.
Trận Chiến An Lộc được khởi diễn ngày 04 tháng 04 năm 1972, và được xem như kết thúc vào ngày 07 tháng 07 năm 1972
Trận An Lộc 1972:
Phần 1: https://mauaotran.blogspot.com/2022/03/tran-loc-1972-phan-1-gom-5-phan.html
Phần 2: https://mauaotran.blogspot.com/2022/03/tran-loc-1972-phan-2-gom-5-phan.html
Phần 3: https://mauaotran.blogspot.com/2022/03/tran-loc-1972-phan-3-gom-5-phan.html
Phần 4: https://mauaotran.blogspot.com/2022/04/tran-loc-1972-phan-4-gom-5-phan.html
Phần 5 và hết: https://mauaotran.blogspot.com/2022/04/tran-loc-1972-phan-5-va-het.html
oOo
An Lộc địa sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân
Trước khi để lịch sử về cuộc chiến đấu chống Cộng Sản của Quân Dân Miền Nam có thể trôi vào quên lãng, chúng ta phải ghi lại đầy đủ tội ác của Cộng Sản, nhất là đối với Miền Nam Việt Nam. Một trong những tội ác đó là Cộng Sản Bắc Việt đã dùng ít nhất 4 sư đoàn (công trường) để cố tàn sát 1 Tỉnh lỵ bé nhỏ ở Bình Long Miền Nam Việt Nam vào năm 1972, nhưng Cộng Sản Bắc Việt đã thất bại. Sự thất bại này đã làm giảm uy tín của Võ Nguyên Giáp, “người anh hùng Ðiện Biên”, nổi tiếng trong giới quân sự Tây Phương là có tài nướng quân. Hậu quả của trận tấn công An Lộc là Cộng Sản Bắc Việt đã để lại cho vùng đất bé nhỏ này 1 cảnh điêu tàn, chết chóc thật là khủng khiếp, không thể nào mô tả nổi.
Vào ngày 07/07/1972, Tướng Lê Văn Hưng, người hùng tử thủ An Lộc, đã viết :”An Lộc đã đứng vững suốt 3 tháng cam go nhờ vào tinh thần chiến đấu kiên cường của toàn thể quân dân anh hùng nơi Thị Xã nhỏ bé thân yêu của đất nước”. Tỉnh lỵ của Bình Long, trước đây là một thị trấn nhỏ gọi là Hớn Quản thuộc Tỉnh Thủ Dầu Một. Từ thời cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, vì nhu cầu hành chánh, Tỉnh Bình Long được thành lập gồm ba quận Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh. Từ ngày đó, quận Hớn Quản đổi thành quận An Lộc và Tỉnh lỵ An Lộc nằm trong quận cùng tên này, trong phạm vi xã Tân Lập Phú.
VÀI NÉT VỀ AN-LỘC
Tỉnh Bình Long nằm sát biên giới Kampuchea với 1 diện tích 2,240 km2, gồm trên 76,000 dân. Riêng quận An Lộc gồm cả thành phố Tỉnh lỵ rộng 740 km2 với khoảng 44,000 dân, đa số tập trung vào xã Tân Lập Phú. Toàn Tỉnh Bình Long, chung quanh Tỉnh lỵ và quận lỵ là những đồn điền cao su ngút ngàn, vài ngọn đồi thoai thoải, Ðồi Gió, Ðồi 100, Ðồi Ðồng Long là những cứ điểm quân sự quan trọng bảo vệ thị trấn An Lộc. Quốc lộ 13 từ Sài Gòn đi ngược lên cắt đôi Tỉnh Bình Long và xuyên ngang Tỉnh lỵ An Lộc dẫn dài tới biên giới Kampuchea, tới Snoul. Quốc lộ 13 phải vượt qua Lai Khê, Chơn Thành, Tàu Ô, Tân Khai, Xa Cát, Xa Cam, rồi mới tới thành phố An Lộc. Quãng đường này đã trở thành chông gai trắc trở trong thời gian diễn tiến cuộc chiến An Lộc. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà phải khắc phục con đường này từ Nam lên Bắc, và những người dân chạy loạn từ Bắc xuống Nam đã mệnh danh hơn 20 km quốc lộ này là “con đường máu”.
Ðiểm thứ nhất khiến Cộng Sản Bắc Việt nhằm vào An Lộc là vì Tỉnh Bình Long nằm sát biên giới Kampuchea nơi che dấu những căn cứ địa của Cộng Sản Bắc Việt trên xứ Kampuchea. Thị trấn này về mặt chiến lược còn nắm vai trò chủ yếu phòng thủ cho Bình Dương và sau đó là thủ đô Sài Gòn. Thế nhưng An Lộc chỉ là một thành phố nhỏ bé, nơi đặt cơ sở hành chánh điều hành Tỉnh Bình Long. Ðiều quan trọng mà Cộng Sản Bắc Việt đã gán cho An Lộc là yếu tố tinh thần. Khi chọn làm mục tiêu tấn công, Cộng Sản Bắc Việt hy vọng đạt một chiến thắng đồng thời tạo 1 kinh hoàng, đe dọa thủ đô Sài Gòn. Khi họ quyết tâm tấn công An Lộc, Cộng Sản Bắc Việt cũng không ngờ đến rằng sẽ gặp phải 1 sức chiến đấu kiên trì anh dũng của quân dân tại đây. Sức chiến đấu này không phải chỉ 1 người ca tụng, 1 dân tộc ca tụng, mà cả thế giới ngưỡng mộ và cảm phục.
TỪ LỘC-NINH ĐẾN AN-LỘC
Giữa lúc dân chúng trên khắp lãnh thổ Miền Nam tự do chưa hết bàng hoàng bởi cuộn sóng đỏ xâm lăng công khai vượt lằn ranh vĩ tuyến 17 vào vùng cực Bắc của Việt Nam Cộng Hoà, trong những ngày đầu thì 1 mũi dùi khác của Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu thọc mạnh vào Tỉnh Bình Long, với quân số 4 sư đoàn, mưu toan “dứt điểm” Bình Long, làm bàn đạp tiến về phía Nam, uy hiếp thủ đô Sài Gòn, chỉ cách nơi đây có hơn 100 km.
Rạng sáng ngày 05/04/1972, vào lúc bình minh, Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Cộng Sản Bắc Việt ban ra 1 mệnh lệnh khô khan: “Phải chiếm An Lộc trước ngày 20/04/1972, nghĩa là phải đè nặng áp lực tối đa lên vùng hơn 100 km Bắc Sài Gòn, để cầm chân 1 số lớn lực lượng nòng cốt của địch tại đây”. Ðoàn quân xâm lăng, được chuẩn bị từ lâu, gồm các sư đoàn Công Trường 5, Công Trường 7, Công Trường 9, Công Trường Bình Long cùng Trung Ðoàn 203 chiến xa từ Lưỡi Câu của Kampuchea tràn qua, xuyên qua các rừng cao su dầy đặc. Quân Cộng Sản Bắc Việt được pháo binh nặng loại bắn xa 130 ly và các loại phòng không cực kỳ tối tân yểm trợ. Tính ra, ít lắm cũng đến 40,000 quân Cộng Sản Bắc Việt tham dự mặt trận này.
Trong trận đánh đầu tiên, Cộng Sản Bắc Việt dồn toàn lực Công Truờng 5 gồm 2 trung đoàn 174, 275 và trung đoàn Biệt Lập cùng trung đoàn pháo E6, quyết nuốt trọn Lộc Ninh, 1 quận nằm về phía Bắc An Lộc. Cộng quân gặp sự kháng cự mãnh liệt của chiến đoàn 9 gồm Trung Ðoàn 9 Bộ Binh, 30 chiến xa của Thiết Đoàn 5, Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân quận Lộc Ninh cũng phản ứng không kém phần ác liệt. Mặc dù quân số Cộng Sản đông gấp 3, quân trú phòng vẫn cố chống trả. Nhiều trân đánh xáp lá cà diễn ra ngay bên trong quận lỵ. Trước chiến thuật thí quân của Cộng Sản, quân trú phòng phải hạ nòng đại bác 105 ly trực xạ vào các đợt xung phong biển người (human wave tactic) của địch.
Ðánh vùi nhau suốt ngày không xong, Cộng Sản Bắc Việt dội trở ra, để rồi pháo kích liên miên bất tận vào các ổ kháng cự của quân trú phòng.
Giữa lúc chiến trường Lộc Ninh vẫn diễn ra ác liệt, 1 cánh quân khác của Công Trường 9, đơn vị được coi là thiện chiến nhất trong số 4 sư đoàn tham chiến tại Bình Long, bất ngờ tấn công vào Tỉnh lỵ An Lộc từ 3 giờ chiều ngày 06/04/1972, nhằm chận đường tiếp viện cho Lộc Ninh. Ðoạn đường từ An Lộc đi Lộc Ninh bị gián đoạn hoàn toàn, chỉ có thể liên lạc bằng điện thoại. Tình hình hết sức nguy ngập. Trận thế của Cộng Sản Bắc Việt đã bắt đầu hình thành. Công Trường 5 quyết lấy Lộc Ninh, rồi chọc thẳng mũi dùi theo quốc lộ 13 tiến xuống phía Nam, công hãm mặt Bắc An Lộc. Cả hai sư đoàn Công Trường 7 và Công Trường 9 của Cộng Sản Bắc Việt cũng xuất phát từ vùng Lưỡi Câu Kampuchea, đánh ép vào mặt Tây An Lộc. Nhưng Công Trường 9 đánh thẳng vào An Lộc, còn Công Trường 7 thì giữ chặt quôc lộ 13 ở về phía Nam An Lộc, con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị trấn này. Một cánh quân khác do Công Trường Bình Long gồm chừng hai trung đoàn địa phương tiến từ mạn Ðông Bắc xỉa xuống. Bốn sư đoàn bộ chiến, chưa kể chiến xa, pháo binh, đại bác phòng không, cùng chĩa mũi vào một thị trấn không quá 4 km2. Nếu đem rải đều 40,000 quân Bắc Việt trên diện tích 4km2 thì lính CS tràn ngập An Lộc, mỗi người cách nhau 10 m, ngang cũng như dọc, với đủ loại vũ khí tối tân. Lực lượng phòng trú chỉ có một sư đoàn 5 Bộ Binh.
Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III, tức tốc bốc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân từ Tây Ninh về án ngữ phía Bắc An Lộc. Trong khi đó, tại Lộc Ninh, sau 3 ngày bị pháo, không được tiếp viện, quân trú phòng được lệnh di chuyển dần dần về phía Nam, để lùi về An Lộc. Toàn bộ 30 chiến xa của Việt Nam Cộng Hoà, một số bị phá huỷ, một số đành bỏ lại.
Trước áp lực mỗi ngày một mạnh từ mặt Bắc xuống, Chiến Ðoàn 52 từ vùng cầu Cần Lê, 15 km Bắc An Lộc, cũng phải lùi dần về An Lộc. Quân Cộng Sản Bắc Việt giăng sẵn một tuyến phục kích dài trên 3 km toan nuốt trôi Tiểu Ðoàn 1/48 của Chiến Ðoàn 52 vào ngày 07/04/72, nhưng Tiểu Ðoàn này đã chiến đấu kịch liệt, mở đường máu chạy về An Lộc và chỉ thiệt hại nhẹ. Chính Tiểu Ðoàn này đã gỡ thể diện cho Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Chỉ trong vòng 3 ngày giao tranh, tại Lộc Ninh, đã có đến 2,150 lính Cộng Sản Bắc Việt bị hạ sát, tương đương với quân số của một trung đoàn.
Về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có 600 chiến sĩ hy sinh, cùng với 30 chiến xa và một pháo đội 105 ly bị mất. Kể từ đây, An Lộc bó mình trong vòng đai phòng thủ, không lấy một chiến xa để đối đầu với chiến xa địch có đến cả một trung đoàn hàng trăm chiếc.
Tại mặt trận An Lộc, điểm đáng kể thứ hai nữa là quân trú phòng không có đại bác. Nguyên một tiểu đoàn pháo binh mang số 52 với 24 khẩu 105 ly cũng bị phá huỷ gần hết chỉ còn một khẩu duy nhất. Trọn một pháo đội của quân Dù thả xuống Ðồi Gió, 4 km Ðông An Lộc, mấy ngày sau cũng bị tiêu luôn. Tất cả còn lại chỉ là một ý chí chiến đấu “hoặc sống trong tự do hay chết đi cũng để cho con cháu được sống tự do”. Những kẻ đang sống trong không khí tự do mà chưa hề bị đe dọa, không sợ mất đi, sẽ cho đây là một sáo ngữ đầy tính chất tuyên truyền. Nhưng đối với người dân Việt Nam, đã từng biết mối đe dọa đó qua 27 năm khói lửa kể từ năm 1945 đến năm 1972, họ cũng đã có nhiều kinh nghiệm xương máu về điều gọi là chiến tranh giải phóng, chiến tranh nhân dân, họ biết thế nào là chủ nghĩa Cộng Sản, nên họ đã chiến đấu, tận lực chiến dấu, dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Cuộc chiến tại Việt Nam hiện nay, năm 1972, đã chứng tỏ điều đó. Lời tuyên bố của Tướng Lê Văn Hưng quyết tử thủ An Lộc đã đưa vị tướng 1 sao này lên hàng danh tướng và làm nức lòng chiến sĩ Bình Long.
