã tiêu diệt 2 cán binh CS tịch thu 2 khẩu AK-47 và bắt được 3 khẩu pháo
105 ly mà địch đã lấy được của ta trước đây rồi dấu vào bụi tre. Sau đó TÐ3ND
tiến về phía Bắc để tiêu diệt các chốt địch dọc theo Quốc Lộ I (Ðại Lộ Kinh
Hoàng) rồi mở mũi dùi về phía Ðông để tái chiếm Quận Hải Lăng.
Sáng ngày, TÐ9ND (Trung Tá Trần Hữu Phú TÐT) và TÐ11ND ( Thiếu Tá Lê Văn Mễ TÐT ) được trực thăng vận đổ xuống phía Bắc Sông Nhung, hai Tiểu Ðoàn Dù đi song song chiếm từng thước đất, từng cái hố, từng chốt địch, trên những dãy đồi trọc không một bóng cây dưới ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa. Chiến sĩ Dù phải vận dụng tối đa tai, mắt, hơi thở , trí óc rồi bằng lựu đạn, bằng dao gâm đánh cận chiến với địch.
Ngày 2/7/1972 mở đầu giai đoạn 2,Trung Tá Lê Văn Ngọc tân LÐT/LÐIND trách nhiệm càn quét quân giặc doc theo phía Tây dưới chân dãy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ Chánh qua sông Nhung đến La Vang dọc theo bờ sông Thạch Hãn rồi vào Thị Xã Quảng Trị.
Ðể cản bước tiến của quân ta, CSBV đã pháo hằng loạt đủ loại từ 130 ly,122 ly hỏa tiễn 107 ly…Nhưng đoàn quân Mũ Ðỏ vẫn không chùng bước trên đoạn đường dài 9 cây số đầy những cảnh tượng chết chóc từ Giáp Hậu, qua Mai Ðằng rồi đến La Vang Thượng.
TÐ9ND chia quân thành 2 cánh tiến đánh vùng Tân Lê Phước Môn, trong trận nầy tất cả 4 Ðại Ðội Trưởng đều bị thương vì pháo địch, Ðại Úy Ngưu ÐÐT94 bị tử thương tại Tân Téo.
TÐ11ND là trục chính của cuộc tiến quân, từ Hải Lâm cũng chia làm 2 cánh tiến chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang. Ðường vào La Vang thật là hung hiểm, khi đến cầu Trường Phước, cách La Vang 2 cây số về phía Nam, Ðoàn chiến xa BTR85 và PT76 chuyển quân của địch di chuyển trên QL1 ngược chiều với quân Dù.Quân TÐ11ND xung phong với M72 chống chiến xa, gọi Pháo Binh và không quân yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo, chiến xa địch quay đầu bỏ chạy, quân ta truy kích, chiến xa địch hoảng loạn khi qua cầu nên dồn đè lên nhau lật xuống sông.
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù vào Thánh Địa La Vang
Trong khi đó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do
Thiếu Tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được trực thăng vận xuống khu vực nhà thờ La
Vang. Khi vào nhà thờ La Vang, TÐ7ND bắn cháy 2 chiến xa T54 cộng sản bố trí
trước sân nhà thờ và sau 3 giờ kịch chiến, lực lượng Nhảy Dù đã làm chủ tình
thế.
Sau 5 ngày vừa đi vừa bứng chốt địch,
buổi trưa ngày 7/7, TÐ3ND bắt đầu tấn công vào quận Hải Lăng. Thiếu Tá Sơn Tiểu
Đoàn Trưởng cho các Đại Đội 31, 32 và 34 tiến dọc 2 bên QL1 theo đội hình chân
vạt, trong khi đó Đại Đội 33 tiến dọc theo đường rầy xe lửa và “Đại lộ kinh
hoàng”bứng chốt địch để cho các toán Công Binh dọn dẹp (ĐLKH). Khi Đại Đội 32
tới khu trường học, nằm lại án ngữ tại đây. Đại Đội 33 cặp theo tỉnh lộ 602 tấn
công thẳng vào quận lỵ. Ðich ở trong quận đường phản kích mãnh liệt, nhưng với
kinh nghiệm chiến trường, Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ÐÐT/ ÐÐ33ND bình tĩnh gọi
pháo binh và phi cơ yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo địch quân tháo chạy về hướng
Bắc, TÐ3ND tái chiếm lại Quận Hải Lăng vào lúc 4.00 giớ chiều. Trong lúc điều
quân tái chiếm quận Hải Lăng, Thiếu Tá Trần Văn Sơn TÐT chẳng may bị mảnh đạn
pháo địch bị thương, Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng TÐP/TĐ9ND về thay thế chức vụ
TĐT/TĐ3ND.
Ngày
8/7/1972
sau khi chiếm Hải Lăng xong, TÐ3ND được lịnh tiến về trước cùng TÐ8ND càn quét
giặc cộng dọc 2 bờ Sông Nhung từ Ðông sang Tây tới tận chân núi Trường Sơn.
Trên đường hành quân, ÐÐ33ND đã phối hợp với một đơn vị của TĐ8ND do Đại Úy
Trần Cao Khoan chỉ huy bên kia bờ sông, đã tiêu diệt được một đơn vị đặc công
CS toan đặt mìn giật phá cầu Trường Phước trên QL1. Bốn tên bỏ xác tại trận với
4 khẩu AK47 cùng bắt được một Thượng Úy VC tên Thanh mới 28 tuổi là TÐT Tiểu
Ðoàn 31 Ðặc Công cộng sản.
Hai ngày sau ( 10/7) Tiểu Đoàn 3ND lại tấn công địch quân trên ngọn đồi có độ cao 30m. trên nguồn sông Nhung. ĐĐ33ND được chỉ định, chia làm hai mũi dò lần theo thế chân vạt tiến chiếm mục tiêu. Khi toán khinh binh đi đầu chạm địch, toàn đại đội đồng loạt xung phong chớp nhoáng trong vòng 10 phút giao tranh, Nhảy Dù đã làm chủ trận địa. Cộng quân hoảng hốt bỏ chạy để lại 2 xác chết, ta tịch thâu 3 súng phòng không 37 ly bên cạnh có một xác trực thăng UH1-D của VNCH bị bắn rơi trước đây. Sau khi bung rộng ra lục soát tìm thấy thêm 2 khẩu đại bác 122 ly nòng ngắn, rất nhiều đạn chưa kịp bắn, một máy phát điện và một xe cơ giới sửa chữa. Ngày hôm sau Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù cho 5 chiếc Thiết Vận Xa vào kéo 3 khẩu phòng không, 2 khẩu đại bác 122 ly và chuyên viên Công Binh phá huỷ tất cả đạn đại bác.
