Đây là loạt bài hồi ức về biến cố 30/4/1975 theo cách nhìn từ 3 phía: Sài Gòn - Hà Nội - Washington. Người viết cố gắng tổng hợp các nguồn thông tin để người đọc có một tầm nhìn khái quát về một bước ngoặt lịch sử.
oOo
Sài Gòn, sáng 30/4/1975, lần đầu tiên dân chúng được chứng kiến tận mắt xe tăng T-54 từ miền Bắc tiến vào thủ đô VNCH. Trước mắt, nhiều người sống trong niềm vui từ nay sẽ chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, cũng có một số người suy nghĩ hay lo lắng đến những gì sẽ xảy ra cho chính họ trong những năm tháng sau này.
Lần đầu tiên dân Sài Gòn được chứng kiến xe tăng T-54
Sự kiện ngày 30/4/1975 thường được gọi qua nhiều tên, tùy theo chính kiến và góc độ chứng kiến biến cố của từng người. Nếu là người miền Bắc, sống dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, 30/4/1975 là “Ngày giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước”. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một cột mốc quan trọng trong lịch sử đất nước.
Báo chí phương Tây dùng thuật ngữ “Sự sụp đổ của Sài Gòn” (The Fall of Saigon) để nói về sự chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ trong một cuộc chiến kéo dài được mệnh danh là “Chiến tranh Việt Nam”.
Nếu là người miền Nam đã di tản ra nước ngoài, 30/4/75 là Ngày quốc hận, là Tháng Tư Đen. Đối với người miền Nam còn ở lại trong nước, đó là sự Đổi Đời, một thuật ngữ mới, ý nghĩa tốt hay xấu còn tùy thái độ và hoàn cảnh của từng người đối với chế độ mới.
Đổi Đời có ý nghĩa tiêu cực đối với những người đã phục vụ chính quyền Sài Gòn, khi đó được gọi chung là Ngụy quân – Ngụy quyền. Tuy nhiên, Đổi Đời lại là tích cực đối với những gia đình có người thân thuộc hàng ngũ bên kia.
Dù có gọi là gì đi nữa, 30/4/1975 là sự kiện chấm dứt chiến tranh khi Tổng thống cuối cùng của VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Sau khi người Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam, viện trợ quân sự cho VNCH đã cắt giảm nhiều: tài khóa năm 1973 là 2,1 tỷ USD, năm sau rút xuống còn 1,4 tỷ và đến năm 1975 chỉ còn 700 triệu. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bày tỏ sự lo ngại về viện trợ của Mỹ cho VNCH:
“Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Y như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo”.
Về phía Bắc Việt, trong tập hồi ký Đại thắng Mùa Xuân, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã viết về động cơ thúc đẩy miền Bắc và Quân giải phóng miền Nam mở cuộc tổng tấn công là do Mỹ đã giảm viện trợ khiến cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn không thể thực hiện theo như ý muốn. Đó là vì… “hỏa lực đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên liệu”.
Về phía Mỹ, Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm tiền cho chiến trường Việt Nam. Đầu năm 1975, hai năm sau khi ký Hiệp định Đình chiến Paris, Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa huy động gần như toàn bộ lực lượng gần 1 triệu quân để mở cuộc tấn công lớn trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Tất cả được bắt đầu từ thị trấn Ban Mê Thuột trên vùng cao nguyên. Ban Mê Thuột được miền Bắc chọn làm chiến trường ‘lãnh ấn tiên phong’ và Ban Mê Thuột cũng mở ra trang lịch sử cuối cùng của VNCH…
Ban Mê Thuột bị tấn công ngày 10/3/1975. Thị trấn nhỏ bé này, với diện tích khoảng 370 km², dân số 300.000 người, bị thất thủ và tạo một ‘chấn động domino’, phá vỡ hệ thống phòng thủ của quân đội VNCH và kết quả là ngày 30/4/1975 toàn bộ miền Nam sụp đổ!
Ban Mê Thuột, thị trấn yên bình
nhưng chính nơi đây lại là khởi đầu của sự sụp đổ
Ngày 23/3/75, Huế rơi vào tay ‘quân giải phóng’ trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn dân thường và binh lính tìm cách chạy thoát bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây dưới những trận mưa pháo.
Trong 4 sư đoàn bộ binh của quân lực VNCH, 4 liên đoàn biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 người rút khỏi miền Trung. Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thủy, 70.000 binh sĩ VNCH còn lại sau bị bắt làm tù binh, 33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn và gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại.
Theo đài BBC (Việt ngữ), Đà Nẵng sụp đổ mà hầu như không có một trận chạm súng nào. Khi quân Bắc Việt tiến vào thành phố, không thấy binh sĩ VNCH đóng quanh thành phố chống cự. Các trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng tan vỡ: Quảng Ngãi ngày 24/3, Qui Nhơn và Nha Trang ngày 1/4 và cảng Cam Ranh ngày 3/4. Gữa lúc người dân miền Nam đang hoang mang, những thông tin của BBC đã góp phần làm rệu rã tinh thần của những người cầm súng…
Ngày 23/3/1975: di tản khỏi Đà Nẵng
Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 Bắc Việt từ phía bắc tiến vào và Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lần lượt thất thủ. Ngày 9/4, Quân đoàn 4 Bắc Việt định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai - tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của quân lực VNCH đã kháng cự ác liệt để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của VNCH. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.
