Nhật ký gồm 10 phần.
Phần 1 - Pleiku-Tuy Hoà
Rời
phòng họp Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, tôi như ngợp trong một cơn địa chấn. Gió
thổi tạt vào mặt toàn cát và bụi. Những ngọn cỏ hồng trong sân trực thăng của
Bộ Tư lệnh ngã rạp về một phía. Tôi không còn tỉnh táo, không cất nổi tay chân,
cả người bải hoải, chung quanh tôi mọi người vội vã. Họ là sĩ quan đơn vị
trưởng các đơn vị biệt lập đồn trú trong thị xã Pleiku. Họ vừa cùng tôi tham dự
phiên họp kinh hoàng này. Tôi cũng không muốn về nhà, mấy người bạn chắc giờ
này vẫn xoa mạt chược. Kể từ hơn hai tháng nay, khi tôi phải thuyên chuyển khỏi
Đà Lạt, vợ con tôi đã về Qui Nhơn với bên ngoại, tôi lên đây một mình tá túc
cùng vài người bạn.
Mới bốn giờ chiều, nắng hôm nay cũng vàng mầu bệnh hoạn. Giờ này chắc không còn
ai ở ngoài Biển Hồ. Chắc không còn ai dưới chân pho tượng Quán Âm trên đỉnh
đồi. Không, chắc hẳn thế nào cũng có vài người lưới tép với những chiếc xuồng
được biến chế bằng móp của họ khuấy động khoảng nước xanh êm ả trên mật hồ.
Không biết giờ này, những gì đã xảy đến cho thị xã Ban Mê Thuột. Sáu giờ sáng
nay thị xã này hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, sau khi đại tá
Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh gởi bản tin chót về Quân đoàn, yêu cầu
oanh tạc thẳng vào Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23. Ông vẫn còn kẹt lại trong đó. Một số
các đơn vị đồn trú ngoài thị xã, và đám đông dân chúng thoát đi về phía Nha
Trang, họ băng rừng. Tất cả các đường đều bị chặn, có lẽ giờ này họ ở đâu đó
trong những khu rừng núi trùng điệp. Bản tin yêu cầu oanh tạc lên đầu của đại
tá Quang được nhắc lại nhiều lần trước khi im hẳn.
Tôi hình dung ra thi trấn này. Đây là nơi mười năm trước tói đã đến, đã ở lại đó.
Đây là nơi tôi thực sự trưởng thành. Tôi nhớ rõ từng con đường, từng ngõ hẻm,
từng quán ăn, rạp hát, từng tiệm sách. Đây là nơi có người yêu tôi và dĩ nhiên
thiếu gì người ghét.
Bây giờ tôi bình yên ở đây, dưới chân pho tượng này, ngày kinh hoàng đã qua, đã
chụp xuống thị trấn có một phần đời tôi trú ngụ. Tôi nhớ cái bàn giấy chỗ tôi
ngồi làm việc phủ đầy bụi đỏ. Bởi tôi ký giấy tờ cho đơn vị ở mọi nơi, ở bàn
bi-da, ở quán cà phê, ký ở nhà, ở ngoài phố. Thậm chí tôi còn ký giấy tờ cho
đơn vị ở các cổng trường, chỗ tôi vẫn đậu xe mỗi buổi tan học, đó là chỗ những
vạt áo dài trắng túa ra, tràn ngập thị xã buồn muôn thuở này. Từ bàn giấy đó
qua khung cửa sổ, đằng sau là dẫy nhà khu gia binh đơn vị. Tôi nhớ đến người hạ
sĩ già làm tài xế cho tôi trong suốt hai năm trời không được lái xe, bới lẽ tôi
thích lái lấy. Ông ta chỉ có nhiệm vụ đổ xăng cho đầy mỗi buổi sáng, và tu bổ
mỗi khi cần thiết. Tôi cầu mong ông ta có mặt giữa rừng giờ này. Rồi người lính
phụ trách truyền tin, anh này chuyên sửa quần áo cho cả đơn vị, anh đã chết vào
dịp Mậu Thân, vì một mảnh pháo ác nghiệt đã cắt tiện cái đầu rời ra khỏi cổ.
Sau đó đơn vị lập cái miễu cho anh ta ngay kế ban quân xa. Bây giờ không biết
những người lính cũ của tôi ai còn ai mất.
Dĩ nhiên tôi không thể không nhớ đến dàn hoa thiên lý nhà Thanh Tài, xế cửa
trường trung học. Trong một đêm trăng sáng, mấy chị em Tài đã hát tiễn tôi đi.
Không biết bây giờ những gót chân hồng đó có theo kịp những người dân chạy loạn
hay đã ngừng lại và đổ xuống đâu đó giữa rừng già.
Tôi giật mình tỉnh dậy bởi những tiếng đạn pháo kích. Địch pháo vào phi trường,
vào kho xăng chỉ vài trái rồi ngưng hẳn. Chỉ vài trái đủ làm dân quân tỉnh
Pleiku này hoang mang, số đông sẽ mất ngủ tới sáng. Tin tức về Ban Mê Thuột đã
lan tràn khắp nơi. Những trái pháo vu vơ đó quả là những trái đạn có tầm mức
phá hủy cao. Nó làm cho nhiều người chết sững. Nó hủy hoại tinh thần ai yếu
bóng vía. Trời đã quá nửa khuya. Trăng thượng tuần treo trên đỉnh những ngọn
thông xao động bởi gió rừng. Men rượu hồi chiều làm tôi ngây ngất. Những binh
sĩ lục đục bỏ hầm pháo kích vào ngủ lại. Tôi thấy không buồn ngủ. Sân doanh
trại tự nhiên rộng hẳn ra. Một người lính già đốt lửa bằng lá thông vun lại
trong góc lô cốt, ngay tại chỗ ông ta đang gác. Tàn lửa bay cao, tản ra như một
bễ than lò rèn. Bóng ông ta hắt lung linh trên lô cốt tạo thành những hình thù
kỳ lạ. Tôi trở về phòng, vô tình với tay lên kệ sách đầu giường và lấy được
quyển truyện Một thời để yêu và một thời để chết của Remarque.
Ngày N - 4
Tin tức về Ban Mê Thuột mỗi lúc mỗi tuyệt vọng. Liên đoàn Biệt Động Quân, đơn
vị được chỉ định tái chiếm vùng đất đã mất bị chặn đánh tan, khi còn cách thị
xã hai mươi cây số. Bây giờ tin tức không còn là mật nữa, ở ngoài phố, ngoài
chợ, trong các tiệm cà phê, quán hủ tiếu, đâu đâu người ta cũng nghe những tin
tức khác lạ về thành phố đã mất.
Bỗng nhiên sinh hoạt trọng thị xã nhộn nhịp hẳn lên. Khu chợ trời hình như họp
dài thêm ra, nó không còn lẩn quẩn trước rạp xi nê Diệp Kính và khách sạn Thống
Nhất. Khắp nơi người ta khuân đồ ra bán, trong khi các tiệm buôn lớn lại đóng
cửa im lìm.