Hai ngày sau ( 10/7) Tiểu Đoàn 3ND lại tấn công địch quân trên ngọn đồi có độ cao 30m. trên nguồn sông Nhung. ĐĐ33ND được chỉ định, chia làm hai mũi dò lần theo thế chân vạt tiến chiếm mục tiêu. Khi toán khinh binh đi đầu chạm địch, toàn đại đội đồng loạt xung phong chớp nhoáng trong vòng 10 phút giao tranh, Nhảy Dù đã làm chủ trận địa. Cộng quân hoảng hốt bỏ chạy để lại 2 xác chết, ta tịch thâu 3 súng phòng không 37 ly bên cạnh có một xác trực thăng UH1-D của VNCH bị bắn rơi trước đây. Sau khi bung rộng ra lục soát tìm thấy thêm 2 khẩu đại bác 122 ly nòng ngắn, rất nhiều đạn chưa kịp bắn, một máy phát điện và một xe cơ giới sửa chữa. Ngày hôm sau Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù cho 5 chiếc Thiết Vận Xa vào kéo 3 khẩu phòng không, 2 khẩu đại bác 122 ly và chuyên viên Công Binh phá huỷ tất cả đạn đại bác.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù tiến chiếm Cổ Thành
Quảng Trị:
Hoa Dù trên chiến trường Quảng Trị 1972
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn
Chí Hiếu làm Tiểu Đoàn Trưởng, với 5 Đại Đội : Đại Đội 50, ĐĐT là Trung Úy
Chiêu, Đại Đội 51 ĐĐT là Trung Úy Trương Đăng Sỷ, Đại Đội 52, ĐĐT là Trung Úy
Hồ Tường, Đại Đội 53 ĐĐT là Trung Úy Thân, Đại Đội 54 ĐĐT là Trung Úy Dương,
sau ngày giải tỏa An Lộc được không vận đến Huế và trú đóng tại căn cứ Nancy
khoảng một tuần lễ.Tại đây, Tiểu đoàn tái huấn luyện cho binh sĩ về chiến thuật đánh trong thành phố phân
tán mỏng từng tổ ba người, cách thức ngụy trang khi di chuyển và thực tập bắn
hỏa tiễn TOW, M72, XM202…chống chiến xa.
Ngày 5/7/1972, TĐ5ND
di chuyển bằng đường bộ đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây. Sau khi B52 trải
thảm dọc bờ sông, TĐ5ND tung quân vào lục soát đến tận bờ sông Thạch Hãn, thấy
rất nhiều xác cộng quân tại hiện trường. Tiểu đoàn tịch thu được 2 khẩu phòng
không 37 ly.
Ngày 9/7/1972, bàn
giao khu vực lại cho TĐ7ND, TĐ5ND di chuyển về hướng Đông, băng ngang QL1, hôm
sau dừng quân tại khu vực thôn An Thái cách cổ thành khoảng 3 km về hướng Đông
Nam. Tại đây BCH/TĐ lập sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ Thành.
Ngày 10/7/1972,
Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu triệu tập các Đại Đội Trưởng ban lệnh hành quân, Sĩ
quan các Đại Đội có 3 ngày để huấn luyện và hướng dẫn binh sĩ thuộc quyền chuẩn
bị tác chiến. Đặc biệt trong trận nầy yếu tố ngụy trang triệt để áp dụng.
Ngày 11/7/1972
TÐ1TQLC được trực thăng vận đổ xuống hương lộ 560 cách TX Quảng Trị 2 km về
hướng Ðông Bắc để ngăn chận đường tiếp vận của địch muốn tăng cường cho lực
lượng của chúng trong Cổ Thành. Hai trực thăng chuyển quân CH53 của Mỹ bị hỏa tiễn
SA-7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC và Phi Hành Ðoàn bị tử trận.
Ngày
13/7/1972
hai ngày sau, một đơn vị thuộc SÐ312CSBV với chiến xa yểm trợ đã tấn công vào TÐ1TQLC
nầy. TQLC phản công quyết liệt bắn hạ hằng chục chiến xa địch và cho đến ngày
22/7 mới quét sạch quân CS tới cửa Việt.
Sau ba ngày cho binh sĩ chuẩn bị học
tập, đêm 14/7/1972, TĐ5ND bắt đầu di chuyển vượt con sông nhỏ bằng thuyền của
Công Binh Nhảy Dù và tiến vào làng Tri Bưu dọc theo đường Nguyễn Hoàng, phía
Đông Nam Thị Xã. Tại đây cộng quân có đặt một chốt chặn tại nhà thờ Tri Bưu
phản ứng báo động. TĐ5ND dứt chốt bằng cận chiến dễ dàng để không gây tiếng
động và đã giải thoát cho trên 10 Dì Phước bị chúng bắt làm con tin phục dịch
và đỡ đạn cho chúng.
Ngày hôm sau, TĐ5ND đã tiến đến sát bờ thành cổ, vẫn còn nguyên vẹn rào kẽm gai và hào nước bao bọc chung quanh. Công quân vẫn hoạt động bình thường vì Nhảy Dù ngụy trang hoa lá trên người nên chúng không phân biệt được ta hay đối phương. Chúng lùa dân trên đường di chuyển về hướng Đông, có lẽ bắt dân đi theo để đỡ đạn cho chúng.
Ngày hôm sau, TĐ5ND đã tiến đến sát bờ thành cổ, vẫn còn nguyên vẹn rào kẽm gai và hào nước bao bọc chung quanh. Công quân vẫn hoạt động bình thường vì Nhảy Dù ngụy trang hoa lá trên người nên chúng không phân biệt được ta hay đối phương. Chúng lùa dân trên đường di chuyển về hướng Đông, có lẽ bắt dân đi theo để đỡ đạn cho chúng.