TRẬN CHIẾN KHỞI ĐẦU
Trận chiến khốc liệt tại An Lộc, một Tỉnh lỵ không đầy 4 km2, nhưng mức độ tàn khốc của các cuộc giao tranh đã khiến cho nhiều ký giả quốc tế cho là gấp 10 lần Ðiện Biên Phủ thật sự khởi đầu vào ngày 07/04/1972. Tất cả các cánh quân của 4 sư đoàn Cộng Sản Bác Việt đều dồn về An Lộc. Sư đoàn Công Trường 5 từ trên đánh xuống, Công Trường 9 và Công Truờng Bình Long ép hai mặt Tây Ðông. Sư đoàn Công Trường 7 vừa chặn mặt Nam, lập chướng ngại trên quốc lộ 13, vừa tung quân tiến đánh các mục tiêu sát biên giới như Katum, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn để cầm chân Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đang trách nhiệm vòng đai Tây Ninh, chặn đường tiến của địch về Sài Gòn theo ngã quốc lộ 1. Quân trú phòng không “tăng” mà cũng không “pháo”, phải đối đầu với một quân số gấp 3-4 lần, có hàng trăm chiến xa và cả trung đoàn pháo đủ loại. Toàn bộ Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, gồm 3 Tiểu Ðoàn 5, 6 và 8 được gửi đến tăng viện. Toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh cùng Trung Ðoàn 15 của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh từ vùng sình lầy miền Tây cũng được bốc lên Lai Khê. Tuy nhiên, kể từ đây, quãng đường Chơn Thành đi Lộc Ninh đã bị tắc nghẽn.
Các đơn vị tăng viện cố tiến từng bước một để đến gần đơn vị bạn An Lộc, nhưng mỗi bước tiến, không biết bao nhiêu chiến binh gục ngã, dù là bên này hay bên kia. Tiến lên không nổi, phải quay trở lại, để rồi tìm cách tiến lên. Gần trọn sư đoàn Công Trường 7 của địch dồn nỗ lực chính vào tuyến phục kích dài 26 km từ Chơn Thành đến An Lộc. Suốt quãng đường này, nơi nào cũng có thể là mục tiêu của pháo binh địch. Chúng rải quân dài dài dọc theo quốc lộ để sẵn sàng chỉ điểm cho pháo binh bắn từ xa tới. Phi trường Lai Khê, vắng từ 3 tháng qua kể từ khi các đơn vị Hoa Kỳ rút đi, bỗng nhiên tấp nập trở lại. Các chuyến bay nối đuôi nhau chuyển quân hoặc tiếp tế cho chiến trường.
Cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn ác liệt. Dần dần, lực lượng bên trong An Lộc đã có thể khởi lại thế công, dù phải hết sức chật vật. Mấy hôm trước, vòng bán kính bao vây thị trấn chỉ chừng 500 mét. Nhưng đến ngày 11/04/72 vòng đai kiểm soát được nới rộng thêm đến hơn 3 km đường bán kính. Bên ngoài, Lữ Ðoàn 1 Dù đã tiến khỏì Chơn Thành được 7 km về hướng Bắc sau khi gìải toả áp lực địch từ Lai Khê đến Chơn Thành. Sau một trận đụng độ ác liệt với địch quân tại vùng này, Lữ Ðoàn 1 Dù trao lại trách nhiệm cho các đơn vị của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh giữ an ninh trục lộ, những đoạn đường đã được giải toả. Riêng trong ngày 11/04, 27 pháo đài bay B.52 trút gần 800 tấn bom xuống các vị trí địch. Có lẽ nhờ thế, buổi chiều hôm đó, mức độ pháo kích đã giảm sút rất nhiều. Sư Ðoàn 21 Bộ Binh được tăng phái Trung Ðoàn 15/9 và 1 Tiểu Ðoàn Dù, có nhiệm vụ khai thông quốc lộ 13, nhhưng đây quả là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà mãi đến 08/06 mới hoàn thành nổi.
TRẬN CHIẾN-XA ĐẦU TIÊN
Ngày 12/04/72, Bộ tư lệnh cao cấp của Cộng Sản Bắc Việt lại ra khẩu lệnh cho cán binh của họ : “Cán bộ và binh sĩ phải tấn công trên khắp mặt trận. Chắc chắn quân ta sẽ thắng”. Guồng máy tuyên truyền của Cộng Sản Bắc Việt được tổ chức ngay tại quận Lộc Ninh, rêu rao là An Lộc đã được giải phóng, nên ngày hôm sau 13/04, chiến xa của chúng mở nắp khơi khơi tiến vào Thị Xã An Lộc. Khi xe bị bắn cháy, những tên lính Cộng Sản Bắc Việt gục chết mà gương mặt vẫn còn hết sức ngỡ ngàng, như còn vướng mắc: “Quân ta giải phóng An Lộc rồi kia mà?”
Mở màn cho trận đánh khốc liệt đầu tiên bằng chiến xa này, hồi rạng sáng, Cộng quân từ mạn Bắc thành phố tiến chiếm phi trường L.19 và toàn thể kho nhiên liệu và đạn dược của Bình Long gần sân bay bị phát hoả bốc cháy dữ dội. Hàng ngàn quả đạn đại bác rơi vào An Lôc dọn đường. Ðoàn chiến xa lù lù tiến vào. Nghe tiếng ì ì của chiến xa từ phía Bắc thẳng vào thành phố, lính Trung Ðoàn 8 Bộ Binh hơi bỡ ngỡ, vì đây là lần đầu tiên họ trực diện với chiến xa T54 và PT76 của Cộng Sản Bắc Việt. Ðoàn chiến xa tiến theo đường Ngô Quyền, sát cạnh Bộ Chỉ Huy của Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Mặc dù vài trái pháo của ta làm chậm bước tiến, nhưng đoàn chiến xa địch vẫn bò tới. Chỉ còn cách Bộ Chỉ Huy của Ðại Tá Trường 20 m, đoàn chiến xa bị khựng lại bởi 1 loạt đạn M72, 3 phát đầu bị hụt, phát sau trúng đích, chiến xa dẫn đầu bốc cháy, trườn tới mấy thước rồi ngừng hẳn. Mấy tên lính Cộng Sản trong xe nhảy ra, cháy nám, lăn lộn trên lề đường. Một loạt đạn M16 giải thoát. Lên tinh thần, lính của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh chĩa mũi M72 vào tất cả đoàn xe. Có tới 15 chiến xa địch bị bắn cháy sát cạnh Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh. Ðoàn chiến xa địch lùi lại để rồi tìm đường khác tiến vào. Tiếng súng vang rền trong phần nửa phía Bắc Thị Xã An Lộc.
Trong lúc giao tranh ác liệt tiếp tục, Ðại Tá Trương Hữu Ðức, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 đang ngồi trực thăng quan sát, bị trúng đạn tử thương. Tại Sài Gòn, khoáng đại Thượng Nghị Viện của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà đã ngưng lại các phiên họp thường lệ để dành hết thời gian ca ngợi và tri ân các chiến sĩ đang chiến đấu khắp các mặt trận. Trở lại An Lộc, sau 30 giờ ác chiến đẫm máu bằng đủ mọi hình thức, xáp lá cà, cận chiến bằng lựu đạn, súng dài, súng ngắn thi nhau nổ, trong phần nửa Thị Xã phía Bắc, cuộc tấn công đợt một có chiến xa pháo binh hỗ trợ của Cộng Sản Bắc Việt đã bị đẩy lui, 2 bên đều bị thiệt hại nặng, và kiệt lực, cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại.
CUỘC TẤN-CÔNG BẰNG CHIẾN-XA LẦN THỨ 2 VÀ THỨ 3
Ngày 14/04/72 đánh dấu một nỗ lực mới của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III. An Lộc bị xiết chặt trong vòng vây. An Lộc bị bó cứng trong mấy cây số vuông. Quân trú phòng không bung ra ngoài được để hoạt động. Cần phải tìm một lối thoát, lập một đầu cầu mở cửa ra vào An Lộc, nới rộng tầm hoạt động của quân trú phòng. Mặt Bắc, mặt Tây, mặt Nam đều bị bít kín. Chỉ còn mặt Ðông Nam, với những ngọn đồi thoai thoải. Nhưng ai lãnh nhiệm vụ đầy khó khăn và nguy hiểm này ? Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền Ðại Tá Lê Quang Lưỡng được Trung Tướng Minh chọn, vì quả thật không còn đơn vị nào tại mặt trận này làm hơn được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Cuộc họp mặt tại căn cứ Lai Khê giữa Trung Tướng Dư Quốc Ðống, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù, Trung Tướng Minh và Ðại Tá Lưỡng kết thúc mau chóng.
Sau 5 vòng bay quan sát, Ðại Tá Lưỡng chọn Ấp Srok Ton Cui làm bãi đáp, 4 km Ðông An Lộc. Tiểu Ðoàn 6 Dù xuống trước dọn bãi đáp. Ngày hôm sau, 15/04/72, 2 Tiểu Ðoàn 5, 8 và Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn xuống theo. Tiểu Ðoàn 6 Dù ở lại đoạn hậu, trấn giữ Ðồi Gió, để hai tiểu đoàn bạn chia làm 2 cánh song song tiến vào An Lộc. Cũng trong thời gian này, nghĩa là vào sáng 15/04, Cộng Sản Bắc Việt lại ồ ạt tấn công đợt hai vào mạn Bắc thị trấn. Một số chiến xa địch lọt được vào phòng tuyến phía Bắc, xuống đến nửa phía Nam thành phố. Một số lớn chiến xa địch lại bị phá huỷ. Rút kinh nghiệm lần trước, quân trú phòng bắt đầu tranh nhau bắn chiến xa, không phải chỉ bằng M72 mà bằng cả súng phóng hoả tiễn B40 và B41 tịch thu được của đối phương khi chúng xâm nhập thành phố. Chính trong các cuộc giao tranh này, binh sĩ Cộng Sản Bắc Việt để lộ rõ một khuyết điểm trầm trọng trong kỹ thuật tác chiến trong thành phố: thiếu phối hợp giữa bộ binh và chiến xa.
Quân trú phòng ẩn nấp trên các cao ốc, trong các hầm trú ẩn, tại bất cứ nơi nào kín đáo mà họ thuộc nằm lòng để chĩa tất cả các họng súng đủ loại vào mục tiêu quá lớn, và quá rõ ràng đang di chuyển trên đường phố, trong lúc đôi bên chỉ cách nhau trong vòng 10 m. Quân tấn công, tất nhiên từ xa tới, dường như hoàn toàn lạc lõng giữa thành phố xa lạ. Dù họ có được học tập kỹ càng đến mức nào đi nữa trên mô hình, dù có thực tập đánh trên xa bàn hàng bao nhiêu lần đi nữa, thì họ cũng không thể nào biết rõ địa thế bằng chính người dân, binh sĩ đang sinh sống tại An Lộc. Ðó là chưa kể một lỗi lầm trầm trọng trong chính sách tuyên truyền của Cộng Sản Bắc Việt là đã khiến cho binh sĩ của họ mang một sự tin tưởng quá lạc quan rằng An Lộc đã được giải phóng. Thật là tàn nhẫn quá sức, vì điều này chẳng khác nào họ đã dẫn dụ, lừa bịp binh sĩ của chính họ vào chỗ chết. Hơn thế nữa, nếu lúc ban đầu, đoàn chiến xa hùng hậu của Cộng Sản Bắc Việt có tác dụng làm phấn khởi tinh thần binh sĩ của họ, đồng thời làm suy giảm nhuệ khí quân trú phòng, thì trong thời gian sau, ảnh hưởng đó lại trái ngược.
Trong cuộc tấn công bằng xe tăng đầu tiên vào An Lộc, vài đoàn viên xe tăng Cộng Sản Bắc Việt được cấp chỉ huy cho chúng biết trước là An Lộc đã được giải phóng. Cho nên lính Cộng Sản Bắc Việt từ từ cho “tăng” tiến vào thành phố, mở rộng cả nắp pháo tháp ngắm cảnh “thị trấn giải phóng” và chờ đợi những tiếng hoan hô của “dân được giải phóng”. Trong các đợt tấn công sau đó, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà sau khi hạ được “tăng” địch đều khám phá rằng có nhiều đoàn viên tăng Cộng Sản Bắc Việt bị cấp chỉ huy của chúng xích chặt vào “tăng” luôn. Lúc đầu chiến sĩ ta cứ tưởng là binh sĩ Cộng Sản Bắc Việt can đảm cố thủ trong xe tăng chăng? Ngày 09/04/72 tại Quảng Trị, Tiểu Ðoàn 6 Thuỷ Quân Lục Chiến chỉ dùng vũ khí cá nhân M72 hạ một loạt hàng chục chiến xa địch chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Chiến thắng đầu tay này được loan truyền mạnh mẽ trên hệ thống truyền thanh quốc gia. Cũng trên làn sóng này, kỹ thuật bắn chiến xa cũng được chính các Tướng Lãnh giải thích tường tận. Binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà, hầu như mỗi người đều có một máy thâu thanh bỏ túi để nghe âm nhạc, và dường như tất cả đều chú ý nghe ngóng tin tức chiến sự tại các mặt trận khác. Họ biết được hiệu quả của vũ khí chống chiến xa, và các cấp chỉ huy mặt trận cũng không bỏ lỡ cơ hội huấn luyện thêm ngay tại chỗ, như trường hợp của Tướng Hưng, ngay sau trận tấn công bằng chiến xa đầu tiên của Cộng Sản Bắc Việt vào An Lộc. Kể từ khi hạ được chiến xa đầu tiên tại An Lộc, binh sĩ trú phòng lên tinh thần và vững chãi chiến đấu với địch. Cùng lúc đó, tinh thần của cán binh Cộng Sản Bắc Việt phần lớn dựa vào chiến xa. Chiến xa bị cháy, bị bắn nằm ngổn ngang trên đường phố, họ không còn tinh thần chiến đấu nữa. Bộ binh “tùng thiết” (đi theo thiết giáp) thấy chiến xa bị bắn cháy là mất tinh thần. Ðây là một trong những yếu tố khiến cho An Lộc khỏi mất! Sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất của quân Việt Nam Cộng Hoà bên trong An Lộc, có thể nói mà không sợ sai lầm, đến 90% do Cộng Sản Bắc Việt pháo kích.