Ngày N - 3, 6
giờ sáng
Sáng nay tôi thấy mình đứng ở cổng đơn vị cũ: đồn Quân Cảnh Pleiku. Tôi leo lên
ngồi trên lô cốt ngay cạnh cổng chính đồn. Chính cái cổng này, và cái sân trải
đá của đồn Quân Cảnh Pleiku là di tích của tôi ba năm về trước. Dạo đó tôi và
Thiếu úy Võ Văn Oanh, người sĩ quan phụ tá của tôi cùng đáo nhậm đơn vị một
lượt. Tôi cảm thấy thiếu thoải mái khi phải sử dụng chung một cổng chính với
Tiểu Đoàn 2 Quân Cảnh. Nhân tiện thấy Oanh là một sĩ quan ngoại giao giỏi, tôi
giao cho gã nhiệm vụ này. Vài tuần lễ sau Oanh đã biến đồn Quân Cảnh Pleiku
thành một đơn vị sáng sủa, với một cổng đá có đắp nổi phù hiệu binh chủng, có
cổng ngách dành cho người đi bộ, và trải nhựa cái sân đất đỏ đầy bùn trong mùa
mưa. Một bức tường thấp ngăn đơn vị tôi tách biệt hẳn với Bộ Chỉ Huy Quân Cảnh
Quân Khu. Dĩ nhiên đơn vị tôi vẫn trực thuộc Tiểu Đoàn 2 Quân Cảnh. Nhưng tôi
cũng có một khoảng nhỏ riêng tư trong tiểu đoàn, ít nhất cũng có vẻ một đơn vị
biệt lập.
Dạo đó tôi chưa lập gia đình nên ở luôn trong đơn vị, từ khi có cổng riêng, và
một lô cốt nổi ở góc sân đồn, dưới một cội thông già, mỗi sáng giờ đi học, mỗi
chiều giờ tan học, tôi hay lên vọng gác đặt ở lô cốt, và phải trèo một cái
thang khoảng chừng mười bậc. Ở trên cao này, tôi nhìn được suốt con đường đi
ngang cổng đơn vị, con đường này là con đường chính để dẫn tới trường nữ trung
học Pleime, và trường trung học tỉnh hạt Trần Quốc Tuấn. Buổi sáng nào cũng
thế, tôi hút tẩu thuốc đầu tiên trong ngày ở đó. Vào những buổi sáng mùa đông,
màn sương mỏng giới hạn tầm nhìn, tôi nghe tiếng cười đùa ríu rít, tiếng người
nói lao xao trước khi nhận rõ mặt người, trước khi nhận ra rõ những vạt áo dài
trắng tinh khiết lướt qua dưới chân tôi. Tôi làm đơn vị trưởng này gần ba năm,
thấy họ lớn dần, từ những cô gái nhỏ, đẹp tự nhiên không son phấn, đến lúc họ
lớn dần, biết chọn những mầu áo, kiểu quần, rồi lớn hẳn, rồi hòa nhập vào cái
thị xã của quân đội này. Rất ít người tiếp tục học, bởi lẽ cái thời giá của
những năm 70, 71, 72 đó, một sinh viên trọ học ở xa phải tốn chừng mười lăm tới
hai mươi ngàn một tháng. Ngoại trừ con nhà giàu có, quyền thế, phần lớn họ
ngừng lại ở ngưỡng cửa đại học, nhập vào với đời sống đầy bất trắc của một
thành phố lớn mạnh bởi chiến tranh.
Sáng nay, ngày N - 3 của cuộc di tản bi thảm, đứng ở vị trí cũ tôi không còn
nghe được tiếng nói lao xao, không thấy những tà áo cũ. Chỉ có tiếng ríu rít
của bầy chim sà xuống, bay lên, trong cái sân mênh mông của chùa Phật Giáo Quân
Đội, sát bên cạnh đồn Quân cảnh.
Ngày như đọng lại trên pho tượng Phật đứng chơ vơ giữa sân chùa.
Ngày N - 3, 10 giờ sáng
Trung tá Trần Đình Kha, Chỉ Huy Trưởng của tôi đi họp quân đoàn về, ra lệnh
triệu tập ngay một cuộc họp đơn vị trực thuộc. Cuộc họp ngắn ngủi: Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn sẽ dời về Nha Trang, các bộ phận chính di tản bằng phương tiện hàng
không do Sư Đoàn 6 Không Quân đảm nhiệm, quân dụng nặng di tản bằng đường bộ.
Các đơn vị phụ thuộc tự sắp xếp sửa soạn xuống sau. Các đơn vị trú phòng giữ nguyên
vị trí. Ông chỉ thị cho các phòng ban của Tiểu đoàn 2 Quân Cảnh sửa soạn di
tản. Các đơn vị như đồn Quân Cảnh Pleiku, Đại đội 122 Quân cảnh Điều tra Tư
pháp, và Tiểu đội Quân cảnh Điều tra Tư pháp Pleiku ớ lại. Riêng đồn Quân cảnh
Pleiku tăng phái hoạt động ở phi trường. Bây giờ tôi là một sĩ quan ngồi chơi
xơi nước, sau ba năm trưởng đồn Pleiku, hai năm trưởng đồn Đà Lạt. Phần tôi quá
dễ.
Ngày N - 3, 1
giờ chiều
Tất cả các sòng mạt chược thường trực như nhà tướng Cẩm Tư lệnh phó Quân đoàn,
tướng Tường Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, đại tá Nhu tân tỉnh trưởng, đại tá Sáng
An ninh Quân đội, trung tá Hoàn Chiến tranh Chính tri, trung tá Lễ phòng Xã
hội, cũng như tại nhà ông Biện lý, ông Dự thẩm đều thiếu tay chơi. Lý do là các
bà vợ đã di tản, các tay thường trực hoặc bận công vụ, hoặc đã biến như một số
các Tu bíp và các thầy cãi.
Đột nhiên tôi nổi giận, đột nhiên tôi hiểu tại sao Ban Mê Thuột mất, và số phận
của Pleiku cũng lung linh như ngọn đèn trước gió.
Ngày N - 3, 2
giờ chiều
Phi trường Cù Hanh đầy nghẹt người. Dân chúng bị chận lại đứng dọc theo cổng
phi trường, tràn ra cả khu vực buôn bán do Sư đoàn 6 Không quân thực hiện.
Chúng tôi phải tăng cường nhân viên an ninh tại cổng phi truờng, tại các sân
đậu phi cơ để kiểm soát người ra vào, cũng như hành khách lên phi cơ quân sự.
Cảnh hỗn độn năm 1972, mùa hè đỏ lửa tái diễn. Giữa đám đông lo âu, áo quần
nhàu nát, tôi bắt gặp những mái tóc làm kỹ, quần áo chưng diện của một số các
phu nhân cấp lớn, vài sĩ quan tùy viên chạy lăng xăng. Tôi bắt gặp một số các
em chiêu đãi của hội quán sĩ quan Phượng Hoàng, một số điếm cũng chưng diện và
cũng có mặt trong danh sách ưu tiên di tản. Giữa những đám hành lý ọp ẹp của
gia đình quân nhân là những bộ salon, những đồ gỗ quý được tháo rời ra và bọc
trong những bao cát mới nguyên. Đột nhiên tôi nghẹt thở như bị ai đánh một trùy
thật mạnh vào ngực. Tôi bỏ phi trường, giao nhiệm vụ cho thượng sĩ Hội thuộc
đồn Quân cảnh Pleiku thay mặt tôi trực tiếp chỉ huy tổng quát đám quân nhân
tăng phái. Tôi lái xe về tỉnh. Trên đường về, tạt qua nhà Kim Tuấn định rủ anh
đi uống cà phê, nhưng cửa đóng im lìm.
Ngày N - 3, 4
giờ chiều
Chiều nay rảnh, lôi lái xe lang thang khắp tỉnh. Từ trung tâm thị xã, tới các
con phố vắng. Thành phố như một con bệnh hấp hối.