Hôm sau, Nhảy Dù đã gọi phi pháo thả
bom phá huỷ một góc phía Đông Nam cổ thành để làm cửa ngỏ xâm nhập vào bên
trong.
Ngày
17/7/1972
trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù, các cánh quân đã được triển khai
như sau : Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu Tá Trần Đăng Khôi chỉ huy đă kiếm soát
được ṿòng đai phía Tây thị xã.., Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ
chỉ huy tiếp tục truy kích Cộng quân ở quanh khu vực Thạch Hãn đến ngã ba Long
Hưng. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Trung Tá Trần Hữu Phú Tiểu Đoàn Trưởng và Thiếu Tá
Nguyễn Văn Nhỏ Tiểu Đoàn Phó, là lực lượng ứng chiến trừ bị cũng đă kiểm soát
được khu vực phía Nam thị xã. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh
Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Thành Tiểu Đoàn Phó chỉ huy đă làm chủ
được chiến trường ở pḥòng tuyến dọc phía Đông thị xã.
Sau một thời gian quần thảo với cộng
quân ở ṿòng đai Cổ Thành, Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu đoàn
5 Nhảy Dù đă quyết định tấn công thành Đinh Công Tráng bằng hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đưa một toán tiền thám xâm nhập vào trong thành, với nhiệm vụ là thám sát địa thế cũng như vị trí của địch quân bên trong cổ thành rồi báo cáo về Tiểu Đoàn. Giai đoạn này sẽ bắt đầu vào đêm 18/7/1972 .
Giai đoạn 2: Cả Tiểu Đoàn sẽ đồng loạt tấn công vào Cổ Thành, và trong 2 ngày, phải đánh chiếm lại ít nhất là phân nửa chu vi bờ thành.
Để thực hiện được kế hoạch trên, Trung Tá Hiếu đă quyết định thành lập ngay một toán “thám sát cảm tử” bằng cách tuyển chọn trong các quân nhân gốc người sở tại Quảng Trị tình nguyện, vì sống tại địa phương nầy nên họ hiểu rõ địa thế. Có rất nhiều chiến sĩ xung phong xin nhập vào toán cảm tử này nhưng chỉ có 6 quân nhân thuộc Đại Đội 51 được chọn: “Trưởng toán là Hạ sĩ Trần Văn Sáu, cọ̀n chiến sĩ được giao trách nhiệm cấm cờ VNCH trên mặt bờ Cổ Thành Quảng Trị là Binh 1 Hồ Khang.
Chiều ngày 18/7/1972, Trung Tá Nguyễn
Chí Hiếu cho tập hợp toán “cảm tử” để từ giă những chiến hữu thân thương quyết
ra đi theo truyền thống “Nhảy Dù Cố Gắng”, Vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù đã ban quyết định thăng cấp trước cho 6 cảm tử quân mỗi người lên hai cấp.
Và đêm đến, toán cảm tử quân sẽ lên đường để đột kích vào Cổ Thành.
Đêm đến, Giờ G đã điểm, toán cảm tử
quân của Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù vượt tuyến xuất phát lao vào bóng đêm đột kích vào
thành. Từ vị trí xuất phát đến mục tiêu khoảng cách hơn 200 mét. Trung Tá Hiếu
và cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn nín thở nhìn theo toán quân cảm tử đi vào bóng đêm
và chờ đợi. Vào khoảng quá nửa đêm, toán cảm tử quân đã ḅò lên được trên mặt
Cổ Thành. Một bóng đen nhô lên giữa bầu trời và tung bay theo chiều gió. Đó
chính là lá
đă được lệnh mang theo khi xuất phát.
Từ xa, các chiến sĩ Nhảy Dù vui mừng la lên:
“Lá cờ dựng được rồi…?”.
“Lá cờ dựng được rồi…?”.
Lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Ḥòa đã tung
bay trên mặt bờ Cổ Thành rồi kia. Đó cũng là một tín hiệu của toán tiền thám
báo cho Trung Tá Hiếu biết nhiệm vụ của họ giai đoạn đầu đã hoàn tất và họ sẽ
tiếp tục nhiệm vụ kế tiếp. Trong giây phút đó, bỗng nhiên có những tiếng hô dõng
dạc từ trên bờ thành vọng đến bên tai những người chiến sĩ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
đang ghì́m tay súng hướng về bờ Cổ Thành chờ đợi và trước mắt họ đã hiện rõ
bóng cờ. Tiếng Binh
I Hồ Khang hô lớn :
– “Nhảy Dù cố gắng – Nhảy Dù chiến thắng – Việt Nam Cộng Ḥòa muôn năm”.
Liền ngay sau đó quân CSBV tử thủ bên trong cổ thành đã tập trung hoả lực như mưa bắn xối xả vào toán cảm tử cuả TĐ5ND, Binh Nhất Hồ Khang và 3 đồng đội khác tử trận ngay bên bờ thành, chỉ có Hạ sĩ Sáu và Binh Nhất Tâm còn may mắn, hai ngày sau rút trở về lại chiến tuyến.
– “Nhảy Dù cố gắng – Nhảy Dù chiến thắng – Việt Nam Cộng Ḥòa muôn năm”.
Liền ngay sau đó quân CSBV tử thủ bên trong cổ thành đã tập trung hoả lực như mưa bắn xối xả vào toán cảm tử cuả TĐ5ND, Binh Nhất Hồ Khang và 3 đồng đội khác tử trận ngay bên bờ thành, chỉ có Hạ sĩ Sáu và Binh Nhất Tâm còn may mắn, hai ngày sau rút trở về lại chiến tuyến.
Ngày
21/5 các
đơn vị TĐ5ND được lịnh lui về vị trí cũ để phi pháo hoạt động, Đại Đội 52 trên
đường lui binh trở lại nhà thờ Tri Bưu bị quân CS phát giác và bắn theo bằng
đại bác trực xạ không giật 82 ly. Thiếu Úy Trịnh Văn Bé bị tử thương và 56 quân
nhân khác bị thương vong. Hai ngày sau các đơn vị lại tiến lên trở lại. TĐ5ND
phát hiện và hạ sát hai tên tiền sát viên pháo binh VC bám theo sau Tiểu Đoàn.