Ngày 17/4, Thượng viện Mỹ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu đô la mà chính phủ Mỹ đề nghị. Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger và một số người khác đã hy vọng rằng nó có thể giúp VNCH lấy lại được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục Bắc Việt đàm phán.
Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, Giám đốc CIA William Colby nói với Tổng thống Ford: "Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng". Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt ra khỏi Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó.
Trong bức thư gửi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 23/3/1975, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford viết:
White House
Ngày 22 tháng 3, 1975
Thưa Tổng thống,
Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc không kém gì sự hủy bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
Biến chuyển này mang theo không ít hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì đây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết đinh chính số phận quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân VNCH sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.
Riêng đối với Hoa kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách. Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách hủy diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua.
Sự quyết tâm của Hoa kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng [Bắc Việt] với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thoả ước quốc tế [đã được ký kết] long trọng, là một điều hết sức cần thiết.'
Riêng tôi, tôi khẳng định rằng Hoa kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam Cộng hoà trong giờ phút tối quan trọng này.
Với mục đích tôn trọng những nghĩa vụ của Hoa kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với quan tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép.
Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường.
Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa.
Kính thư,
Gerald R. Ford
Ngày 20/4, các thủ tục pháp lý được đơn giản hóa cho việc di tản người Việt bắt đầu có hiệu lực từ sân bay Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Máy bay C-130 và C-140 liên tục lên xuống vào ban ngày, công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Leo vào Tòa Đại Sứ Mỹ trước họng súng của TQLC
Ngày 20/4 quân phòng thủ VNCH bỏ Xuân Lộc. Không còn gì để cứu vãn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn không còn phòng thủ từ xa, quân Bắc Việt áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Sài Gòn được coi như bỏ ngỏ.
Cùng ngày 20/4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức vì phía Bắc Việt đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với Tổng thống Thiệu. Tối ngày 21/4, Nguyễn Văn Thiệu đọc một bài diễn văn từ chức dài trước Quốc hội, buộc tội Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vẫn không chấp nhận nói chuyện với ông.
Buổi lễ ‘từ nhiệm’ này còn được truyền trên hệ thống phát thanh và truyền hình cả nước. Tôi còn nhớ buổi chiều hôm đó ngồi nghe ông Thiệu ‘tả oán’ trên TV, bài diễn văn từ nhiệm của ông đượm màu sắc ‘than thân trách phận’, oán trách người bạn đồng minh đã từng gắn bó với Việt Nam trong suốt thời gian qua nay bỗng lạnh lùng quay lưng, giũ áo…
Tổng thống Thiệu trao lại quyền lãnh đạo đất nước ‘đang trên bờ vực lâm nguy’ cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Tân Tổng thống Trần Văn Hương (ông là Tổng thống dân sự cuối cùng của VNCH với một ‘nhiệm kỳ’ kéo dài đúng 7 ngày) đứng lên đáp từ. Ông Hương khi đó đã là một ông già lụ khụ với những lời lẽ mộc mạc của một ‘ông giáo làng’, chấp nhận làm Tổng thống trong cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước.
Thật tình khi nghe ông Hương nói, tôi hoàn toàn mất hết sự tin tưởng vào việc VNCH có thể đảo ngược thế cờ. Ông Hương, sinh năm 1902 tại Vĩnh Long, là một nhà giáo có uy tín, trong số học trò của ông có cả Đại tướng Dương Văn Minh. Bước sang lãnh vực chính trị, ông đã từng 2 lần làm Đô trưởng Sài Gòn (năm 1955 và năm 1964), 2 lần làm Thủ tướng (cuối năm 1964 và năm 1968)…
Theo tôi, nét nổi bật trong cuộc đời của ông Hương là chọn ở lại Việt Nam sau ngày 30/4/1975. Năm 1977, ông được chính quyền mới trao trả ‘quyền công dân’ nhưng ông khước từ và nói rằng ông chỉ nhận khi tất cả những quân-dân-cán-chính của VNCH cũng được hoàn trả quyền công dân của họ. Vị nhân sĩ yêu nước, ngay thẳng và trong sạch này mất ngày 27/1/1982, nhằm ngày mồng ba Tết Nhâm Tuất, hưởng thọ 80 tuổi.
Tại Hà Nội, thời điểm chuyển giao quyền lực giữa Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương ở miền Nam đã mang một ý nghĩa quyết định trong việc chấm dứt chiến tranh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này cho biết: "Chìa khóa là ngày 21/4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ…".
Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người trực tiếp chỉ huy các cánh quân miền Bắc tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công. Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Bắc Việt tung thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tầu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn với 5 quân đoàn.
Frank Snepp, một chuyên viên phân tách tình báo cao cấp của cơ quan tình báo Hoa kỳ, tiết lộ trong cuốn Decent Interval, ngay sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, Ngoại trưởng Henry Kissinger gởi cho ông Graham Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn một bức điện. Tiến sĩ Kissinger yêu cầu ông Đại sứ chuyển lời bày tỏ lòng “kính trọng” của ông đối với vị cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa và đề nghị muốn giúp Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam.
Cũng theo Frank Snepp, Đại tướng Dương Văn Minh (lúc này chưa có vai trò gì trong chính quyền) cũng đã góp một phần lớn vào sức ép buộc cựu Tổng thống Thiệu phải rời khỏi nước. Tướng Minh cho rằng sự có mặt của ông Thiệu làm cản trở tiến trình hòa bình do ông chủ trương nên ông yêu cầu tướng Charles Timmes phải bằng mọi cách thúc bách ông Thiệu sớm ra đi.