Rồi quen đường cũ, tôi lái xe về phía quận Lệ Trung. Quốc lộ 19 bị đứt từ hơn
tháng nay, con đường hầu như không có xe đò qua lại. Nắng chói chang trên mặt
nhựa. Bây giờ là mùa xuân, những đồi cỏ chung quanh thị xã rực lên một mầu
xanh, gió thổi những hàng lau ngã rạp, nhấp nhô như ngọn sóng. Con đường này
tôi qua lại mỗi chiều, hầu như suốt hai năm liền, không ngày nào tôi không đi
trừ những ngày đặc biệt. Dạo Ngô Văn Đinh Hợi còn ở đây, mỗi chiều trên chiếc
xe bỏ mui, Hợi, Kim Tuấn, Thái Tăng An và tôi thường đi hết đoạn đường này. Bắt
đầu từ cổng quân đoàn chúng tôi rẽ phải khi tới cầu số 3, rồi tiếp tục đi hết
con đường vòng quanh thị xã do công binh Mỹ thiết lập, để quay trở về từ phía
bắc của quận Lệ Trung. Hôm nay, lòng đường trống trải, trên xe chỉ có mình tôi.
An và Tuấn còn ở đây nhưng mỗi người đã có những bận bịu riêng của họ. Hôm nay
quả tình tôi mới thấy lửa đốt đồng thật đẹp.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Ngày N - 2, 7
giờ sáng
Chuông điện thoại reo hai ba lần mà không thấy trung sĩ nhất Bài, hạ sĩ quan
trực nghe, tôi bước lại nhấc máy. Đầu dây bên kia là sĩ quan trực cấp tá của
quân đoàn. Ông yêu cầu tôi cho binh sĩ túc trực ở phi trường quân sự và dân sự,
chận tất cả các sĩ quan di chuyển lẻ tẻ, thu hồi giấy phép và sự vụ lệnh. Ông
nhấn mạnh một điều đặc biệt là phải giữ lại các y sĩ của Quân y viện Pleiku và
của Liên đoàn 72 Quân y. Ông cho biết nhiều thương binh đã chết vì thiếu máu,
thiếu y sĩ trị liệu v.v...
Ngày N, 6 giờ sáng
Sáng nay tôi dậy sớm, cả đêm qua trằn trọc, chỉ chợp mắt được những giấc ngắn,
đầy cơn mê sảng và đầy mộng mi. Giấc ngủ bị cắt quãng bởi những trái đại bác
bắn đi, bởi những tiếng kẻng đổi gác chung quanh hàng rào phòng thủ. Mỗi lần
thức dậy tôi đều thấy qua cửa sổ, thỉnh thoảng những trái hỏa châu lướt nhanh
trên nền trời tối thẫm. Gần sáng không thể ngủ lại, vọng từ các phòng sĩ quan
bên cạnh, những tiếng lách cách vang lên trong đêm tối, chắc hẳn họ đang dọn đồ
đạc và vật dụng cá nhân. Chắc hẳn họ đang phân vân không biết mang đi những gì
và thương tiếc những gì phải bỏ lại. Đêm qua yên tĩnh, cái yên tĩnh ngột ngạt
của bầu không khí sắp sửa nổ tung vì bão tố. Tôi ngồi dậy, trời hãy còn lờ mờ
tối, nhìn quanh phòng, hành lý đã gọn. Bây giờ hành lý của tôi nhẹ nhàng đến
thế ư, nó vỏn vẹn trong một cái ba lô dầy: hai bộ quân phục, một bộ thường
phục, những túi nhỏ ngang hông, lót xung quanh ba lô là những sách vở cần
thiết. Thật ra chỉ là những cuốn sách tặng của bạn bè tôi, một tập bản thảo và
một quyển sách hay mới mua để đọc dọc đường.
Thật không ngờ tôi đã đi qua mười hai năm quân đội, hồi tưởng lại ngày nào mới
bước chân vào quân trường Thủ Đức. Thoáng đó đã mười hai năm qua đi, mười hai
năm phí hoài tuổi trẻ, đời sống bị cắt rời ra từng mảng vương vãi đó đây. Từ
những thành phố địa đầu, tới vùng đồng bằng sông Cửu, từ thị trấn cao nguyên,
tới vùng duyên hải, đống quân trang đầy ắp của ngày mãn khóa buông vãi ở khắp
nơi, đám hành lý cứ vơi dần, trong khi nỗi buồn mỗi ngày mỗi nặng, mỗi đè
nghiệt ngã trên vai.
Bây giờ là sáu giờ sáng của ngày 16-3-1975. Một buổi sáng thứ bẩy đẹp, trời
trong xanh, những đám mây trắng nõn như bông bay là là trên đỉnh núi xa xa
phương bắc. Tôi mở cửa bước ra ngoài, gió thổi nhẹ, những cọng lá thông khô rơi
lả tả trên thềm, mặt trời chưa lên nhưng đã tỏ mặt người. Có tiếng chim bồ câu
gù từ cái chuồng chim của nhà đại úy Bách, người bạn cùng khóa 15 Thủ Đức,
thuộc Tiểu đoàn Truyền tin Quân đoàn 2. Đột nhiên tôi liên tưởng đến giọng chim
quen thuộc này. Hình như trong suốt đời tôi chưa hề thấy một con chim bồ câu
nào gầy. Dù là bồ câu nuôi ở nhà, trong các công viên thành phố hay đồng loại
của chúng, những con cu đất, cu gáy nhởn nhơ ngoài đồng nội, bầu diều của chúng
thường nở phình ra, và âm thanh tắt nghẽn trong cái bầu diều đó. Ngay cả những
con chim cu gáy, cái tiếng gáy buồn thảm vọng xa trong các buổi trưa hè của
thời thơ ấu ngày nào còn vẳng bên tai, còn cái tiếng gù gù của những con chim
bồ câu nuôi chật hẹp trong các chuồng sơn lòe loẹt càng phát nản. Âm thanh như
một nỗi bực tức. Tôi không hiểu tại sao con người lại coi chim bồ câu là biểu
tượng của hòa bình? Bởi hình dáng, bởi đôi cánh, dù bởi gì chăng nữa tôi dám
quả quyết không phải bởi âm thanh của nó. Cái âm thanh này chắc chắn chỉ làm
hòa bình bay xa, và bởi lẽ đó, trên trái đất này có lúc nào ngơi tiếng súng.
Những điểm nóng đó đây trên thế giới đang đe dọa sự an bình của con người.
Ngày N, 7 giờ
sáng
Chia tay cùng Thái Tăng An và Nguyễn Phước ở Câu lạc bộ của Tiểu đoàn 20 Chiến
tranh Chính trị, tôi lái xe ngang cổng sau của Bộ Tư lệnh Quân đoàn, ghé thăm
mấy người bạn trong Trung tâm Hành quân để biết rõ hơn về tình hình, tôi không
thể ngờ được với tình hình đó mà cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn vắng hoe.
Căn nhà lầu thênh thang trên đỉnh đồi, nơi phác họa, sắp đặt bao nhiêu cuộc
hành quân trong suốt mười năm sau cùng của trận chiến, nơi những kẻ quyền uy
khệnh khạng ra vào, nơi những sĩ quan áo quần thẳng nếp, huy chương đầy ngực,
lúc nào cũng nghiêm trọng đó. Bây giờ họ ở đâu, cái hành lang sâu thẳm đột
nhiên như dài vô tận.
Ra về bằng cổng trước của Bộ Tư lệnh, tôi bắt gặp trên đường chính một đoàn
Thiếu sinh quân, với nón đỏ, cầu vai có ngù đỏ, quần áo trắng tinh, đi đều bước
với đội hình diễn binh. Hàng đầu là những em nhỏ mười, mười một tuổi, cao dần,
cao dần cho đến hàng sau cùng là những em sắp sửa ra trường. Khoảng chừng hơn
một đại đội, không hiểu đám Thiếu sinh quân này đi làm hàng rào danh dự để đón
ai tại phi trường? Có lẽ các xe GMC sửa soạn di chuyển nên các em phải đi bộ.
Giờ này còn đưa với đón, dàn chào với lễ nghi quân cách. Bỗng nhiên tôi đau
thắt ruột.