Ngày
25/7/1972,
TÐ5ND tiến quân tái chiếm cổ thành. Để yểm trợ cho trận đánh quyết tử này “Minh
Hiếu” được tăng cường Đại Đội 111/ND của Tiểu Đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” do Trung
Úy Đinh Viết Trinh “ba búa” chỉ huy đánh trợ lực từ hướng Tây Bắc vượt qua cánh
đồng trống, tiến dưới làn mưa pháo địch, đánh thóc vào khu nghĩa địa làng Tri
Bưu, chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại Đội 52/ND do Trung úy Hồ Tường chỉ
huy và để cùng đồng loạt tiến đánh chiếm lại Cổ Thành bằng mọi giá. Cạnh sườn
phía Bắc Cổ Thành có Đại Đội 2/TSND do Đại Úy “Út Bạch Lan” chỉ huy tấn kích
nghi binh trợ chiến.
Đúng 3 giờ sáng, Đại Đội 51 do Trung Úy Trương Đăng Sĩ, Đại Đội Trưởng làm nỗ lực chính tiên phong đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ Thành, sau đó là ĐĐ52/ND do Trung úy Hồ Tường chỉ huy, nỗ lực phụ trợ chiến, một Trung Ðội của ĐĐ51ND đã cắm cờ lần thứ hai trên bờ tường cổ thành. Trước khi xuất quân, Trung Tá Hiếu lệnh cho các đơn vị trực thuộc nếu không tiến lên được vì bất cứ lý do gì, các Đại Đội cố gắng rẻ sang phía trái sẽ có TĐ6ND trợ chiến.
Khi bình minh vừa ló dạng, hai Đại Đội
tiên phong / TĐ5ND dàn đội hình trên bờ thành chờ đợi xuất phát, trong khi 2
phi cơ A37 vào vùng triệt hạ khẩu đại bác trực xạ 82 ly của địch theo sự chỉ dẫn
của trinh sát cơ OV-10. Tiếp theo đó Pháo Binh đang trải màn khói, chuẩn bị tác
xạ yểm trợ…ngay khi đó, hai chiếc phi cơ Fantom Hoa Kỳ chúi xuống trút bom ngay
trên đầu của các Đại Đội 51 và 52 ND. Sự việc xảy ra trước mắt của Trung Tá
Nguyễn Chí Hiếu, trong khi ông cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang theo dõi
diễn tiến trận đánh quyết tử để sớm kết thúc giai đoạn 2, nhưng cũng không thể
nào ngăn kịp. Muộn rồi!!! TĐ5ND gần như tan nát !. Với những khối bom năng đã
thả xuống chính xác làm cho hơn 50% chiến sĩ Mũ đỏ ưu tú của TĐ5ND bị thương
vong. Đại Đội 51 của Trung Úy Trương Đăng Sỉ chỉ còn 38 quân nhân sống sót, tất
cả 5 Sỉ Quan của Đại Đội 52 đều bị thương và gần 50 HSQ và Binh sĩ bị thương
vong. Tổn thất nặng nề đó đă giáng một đòn chí tử lên nỗ lực tột cùng của Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù, và Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu phải ra lịnh cho các đơn vị trở lại
tuyến xuất phát. (Việc ném bom lầm nầy, có dư luận cho rằng là một sự cố ý từ
cấp thẳm quyền nào đó muốn ngăn chận sự tiến quân nhanh chóng của QLVNCH )
Ngày
27/7/1972
Tướng Trưởng trong cuộc họp với các Tư Lệnh chiến trường để duyệt xét tính hình
chiến sự, ông đã cho biết là theo tin tức tình báo nhận được, cộng quân đă đưa
thêm 2 Sư Đoàn CSBV vào vùng cận sơn Trị Thiên. Hai Sư Đoàn này sẽ tung vào mặt
trận Quảng Trị làm lực lượng trợ lực cho Sư Đoàn 325/CSBV và Ông quyết định
thay đổi lực lượng tấn công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Theo đó TQLC trách
nhiệm khu vực duyên hải và mặt trận Cổ Thành Quảng Trị. Lực lượng Nhảy Dù trách
nhiệm bảo vệ phòng tuyến Thạch Hãn, và khống chế lực lượng tăng viện của địch ở
mặt trận phía Tây Quảng Trị. Đúng 12.00 giờ trưa, Ðại Tá Trần Quốc Lịch LÐT/
LÐ2ND bàn giao khu vực trách nhiệm cho Ðại Tá Ngô Văn Ðịnh LÐT/ LÐ258TQLC trong
khi trận chiến hai bên đang giao tranh ác liệt giữa Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với 1
Trung Đoàn Cộng quân cố thủ trong Cổ thành. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù cũng lần lượt được thay thế bởi các Tiểu Đoàn/TQLC.
Sư đoàn Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến
bàn giao khu vực trách nhiệm bên sông Mỹ Chánh cho việc chuẩn bị tái chiếm
Quảng Trị vào tháng 6 và 7 năm 1972
Tiểu Đoàn 9 TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Kim
Đễ chỉ huy hoán đổi cho TĐ11ND tại khu vực phía Nam thị xã, cạnh Quốc Lộ 1.
Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu Tá Hồ Quang Lịch chỉ huy nhận lãnh trách nhiệm thay
thế TĐ6ND tại ngã ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 3/TQLC do Thiếu Tá Nguyễn Văn Cảnh
chỉ huy thay thế TĐ5ND tại làng Tri Bưu gần Cổ Thành Quảng Trị.
Mặt trận phía Tây Quảng Trị :
Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm
chung quanh Cổ thành và Thị xả Quảng Trị cho lực lượng TQLC, SĐND mở mặt trận
mới tấn công quân CSBV trong vùng rừng núi phía Tây thị xã Quảng Trị và phía
Nam sông Thạch Hãn, gọi là Động Ông Đô, để ngăn chận sự chuyển quân và tiêu
diệt các ổ súng đại bác 122 ly, 130 ly thường pháo vào thành phố chung quanh
cũng như yểm trợ cho cánh quân cố thủ của chúng trong thành cổ Đinh Công Tráng.