Xin nói thêm về Trung tướng hồi hưu Charles Timmes. Ông là sĩ quan chỉ huy toán cố vấn Mỹ đầu tiên có mặt ở Việt Nam từ năm 1961. Sau một thời gian ở Việt Nam, ông được tuyển dụng và trở thành một viên chức cao cấp với nhiều thế lực của cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn. Tướng Timmes quen biết và tiếp xúc với hầu hết các tướng lãnh kể cả Đại tướng Dương Văn Minh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ…
Một tiết lộ khác của Oliver Todd, trong cuốn Cruel April, Tổng thống Trần Văn Hương triệu hồi Đại Sứ Martin vào dinh Độc Lập. Cụ Hương nêu ra nhiều lý do và nhấn mạnh với ông Martin là nếu còn có sự hiện diện của ông Thiệu ở Sài Gòn thì chính quyền do ông lãnh đạo khó có thể tiến hành các cuộc hòa đàm với phía bên kia. Tổng thống Hương yêu cầu nước Mỹ nhận ông Thiệu sang sống lưu vong.
Đại sứ Martin rất phấn khởi trước yêu cầu này. Trước hết, ông không muốn bị mang tiếng về việc ra đi của ông Thiệu, ông muốn cho dư luận tin rằng đó là sức ép từ các thế lực trong nước chứ không phải từ phía tòa Đại Sứ Mỹ. Ông Martin hứa: chính quyền Mỹ sẵn sàng chấp nhận ông Thiệu sang sinh sống ở Hoa Kỳ.
Thiếu tá Nguyễn Tấn Thận, sĩ quan tùy viên của Đại tướng Trần Thiện Khiêm (khi đó là Thủ tướng), tiết lộ trong bài Những ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn:
“… Sáng sớm hôm sau là ngày 22 tháng Tư, tướng Charles Timmes vội vã đến tư dinh Đại Tướng Khiêm xin được tiếp kiến. Đại Tướng đã tiếp ông hơn nửa tiếng đồng hồ. Rồi ngay chiều hôm đó Đại Tướng Khiêm vào dinh Độc Lập gặp Tổng Thống Thiệu...
Chúng ta khó biết Đại Tướng Khiêm nói gì với cựu Tổng Thống Thiệu nhưng sẽ không loại bỏ những gì Tướng Timmes muốn đề nghị lên ông Thiệu là nên ra đi khỏi nước. Sau này ở hải ngoại Đại Tướng Trần Thiện Khiêm có cho tôi biết là ngay sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức “cụ Hương muốn Tổng Thống Thiệu và dượng Tư”[Đại tướng Trần Thiện Khiêm là chú của Thiếu tá tùy viên Nguyễn Văn Thận – Chú thích của NNC] đi đường biển qua Singapore. Tiết lộ này trùng hợp với việc Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã yêu cầu ông Hoàng Đức Nhã qua Singapore gặp ông để thông báo là giới chức Mỹ muốn Tổng Thống Thiệu phải đi lưu vong ở Singapore hoặc một thủ đô nào của các quốc gia vùng Đông Nam Á”.
Cuối cùng hai tướng Thiệu và Khiêm lại rời Việt Nam đi Đài Bắc tối ngày 25/4/1975, trên danh nghĩa đại diện VNCH dự tang lễ tướng Tưởng Giới Thạch. Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu viết tay trình lên Tổng Thống Trần Văn Hương. Khi viết danh sách, cựu Tổng thống Thiệu muốn Đại Tá Cầm đánh máy, ông này lại không biết đánh máy nên ông Thiệu đành phải viết tay.
Đến khi có lịnh của Đại Sứ Martin là phải mang theo máy chữ khi đến nhà Đại Tướng Khiêm, Thomas Polgar lại quên (!). Thành ra hai văn kiện danh sách phái đoàn của Tổng Thống Thiệu và tên điền vào mẫu parole documents (văn kiện tạm cư của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ) đều không đánh máy, mà phải viết tay.
Kính trình Tổng Thống Trần Văn Hương,
Thưa Cụ,
Để thực hiện công tác cụ giao phó, tôi kính xin cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du:
1. Đại Tá Võ Văn Cầm
2. Đại Tá Nguyễn Văn Đức
3. Đại Tá Nhan Văn Thiệt
4. Đại Tá Trần Thanh Điền
5.Trung Tá Tôn Thất Ái Chiêu
6. Bs Thiếu Tá Hồ Vương Minh
7. Đại Úy Nguyễn Phú Hải [giờ chót không có mặt – Chú thích của NNC]
8. Phục dịch viên Nghị, (binh sĩ) [giờ chót không có mặt – Chú thích của NNC]
Ngoài ra, Cựu Thủ Tướng Đại Tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần đem theo những sĩ quan và dân sự sau đây:
1. Trung Tá Đặng Văn Châu
2. Thiếu Tá Đinh Sơn Thông
3. Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận
4. Ông Đặng Vũ [giờ chót không có mặt]
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận ./.