Ngày N, 9 giờ
sáng
Đột nhiên thành phố như nổ tung ra, khắp nơi tiếng động vang lên, người chạy
nhốn nháo, xe cộ ngược xuôi. Từ khắp nơi người ta đổ dồn về thành phố, sau
những im lặng ngột ngạt, sau những chờ đợi nặng nề, khắp nơi người ta túa ra
đường, quân và dân xa lẫn lộn, xe lớn, xe nhỏ, ba bánh, hai bánh. Lính đầy trên
các xe be, dân đầy trên các quân xa, thành phố như một cái phễu xe khổng lồ,
tất cả đổ dồn vào điểm tập trung đoàn xe phía bắc thành phố. Bây giờ thì đã có
lệnh chính xác. Người ta quyết định bỏ Pleiku, triệt thoái quân đội về miền
duyên hải. Con đường được chọn là Liên Tỉnh Lộ 7.
Như bầy ong vỡ tổ, như những con chim bị nạn cháy rừng, người ta hốt hoảng gọi
nhau, hò hét, hầu như mọi nhà đều mở cửa, người lớn khênh ra đường những gì có
thể khênh, trẻ con xách trên tay những gì có thể xách. Xe cộ đậu ngổn ngang
trên mọi ngả đường.
Tôi đứng trên lô cốt mọi ngày. Sở 2 An ninh trước mặt, khu gia binh Tiểu đoàn
Truyền Tin bên tay trái, bên phải là sở 2 Tuyên úy Phật giáo và nhà bảo sanh
Quân đoàn. Nhộn nhịp chưa từng thấy, người ta chất đồ lên xe, những chiếc xe
chất nặng tưởng như đây là lần hữu dụng cuối cùng. Máy xe phun khói khắp nơi,
người ta như thiếu không khí để thở. Đây là cuộc triệt thoái kỳ lạ, chỉ có một
lệnh vỏn vẹn: sử dụng Liên Tỉnh Lộ 7 để về Tuy Hoà. Dĩ nhiên về phía quân đội,
các đơn vị trưởng có thể lo liệu cho đơn vị của họ một cách tương đối, về phía
những người dân của thị xã này, rõ ràng họ hành động như trong một cơn mê sảng.
Tôi đứng ngoài cơn mê sảng này. Nắng đã lên cao, từ lô cốt của đơn vị, qua cái
sân mông mênh của Chùa Phật giáo Quân đội, tôi thấy xóm nhà tôn trên con đường
dẫn vào cư xá sĩ quan Trần Quí Cáp im lìm, nhưng hình như những cửa sau đều mở,
tất cả chỉ còn những cái xác nhà vô hồn.
Bây giờ là mười giờ sáng. Tiểu đoàn tôi đã sẵn sàng, đoàn xe đậu quay về hướng
cổng chính. Tôi đảo qua các phòng, mười năm trước khi còn là thiếu úy tôi đã
một lần ghé đơn vị này. Dạo đó gần Tết năm 1965, tôi thuyên chuyển tới đây vì
lý do kỷ luật. Tiểu đoàn này mới thành lập, các phòng thông nhau, buồi chiều
tiểu đoàn trưởng về sớm, binh sĩ các phòng kê lại bàn ghế châu đầu vào các sòng
bài, mỗi ban hầu như có một sòng. Đủ loại, phé, sập sám, domino... Sĩ quan cũng
tham dự tận tình. Thực ra đánh bài sau giờ làm việc cũng chẳng có gì là xấu,
chỉ xấu một điều là đơn vị tôi đặc trách kỷ luật cho cả một quân đoàn, các toán
tuần tiễu của chúng tôi dẹp các sòng bầu cua, tài xỉu, đuổi binh sĩ, dân chúng
chạy tứ tung như đàn vịt xong rồi quay về cũng lại rúc đầu vào các sòng bài, có
người quên ăn. Tôi chỉ ghé đây ít ngày chờ đi Ban Mê Thuột nhận trách nhiệm
mới. Năm đó tôi đã đến Ban Mê Thuột với đúng mười đồng trong túi.
Hôm nay sau mười năm thành lập đơn vị, tôi đã đi đủ nơi, và trở về với lòng
buồn thảm. Nhà xây thêm, phòng đẹp ra, đơn vị quy củ và khang trang. Bây giờ tôi
sắp rời vĩnh viễn, lòng như chùng lại. Chỗ này đây, năm 1970, tôi đã chỉ huy
một đơn vị nhỏ, chỗ này đây hầu như đã rửa mặt cho tôi sau nhiều năm lận đận bị
chỉ huy bởi các sĩ quan chẳng ra gì. Chỗ này đây tôi rong chơi với bằng hữu:
Kim Tuấn, Thái Tăng An, Ngô Văn Đinh Hợi, Nguyễn Bắc Sơn, Thế Vũ, Cam Nhị Thu
v.v...
Những kẻ ở xa đến chơi ít ngày cho thỏa máu giang hồ vặt: Vũ Hữu Đinh, Phan Lạc
Giang Đông v.v... Và những học trò của tôi, những học trò nghèo của trường công
lập tỉnh hạt, đi về sáng chiều, thỉnh thoảng cười khúc khích khi đi ngang lô
cốt, chỗ tôi vẫn đứng hút tẩu thuốc đầu ngày.
Ngày N, 12 giờ trưa
Thị xã Pleiku mỗi lúc một khuất sau lưng, trời nắng gay gắt, đoàn xe như một
con rắn khổng lồ, bò chậm chạp trên mặt lộ bóng nhẫy. Đột nhiên phía trước mặt
chừng non cây số, một đám người thấp thoáng. Từ xa tôi biết chắc đây là đám
Thiếu sinh quân đã gặp buổi sáng lúc ra khỏi cổng Quân đoàn, vẫn nón đỏ trên
đầu quần sóc dưới chân, đa số đều đã cởi trần, các em đã di hành lần cuối trong
bộ quân phục đi phép đó, những vạt áo ka ki trắng vắt vai. Tôi giận run người,
tôi ao ước được thấy ngay bây giờ những kẻ trách nhiệm các em, ông trung tá
Phan Như Hiên, kẻ đã làm chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức lúc trường này
còn là Liên trường Võ khoa, kẻ đã đến khám phòng tôi mười hai năm về trước khi
tôi còn là một sinh viên sĩ quan, đại úy Phú, tiểu đoàn trưởng của các em đâu?
Trước đây ông này cũng là một Thiếu sinh quân Vũng Tầu, ông ta có thể ngoảnh
mặt với cái quá khứ của mình một cách bình thản thế ư? Các sĩ quan của trường
đâu, họ đã dậy dỗ các em thế nào về nhiệm vụ của người lính, họ đã dẫn dắt các
em như thế nào trong quân ngũ, bây giờ họ đâu cả rồi. Họ biến đi đâu hết cả.
Sáng nay tôi gặp các em lúc bẩy giờ rưỡi, bây giờ là mười hai giờ, các em đã
vượt hai mươi cây số trong khoảng thời gian đó. Đa số các em đều là con cháu
các quân nhân sắc tộc thiểu số đã hy sinh cho miền Nam này. Các em là dòng dõi
của các sắc dân Mường, Mán... vùng Thượng du Bắc Việt, Radhe, Bahnar, Stieng
vùng Cao nguyên Trung phần... Trong khoảng vài giờ đồng hồ vừa qua, các em đã
bước đi sắt đá trên con đường bội phản. Các em đã làm chính tôi phải xấu hổ. Ở
địa vị tôi là một em lớn trong số các em, chắc chắn tôi không có được sự bình
tĩnh đó. Thế mà các em đã tập họp lại, vài em lớn dẫn dắt các em nhỏ, đùm bọc
nhau, bình thản lên đường.