Vùng hành quân của SÐND tái chiếm Quảng Trị cuối năm 1972
Vùng hành quân của SÐND tái chiếm Quảng Trị cuối năm 1972
Ngày
12/8/1972,
Ðại Tá Trương Vĩnh Phước LÐT/LÐ3ND mở cuộc hành quân trong vùng trách nhiệm cận
dãy Trường Sơn. Việc tiến quân vào vùng nầy rất khó khăn vì rừng núi trùng
điệp, càng lên cao càng hiểm trở lại gặp thời tiết khắc nghiệt nên hỏa lực yểm
trợ bị giới hạn rất nhiều. Tuy nhiên các chiến sĩ Nhảy Dù vẫn không chùng bước.
Mở đầu chiến dịch, TÐ3ND từ bờ sông Nhung
được lịnh tiến chiếm ngọn đồi 118 ở phía Đông căn cứ Barbara. Nơi ngọn đồi nầy
địch quân dùng làm đài quan sát theo dõi tất cả mọi hoạt đông quân sự của VNCH
trong vùng từ Ái Tử, Quảng Trị đến quận Hải Lăng…
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù chia thành 2 cánh quân tấn công. Cánh thứ nhất gồm BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội 30 và Đại Đội 33 tiến chiếm đỉnh đồi 118 dễ dàng không gặp một sự chống cự nào của cộng quân, Đại Đội 32 án ngữ làm thành phần trừ bị và giữ an ninh bãi tiếp tế và suối nước. Cánh thứ hai gồm hai Đại Đội 31 và 34 tiến về hướng căn cứ Barbara.. Cánh quân nầy gặp sự kháng cư mạnh mẽ của địch. Sau hai ngày quần thảo Cộng quân rút lui bỏ lại nhiều xác và vũ khí gồm súng cối 62 ly, đại liên 12,8 ly, và hằng trăm khẩu AK 47 và đạn dược.
Ngày
14/8/1972
Ðại Tá Nguyễn Trọng Bảo, Phụ Tá hành quân / SÐND và Ðại Tá Hùynh Long Phi trên
đường đến thăm vị trí đóng quân của LÐ1ND đã bị tử nạn trực thăng tại phía Ðông
Bắc cầu Mỹ Chánh, trên QL1 (khoảng đại lộ kinh hoàng).
Trong ngày nầy, Tiểu Đoàn 3 ND nhận được tiếp tế tại đồi 118, Trung Đội 1/33ND do Thiếu Úy Toàn chỉ huy được chỉ định xuyên rừng mang tiếp tế cho 2 Đại Đội 31 và 34 đang trấn ngự trên lưng chừng núi giữa đường đến căn cứ Barbara..
Trong ngày nầy, Tiểu Đoàn 3 ND nhận được tiếp tế tại đồi 118, Trung Đội 1/33ND do Thiếu Úy Toàn chỉ huy được chỉ định xuyên rừng mang tiếp tế cho 2 Đại Đội 31 và 34 đang trấn ngự trên lưng chừng núi giữa đường đến căn cứ Barbara..
Đến 6.00 giờ ngày 16/8 sáng Trung Đội 1/33 của Thiếu Úy Toàn vừa trở về căn cứ
sau khi phải di chuyển băng rừng suốt đêm thì 2 Trung Đoàn của SĐ308 cộng quân
ào ạt tấn công vào vị trí phòng thủ của TĐ3ND trên đồi 118.
Khởi đầu cuộc tấn công, vào lúc 6.00
giờ sáng Cộng quân áp dụng trận địa pháo kinh hồn pháo vào vị trí TĐ3ND sau đó
dùng biển người tấn công vào mặt phía Tây căn cứ do 2 Đại Đội 30 và 33 ND trấn
thủ. Các chiến sĩ Dù phản công quyết liệt, giao tranh từ sáng đến chiều. Thiếu
Úy Lê Ngọc Bản SQTT, Chuẩn Úy Phạm Lê Phong Trung Đội Trưởng/ĐĐ33, TSI Trần Văn
Dũng và Hạ sĩ Truyền Tin Lê Thiều bị tử thương. Thiếu Tá Nguyễn Văn Định TĐP,
Đại Úy Phạm Xuân Thiếp Ban 3, Đại Úy Dương Văn Xuân ĐĐT 30, Trung Úy Trần Văn
Tâm Phụ tá Ban 3 bị thương. Trung Úy Nguyễn Hữu Viên ĐĐT 33 bị thương hộc máu
và Trung sĩ Sỉ cận vệ cho Tiểu Đoàn Trưởng lãnh nguyên một quả đạn 75 ly trực
xạ bị tan xác. Đến 6.00 giờ chiều, công quân thấy không thắng được và bị thiệt
hại nhiều nên rút lui, các chiến sĩ Dù cấp tốc tu bổ lại công sự phòng thủ,
kiểm điểm quân số và trị liệu cho thương binh
Sáng sớm hôm sau 17/8 , địch quân tập trung quân đông đảo quyết dứt điểm ngọn đồi 118, vẫn áp dụng chiến thuật tiền trận địa pháo hậu xung biển người. Trước áp lực quá nặng của địch quân, BCH Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù cho Đại Đội 30 di tản tản tất cả thương binh ra khỏi cứ điểm về hướng Bắc. Đại Đội 33 ở lại tử thủ.
Đại Đội 33 Nhảy Dù với quân số chỉ còn
lại 70 người, kiên cường chống trả lại. Nhiều đợt xung phong biển người của
địch quân bị rơi rụng bên ngoài rào phòng thủ.. Đặc biệt ngày nầy Tiểu Đoàn 3
Nhảy Dù đánh giặc không pháo yểm cũng không có không yểm, cũng không có tiếp
viện, Nhảy Dù chỉ “đánh khô” vậy thôi. (Lý do là thời tiết xấu, hết đạn pháo
binh, tiếp tế từ Đà Nẵng chở ra không kịp, còn phi cơ có lẽ cũng hết… đạn luôn
). Đến xế chiều, vì áp lực cộng quân quá mạnh và quá đông lại không có pháo
binh và phi pháo trợ giúp nên Thiếu Tá Võ Thanh Đồng, TĐT cho lệnh Đại Đội 33
triệt thoái khỏi cứ điểm. Đến 5.00 giờ chiều, cộng quân đã tràn ngập căn cứ.