Kính chào Tổng Thống
(ký tên Thiệu)
Tổng Thống Trần Văn Hương phê thuận,
Đề ngày 25/4/75
Ký tên Trần Văn Hương
Trang tài liệu viết tay của cựu TT Nguyễn văn Thiệu trình TT Trần văn Hương
ngày 25/4/1975
Frank Snepp kể lại chuyến lưu vong Đài Bắc của hai tướng Thiệu-Khiêm ngày 25/4/1975 trong Decent Interval:
“Khoảng 8 giờ 30, bốn người chúng tôi đi trên ba xe đến Bộ Tổng Tham Mưu của Nam Việt Nam nằm bên ngoài Tân Sơn Nhứt. Khiêm có nhà riêng ở đây. Joe và tôi giấu vũ khí dưới chỗ ngồi. Chúng tôi lo sợ một việc không lành có thể tái diễn vụ ám sát anh em ông Diệm trước đây… trên đường đi nếu có những sĩ quan trẻ Việt Nam chận chúng tôi lại, ra lịnh cho chúng tôi xuống xe và… định hạ thủ…”
Nguyễn Tấn Thận kể lại:
“… Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại Tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng Thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại Tá Đức, Trung Tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau vào hai xe còn lại… Đoàn xe bắt đầu chạy hướng về cổng chánh Bộ Tổng Tham Mưu, vừa ra khỏi cổng thì quẹo phải, đi thẳng vào cổng phi trường Tân Sơn Nhứt.
Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hãng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó bóng một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sáng, một loại máy bay giống như DC6.
Khi tới gần chiếc máy bay, đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người. Xe thứ hai ủi tới suýt đụng vào xe đi trước vì trời tối. Hai xe sau tạt qua hai bên hông xe Tổng thống Thiệu. Chiếc xe tôi ngồi vừa thắng gấp vừa bẻ tay lái kêu nghe ken két. Một cuộc biểu diễn ngoạn mục. Dù đó là do sắp xếp hay chỉ là một “tai nạn” nhưng dưới con mắt an ninh, họ là những thành phần phải được liệt vào hàng các tay bảo vệ yếu nhân chuyên nghiệp.
Xe Tổng thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M16 dựng đứng bên hông trong thế tác chiến… Chúng tôi tông cửa xe, bước xuống mau. Tổng thống Thiệu đi trước, Đại tướng Khiêm theo sau, rồi Polgar, Timmes. Chúng tôi nối đuôi theo sau.
Hình ảnh ông Đại Sứ Graham Martin – một quan Khâm sai của Đại Vương quốc Hoa Kỳ – hiện ra tại chân cầu thang máy bay như một vị thần hộ mạng, giống với hình ảnh ông thần miễu Ông Tà ở Ô Môn quê tôi mà hồi nhỏ tôi đã tưởng tượng ra: đôi mắt xanh, tóc bạc trắng, hai tay dài lòng thòng… ai cũng phải sợ.
Tổng thống Thiệu bắt tay ông Đại Sứ. Hai bên trao đổi mấy lời. Tất cả leo lên mau. Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, tướng Timmes vào buồng danh dự. Tại đây có bốn ghế bành bọc vải trắng (Sau nầy mới biết đó là máy bay riêng của Đại Sứ Martin). Đại Sứ Martin vào tận buồng máy nói vài lời tiễn biệt rồi vội vã rời máy bay. Chúng tôi mạnh ai nấy tìm chỗ ngồi ở các hàng ghế phía sau.
Vào thời điểm này, Trung tá Nguyễn Văn Phú Hiệp là phi công chiếc máy bay Air Việt Nam 727 có lịnh ứng trực, chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng. Trung tá Hiệp trước kia là Trưởng phi hành đoàn trực thăng Phủ Tổng Thống. Anh Hiệp, giờ chót không đi được, sau nầy chết trong trại tù Cộng Sản.
Cũng vào thời gian nói trên, một vài đơn vị trưởng các đơn vi phòng thủ Thủ Đô, và các đơn vị đóng quân gần khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt được nghe dư luận đồn đãi là có người rỉ tai: “Ông Thiệu sẽ dùng Air Việt Nam để ra khỏi nước. . .”
Khi tất cả chúng tôi ngồi vào chỗ rồi thì Tổng Thống Thiệu từ phía trước bước ra sau chỗ chúng tôi. Ông đứng giữa hai hàng ghế với khuôn mặt không còn giống như hồi ở nhà Đại tướng nữa. Nét nghiêm nghị như giận dữ hiện rõ trên khuôn mặt như tôi đã từng chứng kiến nhiều lần trước kia. Các sĩ quan làm việc quanh ông đôi khi phải đón nhận những phản ứng dữ dội từ ông, thay cho các đối tượng mà ông vì cần phải giữ hòa khí ở một mức độ có thể coi được, ông thường “giận cá chém thớt” và hay “phang nhầm” chúng tôi.
Với cái nhìn sáng quắc, mặt đỏ gay, Tổng Thống Thiệu gằn từng tiếng: “Nè, các chú nhớ là không được nói gì hết. Có ai hay báo chí hỏi thì trả lời là không biết gì hết! Nghe chưa!” Nói xong ông liền trở về phía trước…
Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-gòn, buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đạo, đem theo hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng lãnh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một vòng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài Gòn, rồi hướng về biển Đông…
Tôi bật người ra thành ghế, hít một hơi thở thật dài, nhắm mắt lại; hai dòng lệ từ từ lăn xuống má… Xin giã biệt quê hương… tạm biệt mọi người thân…”
Ngày 14/4/1975:
TT Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức sau 10 cầm quyền
17 giờ ngày 26/4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: (1) hướng Bắc với Quân đoàn 1; (2) hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3; (3) hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232; (4) hướng Đông với Quân đoàn 4 và (5) hướng đông nam với Quân đoàn 2. Ngày 27/4, Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Bắc Việt, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng, làm nhiều người chết và bị thương và nhà cửa đổ nát.
Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô không còn quân trừ bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của địch tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975.
Các đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương, Bà Quẹo, khu Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền-Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chận đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt cách Nhảy dù tại vòng đai Bộ Tổng tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật địch ra khỏi trận địa. Đến cuối ngày 28/4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng, quân Bắc việt có thể đi ngay vào thành phố.
Xác T-54 trên đường Trương Minh Giảng, gần Lăng Cha Cả
Vào đúng 5 giờ chiều ngày 28/4/1975, tại phòng Khánh Tiết dinh Độc Lập, Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền lãnh đạo đất nước cho đại tướng Dương Văn Minh qua cuộc dàn xếp của các lực lượng chính trị thứ ba. Bên ngoài, trời bắt đầu đổ mưa, sấm chớp ầm ầm và thủ đô Sài Gòn đang sống trong một buổi chiều u ám chẳng khác nào hoàn cảnh âm u của đất nước.
Dưới đây là bản ghi chép từ băng ghi âm tường thuật trực tiếp buổi lễ bàn giao của phóng viên Đài phát thanh Sài Gòn:
« Thưa quý thính giả, bây giờ là 17 giờ thiếu 5 phút, và phóng viên hệ thống truyền thanh vẫn có mặt tại phòng khánh tiết Dinh Độc Lập. Nơi đây, buổi lễ bàn giao Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa sẽ diễn ra trong vòng năm phút tới. Bên trong phòng khánh tiết Dinh Độc Lập hiện giờ đèn sáng choang và các dân biểu, nghị sĩ, cũng như tất cả nội các, xử lý thường vụ của Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn hiện có mặt bên trong hội trường này.
Thưa quý vị thính giả, chúng tôi đã nhận thấy ở trên hàng ghế đầu cùng là Phó thủ tướng Trần Văn Đôn, Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo, Phó thủ tướng Dương Kích Nhưỡng, quý vị cố vấn đoàn trong đoàn chính phủ. Chúng tôi cũng nhận thấy Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm kiêm Trưởng phái đoàn Hòa đàm tại Ba Lê là ông Nguyễn Xuân Phong ngồi ở hàng ghế thứ nhì… ».
Xin nói thêm về ông Nguyễn Xuân Phong, người đã ở lại Sài Gòn sau ngày 30/4/1975 để rồi sau đó đi học tập cải tạo. Đến khi được ra trại, ông Phong về Trung tâm Nghiên cứu Dịch thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh để hằng đêm đi dậy các lớp tiếng Anh tại các trường ở Sài Gòn như đám cựu giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội chúng tôi.
Ông Phong là một con người nhã nhặn, ít nói nhưng rất thân thiện với các giáo viên đồng cảnh ngộ. Dù sao đi nữa, ông vẫn còn ‘sang’ hơn cánh giáo viên như chúng tôi vì ông có chiếc mobylette trong khi các thầy khác vẫn đạp xe cọc cạch đến lớp hàng đêm tại trường Lê Quý Đôn.
Nếu không biết quá khứ của ông Phong, người ta không thể nào ngờ ông thầy chuyên dạy các lớp luyện dịch đó đã từng là Quốc vụ khanh đặc biệt, đại diện của VNCH trong vai trò trưởng đoàn đàm phán tại Paris. Cuối cùng thì người thầy khiêm tốn đó cũng giã từ các lớp đêm để đi định cư tại nước ngoài.
Trở lại với buổi tường thuật trực tiếp lễ bàn giao chức vụ Tổng thống của Đài phát thanh Sài Gòn:
« … Như quý vị thính giả đã biết, đất nước chúng ta đã trải qua một chuỗi dài đau thương của lịch sử, và kể từ ngày nguyên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút lui khỏi Kontum và Pleiku, những chuỗi ngày đen tối tiếp theo nhau và đã đưa đến khung cảnh chính trị và quân sự rất u ám hiện tại.
Như quý vị đã biết, vào thứ Hai 21 tháng 4, tức là cách đây một tuần, nguyên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức cũng ngay tại phòng khánh tiết Dinh Độc Lập này, và anh bạn phóng viên của chúng tôi cũng đã trực tiếp truyền thanh hầu quý vị buổi lễ từ chức lịch sử đó. Phó tổng thống Trần Văn Hương, theo hiến pháp, đã lên đảm nhiệm chức Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa và nếu tính đến ngày hôm nay thì Tổng thống Trần Văn Hương giữ chức vụ nguyên thủ quốc gia được đúng bảy ngày.
Và hôm nay là ngày 28 tháng 4, Tổng thống Trần Văn Hương với sự chuẩn chấp của Quốc Hội lưỡng viện, sẽ trao quyền Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa cho Đại tướng Dương Văn Minh trong một vài phút tới đây. Tổng thống Hương đã được Quốc Hội chỉ thị tìm kiếm đường lối và biện pháp vãn hồi hòa bình, mà rồi thì ông đã giao trách nhiệm đó cho Quốc Hội để tìm kiếm người thay ông có thể tìm thấy đường lối và biện pháp vãn hồi hòa bình cho miền Nam Việt Nam.