Tôi bảo người tài xế bỏ đội hình hàng xe, vượt lên trên các em một quãng, đích
thân tôi đeo cái băng quân cảnh hành sự trên cánh tay, cùng với hai người lính
giúp sức chặn đoàn xe lại. Tôi chia nhỏ các em mỗi toán năm bẩy em, có một em
tương đối lớn, và dồn các em lên bất cứ xe nào còn trống. Tôi vẫn đọc quyển
sách, mắt vẫn mở, mà hình như tôi không biết sách viết gì, gấp sách lại tôi cố
dỗ một giấc ngủ. Nắng vẫn gay gắt trên đầu.
Ngày N, 5 giờ chiều
Ì ạch mãi rồi đoàn người cũng tới được đoạn dường đất đỏ, chỉ còn năm, bẩy cây
số nữa sẽ vào Phú Bổn, xưa người ta gọi đây là Cheo Reo. Những chiếc xe dẫn đầu
hẳn đã lọt vào thị xã, đoàn xe giảm tốc độ, ngang hông đoàn xe, những chiếc xe Suzuki,
Honda hai bánh tuần tự lướt qua. Hầu như không có một chiếc xe hai bánh nào chở
một người, phần lớn chở hai, đôi khi tôi bắt gặp một người lính lái, dĩ nhiên
người vợ ngồi đằng sau ôm theo một đống hành lý, đứa con nhỏ ngồi trên bình
xăng, kỳ lạ thay người lính vẫn đeo theo khẩu súng vắt vai, bụi đường còn đọng
trên khóe mắt của những em nhỏ, vệt nước mắt chảy dài trên má.
Một cột khói bốc cao từ phía thị xã, kế đó là một tiếng nổ lớn. Rồi hàng loạt,
địch pháo vào Phú Bổn. Chúng không cần bắn vào đoàn di tản, chúng bắn vào chỗ
mà đoàn di tản sẽ đến. Con đường còn dài, còn quá nhiều chỗ lý tưởng để cho
những nút chặn, những cuộc phục kích. Pháo vẫn nổ trong thị xã, đoàn người trên
xe túa ra, người lớn, trẻ con khóc như ri. Họ ùa ra các cây lớn bên vệ đường,
núp sau các gò đống. Trong chớp mắt đoàn người biến đi, chỉ còn trơ lại những
chiếc xe và vật dụng ngổn ngang, bừa bãi.
Tôi lội sâu vào rừng, cách xa lòng đường khoảng một trăm mét, đột nhiên có một
trảng lớn xuất hiện, cái trảng đầy cỏ tranh cao ngập đầu người. Nhô lên khỏi
đám tranh là những túp lều xiêu vẹo. Những túp lều nhà binh, mà tôi đoán chắc
đây là một địa điểm tỵ nạn mới thành lập. Nổi bật trong đám lều nhà binh này là
vài chiếc lều trắng linh, trắng nõn nà, phải chi có dù đỏ, và vài tàu dừa kết
hoa, thì cảnh này hệt như những nhà rạp đám cưới kết bằng dù. Đó là chỗ để bà
con cô bác hai bên ngồi nhậu chung vui với đôi trẻ.
Ngày N, 10 giờ tối
Quân xa đậu chật sân vận động, dân xa đầy trên các ngả đường. Cheo Reo như tên
một lời buồn, bỗng nhiên đón nhận một số dân đông gấp mấy lần dân thị xã, gồm
dân chúng của hai tỉnh Pleiku, Kontum gom lại. Không một hiên nhà nào không có
người, người ta gối đầu lên vỉa hè, lên những thanh gỗ, nằm co quắp trong các
ngõ hẻm, nằm tênh hênh trên các lối đi, rúc trong các quán chợ, đầy người trong
các lớp học, chập nghẹt trong nhà thờ, chùa chiền. Đêm như loãng ra, người như
quắt lại. Đó đây những nhúm lửa được nhúm lên, người ta nấu ăn, những người
lính trẻ tụ tập bên những cút rượu vừa kiếm được.
Thật tình tôi không thể ngủ được, cả đêm qua chập chờn mộng mi, suốt một ngày
dài ê ẩm trên xe, xung quanh tiếng nói chuyện rì rào. Tôi thấy rõ những điếu
thuốc chợt lóe lên, soi tỏ những khuôn mặt đăm chiêu, bơ phờ.
Tôi ngồi dậy, leo lên ghế trọng tài của sân vận động, ở vị trí này, dưới ánh
trăng mồng chín tôi quan sát được khắp chung quanh. Trong cái lờ mờ của ánh
sáng này, hình ảnh đau buồn của chiến tranh dược soi tỏ. Có tiếng trẻ giật mình
khóc khuya, có tiếng chó sủa từ các xóm kế cận. Tôi nghe có một tiếng chó tru
dài, tiếng tru này vang lên mỗi khi cả bầy im lặng, nó y như tiếng của một ca
sĩ chính trong khi cả bè phụ im lặng của một bản hợp ca tưởng chừng như bất
tận.
Tôi ngẩng mặt nhìn trời, đêm sơn cước ở đâu cũng huyền hoặc, bầu không khí lung
linh, vầng trăng rờn rợn. Sao đầy trời, lấp lánh như những viên kim cương bày
trong tủ kính.
Bây giờ là nửa đêm của ngày 16 rạng ngày 17 tháng 3, người ta đã ký với nhau
một văn kiện về hòa bình hơn hai năm về trước. Hai năm đã qua, hòa bình bay
cao, như một trái bong bóng bơm quá căng, lên cao thật nhanh và sắp nổ trên
trời. Cái giá của hòa bình đang đóng góp bằng máu của người lính đôi bên, máu của
những người dân bất hạnh.
Thật tình tôi không ngủ, mắt vẫn mở, hình như tôi mê đi, tôi chợt tỉnh vì một cơn
gió khuya, tôi bắt gặp cái bóng của chính tôi đổ dài trên sân tennis. Tôi trở
về chỗ nằm, bầy chó vẫn tiếp tục bản hợp ca của chúng.
Ngày N + 1, 5
giờ sáng
Trọn đêm qua và giờ này là thời gian của Cheo Reo. Những người ra đi từ Pleiku
và Kontum đã chọn phần số của họ. Những người đó hãy còn chập chờn trong các
ngả đường, họ sẽ phải đi, bởi lẽ không có chỗ để trở về, họ vẫn còn ngủ li bì
rải rác khắp trong thị xã.
Sáng nay thiếu tá Nguyện dậy sớm hơn thường lệ. Sớm hơn mọi khi còn ở tiểu
đoàn. Sáng nay ông ta không có tách trà như mọi khi, bù lại cơn ho kéo dài hơn,
cơn ho đủ để cho mấy người chung quanh phải trở dậy. Tôi biết rõ thói quen này
đã lâu, từ ngày tôi và ông cùng học khóa sĩ quan chuyên nghiệp ở Vũng Tầu. Ông
vẫn giữ được thói quen dậy sớm của người lớn tuổi, cũng như tôi vẫn giữ được
thói quen thức khuya của thời trai trẻ. Dạo đó, và mãi cả về sau này, tôi vẫn
không có thiện cảm với người sĩ quan già có hơn hai mươi năm binh nghiệp này.