Lúc nầy 2 chiếc Oanh tạc cơ A37 của Không Quân VNCH bay tới oanh tạc ngay giữa
đỉnh đồi 118. Đại Đội 33 chỉ còn lại 43 người trong đó có 3 Sĩ Quan là Trung Úy
Viên ĐĐT, Chuẩn Úy Đào Văn Oai, Chuẩn Úy Lê Thanh Vân, Trung Đội Trưởng.
Lính
Dù gói xác bạn trên vũng đất “thập tử nhất sinh” Quảng Trị 1972
Chiều hôm đó, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được
rút về ngọn đồi 30 với Đại Đội 32 và sáng ngày hôm sau rút ra Trường Phước,
cạnh QL 1 để nhận tiếp liệu và bổ sung quân số. Sau khi được chỉnh bị, TĐ3ND
trở lại trận địa án ngữ ngọn đồi 90 dưới chân núi Động Ông Đô để cho các đơn vị
Nhảy Dù khác tái chiếm căn cứ Barbara và Anne.
Ngày
8/9/1972
LÐ3ND điều động TÐ8ND tái chiếm căn cứ Barbara.TÐ8ND chia quân thành hai mũi
tấn công ban đêm vào hai phía Ðông và Tây của căn cứ. Ðịch bị đánh bất ngờ khi
còn đang ngáy ngủ. 2 Ðại Ðội TÐ8ND đã đột kích vào căn cứ một cách dễ dàng. Rất
nhiều tù binh thuộc SÐ324CSBV bị bắt, hơn 20 xe molotova chở đầy lương khô, đạn
dược bị tịch thu còn nguyên vẹn cùng nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng. Một
Thiếu Úy ND bị hy sinh và một binh sĩ bị thương.
TQLC Tái chiếm cổ thành:
TQLC/QLVNCH đổ vào Huế tái phối trí lực lượng chuẩn bị tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Ngày
28/7/1972
sau khi nhận bàn giao khu vực trách nhiệm từ LĐ2ND, Lữ đoàn 258 TQLC lập ngay
phòng tuyến sát với các vị trí của đối phương. Trận chiến càng ngày càng diễn
ra khốc liệt. Đại bác Cộng quân ở bờ Bắc sông Thạch Hãn đã pháo kích liên tục,
cùng lúc đó, súng cối của Cộng quân từ các vị trí gần Cổ Thành bắn từng đợt
hàng trăm quả vào các vị trí chiến đấu của các đơn vị TQLC.
Ngày
9/9/1972
trong khi Sư đoàn Nhảy Dù tiếp tục truy kích các đơn vị CSBV ở phía Tây Quảng
Trị, thì dọc theo vùng núi tỉnh Quảng Trị từ phía Tây Nam cho đến phía Tây Bắc,
hàng loạt phi vụ B52 trải thảm lửa xuống các vị trí được ghi nhận là có cụm
pháo binh và tập trung của Cộng quân. Cùng lúc đó, tại thị xã Quảng Trị, 6 tiểu
đoàn Thủy quân Lục chiến đồng loạt tấn công CSBV từ nhiều hướng vào Cổ Thành
Đinh Công Tráng.
Từ ga Quảng Trị, tiểu đoàn 1 TQLC Quái
Điểu do thiếu tá Nguyễn Đăng Hòa chỉ huy đã điều động các đại đội xuất quân tấn
công vào khu vực gần bệnh viện Quân Dân Y Hỗn Hợp và khu vực trường Bồ Đề.
Tại ngã ba Long Hưng, tiểu đoàn 2 Thủy
quân Lục chiến có biệt danh là tiểu đoàn Trâu Điên do thiếu tá Trần Văn Hợp làm
tiểu đoàn trưởng đã tung 2 đại đội tấn công vào các chốt chận của CSBV trong
làng Thạch Hãn nằm sát thị xã Quảng Trị về phía Nam, được bao bọc bởi những lũy
tre xanh. Lợi dụng từng cụm tre, Cộng quân đã đào hầm theo chữ A và chữ T rất
kiên cố để ngăn chận các cuộc tấn công của Việt NamCộng Hòa.
Các tiền sát viên Pháo binh đã điều chỉnh mục tiêu tác xạ cho từng khẩu pháo 105 ly với đầu đạn nổ chậm xê dịch từng 10 mét một (chứ không phải 50 mét theo quy định an toàn khi gọi Pháo binh bắn yểm trợ) để bật tung từng ổ kháng cự của Cộng quân.
Một cánh quân của tiểu đoàn Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung, Duy Tân với sự yểm trợ của Pháo binh và chiến xa M 48 đã tấn công “dọn sạch” các chốt Cộng quân ở bên đường Quang Trung, để từ đây đánh chiếm cụm điểm phòng ngự của Cộng quân ở rạp chiếu bóng Đại chúng và các mục tiêu dọc theo đường Lý Thái Tổ, ở phía Nam Cổ Thành Quảng Trị.
Các tiền sát viên Pháo binh đã điều chỉnh mục tiêu tác xạ cho từng khẩu pháo 105 ly với đầu đạn nổ chậm xê dịch từng 10 mét một (chứ không phải 50 mét theo quy định an toàn khi gọi Pháo binh bắn yểm trợ) để bật tung từng ổ kháng cự của Cộng quân.
Một cánh quân của tiểu đoàn Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung, Duy Tân với sự yểm trợ của Pháo binh và chiến xa M 48 đã tấn công “dọn sạch” các chốt Cộng quân ở bên đường Quang Trung, để từ đây đánh chiếm cụm điểm phòng ngự của Cộng quân ở rạp chiếu bóng Đại chúng và các mục tiêu dọc theo đường Lý Thái Tổ, ở phía Nam Cổ Thành Quảng Trị.