Cũng trong ngày 15/04/72, Tướng Nguyễn Văn Minh dời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 lên Lai Khê để trực tiếp chỉ huy mặt trận Bình Long. Một lực lượng đặc nhiệm gồm 20,000 binh sĩ với Nhảy Dù, Bộ Binh,Thiết Kỵ được thành lập để giải toả quốc lộ 13. Cuộc đổ quân của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù gây thiệt hại cho cả 1 tiểu đoàn trấn giữ Ðồi Gió. Tiểu Ðoàn 6 Dù và 1 pháo đội 6 khẩu đại bác 105 ly bị thiệt hại nặng (sau 18 năm thành lập, Tiểu Ðoàn 6 Dù bị tan nát vào lúc 17 giờ ngày 21/04/1972). Tuy nhiên, sau này chính tiểu đoàn này, được bổ sung ngay tại chỗ, đã trả được mối hận đó bằng cách đánh cú chót tuyệt kỹ, bắt tay với lực lượng bên trong An Lộc vào ngày 08/06/72, kết thúc giai đoạn vây hãm 2 tháng của chiếc rọ tử thần “An Lộc”. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, đang hoạt động bên trong phòng tuyến địch, cũng được bốc hết về An Lộc ngày 16/04/72, để tiêu diệt các tổ đặc công của địch lọt được vào thành phố sau 2 cuộc tấn công vào Thị Xã. Lính Biệt Cách Dù được huấn luyện để đơn độc chiến đấu trong lòng địch, thuộc nằm lòng cách tác chiến, thói quen và vũ khí của Cộng Sản Bắc Việt để có thể giả dạng quân “giải phóng”, nên kỹ thuật tác chiến cá nhân rất cao. Chính Biệt Cách Dù đã tỉa các đặc công Cộng Sản Bắc Việt cố bám vào dân, và nhờ đó, tránh một số thiệt hại cho số dân còn kẹt lại bên trong thành phố. Sau khi quân Dù bắt tay được với quân trấn thủ, liền nới rộng vòng đai về phía Nam, Không Quân Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ hoạt động dữ dội. Pháo đài B52 dội bom chỉ cách An Lộc 1 km về phía Bắc, tiêu diệt trọn một trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt. Áp lực địch quân đã giảm bớt trong ngày 17/04/72, chừng 2,000 dân chúng ra khỏi An Lộc để chạy về Chơn Thành. Mặc dù kho đạn dã chiến tại Lai Khê bị pháo kích nổ dữ dội gây bối rối cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, và “hành lang máu” trên quốc lộ 13 vẫn còn bế tắc, nhưng đến đây, Tướng Nguyễn Văn Minh nhìn thấy được một tia hy vọng “Có thể giữ vững được An Lộc”.
Trong một cuộc họp báo tại Lai Khê sáng 17/04/1972, Tướng Minh tuyên bố :”Giai đoạn khó khăn nhất đã qua. Chúng tôi hết sức thận trọng vì sợ kẹt dân. Chúng tôi không lạc quan quá trớn, và đang ghìm súng chờ đợi những đợt tấn công mới của đối phương”. Tướng Minh khỏi phải chờ đợi lâu. Ngay ngày hôm sau, 18/04/72, đợt tấn công chiến xa thứ ba đã đổ ập vào An Lộc, một chiến trường nặng ký gấp nhiều lần Ðiện Biên Phủ 18 năm trước đó, nhưng theo một nhà báo ngoại quốc là “gió đã đổi chiều cho Giáp”. Mà quả thật, gió đã đổi chiều tại đây. Quân trú phòng không vương một mặc cảm chủ bại. Họ cùng một lòng chiến đấu, hy sinh cuộc sống của họ cho lẽ sống của hơn 17 triệu dân Miền Nam, đang phập phồng hướng về họ. Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, chỉ huy toàn bộ lực lượng trú phòng, cam kết: “Ngày nào tôi còn, An Lộc còn”.
Vị tướng này, tay thì cầm M16, mặc áo thun, quần trận, lựu đạn quanh mình, hoạt động 24/24. Hai tai của ông liên tục nghe báo cáo và điều động các binh sĩ của ông khắp nơi. Thật vậy, An Lộc rất may mắn có vị tướng này và chính ông là một trong những yếu tố quan trọng giữ vững An Lộc. Thêm nhiều chiến xa Cộng Sản Bắc Việt bị hạ gần bộ chỉ huy của Tướng Hưng. B52 tiếp tục dội bom chung quanh. Không Quân Việt Nam Cộng Hoà dồn dập yểm trợ và tiếp tế. Nhưng trước một hàng rào phòng không dầy đặc đủ loại, từ đại bác 37 ly, B40, B41, hoả tiễn tầm nhiệt cầm tay SA7 lố nhố trong rừng cao su bao vây An Lộc, dù anh em phi công có cố gắng đến mức tối đa, chịu nhiều tổn thất, cũng chỉ tiếp tế “nhỏ giọt” cho chiến trưòng. Phần lớn kiện hàng thả xuống bay tạt ra ngoài hàng rào phòng thủ. Nguồn tiếp tế bị ngăn trở, quốc lộ 13 vẫn tắc nghẽn. Quân trú phòng bị bao vây trong hơn hai tháng rưỡi trường như thế. Không khí ngột ngạt và căng thẳng đến độ một vị Trung Tá Trưởng Phòng 2 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh phải thốt lên :”Ðây là chiến trường cô đơn, và mãi đến ngày thứ 60 của cuộc chiến, các cánh quân tiếp viện cũng chỉ le lói ở cuối đường số 13”. Nếu đây là một đoàn quân không chiến đấu cho một chính nghĩa, không có một niềm tin vững chãi và hình như, nếu không có một sự nhiệm màu nào đó hổ trợ, chắc chắn họ đã thảm bại từ lâu rồi.
ĐỢT TẤN-CÔNG THỨ 4
Hạn định lúc ban đầu của bộ chỉ huy cao cấp Cộng Sản Bắc Việt ban ra là ngày 20/04/72 phải dứt điểm An Lộc. Nhưng An Lộc vẫn đứng vững. Tin tình báo cho hay, đúng ngày này toàn bộ Bộ Chỉ Huy của Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt bị thay thế, để chuẩn bị đợt tấn công mới. Nửa đêm về sáng ngày 21/04/72, Cộng quân pháo kích trên 2,000 trái đạn đủ loại vào những địa điểm trú phòng của quân Việt Nam Cộng Hoà, rồi tấn công 4 mặt vào Thị Xã, 4 mũi dùi chĩa vào 4 vùng cùng ở mặt Ðông :
– 2 km Ðông Nam An Lộc
– 3 km Ðông Nam
– 1 km Ðông Nam
– 5 km Ðông Nam,
là những nơi có Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà trấn đóng. Tại mỗi nơi, Cộng quân có 5 hoặc 6 chiến xa, với 1 tiểu đoàn Bộ Binh tùng thiết (đi theo thiết giáp). Ðặc công Cộng Sản hoạt động mạnh trở lại, ăn nhịp với các hoạt động bên ngoài. Tuy nhiên, không hiểu vì do xếp đặt trước, hay thiếu sự phối hợp, các mũi dùi này không khai diễn đồng loạt, mà lại cách quãng nhau. Mũi dùi thứ nhất khởi diễn hồi 4 giờ sáng, mà nỗ lực sau cùng khởi diễn vào lúc 13 giờ chiều. Nhờ thế, quân trú phòng có thể yểm trợ cho nhau một phần hoả lực súng cối còn lại, và nhất là hoả lực của Không Quân.
Có đến 17 phi vụ B52 để yểm trợ cho An Lộc trong ngày hôm ấy. Trong số đó có 3 “pass” yểm trợ cho Tiểu Ðoàn 6 Dù rút ra khỏi Ðồi Gió, 4 km Ðông An Lộc. Nhưng rủi thay, Tiểu Ðoàn này gặp phải hoả lực quá hùng hậu của địch gờm sẵn để tấn công mặt Ðông Nam An Lộc đúng vào ngày ấy. Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đã “tan hàng” – nói theo kiểu nhà binh. Những đơn vị còn lại đều đẩy lui được các cuộc tấn công của đối phương. Bắn hạ thêm nhiều chiến xa. Trong lòng nửa phía Bắc thành phố An Lộc, cuộc giao tranh giữa Biệt Cách Dù và đặc công Cộng Sản tiếp tục với mức độ ác liệt, tạo thành những mảng da beo trên phần đất này. Hàng ngàn xác chết của cả hai bên, của thường dân, của người lớn, của trẻ em, la liệt trong thành phố, Ðêm 22 rạng 23/04/72, Cộng Sản Bắc Việt tung thêm hai cánh quân, một đánh vào vùng trách nhiệm của Tiểu Ðoàn 8 Dù ở cửa Nam An Lộc, và một chận đánh Trung Ðoàn 15 của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh trên quốc lộ 13. Cánh quân đánh Tiểu Ðoàn 8 Dù có 2 chiến xa T54 và 2 chiếc BTR yểm trợ. Lúc này, quân trú phòng đã có loại súng bắn chiến xa mới mang tên XM202 từ M72 biến cải, có thể bắn liên tiếp 4 phát, với sức nóng 3,600 độ Fahrenheit mỗi trái. Cả 4 chiếc đều bị bắn cháy rụi, quân tùng thiết Cộng Sản Bắc Việt mất tinh thần và bị đánh bật trở ra. Không những thế, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 8 Dù còn gọi phi cơ C130 có gắn đại bác 105 ly bắn theo sự hướng dẫn của ra đa hạ luôn 1 đoàn 5 chiếc xe khác đang hướng về Trung Ðoàn 15 Bộ Binh. Sau đợt tấn công thứ tư bị thất bại, Cộng quân chỉ còn nước pháo kích vào thành phố để trả hận. Tình hình An Lộc có phần dể thở hơn, mặc dù vẫn dưới điệu nhạc ì ầm của pháo binh Cộng Sản, hàng ngàn trái mỗi ngày. Trong khi đó, đoạn đường quốc lộ 13 Chơn Thành – An Lộc vẫn tiếp tục nhuộm thêm máu.
Bên Việt Nam Cộng Hoà cố tiến lên, quân Cộng Sản Bắc Việt cố sức giữ lại. Các cấp chỉ huy Cộng Sản đã không ngần ngại xiềng chân nhiều binh sĩ của họ trong các hố chiến đấu cá nhân nằm rải rác quốc lộ 13 để làm những con chốt cản đường, và chỉ điểm cho pháo binh của chúng từ xa bắn tới. Ngày nào cũng có một số trực thăng bị rớt, nhưng không có chiếc nào hạ cánh nổi xuống An Lộc. Các cuộc chuyển quân cấp đại đội của Nhảy Dù đều bị đánh bật. Về sau, phải di chuyển ở cấp tiểu đoàn. Mãi đến ngày 08/05/72, lực lượng giải toả quốc lộ 13 mới tiển thêm được 6 km nữa để chiếm làng Tàu Ô, nằm giữa Chơn Thành và An Lộc, sau ba ngày giao tranh đẫm máu, gây thiệt hại nặng cho cả đôi bên. Quân Cộng Sản Bắc Việt đã xây nhiều hầm chiến đấu sâu đến 6 m dưới lòng đất khiến phi cơ không thể nào phá nổi. Quân giải toả phái đánh cận chiến, đành bằng lựu đạn, và chiếm cứ từng hầm hố, từng địa đạo, từng căn nhà, từng thước đất một. Hai Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh được thả ở vùng Bắc Tàu Ô đánh thốc xuống, trong lúc một cánh quân khác đánh thốc từ phía Nam đánh lên. Trước khi chiếm làng này, lực lượng giải toả đã phải đương đầu với 4 tiểu đoàn Cộng Sản Bắc Việt, 2 tiểu đoàn pháo và đặc công tăng cường nằm đầy mạn Bắc làng Tàu Ô.