Khi tôi là chuẩn úy và ông là thiếu úy, học khóa sĩ quan đặc biệt Nha Trang ra,
cái xuất xứ đã không làm tôi nể vì. Lại nữa trường gần biển, tối nào tôi cũng
lò mò ngoài bãi tới nửa đêm mới về, cứ đang ngon giấc là y như bị đánh thức bởi
những tiếng lách cách của ông ta. Bẵng đi mười năm. Cả hai gặp lại nhau nơi
Tiểu đoàn 2 Quân cảnh này, tôi vẫn không thể nào có thêm thiện cảm với ông,
người có cái khôn của một sĩ quan sắp giải ngũ, ông đang có những toan tính vụn
vặt cho ngày về hưu. Bỗng nhiên cơn ho dài hôm nay, và thế ngồi bó gối đó khiến
tôi thương cảm vô cùng.
Trong suốt mười hai năm quân đội, tôi chỉ kính trọng hai người trong số hàng
chục vị chỉ huy trực tiếp. Ông Nguyện không phải là một trong hai người này,
đôi lúc tôi còn coi thường những thủ đoạn vặt của ông, nhưng hôm nay lòng tôi
chùng lại. Tôi nhỏm dậy nói chuyện với ông. Một già một trẻ trầm ngâm trong
bóng tối. Chúng tôi trao đổi vài câu, cả hai vẫn lắng nghe những tiếng động vụn
vặt của đồ đạc xếp lại, tiếng dọn dẹp, không phải của những người đang ngủ
ngoài trời, bây giờ là của những người đang trú ngụ trong những ngôi nhà của
thị xã nhỏ này. Họ dọn dẹp trong bóng tối, vì thành phố này hiếm điện. Lát nữa
đây khi mặt trời lên, khi đoàn người tỉnh dậy để đi nốt quãng đường còn lại,
tôi biết thêm một thành phố nữa sẽ bị cuốn đi, bởi một dòng cuồng lưu tạo bởi
con người. Chúng tôi mới trải qua một phần ba con đường. Gần một trăm cây số
đường tráng nhựa, không giao tranh, không trở ngại, không mô, không mìn. Ho,
những người dân của thị xã Phú Bổn sẽ nhập vào với chúng tôi, đoàn xe sẽ dài
thêm, và con đường cũng bắt đầu tồi tệ.
Ngày bắt đầu rạng dần, sao đã thưa, vài cơn gió sớm thổi tung những miếng giấy
vụn trong sân vận động. Lác đác có những ngọn lửa hồng.
Trung úy Chánh, trưởng đồn Quân cảnh Phú Bổn cùng trung úy San, Tiểu đội Quân
cảnh Tư pháp Phú Bổn đến xin lệnh triệt thoái. Ông Nguyện trở lại cương vị của
ông bằng một cái lệnh không chính xác. Có thể hiểu là đồng ý, có thể hiểu là
không. Tôi buồn vô hạn, những cái lệnh như thế đã đưa bao nhiêu người đến chỗ
chết. Cái thương cảm dành cho ông nửa tiếng đồng hồ trước bỗng biến mất. Tôi
nhớ đến mấy em Thiếu sinh quân hồi trưa, tôi nhớ đến người lính chở vợ bằng xe
Honda, con nhỏ trước bình xăng và vẫn không quên khẩu súng. Tôi bỏ ra ngoài,
đón hai người sĩ quan này ớ cổng sân tennis, nói với họ:
"Các anh phải sửa soạn đơn vị, giữ liên lạc thường trực với tiểu khu, Phú
Bổn không thể đứng được, Ban Mê Thuột đã mất, người ta đã bỏ Pleiku và Kontum.
Cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn còn bỏ huống hồ thị xã Cheo Reo này. Tôi biết chắc các
đơn vị ở Phú Bổn sẽ rút ngay sau khi tụi tôi đi, các anh nên theo họ. Đừng quên
binh sĩ và vợ con họ."
Ngày N + 1, 9
giở sáng
Đoàn xe đã nổ máy ba lần, chúng tôi vẫn chưa rời khỏi thị xã Phú Bổn được. Nắng
hôm nay gắt hơn hôm qua, mới hơn chín giờ sáng mà đã oi nồng, con đường trước
mặt thẳng tắp rồi mất hút trong đám cây rừng. Hôm nay đoàn xe trông thật kỳ dị,
nó nham nhở, lẫn lộn giữa đám quân và dân xa, giữa mầu xanh ô liu là những
chiếc xe be màu đỏ, xanh lòe loẹt, một vài chiếc xe du lịch, mặc dù bùn đất phủ
đầy lớp sơn nhưng vẫn giữ được cái vẻ đỏm dáng của nó. Những chiếc xe Lambretta
ba bánh phun khói mờ trời, và những chiếc xe Honda vẫn len lỏi di chuyển hai
bên, ngay cả khi đoàn xe ngừng lại. Tôi đứng trên mui xe nhìn về phía trước,
chung quanh bạt ngàn là rừng núi trùng điệp. Gió thổi những chiếc bạt xe nhà
binh căng lên. Những chiếc chăn, khăn trải giường được căng lên che nắng bị gió
hất lên, trông như những lá cờ hàng của một đoàn quân thất trận. Sau cùng chúng
tôi cũng để Cheo Reo ở lại.
Con đường bây giờ không còn rõ hình dáng, có khúc mới được bồi thêm một lớp đá
củ đậu, có khúc giữ nguyên hình dáng của một con đường mòn, không có dấu của
lề. Giữa trưa đoàn xe ngừng lại ngang một buôn Thượng, có những căn nhà sàn mái
tôn mới cất, tình trạng mặt đường có vẻ tốt. Cả tiếng đồng hồ vẫn không thấy
phía trước chuyển động. Đây là một khu đồi cỏ, không một bóng cây chung quanh,
không một dòng nước mát. Một vài người lính rời đoàn xe, lững thững vào buôn
kiếm nước. Họ trở ra cho biết buôn bỏ hoang, nhiều người khác tiến vào, rồi trở
ra với những trái đu đủ xanh, hay buồng chuối chín dở.
Bây giờ người ta túa vào buôn, cái buôn nhỏ có độ mười, mười hai nóc nhà bỗng
nhiên bi lục lạo mọi xó xỉnh. Rồi người ta dẫn ra hai người Thượng già, thật
già. Cả hai không biết nói tiếng Việt. Một người thông ngôn được gởi tới. Và
sau cùng chúng tôi biết lý do tại sao buôn mới cất lại bị bỏ hoang: người
Thượng di tản ngược chiều với chúng tôi, chẳng phải là họ về với phía bên kia.
Song đã nhiều năm nay, một thiểu số đòi tự trị ở Cao nguyên, đòi lập một quốc
gia riêng biệt cho người sắc tộc, đây là dịp họ nghĩ là tốt để thực hiện ý đinh
đó. Bây giờ tôi không còn ngạc nhiên khi cả hai ngày nay bắt gặp nhiều toán
người Thượng di chuyển ngược phía chúng tôi, có toán cả trăm người.
Hai giờ chiều, đoàn xe chuyển bánh, bỏ lại đằng sau cái buôn Thượng vừa trải
qua một trận lụt người.
Ngày N + 1, 3
giờ 30 chiều
Một khu rừng tuyệt đẹp, những thân cây cao, to, lá như lá bàng. Con đường đổ
dốc thoai thoải, bên phải là hàng triệu những tảng đá xanh lớn nhỏ, thỉnh
thoảng một khối lớn như căn nhà đứng chênh vênh chờ đổ. Bên trái con đường là
một dòng sông nhỏ, nước trong veo, chảy xiết. Bên kia sông là khu rừng tuyệt
đẹp, chỉ có các thân cây lớn thẳng tắp, nhiều cây cao hàng chục thước, thân lớn
hơn sải tay, lá khô phủ đầy mặt đất. Bây giờ là tháng ba, đang độ xuân về, đáng
lẽ khu rừng đó phải xanh biếc, đầy bóng mát, đáng lẽ nó phải là nơi trú ẩn tốt
cho những cánh chim rừng. Vậy mà cây cối đã chết đi, hàng loạt. Khu rừng chết
vẫn còn đó, nó rụng lá dần, trơ lại những thân khô, nó còn đó đôi khi cả chục
năm sau. Khi lớp thuốc khai quang đã mất hết hiệu lực, rồi cỏ bắt đầu mọc,
những thân cây khô mục nát đổ xuống. Phải biết bao nhiêu lâu nữa khu rừng mới
có được những thân cây cao dường đó.