Tại hướng Đông Bắc, các tiểu đoàn 3 và
7 TQLC đã tiến chiếm các vị trí trọng điểm để tiến sát đến Cổ Thành. Tại phía
Đông Nam, tiểu đoàn 6 TQLC Thần Ưng (do thiếu tá Đỗ Hữu Tùng chỉ huy) được giao
trọng trách phải vào Cổ Thành bằng mọi giá.
Tại phòng tuyến ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Trị, ở khu vực quanh trục lộ tiếp vận của Cộng quân (hương lộ 560), lực lượng tăng cường cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến là liên đoàn 1 Biệt động quân đã gặp sự kháng cự mạnh của Cộng quân khi liên đoàn tung 2 tiểu đoàn bung rộng khu vực kiểm soát về phía Đông. Không quân Việt-Mỹ đã xuất trận để yểm trợ cho Biệt động quân đánh bật Cộng quân ra khỏi trận địa.
Tại phòng tuyến ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Trị, ở khu vực quanh trục lộ tiếp vận của Cộng quân (hương lộ 560), lực lượng tăng cường cho Sư đoàn Thủy quân Lục chiến là liên đoàn 1 Biệt động quân đã gặp sự kháng cự mạnh của Cộng quân khi liên đoàn tung 2 tiểu đoàn bung rộng khu vực kiểm soát về phía Đông. Không quân Việt-Mỹ đã xuất trận để yểm trợ cho Biệt động quân đánh bật Cộng quân ra khỏi trận địa.
Biệt Động Quân trên chiến trường Quảng Trị Hè 1972
Ngày
13/9/1972
Ðại đội 5 tiểu đoàn 2 Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn
công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đã diễn ra quanh khu vực chợ, dọc
theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đã quần thảo nhau quanh các
đống bê tông đổ nát mà CQ đã biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn
TQLC này đã chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu hành
chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh
trưởng-nơi 1 đại đội Cộng quân đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ. Một
cánh quân khác, đại đội 4 làm nỗ lực chính do đại bàng Long Hồ-đại đội trưởng
chỉ huy đã tiến quân thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đình
Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt của CQ bố trí tại cơ quan USOM và
Tòa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại
đội 5 của tiểu đoàn 2 Trâu Điên đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh và Ty
Tiểu học Quảng Trị nơi 1 trung đoàn CQ đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung
quanh đã bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy CQ tại đây đã phải tháo chạy ra hướng
bờ song
Ngày 15/9/1972 LÐ2ND mở cuộc hành quân tảo thanh VC vùng sườn núi phía Tây, nhằm mục đích mở rộng vùng hoạt động và càn quét các đơn vị Cộng quân lẩn khuất trong vùng cũng như ngăn chận địch tiến xuống vùng đồng bằng ở phía Ðông.
Cùng ngày nầy, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây cổ thành Đinh Công Tráng. Trong đêm 15/9/72, Cộng quân đã pháo dữ dội vào đội hình của hai tiểu đoàn này để yểm trợ cho thành phần CQ đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4 đại đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của Cộng quân đã chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đã bị đánh bật khỏi phòng tuyến.
Rạng ngày 16 tháng 9, lực lượng Thủy quân Lục chiến đã đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị xã Quảng Trị và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát và triệt hạ các chốt còn lại của CSBV. Đến 8 giờ, một toán Cọp Biển của tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho sự toàn thắng của Quân lực VNCH trong cuộc tổng phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Sau 4 tháng 16 ngày chiếm giữ Cổ Thành và thị xã Quảng Trị,
Cộng quân đã bị đánh bật và tổn thất rất nặng. Riêng trung đoàn Triệu Hải
(trung đoàn 27 CSBV) với hơn 1,500 quân cố thủ trong Cổ Thành đã bị hạ gần như
toàn bộ tại trận địa, chỉ còn chưa đến 1 tiểu đội ( 10 người ) thoát chạy ra ngoài.
Ngoài trung đoàn Triệu Hải bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320 B CSBV- đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số.
Ngoài trung đoàn Triệu Hải bị xóa sổ, trung đoàn 48 B thuộc sư đoàn 320 B CSBV- đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số.
Theo
ghi nhận của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chỉ trong trận chiến tại trung tâm
thị xã Quảng Trị và Cổ Thành, có 2,767 Cộng quân đã bị hạ sát tại trận, 43 địch
quân bị bắt sống.
Về phía Thủy quân Lục chiến, trung bình mỗi ngày có 150 chiến binh Cọp Biên hy
sinh. Chiều ngày 16 tháng 9/1972, sau khi đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị
xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến đã bung
rộng để triệt hạ các chốt kháng cự của tàn quân CSBV trong Cổ Thành và nới rộng
vùng kiểm soát.
Mặt
trận phía Tây Quảng Trị trước ngày ngưng bắn :
Đầu tháng 10/1972, LĐ2ND điều động các
đơn vị tái chiếm căn cứ Anne (Ðộng Ông Ðô). Ðể tái chiếm căn cứ nầy TÐ5ND tiến
quân bên cánh trái, chạm địch nhiều lần cấp Ðại Ðội tịch thu nhiều đại bác 122
ly, 130 ly hỏa tiễn 107 ly và bắt sống nhiều tù binh thuộc các Trung Ðoàn 141
và Trung Ðoàn 165 của SÐ324CSBV.Trong khi đó,TÐ11ND ngăn chận đường tiếp viện
của địch quân từ phương Bắc đồng thời bảo vệ cạnh sườn bên phải để cho TÐ7ND
làm trục tấn công chính vào đối phương.
Ðộng Ông Ðô ( Căn Cứ Anne) là một dãy
đồi trọc, rất ít cây cối. Ðứng trên đỉnh đồi ta có thể quan sát từ chi khu Cam
Lộ, Ðông Hà đến thị xã Quảng Trị. Trước kia Căn cứ nầy có một pháo đội 155 ly
do quân đội Mỹ thiết lập, sau nầy bàn giao lại cho Quân Lực Việt Nam CH. Vào
mùa nầy thời tiết ẩm ướt, mây mù bao phủ suốt ngày nên việc tiếp tế và tản
thương rất khó khăn. Sau khi VC chiếm giữ khu vực nầy, địch đã thiết lập hệ
thống địa đạo cũng như hệ thống đường xá có thể di chuyển và điều động dễ dàng
bộ binh, cơ giới và chiến xa dọc theo khu vực phía Bắc sông Nhung đến đồi 24
phía dưới chân căn cứ. Bên trong căn cứ cộng quân ẩn núp trong những hầm hàm
ếch nên rất khó bị tiêu diệt bằng phi pháo.