Quân giải toả cố lập một phòng tuyến tại đây, tạo một đầu cầu trên đường tiến vào An Lộc. Pháo tập dọn đường cho trận đánh – đánh quyết liệt. Ðến giờ phút này, ngày 10/05/72, cả ba mặt trận An Lộc, Kontum, và Trị Thiên đều đang ở trong tình trạng gây cấn. Bên kia Thái Bình Dương, TT Richard Nixon công bố những biện pháp mạnh đối với Cộng Sản Bắc Việt. Tại Sài Gòn, TT Thiệu tuyên bố “Tổ Quốc Lâm Nguy”. Lệnh Thiết Quân Luật được ban hành trên toàn quốc từ 0 giờ ngày 11/05/1972. Chính vào giờ này, Bộ Chỉ Huy cao cấp của Cộng Sản Bắc Việt tại mặt trận Bình Long muốn “dứt điểm” An Lộc, bắt sống Tướng Lê Văn Hưng. Kể từ trưa hôm trước, tất cả các khẩu pháo của Cộng Sản Bắc Việt đã bắn trái khói lai rai cầm chừng để điều chỉnh toạ độ những địa điểm mà chúng định sẵn sẽ tấn công. Ðúng 12 giờ đêm, giờ khởi đầu của tình trạng thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Cộng quân bắt đầu cuộc “pháo tập“ khốc liệt và tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh Ðông Dương vào An Lộc. Ðến 4 giờ sáng, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu “chuyển pháo”. Kinh nghiệm và khả năng tác chiến cao đã giúp cho binh sĩ trú phòng biết ngay địch muốn làm gì khi chuyển pháo đi nơi khác. Sau khi chịu đợt “tiền pháo” tất cả đều vọt ra khỏi hầm ghìm súng chờ đợi “hậu xung”. Quả nhiên, ngay sau đó, chiến xa ì ì kéo tới. Từ 4 giờ sáng, Cộng quân xía ba mũi dùi từ hướng chính Bắc, Ðông Bắc, Tây Bắc với quân số mỗi cánh cấp trung đoàn có chiến xa dẫn đầu đánh ập xuống nửa Thị Xã phía trên. Ở ngõ Ðông Bắc, Cộng quân đột nhập vào khu Chợ Mới, sát phòng tuyến Việt Nam Cộng Hoà. Trận giao tranh tại đây càng lúc càng đẫm máu, kéo dài mãi đến 8 giờ 30 sáng. Mặt Bắc thành phố là mặt bị uy hiếp nặng nhất ngay từ đầu cuộc chiến. Các cánh quân Cộng Sản Bắc Việt ẩn phục trong đồn điền cao su Quản Lợi và từ quốc lộ 13 kéo xuống như vũ bão. Mặt chính Bắc và Tây Bắc, Cộng quân huy động một lực lượng hùng hậu có chiến xa dẫn dầu để tiến công. Chiến xa Cộng Sản dẫn đầu đã chọc thủng phòng tuyến Tây Bắc của lực luợng trú phòng. Theo sau là 2 trung đoàn bộ chiến Cộng Sản Bắc Việt. Vì sợ hoả tiễn chống chiến xa, nên đoàn xe tăng của Cộng Sản phóng quá nhanh, quân bộ chiến theo không kịp. Chiến xa tách rời bộ binh, liền lập tức bị quân trú phòng dùng hoả tiễn M72, XM202 và các B40 (tịch thu của Cộng Sản) hạ luôn 1 hơi 8 chiếc. Những chiếc còn lại hoảng sợ bỏ chạy. Tuy nhiên, quân bộ chiến của chúng tràn đến kịp dùng chiến thuật biển người (human wave tactic) áp đảo quân trú phòng.
Dường như tiên đoán được cuộc tấn công quy mô quyết định này, Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Khu III đã xin từ trước hoả lực yểm trợ của B52 dội vào khu vực phía Bắc. Mãi đến 10 tiếng đồng hồ sau, nghĩa là đúng lúc hai trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt từ mạn Tây Bắc tràn vào thành phố, liền bị hàng loạt bom B52 thả trúng, cách bìa thành phố chỉ 1 km. Riêng trong ngày này, Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã dành cho chiến trường An Lộc 20 phi vụ B52 với 2,000 tấn bom đủ loại. Theo sự ước tính tại chỗ, có ít nhất 1 trung đoàn địch bị tiêu diệt. Cuộc tấn công lập tức bị chặn lại. Cánh quân thứ tư ước chừng 1 trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt có 10 chiến xa dẫn đầu đánh thốc từ dưới lên trên, theo ngã Tây Nam vào lúc 6 giờ 30 sáng. Lực lượng trú phòng giữ mặt này chống trả mãnh liệt nên mũi dùi chính không thể tiến thêm được. Tuy nhiên, ở cả hai mặt Bắc lẫn Nam, một số đơn vị Cộng Sản Bắc Việt đã xâm nhập được vào thành phố và chia thành nhiều tổ chiến đấu nhỏ, gây hỗn loạn trong thành phố.
Suốt ngày 12/05/1972, quân trú phòng cố sức đánh cận chiến để trục các toán Cộng Sản Bắc Việt ra ngoài. Mãi cho đến tối, chiến trường mới tạm lắng dịu tiếng súng giao tranh, nhưng pháo binh Cộng Sản lại nã liên hồi bất tận vào bên trong An Lộc. Sau 4 giờ để pháo binh tác xạ, đồng thời xếp đặt lại đội ngũ, Cộng Sản Bắc Việt lại lợi dụng thời tiết xấu với những cơn mưa như trút tấn công vào, từ ba mặt Ðông Bắc, Tây và Nam. Như vậy, Cộng quân đã liên tục tấn công vào 6 mặt chung quanh An Lộc trong 3 ngày liên tiếp. Mặc dù phải liên tiếp chiến đấu trong ba ngày ròng rã, trong sự thiếu thốn cả lương thực lẫn đạn dược, nhưng với sự yểm trợ của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà lẫn Hoa Kỳ với B52 lẫn các phi cơ khu trục, trực thăng võ trang, phản lực … quân trú phòng vẫn cầm cự được, và lần hồi bẻ gẫy các mũi dùi tấn công, đánh bật quân Cộng Sản Bắc Việt ra ngoài rìa thành phố.
Trong 3 ngày giao tranh, có đến 600 binh sĩ của đôi bên chết ngổn ngang trên đường phố, chưa kể số tổn thất của Cộng Sản Bắc Việt vì B52. Mùi tử khí bắt đầu xông lên nồng nặc vì không ai có thì giờ chôn cất. Có chăng là các binh sĩ đồn trú để dành thì giờ nghỉ ngơi chôn cất các bạn đồng đội, đánh dấu để sau này thân nhân có thể tìm ra. Ðáng kể nhất là các chiến sĩ Biệt Cách Dù, họ đã quen sống trong lòng địch, đơn độc nhiều ngày, nên An Lộc đối với họ cũng khá dễ chịu. Bởi thế, họ vẫn bình thản tạo dựng được một nghĩa trang khá tươm tất để chôn cất các bạn đồng đội không may gục ngã trên chiến trường. Nghĩa trang Biệt Cách Dù nằm sát chợ Bình Long và được ghi dấu hai câu thơ mộc mạc trên một tấm bia mộ chung sau đây :”An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”.
Quân trú phòng tuy phải một phen xất bất xang bang, nhưng sau trận này sau khi chịu đựng nổi cuộc tấn công quyết định mà Cộng Sản Bắc Việt dồn toàn lực lượng vào quyết định dứt điểm An Lộc, họ đã thoát được những giờ phút nguy hiểm nhất. Tuy nhiên, mối đe dọa vẫn còn, vẫn thường trực chờ ở bên mình. Bên nào cũng ngất ngư. Gần 40 ngày đã trôi qua. Lực lượng tấn công dù có chuẩn bị kỹ càng đến đâu, cũng khó lòng tích trữ một số lương thực và đạn dược cho một trận chiến quá lâu dài với một cường độ khốc liệt như vậy. Bom đạn hàng ngày tàn phá các vị trí tiếp liệu, đánh phá các đường tiếp tế. Vũ khí, đạn dược mỗi ngày một hao mòn. Trên 50 chiến xa bị bắn cháy. Binh sĩ lớp chết lớp bị thương phải lo di tản… Bao nhiêu sự khó khăn dồn dập trong lúc hậu phương lại quá xa. Mỗi ngày qua đi là gánh nặng lại thêm chồng chất. Hàng ngày, quân Cộng Sản Bắc Việt phải chia nhau đi lượm dù tiếp tế do phi cơ thả lạc ra ngoài. Quân trú phòng Việt Nam Cộng Hoà cũng chẳng hơn gì. Hàng trăm thương binh không được di tản từ 40 ngày qua. Họ nằm dài chung quanh các phi trường để mỏi mòn chờ đợi trực thăng. Nhưng sân bay nào cũng là mục tiêu chọn sẵn của pháo binh địch. Vừa thấy bóng trực thăng thấp thoáng ở đâu là pháo binh Cộng Sản câu ngay đến đó. Tuy vậy, thỉnh thoảng một vài phi công trẻ tuổi gan lỳ cũng đáp xuống được, di chuyển được một số binh sĩ.
Biết bao thảm cảnh xảy ra bên này cũng như bên kia, ai còn tinh thần chiến đấu bên đó sẽ thắng. Bao nhiêu ngày không được tắm rửa ? Nước không có đủ để uống lấy gì mà tắm giặt? Lò mò ra suối tìm nước là một việc mạo hiểm vì không biết “nó” pháo lúc nào. Cơm xấy chỉ đủ ăn cầm hơi. Dù tiếp tế 10 cái rơi ra ngoài hết 8. Suốt mấy tháng trời ăn ngủ dưới hầm, giấc ngủ chập chờn, ám ảnh. Xác chết ngổn ngang, thương binh nằm oằn oại trước mắt. Nếu không phải là sống trong một tập thể chặt chẽ, nếu không tin vào một cái gì đó tốt đẹp hơn, chắc chắn khó có ai chịu đựng nổi mấy tháng trời liên tục như thế.
Càng nóng lòng tiến đến An Lộc, đoàn quân giải toả càng bị thiệt hại nặng. Tướng Tư Lệnh mặt trận Nguyễn Văn Minh đành thay đổi chiến thuật: Ðặt trọng tâm vào việc càn quét những đơn vị chung quanh An Lộc và dọc theo quốc lộ 13 trước đã, để dọn đường cho Bộ Binh tiến vào An Lộc. Toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và các lực lượng tăng phái gồm Trung Ðoàn 9, Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, Thiết Giáp, Nhảy Dù quyết thu ngắn khoảng cách. Pháo đài bay B52, phản lực cơ, khu trục oanh tạc cơ dữ dội dọn đường. Quân giải toả ào ạt tiến lên vượt suối Tàu Ô, qua Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch. Ðến trưa 16/05/72, đoàn quân này chỉ còn cách An Lộc có 3 km thì bị khựng lại. Các đơn vị của Việt Nam Cộng Hoà thi đua nhau tiến vào An Lộc. Tuy nhiên, Cộng Sản Bắc Việt ẩn nấp trong đồn điền cao su Xa Cam, cửa ngõ tử thần đi vào An Lộc, với một địa thế vô cùng hiểm trở, sẵn sàng chặn đứng mọi cuộc tiến quân xuyên qua yết hầu này.
Ngày 19/05/72, là ngày mà Cộng Sản Bắc Việt thường năm vẫn gây đổ máu khắp nơi tại Miền Nam để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh. Theo tin tức của một tù binh cao cấp Cộng Sản Bắc Việt bị bắt tại An Lộc thì Bộ Tham Mưu cao cấp Cộng Sản Bắc Việt sẽ cử hành lễ này trước đó 3 ngày, để rồi cố gắng đánh một trận nữa vào An Lộc, may ra có thể kích động tinh thần cán binh lần chót quyết chiếm thị trấn này vào ngày 19/05/72, gọi là để mừng sinh nhật “Bác Hồ” dù ông ta đã chết. Nhưng kế hoạch này đã bị bại lộ. Một toán Biệt Kích đã được tung vào vùng tình nghi, 16km Tây Nam Bình Long. Nhận đúng toạ độ, toán Biệt Kích gọi về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau 6 phi cơ B52 liên tiếp dội bom xuống vùng này. Nguồn tin này cho hay, 80% nhân mạng chung quanh Bộ Tham Mưu này của Cộng Sản Bắc Việt đã bị chôn vùi trong hố bom. Nhờ cuộc không tập này, quân Cộng Sản Bắc Việt đã không thể mở nổi trận đánh vào ngày 19/05/72 như chúng đã dự định.
Tuy nhiên, đến ngày 23/05/72, từ rạng sớm cho đến xế chiều, Cộng quân lại mở liên tiếp 4 đợt tấn công bằng chiến xa vào các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà tại khu vực Nam và Tây Nam An Lộc, cách thị trấn này từ 1-5 km, nhưng đều bị đẩy lui. Kết thúc trận đánh này, có thêm 13 chiến xa Cộng Sản Bắc Việt gồm 5 chiếc T54 và 8 PT76 bị hạ.
Lực lượng giải toả vẫn chập chờn tại đồn điền Xa Cam, quốc lộ 13 vẫn bị quấy rối bằng pháo và các ổ phục kích. Hai trung đoàn bộ binh Việt Nam Cộng Hoà vẫn tiếp tục lục soát, tảo thanh vòng đai chung quanh phía Nam An Lộc. Qua máy truyền tin, các lực lượng tử thủ An Lộc biết được quân tiếp viện cách họ không xa. Cũng qua máy điện thoại siêu tần số, Tướng Lê Văn Hưng cho các phóng viên biết rằng tinh thần binh sĩ của ông vẫn cao, vẫn sẵn sàng đánh nữa, và đã có thể ra khỏi hầm để tắm suối, sau 50 ngày “tắm khô” vì mức độ pháo kích của Cộng Sản Bắc Việt đã giảm. Họ cũng đã quá quen với nhịp độ 1,000 trái pháo mỗi ngày. Không Quân Chiến Thuật yểm trợ quân Việt Nam Cộng Hoà tại vùng Nam An Lộc, trong lúc Không Quân Chiến Lược (B52) liên tiếp không tập vùng Bắc thị trấn, phá vỡ các kho vũ khí, đạn dược vừa được Cộng Sản Bắc Việt chuyển tới.