Đoàn xe bây giờ không còn chạy, như một con rắn già kiệt lực, nó bò từng chập
rồi lại ngừng để thở. Một người lính cho tôi biết còn chừng mười lăm cây số nữa
đến quận Phú Túc. Như vậy từ sáng tới giờ chúng tôi đi được hơn ba mươi cây số.
Đoàn xe bây giờkhông còn đội hình, thật ra thì không còn thứ tự của lúc khởi
hành. Làm gì có đội hình, đây chỉ là đơn vị trưởng các đơn vị cỡ tiểu đoàn tự
lo liệu cho đoàn xe của họ, có chung một nỗi lo, một tần số làm việc, họ tự vá
víu lại, thành một đoàn quân triệt thoái. Rồi dân chúng nhập vào, và bây giờ
tôi không còn biết ai là người trách nhiệm cho hơn trăm ngàn người. Tôi biết
ông xếp chúa của tôi, trung tá Trần Đình Kha, cũng có mặt trong đoàn triệt
thoái này. Có thể có một, hai đại tá, nhưng những người này cũng chẳng bao giờ
liên lạc được với những người có trách nhiệm là chuẩn tướng Phạm Duy Tất và
chuẩn tướng Trần Văn Cẩm.
Bây giờ là sáu giờ chiều của ngày 17-3-1975, đoàn xe ngừng lại giữa rừng, hai
bên đường là những chồi cây nhỏ. Tôi ăn miếng cơm đầu của ngày hôm nay, suốt
ngày tôi chỉ nhấm nước, một người lính mang lại cho tôi một gói cơm sấy và một
hộp thịt. Tôi không cảm thấy đói, nên lại cất gói cơm vào ba lô. Tôi bỏ xe,
xuống đường nằm ngửa mặt nhìn trời cao. Vài ngôi sao mọc sớm lung linh trên nền
trời tím thẫm.
Ngày N + 1, 8
giờ tối
Hàng ngàn động cơ rú lên, hàng trăm cái còi inh ỏi, đèn xe sáng rực một góc
trời. Tôi ngoảnh lại, ánh đèn xe tưởng như bất tận. Đêm nay có lẽ cả đoàn người
sẽ phải ngủ lại quận Phú Túc. Để rồi sáng mai chúng tôi lại cuốn theo một số
người, bỏ lại một quận lỵ hoang vắng.
Thấp thoáng hai bên vệ đường vẫn là những chiếc Honda đủ mầu, chúng lượn qua
lượn lại để tránh các ổ gà, các mô đá, y như bầy thiêu thân lăn xả vào ánh đèn.
Đường thật hẹp, có lúc tưởng chừng như xe tôi móc phải những chiếc ghi đông xe
Honda, song kỳ diệu thay, tất cả trườn đi trơn tuột như một con lươn. Nhìn
ngược lại tôi thấy đoàn xe y hệt một dòng suối bạc, nó như một con rồng lửa có
cái thân thật dài trong các phim thần thoại. Hình như không xe nào cách xe nào
quá ba thước, tôi cảm thấy như nghe được tiếng khóc của con nít trên chiếc xe
đằng trước. Tất cả trôi về phía Phú Túc, hầu như không có gì có thể cản nổi.
Bỗng tôi thấy một người đi Honda nằm ngang cạnh lộ, cái xe Honda dúm đó bên
đường, có lẽ anh ta đã lạc tay lái va vào một chiếc xe nào đằng trước. Chắc
chắn anh ta bị thương nặng, cái tay vẫy cao trong ánh đèn. Anh ta nằm chúi đầu
xuống, nhiều chiếc xe lướt qua, thật tình khó có thể ngừng lại với cái dòng xe
này. Tôi chưa biết phải làm gì, cái tay cứ lớn dần, lớn dần dưới ánh đèn xe, có
lúc tôi tướng chừng cái bàn tay đó sắp mò vào mặt tôi.
Còn bốn xe nữa tới xe tôi, tôi bảo người tài xế tìm cách đậu lại thì cùng lúc
đó cách tôi ba chiếc, đột nhiên đèn thắng loé lên, một người nhảy xuống. Chiếc
xe sau ngừng lại kịp, nhưng vài chiếc sau tôi thắng không kịp, những cản xe nhà
binh va nhau tạo thành những tiếng kinh hồn. Cũng may tốc độ đoàn xe tương đối
chậm, nên cũng không có gì đáng tiếc. Qua ánh đèn xe tôi thấy trung úy Nguyễn
Bảy, người sĩ quan điều hành của tiểu đoàn tôi đang vực người bị nạn lên, một
anh lính giúp sức, cả hai khênh người bi nạn lên xe. Có những tiếng chửi thề
ròn tan của mấy tên lính vô lại trong tiểu đoàn.
Sau cùng chúng tôi đến vòng đai của quận lỵ Phú Túc. Tôi mệt mỏi thiệt tình.
Tôi thiếp đi trên xe, từ lúc trước khi đoàn xe ngừng lại. Lúc mở mắt ra tôi
thấy một bãi cát im lìm, chung quanh tôi xe cộ đậu ngổn ngang, vẫn mầu trăng
mênh mông đó, vẫn cái lạnh ngắt của đêm rừng. Đêm nay tôi thực sự thấm thía cái
hay của bà Đoàn Thị Điểm trong Chinh Phụ Ngâm.
Ngày N + 2, 9
giờ sáng
Hôm nay thứ hai, 18-3-1975, ngày thứ ba của cuộc triệt thoái, chúng tôi đã ngốn
được nửa đoạn đường. Hình như cam go chỉ mới bắt đầu. Trên bản đồ con đường còn
lại cũng cả trăm cây số nữa. Nó xuất hiện trên bản đồ bây giờ không còn là một
đường vẽ liền nữa, mà là những gạch nhỏ, đứt quãng. Rời khỏi bãi cát, chỗ nghỉ
tạm đêm qua, chúng tôi thực sự bước vào quãng đường bị bỏ quên hơn chục năm
qua. Mới ra khỏi quận lỵ chừng ba cây số, dấu hiệu của an ninh hoàn toàn biến
mất. Ngoài vòng đai phòng thủ của quận lỵ, tôi thấy một xóm nhà, xóm vắng không
một bóng người. Tôi biết chắc nó vẫn là chỗ trú ẩn của một số gia đình, những
con chó lởn vởn, một con mèo ngồi sưởi trên nóc nhà, nghển đầu nhìn đoàn xe,
rồi lại lim dim đôi mắt. Tôi thấy những lá cờ quốc gia mới sơn trên nóc, và
trên một vài cánh cửa là những khẩu hiệu chống chính phủ, đả đảo Mỹ, Ngụy.