Nghị quyết ngày 26 tháng 4-1975 của lưỡng viện Quốc Hội đã quyết định như vậy, và ngày hôm sau, Quốc Hội lưỡng viện một lần nữa họp khoáng đại và bỏ thăm với số phiếu đa số tuyệt đối chấp thuận Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa cho đại tướng Dương Văn Minh. Nói như vậy có nghĩa là Hiến Pháp đã có một vài điều khoản không được thi hành nữa...
Đúng 5 giờ chiều, với lối hành văn mộc mạc vốn có, Tổng thống Trần Văn Hương tuyên bố:
« … Bữa nay là cái ngày đã từ lâu rồi quý vị phải có, mà ngày nay đã có, tức là đã đáp ứng được nguyện vọng của tôi từ lâu rồi. Khi Tổng thống tiền nhiệm trao nhiệm vụ cho tôi, tôi vẫn biết sức già, dầu muốn dầu không, tuổi trời đã cao, sức lực đã mòn, tức nhiên là không thể nào đảm trách được một nhiệm vụ lớn lao trong khi mà nước nhà đã trải qua một buổi khó khăn vô cùng không thể tưởng tượng được. Bởi vậy cho nên trong lòng tôi vẫn mong mỏi rằng dầu thế nào cũng phải có được một người ra lãnh cái trách nhiệm này để lo cho việc nước. Gọi là cú vét phần nào, cái gì gọi là quyền lợi, cái gì gọi là danh dự của nước Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.
… Thưa với Đại tướng, dù muốn dù không, một chương lịch sử đã dở qua rồi, những chương sẽ viết tới đây sẽ do nơi tay của Đại tướng. Mà bây giờ có hỏi ngay ra rằng Đại tướng sẽ viết những gì, tôi thấy là Đại tướng cũng băn khoăn, không thể trả lời. Nhưng tôi biết rằng với thiện chí của Đại tướng đã sẵn có, thế nào việc làm sau này không đến nỗi phải phụ lòng tin cậy của tất cả đồng bào, của quốc hội đã hoàn toàn đặt nơi Đại tướng.
Thủ tướng Trần Văn Hương lên nắm quyền sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra đi
Đường đi nó có khác, nó đã khác, bởi vì triều đại đã thay đổi. Chúng ta bây giờ không nghĩ là phải luôn luôn đổ xương máu. Chúng ta không phải nghĩ là chúng ta phải đánh tới người chiến sĩ cuối cùng, viên đạn cuối cùng, khi mà còn một biện pháp nào, một giải pháp nào có thể đem lại hòa bình mà không đến nỗi tổn thương quá sức danh dự của nước nhà. Bởi vậy cho nên đường lối có lẽ là ở trong khuôn khổ đặt sẵn như thế đó.
Thưa với Đại tướng, nhiệm vụ của Đại tướng rất là nặng, khi Đại tướng ra gánh vác chuyện này, tôi thấy rõ ràng là Đại tướng chẳng những có một thiện chí không mà thôi, Đại tướng còn phải có những can trường gì mới dám đảm nhận như vậy, và tôi cũng mong mỏi thế nào cho Đại tướng thành công. Vả lại, đặt lại vấn đề, giải pháp chiến đấu để giữ giải pháp dung hòa, ôn hòa, nghĩa là quên hết tất cả những gì gọi là căm thù để đem lại trước hết sự hòa giải, hòa hợp, rồi tới hòa bình để cùng nhau sống yên, mưu đồ chuyện tái tạo nước nhà. Theo ý tôi nghĩ, con đường là con đường đó.
Thưa với Đại tướng, xóa hận căm thù không phải là căm thù đối với ở ngoài, mà tôi cũng xin phép nói là chúng ta cũng nên xóa căm thù tất cả những gì gọi là căm thù ở trong. Trước kia có lẽ những chỗ sai biệt đâm ra nếu là người Việt Nam thành thật thương nước, thì tất nhiên người đó dù muốn dù không cũng phải lo cho nước, yêu nước. Nhưng tiếc có một nỗi đồng sàng mà có nhiều khi dị mộng, cho nên nghĩ như vậy mà cái lòng nó nghĩ khác nhau. Việc làm khác nhau, nên sanh ra xích mích, sanh ra đến cái chỗ có thể gọi là căm thù, thì tôi thành khẩn yêu cầu Đại tướng bao nhiêu những việc gì có thể gọi là căm thù nội bộ, Đại tướng vui lòng ráng thế nào xóa bỏ hết. Vả lại trong bộ máy của chế độ, đều có những người phụng sự cho chế độ đó. Nếu chế độ kế tiếp mà còn nghĩ đến những việc trước, tìm ra chuyện ân oán giang hồ, gây chuyện căm thù nữa, thì những người bất kỳ ở chế độ nào, tôi nghĩ làm sao mà dám tận tâm với chế độ đó khi nghĩ đến chế độ sau này có thể trả thù trả oán.
Cái chỗ mong mỏi của tôi là như thế, và tôi cũng hết sức thành khẩn yêu cầu Đại tướng nên nghĩ về tiền đồ của nước nhà, nên nghĩ về sinh mạng, sống còn của đất nước này, làm thế nào cho việc hòa giải khởi sự trước ở trong nước này trước khi ra tới ngoài.