Một tài liệu tối mật bắt được ngoài mặt trận cho thấy, Trung Ương Cục R (Trung Ương Cục Miền Nam) của Cộng Sản khẩn báo về Trung Ương Ðảng Bộ Cộng Sản ngoài Bắc về sự thiệt hại nặng nề của các đơn vị Cộng Sản tham chiến tại An Lộc. Bản báo cáo này nêu rõ trường hợp điển hình là Trung Ðoàn 209, sau một thời gian trấn giữ Bầu Bàng và Tàu Ô đã tan nát. Mỗi đại đội không còn đầy 30 lính, mỗi tiểu đoàn chỉ còn độ 90 so với quân số lúc đầu là 350 người. Cục R cũng than phiền khả năng chiến đấu của sư đoàn Bình Long quá yếu kém, vì phân nửa sư đoàn này là lính Khmer Ðỏ, tỏ ra hoảng hốt mỗi khi nghe tiếng phi cơ dội bom.
Theo sự tiết lộ của các giới chức quân sự Quân Khu III của Việt Nam Cộng Hoà, Trung Ương Ðảng Cộng Sản Bắc Việt đã chỉ thị cho các đơn vị tham chiến tại Bình Long phải cố gắng kéo dài trận chiến thêm 3 tháng nữa để phù hợp với tình hình và đem lại lợi thế cho họ trong một giải pháp chính trị trong tương lai.
Trong tình thế này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tại mặt trận An Lộc dần dần chuyển thủ ra công, chuyển từ thế hạ phong sang thế thượng phong, để rồi giải toả được vòng vây lửa của 4 sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt. Tướng Nguyễn Văn Minh, khi tiếp xúc với báo chí tại Lai Khê ngày 31/05/72 đã mô tả trận chiến này là trận đánh khó khăn nhất và dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Ông thừa nhận, Cộng Sản Bắc Việt đã đạt được một lợi thế ngay từ đầu với quân số đông gấp 4 lần, và quân Việt Nam Cộng Hoà đã phải chấp nhận khá nhiều tổn thất. Tuy nhiên, sau 54 ngày giao tranh, Cộng quân đã thiệt hại ít nhất là 30,000 quân trong tổng số 4 sư đoàn của chúng. Mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt mong tiến đánh thủ đô Sài Gòn đã hoàn toàn bị chận đứng tại An Lộc. Ðiều ước muốn nhất của ông là sớm thoát cảnh tù túng, không khác một địa ngục trần gian.
Cũng vào ngày cuối tháng 05/72, TT Nguyễn Văn Thiệu đã bay thị sát hai mặt trận Kontum và Thừa Thiên – hai mặt trận đều đang dắm chìm trong lửa đạn, đồng thời phát động chiến dịch 18 ngày thi đua giết giặc mừng ngày Quân Lực 19/06. Chiến dịch đã thu đạt được kết quả mỹ mãn: giải toả Kontum, khắc phục quốc lộ 13, mở đường tiếp vận cho An Lộc, một tuần sau đó. Khắc phục quốc lộ 13 và bắt tay với An Lộc. Trong những ngày đầu tháng 06/72, đoàn quân có nhiệm vụ giải toả quốc lộ 13 tích cực hoạt động. Hai Trung Ðoàn 33/21 và 15/9 cùng Tiểu Ðoàn Dù cùng song song tiến lên, khởi từ An Trạch. Tiểu Ðoàn 6 Dù bị tan nát từ ngày 21/04/72 tại vùng Ðồi Gió đã được tái bổ sung. Chỉ trong vòng 1 tháng rưỡi, với nỗ lực huấn luyện ngay tại chỗ của các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn, đơn vị này đã trở lại chiến trường quyết trả mối hận Ðồi Gió. Với sự hỗ trợ của hai trung đoàn bạn, Tiểu Ðoàn 6 Dù lướt đi như gió, càn quét các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt cản đường như một con hổ dữ, không hổ danh là những thiên thần mũ đỏ. Chiều tối ngày 08/06/72, Ðại Ðội 62 của Tiểu Ðoàn 6 Dù bắt tay được với một đại đội của Tiểu Ðoàn 8 Dù trấn giữ vùng Nam An Lộc từ ngày 17/04/72. hai tiểu đoàn này cùng được đổ xuống ấp Srok Ton Cui ngày 15/04, nhưng lạc nhau kể từ đó. Ðến nay lại gặp nhau trên cửa ngõ An Lộc, làm sao kể xiết nỗi vui mừng của cả hai bên, hai đoàn quân đến ôm chầm lấy nhau, siết chặt tay nhau, mừng mừng tủi tủi.
Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu,Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, chỉ huy lực lượng giải toả quốc lộ 13, thở phào nhẹ nhõm. Nhiệm vụ của ông vừa được hoàn tất. Tướng Hồ Trung Hậu cho hay, Tiểu Ðoàn 6 Dù đã làm ngạc nhiên tất cả các đơn vị bạn trong những trận đánh cuối cùng trước khi bắt tay quân phòng thủ An Lộc. Trung Ðoàn 15/9 và 33/21, những đơn vị kềm chặt Cộng quân để tiểu đoàn Dù tiến lên, cũng cử những đơn vị đại diện đến bắt tay với lực lượng bên trong. Sở dĩ cuộc bắt tay này được coi là những diễn biến quan trọng, bởi nếu thực hiện được, vòng đai bảo vệ thị trấn An Lộc mới được mở rộng, trực thăng mới có thể đáp an toàn để tải thương, đồng thời tiếp viện và tiếp tế cho chiến trường. Hàng chục ngàn binh sĩ được đổ vào An Lộc với đầy đủ lương thực, để thay thế bớt cho những binh sĩ đã kiệt sức, hoặc quá mệt mỏi. Tuy nhiên, phần lớn của lực lượng Sư Ðoàn 21 Bộ Binh vẫn ở ngoài thị trấn, vì Tướng Hậu không muốn quân ông biến thành mục tiêu bất động cho pháo binh địch. Vấn để được đặt ra sau cuộc giao tiếp với cánh quân giải toả quốc lộ 13 là dồn mọi nỗ lực để tiêu diệt địch chung quanh An Lộc, nhất là những ổ phòng không và đại pháo của Cộng Sản Bắc Việt.
Ngày 09/06/72, lần đầu tiên kể từ hai tháng qua, một đoàn trực thăng 23 chiếc hạ cánh an toàn xuống An Lộc, vừa tiếp tế, vừa đổ quân, để rồi bốc thương binh ra. Quân trú phòng phấn khởi, tiến lên chiếm lại những vị trí của Cộng quân cố thủ tại phía Bắc An Lộc. Những tổ kháng cự bên trong thị trấn cũng lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc di tản thương binh và thường dân vẫn được tiếp diễn đều đặn. Ngày Chủ Nhật 11/06/72, TT Thiệu đã gửi cho Ðại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, yêu cầu chuyển lời khen nồng nhiệt của ông đến Trung Tướng Tư Lệnh Quân Khu III, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, tất cả các đơn vị trưởng cùng toàn thể các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã anh dũng chiến đấu bảo vệ Thị Xã An Lộc và khai thông quốc lộ 13.
Trong lúc đó thì Liên Ðoàn Biệt Cách Dù và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân cùng song song tiến lên mặt Bắc An Lộc. Tiểu Ðoàn 36 Biệt Ðộng Quân đã cắm ngọn cờ vàng ba sọc đỏ đầu tiên tại trại gia binh pháo binh ngày 12/06/72. Kế đó, Tiểu Ðoàn 52 Biệt Ðộng Quân đánh lên mặt Tây Bắc, sát sân bay và cạnh đồi Ðồng Long. Tiểu Ðoàn này đã chế ngự một cao điểm sát đồi Ðồng Long để yểm trợ cho Biệt Cách Dù tấn công lấy luôn đồi Ðồng Long, cắm cờ trên ngọn đồi này. Ngọn đồi này cao 128 m, và là nơi Cộng Sản Bắc Việt đặt pháo binh bắn vào An Lộc từ mấy tháng qua. Sau cái bắt tay giữa hai tiểu đoàn Dù ngày 08/06 lực lượng trú phòng được tiếp tế thật đầy đủ dò dẫm tiến lên mạn Bắc quốc lộ 13 và nới rộng thêm vòng đai phòng thủ.
Ngày 12/06/1972, khi cờ Việt Nam phất phới tung bay trên đỉnh đồi Ðồng Long, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố vối phái viên VTVN :”Thành phố An Lộc được hoàn toàn giải toả”.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
BÊN LỀ CUỘC CHIẾN MƯA PHÁO
Ðể duy trì áp lực trên thành phố An Lộc, hoặc ngay cả trước khi mở cuộc “hậu xung”, Cộng Sản Bắc Việt đã dành cho Thị Xã nhỏ bé này những trận pháo kinh thiên động địa mà các giới quan sát chiến trường lúc bấy giờ nhận xét là họ chưa từng thấy cuộc pháo kích nào như thế cả trong lịch sử chiến cuộc thế giới. Nghĩa là không còn danh từ nào tượng hình hơn danh từ “mưa pháo” mà người dân tại An Lộc cũng như chiến sĩ ở đấy đã gọi như thế. Một sĩ quan cao cấp, Ðại Tá Mạch Văn Trường, đã ví những trận pháo kích của Cộng Sản Bắc Việt như chiêu thức võ hiệp “Mãn thiên hoa vũ” (Mưa hoa bay đầy trời). Diện tích thị trấn An Lộc chì chừng vài km2, thế mà trong hai tháng trời đã lãnh đủ mọi thứ đạn của Cộng Sản Bắc Việt, có lúc đến gần 8,000 đủ mọi thứ đạn trong một ngày, như ngày 11/05/72. Tính chung, hơn hai tháng trời bị pháo liên tục thì trung bình thành phố An Lộc đã chịu hơn 200,000 quả đạn đủ loại. Ít người được dịp chứng kiến tận mắt thành phố An Lộc hoang tàn sau những cơn mưa pháo bất tận, nhưng ai ai cũng có thể hình dung những đổ nát của thị trấn nhỏ bé này với một chút tưởng tượng rằng cứ chừng 20 m2 thì bị tàn phá bởí quả đạn pháo kích của CSBV. Với “mật độ” này, không có một vật gì ở thị trấn An Lộc không ghi nhận dấu vết tàn phá của đạn pháo kích. Từ cột điện, cây cối cho đến chiếc lon sữa bò vứt ngoài đường phố cũng ít nhất bị trúng miểng pháo, đừng nói chi đến nhà cửa.
An Lộc còn những chuyện bi thảm mà thế giới văn minh không ai có thể tin là sự thật. Dưới trận mưa pháo kinh hoàng của đoàn quân xâm lược, thật ít người được chết chỉ một lần. Vắng tiếng pháo, người sống vội vã lo cho người chết, đào tạm cái hố, gom vội thi hài để người chết được một nơi yên giấc và cũng để tránh cảnh xác người sình thối trước mắt người sống. Thế nhưng giấc ngủ của kẻ chết cũng không yên dưới tay giặc Cộng. Mộ mới “đắp “ được vài phút, đạn pháo kích của Cộng quân lại rơi vào. Xác người chết vốn không còn nguyên vẹn lại bị giết một lần nữa bởi sự vô lý của mộng xâm lăng hầu chụp lên đầu dân Miền Nam chủ thuyết Cộng Sản. Người dân còn kẹt lại An Lộc, người lính quyết tâm tử thủ bảo vệ thành phố này, đã cố gắng chịu đựng đến tột cùng của sự cố gắng trước cái kinh hoàng của “mưa pháo” để thành phố không thất thủ. Những tiếng nổ khủng khiếp liên hồi hàng chục ngày rồi cũng trở thành những âm thanh dịu vợi vì quá quen thuộc. Cái kinh hoàng bây giờ không còn phải ở hai tai mà ở đôi mắt khi nhìn thấy những người đi thu lượm chấp nối đầu, rồi tay, rồi chân hay thân mình của thân nhân hay bạn hữu cho đầy đủ trước khi vùi sâu dưới lòng đất lạnh.
Ngày 15/04/72, hơn 10,000 dân An Lộc chạy vô khu nhà thờ và nhà thương An Lộc, hy vọng Cộng quân không tấn công hai địa điểm này, bởi nếu còn một chút lòng người không một cấp chỉ huy quân sự nào có thể ra lệnh bắn vào nhà thương và nhà thờ. Chính vì hai chữ “thuơng” và “thờ” với tượng hình đặc thù của nó, tự đã nói lên tất cả ý nghĩa của sự việc dân chúng đi tìm hai nơi này để lánh nạn. Tuy nhiên, Cộng Sản Bắc Việt vẫn tập trung hoả lực để pháo kích vào hai nơi này. Gần hai tháng sau, khi kể lại vụ nhà thờ ngày 15/04/72 cho chúng tôi, một người lính tử thủ tại An Lộc vẫn còn kinh hoàng và lòng kinh tởm cho dã tâm của Cộng Sản Bắc Việt. Anh nói :”Cả chục ngàn người đang ở khu vực nhà thờ, họ cùng các vị lãnh đạo tinh thần chỉ còn biết cầu xin đấng duy linh tối thượng thương xót cho một đám dân lạc loài qua khỏi cảnh đao binh. Không ai có thể hình dung được cảnh hỗn loạn, thảm khốc khi hơn 10,000 người đạp lên nhau chạy thoát khỏi khu nhà thờ. Số thương vong không biết sao kể siết”.