Ngày N + 2, 12 giờ trưa
Đột nhiên con đường biến mất, đoàn xe đang từ hàng một, bò chậm chạp trên mặt
đường lồi lõm, bỗng nhiên mở ra một khoảng trống, một đồng cỏ bao la. Vài chiếc
xe tách ra khỏi hàng, chạy trên lớp cỏ tranh ngã rạp đó, rồi những chiếc khác
tách theo, bây giờ là cả một cuộc chạy đua băng đồng, hàng ngang. Một vài chiếc
xe đương chạy bỗng sụp hố, những chiếc sau tách sang hai bên. Người trên xe bi
nạn túa ra, đẩy phụ với sức máy, rồi người ta sử dụng bạo lực, nổ súng bắt
những chiếc xe gần đó ngừng lại, đẩy, kéo xe họ khỏi hố, hoặc dồn người và đồ
đạc lên những xe chạy được. Súng bắt đầu nổ từ một phe, bạo lực lan nhanh như
lửa cháy đồng, trong chốc lát nó bao trùm đoàn xe, súng nổ khắp nơi, người ta
bắn để cướp đường giành đi trước. Bạo lực khởi đầu như thế, khởi đầu bằng một
nguyên nhân nhỏ nên cường độ chưa cao. Phải đợi đến lúc địa thế trở lại chật
hẹp, lại có dấu vết con đường cái, hằng trăm chiếc xe bây giở bắt đầu ép vào
giữa, ép vào phía xuất hiện của con đường. Bây giờ súng không nổ phát một,
người ta bắn hàng tràng đại liên, không bắn chỉ thiên, mà bắn xả trên đầu.
Thỉnh thoảng tiếng súng phóng lựu nổ về phía hai vệ đường trước mặt. Khói súng
khét lẹt. Trẻ con khóc như ri, người sùng đạo cầu Chúa, niệm Phật, kẻ bạo lực
bóp cò.
Bây giờ là ba giờ chiều của ngày 18-3-1975. Giao tranh chưa thực sự xảy ra,
nhưng súng đã nổ, và có lẽ không một khẩu súng nào không lên đạn. Khắp nơi
người ta nhìn nhau nghi kỵ. Khắp nơi người ta đề phòng lẫn nhau, kẻ bên cạnh có
thể nguy hiểm. Kẻ thù ở xa chưa tới, và chiếc xe bên cạnh, nếu không biết thật
rõ, nếu không cùng đơn vị thì phải coi chừng. Bây giờ không còn ai chỉ huy thực
sự ở đây.
Tôi đã qua khỏi cái trảng cỏ cao tệ hại đó. Một nửa đoàn xe kẹt lại trong cái
đồng cỏ mênh mông, bây giờ chúng tôi tiến thật chậm, chậm như một con ốc sên
trên mặt đường. Đoàn xe giảm tốc độ tệ hại, trong khi bạo lực và hỗn loạn khởi
đi với gia tốc nhanh.
Súng vẫn nổ đằng sau, chua chát thay tôi cảm thấy hơi mừng khi chỉ nghe những
tiếng nổ ròn của đạn M.16, chưa có những tiếng nổ chát chúa của AK.
Ngày N + 2, 6 giờ
chiều
Cả ngày nay chỉ di chuyển được mươi cây số, bây giờ chúng tôi ngừng lại ở bìa
một ấp định cư. Một ấp Công giáo tương đối trù phú hơn hết kể từ lúc chúng tôi
qua khỏi Phú Bổn. Những ruộng mía thẳng hàng, những nương ngô xanh ngát. Bạo
lực như dịu lại cùng với nắng chiều sắp tắt. Xe tôi hình như lọt vào khoảng vài
trăm chiếc chạy đầu, hầu như không có một chiếc dân xa nào lọt được vào đoàn
này, nó lụi đụi đằng sau, bi bỏ lại đó đây trên đồng cỏ, ngổn ngang hàng trăm
xác xe, vài kẻ đốt những chiếc xe du lịch đã nâng cao địa vị họ trong nhiều năm
nay.
Tôi xuống xe, tìm một chỗ ngả lưng êm ả trong ruộng mía non bên đường. Đoàn xe
bây giờ thực sự là trộn trấu. Lúc khởi đi, tiểu đoàn tôi và các đơn vị phụ
thuộc có sáu mươi hai chiếc lớn nhỏ, qua cuộc chạy đua băng đồng đó, chung
quanh tôi toàn những xe vẽ phù hiệu lạ, lác đác tôi bắt gặp vài binh sĩ dưới
quyền. Cách tôi độ mươi chiếc là xe của trung úy Hóa, Đại đội trướng 24 Quân
cảnh Tư pháp và trung úy Vui thuộc Tiểu đội Quân cảnh Tư pháp Kontum. Hình như
họ có dự trữ khá nhiều lương khô quân đội. Cả hai vẫy tôi lại, mời dùng cơm
chung. Những miếng cơm san sẻ lúc này quả tình là quí. Nhưng với tình trạng
này, chỉ ba ngày nữa sẽ có nạn đói trầm trọng nếu không được tiếp tế lương
thực. Tôi thấy Hóa chui vào xe, lục đục một hồi lâu rồi mang ra khá nhiều cơm
sấy và đồ hộp. Tôi nói với hai người là phải dè sẻn hơn, và hỏi họ một ít trợ
giúp cho mấy đứa trẻ trên xe tôi, vợ con của binh sĩ trong đơn vị. Hóa, Vui có
vẻ ngần ngại. Tôi không trách gì hai anh. Nhưng lòng tôi chùng xuống.
Đằng sau xe tôi, trung úy Lộc già, vợ và tám con, mới giải ngũ chừng ba tháng,
khi di tản hốt hoảng quay về đơn vị cũ. Vài người lính trong tiểu đoàn cũng có
con nhỏ. Tôi nghe chúng khóc đã hai ngày nay. Tiếng khóc của con nít nó ngặt
nghẽo, tưởng chừng như có thể làm đứng tim người mẹ. Khoảng thời gian năm phút
kể từ khi tôi mở lời yêu cầu đó, tôi tưởng thời gian ngừng lại. Người tài xế
trên xe Hóa, nói với tôi giọng giả lả:
"Xe của ông thầy gần đây, lúc nào tụi tôi ăn ông thầy xuống ăn chung cho
vui."
Tôi nổi giận vì câu nói này. Một là tôi không xin cho tôi, tôi đủ sức chịu
đựng, đủ tài xoay trở khi cần. Hai là tôi biết rõ họ có rất nhiều, lương thực
đủ dùng cho cả tháng. Giữa lúc đó một người hạ sĩ quan khác của Hóa tới cho
biết, vợ thượng sĩ Mạnh có thể đẻ non, đau bụng dữ dội, Mạnh đã đi công tác
giải giao vài ngày trước khi di tản. Hóa là một sĩ quan tương đối có lòng, anh
đứng dậy cùng người hạ sĩ quan đi về phía sau. Thấy vậy tôi cũng đi theo, mãi
hơn một giờ sau tôi và Hóa tìm được một bà mụ trong ấp. Không thể đưa sản phụ
về nhà bà ta được, mà nước đầu ối ra nhiều, Hóa, tôi cùng đồng ý phải kiếm một
chỗ kín gió, chăng tạm vài tấm bạt, và đứa bé đã ra đời trong cái lều lộ thiên
này. Tôi và Hóa ngồi ở xa xa chờ kết quả, cái kết quả mở đầu bằng tiếng khóc
trong hoàn cảnh bi đát này. Một vài ngôi sao mọc sớm cùng với tiếng trẻ sơ sinh
khóc oa oa trong cái buổi chiều chạng vạng kỳ quặc đó. Bà mụ cho biết đứa nhỏ
tốt nhưng sản phụ hơi yếu. Khỏe làm sao được với cuộc hành trình này. Tôi không
biết Hóa giải quyết nốt tình trạng ra sao. Nhưng khi về lại chỗ đậu xe, Hóa đưa
cho tôi một thùng lương khô với giọng thật nhẹ:
"Cái này của tụi nhỏ."
Rồi anh ta tiếp luôn:
"Đây là của ông thầy. Miệng nói tay anh đưa cho tôi hai bao thuốc lá quân
tiếp vụ."
Nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1988, bản đăng trên talawas với sự đồng ý của tác giả
No comments:
Post a Comment