Còn một điểm nữa có lẽ là điểm chót. Tất nhiên là Đại tướng sẽ ráng hết sức mình mà làm, nhưng tôi cũng nhìn nhận lòng mình dẫu có thiện chí đến đâu nhưng sức mình nó có hạn. Đại tướng cũng là người, Đại tướng không phải là một vị thiêng liêng nào có phép màu cho nên chỉ phán một lời là mọi chuyện đâu đấy như ý muốn được. Tất nhiên là Đại tướng phải ráng sức, chuyện mà Đại tướng ráng sức mà thành công hay không thành công, đó là một việc tôi tưởng phần lớn không phải tùy nơi Đại tướng. Nhưng nếu Đại tướng thành tâm vì nước để lo cho nước, ráng vãn hồi hòa bình lại để dân được sống yên, làm thể nào cho máu đừng đổ, thịt đừng rơi, thì cái công của Đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời. Dầu thế nào, tôi thiết nghĩ rằng không bao giờ mà đất nước này người ta có thể quên Đại tướng. Tôi xin cám ơn quý vị. (vỗ tay)
Sau khi nguyên Tổng thống Trần Văn Hương đọc bài diễn văn trao nhiệm, một sĩ quan đã gỡ huy hiệu Tổng thống hai con rồng bay và thay vào đó huy hiệu Tổng thống mới là hình hoa mai năm cánh. Tân Tổng thống, Đại tướng Dương Văn Minh, bước lên diễn đàn, ông gọi cựu Tổng thống Hương là Thầy:
Kính thưa Tổng thống,
Kính thưa Thầy,
Qua những lời của thầy làm cho tôi rất cảm kích. Thầy đã ghi nhận tình thế quân sự cũng như mọi mặt bi đát, làm cho tôi phần nào yên tâm vì cái sự khó khăn mà tôi gặp phải. Những lời khuyên dạy của thầy hôm nay tôi sẽ ghi mãi trong lòng và thầy hãy yên tâm.
Chúng tôi đã lâu nay thấy không còn giải quyết vấn đề của chúng ta bằng võ lực không, mà không có kèm theo một giải pháp chính trị nào thì không thành công. Vì đó, anh em chúng tôi đã mấy năm nay, thảo luận tìm được giải pháp chúng tôi đã chọn lựa, giải pháp hòa giải dân tộc.
Nói như thế để thầy yên tâm. Nếu có hận thù thì không thể lấy hận thù ra mà trả đối với tất cả mọi ai. Chúng tôi đã chủ trương hòa giải với đối phương, không lý do nào chúng tôi không hòa giải được với anh em một nhà. Thầy cứ yên tâm. Tôi xin hứa với thầy.
Với tinh thần đó, với tất cả thiện chí và ý thức trách nhiệm, với ý muốn trân trọng phục vụ đất nước và nhân dân, tôi xin nhận trách vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Xin cám ơn Tổng thống. (vỗ tay)
Nhân dịp này tôi cũng xin thông báo cùng toàn thể quý vị và đồng bào, là tôi đã mời luật sư Nguyễn Văn Huyền, vốn Chủ tịch Thượng Viện, đảm nhiệm chức vụ Phó tổng thống (vỗ tay) và giúp tôi về vấn đề hòa đàm. Luật sư Nguyễn Văn Huyền đã chấp nhận (vỗ tay). Tôi xin long trọng giới thiệu Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền (vỗ tay).
Tôi cũng xin thông báo cùng toàn thể quý vị và đồng bào rằng tôi đã mời Giáo sư Nghị sĩ Vũ Văn mẫu đảm nhận chức vụ Thủ tướng chánh phủ và giáo sư Vũ Văn Mẫu đã chấp nhận (vỗ tay). Xin long trọng giới thiệu Thủ tướng Vũ Văn Mẫu (vỗ tay).
Sau đây tôi xin phép trả lời cùng đồng bào quốc dân.
Đồng bào thân mến, trong những ngày qua, trước tình thế cực kỳ nghiêm trọng, nhiều đoàn thể, tôn giáo muốn tôi đứng ra thành lập một chánh phủ mới. Tổng thống Trần Văn Hương chiếu các quyết nghị ngày 26 và 27 tháng 7-1975 của lưỡng viện Quốc Hội đã quyết định trao quyền tổng thống lại cho tôi. Tôi đã nhận trách nhiệm đó. Sứ mạng giao phó cho tôi rất là rõ rệt:
1. Đạt tới thỏa hiệp ngưng bắn càng sớm càng tốt.
2. Thương thuyết một giải pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam trong khuôn khổ hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trong tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc.
…Tôi tin tưởng sẽ thành lập được một chánh phủ như vậy trong thời gian ngắn nhất có thể mở lại một hòa đàm với chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhận lãnh trách nhiệm trong những giờ phút khẩn trương này, tôi chỉ có một ý muốn duy nhất là đóng góp phần của tôi vào sự nghiệp hòa giải của dân tộc. Tôi gọi đó là sự nghiệp của dân tộc. Vì hòa giải chỉ có thể thành tựu khi mọi đoàn thể, mỗi cá nhân dứt khoát chấp nhận con đường hòa giải và dấn bước lên con đường đó với tất cả thiện chí của mình. Đó là điều mà tình thế đang đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Những ngày sắp tới sẽ vô cùng cam go. Tôi không hứa hẹn nhiều với đồng bào, nhưng trong ngắn hạn, chính phủ sẽ hết sức cố gắng và ổn định các sinh hoạt kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống của đồng bào, cứu trợ nạn nhân chiến thuật, chính phủ bảo đảm tôn trọng các quyền tự do dân chủ được xác định căn bản bởi tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và với điều 11 của Hiệp Định Paris.