Một thành phố nhỏ như An Lộc dễ dàng trở thành mục tiêu tốt cho bất cứ pháo thủ nào chỉnh súng để pháo vào đó, bởi vậy An Lộc đã chẳng còn gì sau hơn 60 ngày bị pháo kích. Ðiều may mắn còn lại cho những người tử thủ là đạn rơi trúng hầm thì mới chết chứ cách hầm vài thước thì ăn thua gì. Loại đầu đạn phá hầm ghê sợ nhất là loại nổ chậm “delay”. Ðầu đạn này không phát nổ khi chạm đất mà còn xuyên thủng khoảng 10 m rồi mới nổ. Với loại đạn này sự tàn phá vô cùng khủng khiếp. Rất may là Cộng Sản Bắc Việt không có nhiều loại đạn này. Kể cả căn hầm của Tướng Hưng, ở An Lộc hầu như không có một công sự nào chịu nổi một phát 130 ly hay hoả tiễn 122 ly, có điều Thượng Ðế “còn ngó lại” nên phần trên căn nhà của Tướng Hưng chỉ bị mấy trái cối 82 ly. Ðạn cối 82 ly không xuyên phá, khi nổ văng nhiều mảnh nhưng chỉ có thể làm sập mái nhà mà thôi. Một vài trái hoả tiễn 122 ly, 107 ly và cả đạn “delay” đã rơi chung quanh Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng, rất may mắn không có trái nào trúng hầm và chỉ làm hư hại phần ngoài của khu vực mà thôi.
Ðã nói tới pháo kích tức nhiên phải nghĩ tới những tàn phá và thảm cảnh, những điều này mới chính là biểu tượng vĩ đại nhất cho sự chịu đựng và tinh thần kiên quyết của đoàn người tử thủ cho dù đó là quân nhân hay những thường dân hoàn toàn không có vũ trang. Với khoảng 200,000 trái đạn trong hơn hai tháng, Cộng quân đã làm cho An Lộc sụp đổ toàn diện, 4,000 binh sĩ và thường dân tử thương trong thị trấn. Nhưng tại sao thành phố nhỏ xíu này vẫn đứng vững và trở thành biểu tượng cho tinh thần chiến đấu của người dân Miền Nam không thích chế độ Cộng Sản? Ðó không phải là một biểu tượng cho một dân tộc không muốn sống dưới chế độ Cộng Sản hay sao? Một sĩ quan tử thủ Bình Long đã ghi lại trong nhật ký :”Sự sụp đổ của một thành phố không có nghĩa là mang theo sự sụp đổ tinh thần chiến đấu của những người đang còn muốn tiếp tục bảo vệ nó và bảo vệ chính bản thân mình”.
THƯ CHO NGƯỜI “TÌNH” HƯ VÔ
“Anh Hựu thương, “Thế nào, 2 chủ nhật trôi qua có nhớ lắm không? Có thể nói từ khi anh và em cùng nhau bắt tay xây dựng vợ chồng thì 2 chủ nhật này là 2 chủ nhật khó khăn và nặng nề vượt qua lắm anh hè. Em biết lắm rồi, trong những giờ phút đó anh muốn hét thật to để làm sao em nghe những lời nói của anh, rồi cùng anh nói chuyện, rồi em cũng biết lắm những bước chân đi trong những giờ phút đó, nó như một con người không trí giác mà những bước đi đó không hề biết đến, không hề nhớ đến, đầu óc sẽ triền miên suy nghĩ, những cái gì gọi là kỷ niệm ở đời sẽ hiện ra và bắt đầu như diễn kịch trước mắt. Thật đúng tâm trạng của anh lúc đó em sẽ đoán được, vì sao em lại biết tài như thế? Vì em đã nằm giữa trái tim anh, dòng máu của anh đã cùng chảy theo nhịp thở của em, cho nên dù sao, dù ở phương trời nào em đều đoán được.
“Thế nào rồi đó, chân sưng to không, bằng cái “cột đình” chưa ? Vai đã lột những lớp da bên ngoài gọi là “không đáng kể” để đổi lấy lớp thịt “hồng hà” chưa ? Còn đau lắm không anh? Có hỏi họ để tìm kiếm dầu ngoại khoa mà bóp chưn, nhức lắm anh hè. Anh Hựu ơi, Em biết đi đường vất vả lắm rồi đó, ăn uống khô khan như vậy có mua gì cải thiện đến không? Trên đường đi có xảy ra đau ốm gì không? Nghĩ đến đó em tê buốt cả người càng thêm nhớ nhung suy nghĩ, có sinh ra cái mụt nào để làm thêm đau đớn bản thân không? Vì mùa này là mùa mụt của “đồng chí” đấy phải không Thủ Trưởng? Hai chữ Thủ Truởng nói cho vui vậy thôi, chứ không phải em mơ ước như vậy đâu nhé.
“Thật ra tâm trạng của em chỉ mơ ước rằng sao cho 3 năm nghĩa vụ xong anh được an toàn cùng về với em, em muốn nhắm mắt làm sao thời gian sẽ trôi nhanh đi và nhanh đi nữa để anh và em được về sống trong một ngôi nhà nhỏ hẹp để cùng nhau vượt qua khó khăn, cùng nhau hưởng những hạnh phúc đẹp đẽ. Những hạnh phúc đẹp đẽ, những cái đó em nuôi một mơ ước, một mộng đẹp, chứa đựng nó trong khối óc, trái tim đầy tình chung thuỷ của tình nghĩa vợ chồng đã nhen nhúm từ lúc đầu. Anh ơi, xa anh đi, em nhớ lắm, em thương anh lắm, anh nói, anh cười, anh trìu mến thương, anh em làm sao quên được. Có ai hiểu thấu tâm trạng của em trong những lúc nhìn vật của anh, từ nét chữ của anh viết cho em, rồi đến cái nhìn nữa … Chao ôi, em muốn bấu lấy mà nhìn, nhìn mãi, nhìn vui cho chán được. Anh Hựu ạ, nói mãi, cũng không hết nhớ nhung của em lúc này đối với anh, thôi em nói chuyện khác anh nhé … “
Trên đây là 2 trang đầu tiên của chị Nguyễn Thị Hằng, giáo viên ở Nghệ An viết gửi anh Lê Văn Hựu địa chỉ là 27100 3TB04 Trung Ðoàn 203 Thiết Giáp, không biết rõ anh ở đơn vị nào. Thư viết 4 trang được ghi lại 2 trang đầu không sửa một nét, không thêm một dấu. Lê Văn Hựu đã chết ngay trận đầu tiên sau 6 tháng vượt Trường Sơn vào Nam. Cái chết của Hựu không phải lỗi tại chúng tôi vì chúng tôi phải tự vệ để sống còn, cũng không phải lỗi của anh Hựu. Hựu cũng muốn ở lại bên chị Hằng để “cười rúc rich với nhau”, để được ăn ngô, “vườn ngô trước nhà đã được mùa”.
Tội ác này là của chúng nó, lũ đồ tể tay không dính máu, tâm hồn chúng cứng ngắc bởi tin vào chủ thuyết thật tàn độc. Ðó là lỗi của lũ ngoạ quỷ trầm luân mang danh người và chiêu bài cách mạng giải phóng. Chính chúng nó, thứ thiên tài chết ngập đầy oan khiên, đem chết chóc cho thế nhân …
TIỂU-ĐOÀN 6 DÙ ĐỒI GIÓ ĐỔI TÊN
21giờ00 của ngày 19 được đánh dấu bởi quyết định của”Lê Lợi”: Tiểu Đoàn 6 Dù không còn nhiệm vụ giữ pháo nữa, chỉ còn nhiệm vụ giữ cao địa. Tiểu Đoàn Trưởng toàn quyền quyết định. Pháo còn nữa đâu mà giữ, chưa đầy 48 giờ, đã mất 6 khẩu pháo với ngàn quả đạn, bây giờ ở đây làm gì? Dọt ! Đĩnh dẫn Đại Đội 60 và Đại Đội 62 xuống đồi, hướng về phía Ấp Srok Ton Cui, nơi đang có 61 trấn thủ, để lại trên đồi 2 Đại Đội 63 và 64 cho Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng trấn giữ.
Vinh “con” ào xuống như núi lở, Cộng quân bung ra khép lại. Vinh tiếp tục lấn… Chân Đồi Gió và Ấp Srok Ton Cui lại kẹt thêm cái suối Rộ. Vinh cựa quậy khó khăn dưới đám lau sậy, ruộng sũng nước. Nó bâu tôi như đĩa đói, dứt không nổi Anh Năm. Vinh hét với Đĩnh trong máy… Tối quá chỉ còn sờ ngực áo mà đánh lưỡi lê thôi… quên sờ nón sắt mà nhận Bạn.
Nhưng Cộng quân cố chận bằng mấy lớp hàng rào người. 23giờ00 đêm, Vinh cũng sờ được cái Ấp…nơi đây Đại Đội 61 đang trông chờ từ lúc chập tối, 400m từ chân đồi đến người lính gác của Đại Đội 61, thành phần của Tiểu Đoàn 6 Dù đi mất 3 giờ, 3 giờ thêm một số thương binh vì lưỡi lê và mảnh lựu đạn của 400m cận chiến.
Bây giờ là 00giờ00 của ngày 19 bước qua 20. Cộng quân không phải chỉ có một thành phần, một cánh quân, nhưng mà là một lũ người, một lớp sóng người chen vai thích cánh lố nhố đầy chân Đồi Gió, chân đồi phía Tây lẫn phía Đông.. Cộng quân tràn ngập đường 245 như trẩy hội. Cộng quân bao quanh Ấp Srok Ton Cui như đám người đói vây quanh vị trí phát chẩn. Không phải là một cuộc điều quân, nhưng là một chợ người, lộn xộn ồn ào, la hét tìm đơn vị, chuyển lệnh – Ngày hôm nay sao máy bay “nguỵ” nhiều quá! – Sao mày không bắn! Tao chỉ có AK – AK thì AK, bắn cho “nguỵ” sợ…Ở trong này, Đĩnh thì thầm liên lạc với các Đại Đội 61, 62, và 60 : các Toa dặn lính đừng bắn phải tiết kiệm đạn tối đa, chỉ nổ súng khi nào thấy chúng nó tấn công mình. Phải đợi trời sáng, khi xác định được rõ mục tiêu, chúng ta sẽ đồng loạt nổ súng, cắt đứt ngang đoàn quân của chúng, nhớ chuẩn bị các M.72 để hạ Tăng chúng nó!!
– Các Đại Đội Trưởng đáp, nhận rõ 5/5.
Dù vô trật tự đến tới đâu, Cộng quân cũng tập họp lại được hàng ngũ. 3 giờ sáng, tiếng kèn thúc quân vang lên lồng lộng… xong rồi tụi nó chuẩn bị dứt mình.
Tiếng kèn thúc quân xoáy trong đêm, vang dọc theo đường 245… Bỏ mẹ, chúng nó bố quân cả 3 cây số đường dài.. đồng thời từ phía Bắc đầu đường 245, có tiếng động cơ máy nổ, ánh sáng đèn pha quét ngang dọc trong bóng đêm của tăng T.54.
3 giờ đúng, Đồi Gió bị tấn công trước, Tiểu Đoàn Phó Phạm Kim Bằng, mặt đen xì, con người quá khổ, chậm rãi điềm tĩnh và hùng tráng như một hiệp sĩ thời cổ, đứng ra khỏi hầm, điều khiển hai Đại Đội 63, 64 phân công. 63 của Hoàng và 64 của Tuấn, 2 Đại Đội đã thử lửa với quân Cộng Sản Bắc Việt từ ngày 17, hai Đại Đội Trưởng “tới” quá mức, dũng cảm như những thiên thần tung hoành trên đầu lũ quỷ say máu. Tất cả đều ở tuyến đầu chiến đấu, không còn Khinh Binh, Tổ Trưởng, Trung Đội Trưởng, Tiểu đoàn Phó…chỉ còn một hàng ngang theo giao thông hào, điểm phân biệt người chỉ huy là tay nói máy chuyền lệnh, tay ném lựu đạn, 2 Đại Đội chỉ trừ những người chết hay bị thương mê man, thương binh chỉ tạm băng bó sơ qua vết thương, đứng hoặc dựa lưng vào thành giao thông hào để chiến đấu.
4 giờ trong bóng tối ngả màu tím của ngày sắp đến, 6 chiếc T.54 chia từ hai hướng Đông và Đông Bắc, bắt đầu lên đồi, lính tùng thiết Cộng Sản Bắc Việt chạy lố nhố theo sau để tính bề diệt gọn. Trăng thượng tuần gấn sáng rọi ánh sáng trắng lạnh xuống sườn đồi vằng vặc, khối sắt đen lóng lánh tiến dần vào cùng động cơ vang ầm ì, ngọn đèn vẫn giữ nguyên độ sáng, ở vị thế “pha”, luồng ánh sáng dọi thẳng lên đồi hỗn xược thách thức… Hai chiếc T.54 đầu tiên bò lần lần từng bước lên ngọn đồi dựng đứng.