Cuối tháng 10, TÐ7ND đã làm chủ tình
hình từ khu đồi yên ngựa đến dãy đồi 24 tiến sát quanh chân núi bằng những trận
cận chiến đẩm máu, giành từng thước đất, từng chiếc hầm hố cá nhân. Ðến cả
tháng sau TÐ7ND mới dứt điểm được căn cứ Anne hoàn toàn, bắt sống 30 tù binh
thuộc Trung Ðoàn 66 và Trung Ðoàn 165 thuộc SÐ324CSBV tịch thu trên 300 vũ khí
đủ loại kể cà súng cối 160 ly do Nga Sô chế tạo. TÐ7ND bị thiệt hại mất khoảng
một Ðại Ðội. Sau đó đượcTÐ6ND lên thay trấn giữ căn cứ, TÐ7ND lui về tái trang
bị và bổ sung quân số.
Ðầu tháng 11/1972, sau khi thay thế đơn vị bạn, TÐ6ND điều động một Ðại Ðội trấn đóng tại đồi 24 cách căn cứ Anne khoảng 1km để chế ngự khu vực đường thông thủy cũng như quan sát cả hai mặt Ðông Tây.
Những người lính Dù dự Thánh lễ đầu
tiên tại nhà thờ La Vang sau khi Quảng Trị được tái chiếm
Ðể giành lại những vị trí đã bị Nhảy Dù
chiếm giữ Công quân tung SÐ308CSBV với chiến xa yểm trợ liên tiếp trong 2 tuần
lễ tấn công vào căn cứ Anne. Nhưng TÐ6ND đã phản công quyết liệt và gây thiệt
hại nặng nề cho đối phương, hơn 2 Tiểu Ðoàn cộng quân đã bị loại khỏi vòng
chiến. 2 ÐĐT/TÐ6ND bị thương, khoảng 150 HSQ & BS bị thương vong.
Ðồng thời để yểm trợ cho lực lương cộng quân tấn công vào căn cứ Anne, nhằm cắt đứt nguồn tiếp liệu cho TĐ6ND. SÐ324CSBV tung một Trung Ðoàn tấn công vào vùng phụ cận ở mặt phía Ðông là dãy đồi 90 phía đưới căn cứ Barbara do TÐ3ND trấn đóng. Trận đánh tại đồi 90 rất khốc liệt. BTL/SÐND đã tăng cường TÐ8ND vào vùng hành quân cho LÐ2ND. Sau hai ngày tác chiến TÐ8ND đã chiếm giữ vị trí chiến lược 18 giữa TÐ3ND và TÐ6ND. Nhiều hầm vũ khí cộng quân đã chôn giấu tại đây như đạn súng cối 82 ly, 62 ly, hỏa tiễn 107 ly, lựu đạn và đạn dược đủ loại khác.
Giữa tháng 12/72, TÐ8ND tiến đánh căn cứ Suzie , khoảng 3 km phía tây căn cứ Anne và mở rộng vùng hoạt động kiểm soát đến bờ sông Thạch Hãn.
Ðồng thời TÐ2ND cũng được điều động tấn công tái chiếm vùng Ðộng Tiên cách Suzie khoảng 4 km về phía Tây Nam. Sau một tuần hành quân, TÐ2ND đã càn quét và làm chủ tình hình, tịch thu nhiều vũ khí và nhiều kho lương phạn như cá hộp, lương khô do Trung Cộng sản xuất.
Ðến cuối tháng 12/72 lực lượng Nhảy Dù
làm chủ tình hình dọc bờ phía Tây dãy Trường Sơn. Vùng trách nhiệm của SÐND
hoàn toàn được yên tỉnh trước khi hiệp định Ba-Lê được ký kết để người bạn đồng
minh “vĩ đại”của VNCH được “tháo chạy trong danh dự.”
Tháng 3/1973 Sân bay Hòa Mỹ (tức căn cứ Evan do LĐ2ND trấn đóng) tiếp nhận các phi cơ C130 đáp xuống để chở các tù binh trao trả cho VC.
Tháng 3/1973 Sân bay Hòa Mỹ (tức căn cứ Evan do LĐ2ND trấn đóng) tiếp nhận các phi cơ C130 đáp xuống để chở các tù binh trao trả cho VC.
Tài liệu tham khảo :
– The Easter Offensive Of 1972 của
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TTQS/BQP/HK xuất bản năm 1980, Việt dịch Kiều
Công Cự.
– Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam với cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của CSBV tại Vùng I Chiến Thuật – Tài liệu tổng hợp của Cựu Trung Tá Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN trên trang web http://www.tqlcvn.org.
– Mặt Trận Cổ Thành Quảng Trị của Mũ Đỏ Trịnh Ân .
– Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất bản lần thứ nhất năm 2004.
– Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản năm 2001
– Đời Chiến Binh của Thiếu Tá Nhảy Dù Trương Dưởng, Tác giả xuất bản 15/5/1999.
– Lời tường thuật của Trung Úy Thạch Hớn, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1/52ND hiện cư ngụ tại OC, CA
-Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù
– Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam với cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của CSBV tại Vùng I Chiến Thuật – Tài liệu tổng hợp của Cựu Trung Tá Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN trên trang web http://www.tqlcvn.org.
– Mặt Trận Cổ Thành Quảng Trị của Mũ Đỏ Trịnh Ân .
– Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất bản lần thứ nhất năm 2004.
– Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản năm 2001
– Đời Chiến Binh của Thiếu Tá Nhảy Dù Trương Dưởng, Tác giả xuất bản 15/5/1999.
– Lời tường thuật của Trung Úy Thạch Hớn, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1/52ND hiện cư ngụ tại OC, CA
-Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù
Tư liệu của Binh chủng ND/QLVNCH biên
soạn bởi Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-545-0105
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-545-0105
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên - Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
No comments:
Post a Comment