…Một trong những biện pháp đầu tiên là trả tự do cho những người bị giam giữ vì lý do chính trị và chấm dứt chế độ kèm kẹp báo chí. Quan trọng hơn hết, chính phủ hòa giải hòa hợp, và riêng tôi sẽ làm hết sức mình để đạt tới một giải pháp hợp tình hợp lý, bảo đảm quyền sống của mọi thành phần dân tộc và các quyền tự do căn bản của mọi công dân. Sự thành công của chính phủ sẽ tùy thuộc một phần lớn nơi sự bình tĩnh, sáng suốt của đồng bào, nơi sự hỗ trợ tích cực mà đồng bào sẽ dành cho chính phủ.
Anh em chiến sĩ thân mến,
Tôi đã trải qua phần lớn cuộc đời trong hàng ngũ của anh em. Hơn ai hết, tôi thông cảm tất cả những gì mà anh em đã phải gánh chịu trong những tuần lễ bi thảm vừa qua, và giờ đây trang sử cũ sắp lật qua, anh em đứng trước một nhiệm vụ mới, bảo vệ phần đất còn lại, bảo vệ hòa bình. Anh em phải giữ vững tinh thần, anh em phải giữ vững hàng ngũ, anh em phải giữ vững vị trí để hoàn thành nhiệm vụ đó (vỗ tay).
Khi nào có lệnh ngưng bắn, anh em phải thi hành nghiêm chỉnh, điều hành sẽ đúng với các điều khoản các hiệp định Paris gìn giữ trật tự an ninh trên phần đất của mình, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, không bỏ súng, không bỏ ngũ. Trong mọi trường hợp, một cách tuyệt đối thi hành chỉ thị của cấp trên. Mọi hành vi vô kỷ luật sẽ bị nghiêm trị ngay tức khắc, giữ vững tinh thần, giữ vững hàng ngũ, tôn trọng kỷ luật và góp phần lớn vào công cuộc vãn hồi nhanh chóng hòa bình.
Tôi cũng yêu cầu các công chức, cán bộ, và lực lượng cảnh sát tiếp tục thi hành nhiệm vụ của mình và canh phòng cẩn mật, không cho ai phá hoại.
… Sau đây, tôi có đôi lời gửi đến Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và những người anh em ở bên kia.
Chúng tôi thành thật muốn hòa giải. Anh em biết rõ điều đó, hòa giải đòi hỏi các thành phần dân tộc phải tôn trọng quyền sống của nhau, đó là tinh thần của hiệp định Paris. Anh em đã luôn luôn chủ trương thi hành hiệp định Paris và chúng tôi cũng đã luôn luôn chủ trương như vậy. Căn cứ trên hiệp định này, chúng ta hãy ngồi lại với nhau, để cùng nhau tìm một giải pháp có lợi nhất cho tổ quốc Việt Nam và cho nhân dân miền Nam. Để biểu dương thiện chí của đôi bên và để chấm dứt nhanh chóng sự đau khổ của binh sĩ và nhân dân, tôi đề nghị chúng ta ngưng tức khắc các cuộc tấn công lẫn nhau (vỗ tay).
Tôi mong anh em chấp nhận đề nghị này và cuộc thương thảo sẽ khởi sự liền sau khi chính phủ được thành lập để hòa bình sớm được vãn hồi trên đất nước thân yêu của chúng ta.
Đồng bào thân mến,
Trong những ngày qua, đồng bào đã hoang mang lo sợ trước những diễn tiến của tình hình, nhiều người đã âm thầm ra đi. Tôi muốn nói với tất cả đồng bào, đất nước này là quê hương của chúng ta, hãy cương quyết và can đảm ở lại, giữa thân bằng quyến thuộc, mồ mả ông bà tổ tiên ở lại, để cùng với chúng tôi, cùng với tất cả những người có thiện chí, xây dựng một miền Nam mới cho các thế hệ tương lai.
Một miền Nam độc lập, dân chủ, tự do, thịnh vượng, trên đó người Việt sẽ được sống an lành với người Việt trên tình huynh đệ (vỗ tay).
Xin cám ơn đồng bào (vỗ tay).
Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức Tổng thống VNCH ngày 28/4/1975
Những tiếng vỗ tay trong cuốn băng ghi âm buổi lễ bàn giao chức vụ Tổng thống cuối cùng của VNCH có lẽ cũng là những tiếng vỗ tay chào mừng thắng lợi của phe thứ ba: Hòa hợp và Hòa giải Dân tộc. Những tiếng vỗ tay đó cũng đã tắt lịm vào ngày 30/4/1975 vì chính quyền mới hoàn toàn không chấp nhận: Chỉ có chuyện Đầu Hàng chứ không có chuyện Hòa Giải.
Một thất bại cuối cùng không kém phần ê chề trong một chuỗi thất bại của VNCH dẫn đến việc khai tử một quốc gia!
· Video clip: "Một ngày để nhớ":
Link: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/hoi-uc-ve-ngay-304-sai-gon-bo-ngo.html
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
SOURCE:
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/hoi-uc-ve-ngay-304-sai-gon-bo-ngo.html
No comments:
Post a Comment