Để tao thanh toán nó, Tuấn đứng thẳng khỏi giao thông hào, kéo chiếc ống M.72 cơ hữu (trên nguyên tắc chỉ khinh binh mới có M.72). Rút hết các chốt an toàn.Tách! Sợi dây an toàn cũng đã bị đứt, Tuấn đưa chiếc hoả tiễn lên vai nheo mắt… 100 thước, còn xa, 80 thước, hơi xa, 50 thước, đủ! Tuấn bị loá mắt bởi hai ngọn đèn dọi thẳng mặt…Ầm ! Quả hoả tiễn dập vào giữa hai điểm sáng, hơi chếch cao một chút, trúng ngay pháo tháp… Chiếc thứ hai tăng tốc độ hú lớn nhấc một cái lên tuyến phòng thủ, Hạ Sĩ Nhu, Tiểu Đội Trưởng can trường không kém Đại Đội Trưởng, nhảy vội lên pháo tháp, quả lựu đạn phát nổ sau khi Nhu vùa kịp nhảy xuống. Chiếc thứ ba thì lãnh 1 quả M.72, nằm yên bất động.
Ba chiếc T.54 của phía Đông thì do chính Hoàng và một vài binh sĩ khác hạ. Cộng quân lại lui xuồng chân đồi, để đại pháo rưới thêm một lớp, lớp thứ sáu kể từ lúc khởi đầu trận đánh. Ngày tới với ánh sáng cùng cơn mưa pháo thứ bảy, đỉnh đồi bây giờ tan hoang, điêu tàn và bốc khói, khói của đạn địch và khói của đạn ta cháy dở “Hột Lạc” dài 30m ngang 70m, hứng khoảng trên 2000 quả đạn trong một đêm với vị trí dã chiến, ngày chiếu ánh sáng rọi rõ cảnh vật tan nát…
Tiểu Đoàn Phó Bằng bị “tung” một mắt. Tuấn hứng một quả 75 ly, quả đạn nổ ngay trên thân thể người sĩ quan trẻ mới 23 tuổi… số tuổi quá nhỏ đem so với chiến trường nặng độ. Đồi Gió kể từ đó mang tên mới: Đồi “Quốc Tuấn”, danh hiệu truyền tin của Tuấn, Cao Quốc Tuấn.
Với một con mắt đẫm máu, Bằng nghiến răng, nhướng mắt còn lại giữ vững đồi cho đến lượt tấn công thứ 16. 12 giờ trưa ngày 20, Bằng kiệt lực suôi tay bỏ rơi chiếc combine’, gọi Hoàng đến: “Thay moa đem hai Đại Đội về 169 (Tây Nam Đồi Quốc Tuấn), với một cái yên ngựa chừng trên 2 Km đường rừng rậm. Nhớ đem hết thương binh, kẻ chết phải chôn lại…
AN-LỘC: CHIẾN-TRƯỜNG THÁCH-ĐỐ CỦA PHÓNG-VIÊN
Sau đây, dưới hình thức ký sự của một phái viên Vô Tuyến Việt Nam đã đặt chân hơn một lần vào An Lộc trong những ngày còn lửa đạn, người đọc sẽ được dẫn dắt vào thành phố đổ nát An Lộc, sống vài giây phút với những người dân, người lính đã cố thủ An Lộc. Công việc của một phóng viên là trung thực ghi nhận mọi sự kiện xãy ra trong đời sống thật sự. Trên một khía cạnh nào đó người phóng viên cho một chứng nhân dự phần vào những diễn biến luôn luôn làm cho thế giới biến đổi không ngừng. Với tư cách của một phái viên Vô Tuyến Việt Nam, tôi tới An Lộc ngày 13 tháng 06 năm 1972 khi thị trấn này buớc vào ngày tử thủ thứ 68. Nhiệm vụ của tôi tương tự như các phái viên Vô Tuyến Việt Nam ở các mặt trận khác là tường trình qua hệ thống liên lạc siêu tần số, những sự thật đã và đang diễn ra tại các địa điểm mà chúng tôi có mặt. Tôi đặc trách mặt trận Bình Long và chiến trường An Lộc, thực sự như một thách đố đối với cá nhân tôi cũng như nhiều người khác đã từng tìm cách vào An Lộc. Chuyến đi của tôi khởi sự vào trung tuần tháng 04/72 và tôi đã chỉ có thể hoàn tất 2 tháng sau đó, tức là vào ngày 13/06/72. Trong hai tháng trời ròng rã này, mỗi lần khởi hành đều kéo theo một thất bại cho riêng tôi và cả các anh em khác đi cùng. Có những người bị thương, có những kỷ niệm chua sót nhưng đau đớn hơn là cái chết của cố phóng viên điện ảnh, Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Bình. Một tuần lễ chờ đợi, lên trực thăng rồi lại xuống trực thăng, ăn chực nằm chờ dưới những cơn lốc cát nóng bỏng ở phi trường Lai Khê, Bình Dương, ngày 29/04/72, chúng tôi khởi sự cuộc hành trình phiêu lưu vào An Lộc, thời gian này An Lộc bước vào ngày tử thủ thứ 22, áp lực địch đang lúc mạnh và quân Cộng Sản Bắc Việt tạo được một lưới lửa phòng không suốt dọc phi trình vào thành phố anh hùng này. Trong ngày này, chúng tôi không tới được mục tiêu, trực thăng chở chúng tôi bị bắn như mưa cho khi tới đồn điền Xa Cam. Tại đây địch quân pháo kích hàng loạt vào bãi đáp, các phi công quyết định bay trở về. Trên cao độ hơn ngọn cây ở Xa Cam, chúng tôi nhìn thấy hàng trăm thương binh đang chờ đợi được di tản về Lai Khê, có những người nằm trên băng ca, có những người chạy tán loạn dưới những tiếng nổ chát chúa cát bụi mịt mờ của đạn pháo kích. Họ chạy theo hướng trực thăng đến như muốn bấu víu vào những hy vọng cuối cùng cửa sự sống. Chúng tôi cảm thông tình cảnh này vì chính mắt tôi trông thấy những thương binh ở Lai Khê, những người còn đi lại được, những vết thương đã có dòi và những ký sinh trùng ghê tởm này đã rơi vương vãi khi anh em từ trên phi cơ tản thương bước xuống. Ðợt trực thăng hôm đó, không có một thương binh nào về tới Lai Khê vì các phi công không thể hạ tầu giữa cơn mưa pháo kích của địch quân. Trên đường về, địch cũng bắn rát như khi chúng tôi tới, một trong các loạt đạn của địch đã khiến chiếc trực thăng chở chúng tôi không còn điều khiển được và viên phi công đã hạ khẩn cấp xuống một bãi trống giữa khu rừng rậm ở phía Nam đồn điền Xa Cam. Trong những khắc khoải kinh hoàng, một trực thăng gunship yểm trợ đã đáp xuống khu đất này để cứu sống tất cả chúng tôi gồm 4 nhân viên phi hành và 4 phóng viên chiến trường.
Ngày 01/05/72, trong một chuyến đi tương tự, điện ảnh viên Nguyễn Ngọc Bình đã giã từ ống kính khi trực thăng chở anh nổ tung vì đạn B40 của Cộng quân. Vào khoảng thời gian này, dày đặc trong các khu rừng cao su, Cộng quân bố trí các ổ đại bác phòng không bắn bằng radar, các hoả tiễn địa không phóng tay cũng như các ổ đại liên khạc đạn không ngừng. Bởi vậy, các phi công ta đã phải liều lĩnh bay sát trên đầu ngọn cây để vô hiệu hoá khả năng phòng không địch điều khiển bằng “mắt thần”, tuy nhiên khi bay thấp, phi cơ ta phải chấp nhận đạn súng nhỏ và ngay cả đạn chống chiến xa B40 của địch, bắn từ những tên Cộng quân bị cột người trên các ngọn cây.
Sau đây là bài tường thuật của một người đã có mặt tại vùng này :”Theo tôi biết thì Phòng 3 và Phòng 5 Bộ Tư Lệnh Quân Khu III trước 75 có những tấm hình này vì anh em trong Phòng 5 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh có chụp. Chẳng những lính xe tăng bị xiềng chân mà cả những tên đặc công bắn xẻ cũng bị xiềng chân trên những nhánh cây cao su vì, theo lời khai của các tên đặc công – đa số là người miền Nam – đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt thì nếu không bị xiềng chân, chẳng có bao nhiêu tên đặc công Việt Cộng dám ăn dầm nằm dề trên những nhánh cây cao su để theo dõi và bắn sẻ theo lệnh của bọn cán bộ Bắc Việt. Lính của Tiểu Ðoàn 33 thuộc Liên Ðoàn Dù của tôi đã bắn chết một tên đặc công Việt Cộng trên cây cao su. Hắn chết treo tòn teng, phải bắc thang lên hạ xác hắn xuống. Tui được gọi ra Tiểu Ðoàn Dù 33 trên Ðồi Gió chụp hình. Hồi đó, chụp xong rửa hình là giao cho Trưởng Phòng 5 (Chiến Tranh Chính Trị) hết. Ðâu có dè có ngày mình cần nó mà giữ lại vì … nhiều tấm hình mà tôi đã chụp được tại An Lộc nhìn qua rợn người.”
Sau chuyến đi thất bại ngày 29/04/72, chúng tôi vẫn trong tình trạng chờ đợi và tiếp tục một vài lần “phiêu lưu” nữa không phải bằng trực thăng nhưng bằng con đường máu mệnh danh bằng con đường xui xẻo 13 (quốc lộ 13). Ngày lại ngày, đoạn đường Lai Khê – Chơn Thành trở nên quen thuộc với chúng tôi, nhưng hết tuần lễ này đến tuần lễ khác chúng tôi không có cơ hội để vào An Lộc bằng đường bộ. Ðịa điểm xa nhất mà chúng tôi đạt tới chỉ là suối Tàu Ô, con suối tử thần đã cầm chân đoàn quân khai thông quốc lộ hơn hai tháng trời và vẫn còn tiếp tục cho tới sau ngày tôi vào được An Lộc và trở ra. Trên đoạn đường ngắn ngủi này, chúng tôi lại gánh chịu những kỷ niệm đau thương mới, khi theo chân đoàn chiến xa của Chi Ðoàn1/20 đi khai thông quốc lộ. Ðức Tài, biệt danh của ông Ðại Úy Chi Ðoàn Trưởng 1/20, không phài là xa lạ gì với các phóng viên chiến trường. Ðức Tài từng là anh hùng thiết giáp trên chiến truờng Kampuchia. Ngày 24 xuất trận lại Lai Khê, Ðức Tài đã ôn lại kỷ niệm cũ với nhóm phóng viên chiến trường và chính anh đã đãi chúng tôi bữa hủ tiếu sau cùng ở câu lạc bộ Sư Ðoàn 5. Sáng 24, Ðức Tài dẫn mấy chục “con cua sắt” đến Chơn Thành để từ đây anh tham gia mặt trận Bình Long. Gặp nhau tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Trung Ðoàn 32 ở phía Bắc Chơn Thành, Ðức Tài còn đưa hai ngón tay thành hình chữ V làm dấu hiệu chiến thắng khi leo lên chiếc M113 để dắt đoàn cua sắt M41 tiến vào tử địa. Hai người trong nhóm chúng tôi là Lê Thiệp và Dương Phục định leo lên xe Ðức Tài để đi cùng, nhưng không hiểu sao lúc đó tôi lại cản và nói :”Ði theo sau tiện hơn”.
Ðức Tài dẫn đoàn xe đi, chúng tôi dồn cục lên một chiếc xe Jeep theo sát chiếc M41 sau cùng. Ðoàn xe mới chạy chừng 5 phút, chúng tôi nghe những tiếng đạn pháo kích và tiếng súng liên thanh nổ rền. Mỹ voi, điện ảnh viên quân đội, lao vội chiếc xe xuống lề đường, la lớn :”Xuống hết đi tụi bay, đụng rồi”. Hai phút sau, khi chúng tôi chạy lên chỗ chiếc xe M41 đang nhả đạn 76 ly vào bìa rừng thì người trưởng xa leo lên pháo tháp la thất thanh :”Ðức Tài bị rồi, hoả tiễn 122 ly pháo trúng xe”.
Ðoàn chiến xa bị chặn lại tại đây và một phi tuần A1 tới thả bom hai bên bìa rừng. Chúng tôi trở về Trung Ðoàn 32 để nhìn mặt Ðức Tài lần cuối. Hai người lính khác cũng hy sinh với Ðức Tài. Cái chết ở mặt trận này đến thật mau lẹ, chỉ mấy phút sau khi làm dấu hiệu chiến thắng hình chữ V, Ðức Tài đã vĩnh viễn ra đi trong sự ngơ ngác bi thảm của cả đoàn quân vừa khởi sự tham gia mặt trận Bình Long không đầy nửa tiếng đồng hồ.
AN-LỘC-ĐỊA SỬ GHI CHIẾN-TÍCH
Sau bao nhiêu lần đi, bao nhiêu trắc trở, tôi vẫn định bụng là sẽ phải vào An Lộc để nhìn thấy tận mắt thị trấn anh hùng này, nhìn thấy tận mắt sự tàn phá khủng khiếp vô lý của chiến tranh. Ðể được thấy, chứ không phải nghe nói về sức chịu đựng và những biểu tượng về tinh thần chiến đấu vô biên của tất cả những người đã giữ vững An Lộc, cho dù thành phố này không còn là một thành phố nữa. Ngày 13/06 toán phóng viên lại lên đường. Ngoài tôi còn có Ðại Úy Nguyễn Văn Quý, Sĩ Quan Báo Chí Sư Ðoàn 5, Dương Phục, Ðài Tiếng Nói Quân Ðội, Anh Thuần của Báo Tiền Tuyến,Tam Phong Slao Quắn của Sư Ðoàn 5 và Hebert thuộc hệ thống truyền thanh truyền hình của Canada. Người phóng viên quốc tế này đã bị tử thương ngày 23/07/72 lúc theo dõi chiến trường Quảng Trị sau khi An Lộc được giải toả. Tất cả chúng tôi được ngồi chung tên một trực thăng UH trong đợt đổ quân của Tiểu Ðoàn 2/31 của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh tăng viện cho mặt trận An Lộc.
Vào khoảng thời gian này, phòng không địch không còn mạnh mẽ như những chuyến đi trước của chúng tôi vào 2 tháng 4 và 5. Các phi công ghi nhận là quân Cộng Sản Bắc Việt chỉ còn một ổ đại bác 57 ở phía Bắc Tân Khai và một số ít đại liên dọc theo các rừng cao su mà thôi. Ðoàn trực thăng 5 chiếc “lao” xuống Xa Cam lúc 11 giờ sáng và ngay khi chân vừa chạm đất chúng tôi bắt đầu nghe những tiếng xé gió và những tiếng nổ chát chúa, địch bắt đầu pháo kích theo như thói quen thường lệ, mỗi khi nghe tiếng động cơ trực thăng vọng về. Ðã có nhiều kinh nghiệm tại mặt trận này, tất cả chúng tôi, không ai bảo ai, chạy túa vào 2 bên rừng cao su và lao mình xuống những hố bom đạn cũ gần nhất. Ðịch ngưng pháo sau chừng 15 trái đạn, đây là các ụ súng của ta bị địch chiếm ở phía Ðồi Gió, trong những ngày đầu chiến trận. Dứt tiếng pháo, chúng tôi chạy theo hai ven rừng cao su; phía trước là những toán quân vừa được trực thăng vận tới, họ di hành theo đội hình hàng dọc, nhiệm vụ của họ là tới An Lộc và từ đó tăng cường các cánh quân tảo thanh địch quân ở vòng đai Tỉnh lỵ. Ðược chừng hơn 100 m, Ðại Úy Quý bắt đầu kiểm điểm “quân số” trong toán chúng tôi, thấy mất ông phó nháy Slao Quắn và phóng viên Tiếng Nói Quân Ðội Dương Phục. Chúng tôi quyết định tìm chỗ núp để chờ. Có lẽ Slao Quắn và Dương Phục chạy qua phía rừng bên kia khi Cộng quân pháo kích bãi đáp. Một lát sau họ bắt kịp chúng tôi tại tấm bảng xi măng “Plantation de XaCam”. Dương Phục thở hổn hển, đất đỏ Bình Long nhuộm mồ hôi tạo cho gương mặt hắn một màu kỳ dị. Hắn cho biết trong lúc chạy pháo kích, cái túi đeo của hắn văng mất và sức ép của tiếng nổ lẫn cánh quạt trực thăng đã làm những đồ vật trong túi bay như bươm bướm. Dương Phục mất hết các vật dụng riêng của hắn ngoại trừ tìm lại được xác cái máy cassette đã trở thành vô dụng. Ðoạn đường từ Xa Cam vào An Lộc chỉ hơn cây số nhưng tôi đã có cảm tưởng là đã vượt đoạn đường di hành dài mấy chục cây số.
Có lúc tôi định quẳng cái ba lô cho nhẹ và cũng để nhảy xuống hố tránh pháo dễ dàng. Tuy nhiên khi nghĩ tới mấy vật dụng cần thiết và mấy túi lương khô, tôi đã cố gắng đeo cái túi càng ngày càng nặng chĩu này để đi “bắt tay” tướng Hưng. An Lộc đã vào trong tầm mắt thì vừa lúc chúng tôi nhận ra một thương binh đang rên rỉ bên cạnh xác chiếc T54 cháy nám đã bắt đầu rỉ sét.. Máu nhuộm đỏ thân mình, người thương binh dơ cánh tay yếu ớt về phía chúng tôi rồi chỉ vào miệng anh, có lẽ anh đang trải qua cơn khát cháy cổ của những người bị thương mất máu. Cùng lúc này địch lại pháo mấy trái đạn, tiếng rít gió nghe lạnh mình, những tiếng nổ chát chúa, tiếng cành cao su gãy rào rào, trái đạn đã vào trong bờ rừng. Có tiếng ai gọi lớn :”Chạy mau đi, thoát khỏi chỗ này”. Tất cả chúng tôi cắm đầu chạy như bay về phía trước, nhiều xác T54 rải rác, một chiếc xe be vàng chói đầy vết đạn pháo kích nằm vắt ngang con dốc. Ðại Úy Quý quay lại nói: “Toàn vết pháo mới chạy mau đi”.. Người ta gọi cái dốc có chiếc xe be là khúc quanh tử thần, vì chỉ riêng tại nơi này hơn 200 thương binh và những người đã được phép di tản đã chết vì đạn pháo kích trên đường đón trực thăng ở bẵi đáp. Hình ảnh người thương binh vẫy tay xin nước ám ảnh tôi suốt hành trình vào An Lộc và có lẽ cả quãng đời còn lại sau này. Toán quân đi trước và cả toán chúng tôi đã không giúp gì được cho anh ta, dù muốn dù không đó cũng là điều “không nên, không phải”. Leo hết con dốc tử thần, là bắt đầu vào An Lộc, một tấm bảng xanh lỗ chỗ vết đạn với hàng chữ “Chiều bắt buộc cho xe dân sự vào châu thành”. Đầu đường là một bót gác vách đá lố nhố thương binh, lớp đang chờ giờ ra bãi đáp trực thăng, quần áo mọi ngưòi nhuộm một màu đỏ đặc biệt, đó là màu đất Bình Long.
Ðồng hồ chỉ 11 giờ 20, thế là chúng tôi chạy trong 20 phút từ bãi đáp Xa Cam vào An Lộc. Càng vào sâu, cảnh điêu tàn càng hiện rõ, trên con đướng chúng tôi đi không một thước vuông đất nào không ghi lại những vết tích của chiến tranh.Từ xa hướng về, không một ngôi nhà nào nguyên vẹn, những mái nhà sụp đổ, thân tường nghiêng ngả lỗ chỗ vết miểng, những cột đèn siêu vẹo, dây điện đứt tứ tung và điểm thể hiện duy nhất cho sự kiện An Lộc chiến đấu cô đơn chính là những cánh dù tiếp tế phủ đầy mặt lộ. Sừng sững giữa khung cảnh điêu tàn, một bức tượng chiến sĩ tiến lên đập ngay vào tầm mắt những ai tiến vào An Lộc. Thật là kỳ lạ, bức tượng này đã đứng vững trong hơn hai tháng trời An Lộc bị pháo kích tổng cộng gần 200,000 trái đạn. Tiểu khu ở phía tay mặt con đường, Ðại Úy Quý đã từng vào An Lộc trong những ngày chiến trận thảm khốc hồi tháng 5. Ông nói: “Các anh cứ đi theo tôi, coi chừng lạc”. Ði chừng hơn 100m, chúng tôi trông thấy một dinh thự hai tầng đã sụp đổ phần trên, đó là Toà Hành Chánh Bình Long, những hàng chữ bằng xi măng đúc không còn nguyên vẹn. Mùi xú uế nồng nặc đến lượm giọng. Một thứ mùi đặc biệt của thịt người và thú vật đã sình thối. Bộ Chỉ Huy của Tướng Hưng nằm phía sau Toà Hành Chánh. Những dẫy nhà mất mái, đổ tường, hầm của Tướng Hưng ở phía dưới một trong những căn nhà này. Chúng tôi bước vào một lối đi nhỏ hẹp, đó là đường dẫn xuống trung tâm hành quân của Tướng tử thủ Lê Văn Hưng, Tư Lệnh mặt trận Bình Long. Cái hầm tù mù, một ngọn đèn duy nhất chừng 45 nến chỉ mang lại một chút ánh sáng vàng vọt, không đọc nổi một bức thư.
Sau này, chúng tôi được biết Tướng Hưng chuẩn bị cho những ngày phong toả kéo dài, ông có 3 máy điện riêng nhưng nhất quyết chỉ sử dụng một máy, công xuất của máy này chỉ đủ dùng cho hệ thống siêu tần số và các máy liên lạc, còn thừa lại là ánh đèn khô héo trong hầm chỉ huy. Tướng Hưng tự hạn chế mọi tiện nghi riêng để dành cho sự sống còn của Bình Long. Nếu không còn mạch điện cung cấp cho hệ thống liên lạc thì An Lộc sẽ thất thủ ngay tức khắc. Ngoài căn hầm nhỏ dành riêng cho ông và nơi này chỉ được thắp sáng khi cần, bằng pin Magnesium với bóng đèn xe đạp. Tướng Hưng chỉ sử dụng một máy phát điện, 2 máy còn lại phải phòng hờ trường hợp đạn pháo kích làm hư hại. Hơn nữa, mức dự trữ nhiên liệu luôn luôn chỉ đủ thời gian một tuần lễ. Theo lời yêu cầu của Tướng Hưng, Quân Ðoàn có cho thả dù các phuy xăng nhưng trong 10 thùng khi chạm đất đã phát nổ đến 9. Có những ngày Tướng Hưng phải ra lệnh đi mót xăng từ các xác xe cộ nằm rải rác trong thành phố. Nhiều người đã chết trong công tác bề ngoài rất tầm thường này, nhưng thực ra chính là sự hy sinh đầy ý nghĩa cho sự đứng vững của An Lộc trong suốt hơn hai tháng trời khói lửa.
Trong “TOC” (Trung Tâm Hành Quân) tù mù, Ðại Úy Quý trình diện “Xếp” và giới thiệu từng người trong bọn tôi. Tướng Hưng mặc áo thung xanh và có nụ cười hiền từ, ông bắt tay mọi người và khất đến sau phiên họp hành quân sẽ để chúng tôi phỏng vấn. Căn hầm của Tướng Hưng rất hẹp so với số người chen chúc làm việc trong đó, kích thước chỉ chừng 4×10 m, tất cả bộ tham mưu của ông làm việc dưới này và không một ai có quân phục đàng hoàng, không áo thun thì cũng mình trần.
Vào buổi chiều, Tướng Hưng ra khỏi hầm để anh em chúng tôi thực hiện một “show” dã chiến. Chúng tôi nhận rõ khuôn mặt gầy gò rất có nét của ông. Ðiểm đặc biệt là làn da ông trắng xanh sau hơn hai tháng là việc dưới hầm, tránh các trận địa pháo kinh hoàng của Cộng quân mà có lúc đã lên tới khoảng 7,500 trái trong một ngày. Trong cuộc phỏng vấn, Tướng Hưng thay vì nói về mình đã chỉ đặc biệt đề cao tinh thần chiến đấu của tất cả các binh sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi đát của cả chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Tướng Hưng ca ngợi tất cả các lực lượng chiến đấu không riêng gì Sư Ðoàn 5, lực lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân dưới sự điểu khiển của Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Tiểu Khu Trưởng Bình Long, anh em Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù dưới quyền Ðại Tá Lê Quang Lưỡng, các chiến hữu Liên Ðoàn Biệt Cách Dù thuộc quyền Trung Tá Huấn (sau này là Ðại Tá), anh em Biệt Ðộng Quân và một số tăng phái thuộc các Sư Ðoàn 21, 9 và 18.
Sau cuộc phỏng vấn, Ðại Úy Quý đi lãnh mấy chục túi gạo sấy và thịt “menu à la carte” của An Lộc. Cùng lúc này, chúng tôi gặp lại tất cả các anh em phóng viên chiến trường đi lẻ tẻ vào An Lộc. Nhóm này gồm có Cầu, Mỹ Voi, Hoàng và Lộc thuộc điện ảnh truyền hình quân đội. Hoàng bị thương “sứt mũi” nên ngay chiều 13/06/72 đã theo một trực thăng tản thương về Lai Khê. Ðỗ Văn Mỹ tục danh Mỹ Voi vì anh to và khỏe như voi. Mỹ Voi được tất cả anh em quý mến vì hắn luôn luôn coi trọng bạn bè hơn bản thân. Hắn thường xuyên lo lắng cho anh em từ chiếc chiếu ngủ đến cả bữa ăn cơm gạo sấy thịt hộp. Trong chuyến “phiêu lưu” vào An Lộc, Mỹ Voi gặp nhiều may mắn đã tìm được thi hài đồng nghiệp Nguyễn Ngọc Bình, tự tay hốt cốt bạn gửi về Sài Gòn. Ðiện ảnh viên Nguyễn Ngọc Bình bị nổ phi cơ hôm 01/05 trên đường vào An Lộc, 11 người trên chiếc trực thăng này đều thiệt mạng.
Ngày 11/06, Mỹ Voi theo chân Trung Ðoàn 15 hành quân trực thăng vận vùng Tân Khai và từ đó anh đi bộ 15 km đường rừng để vào An Lộc. Trên đường hành quân, Mỹ Voi bắt gặp xác chiếc trực thăng bị bắn hạ và di thể 11 người trên phi cơ, hắn nhìn được xác Nguyễn Ngọc Binh đã rữa nát nhờ chiếc máy quay phim và các “reel” phim trên ngực. Tất cả 11 di thể những người chết không một ai còn thẻ bài và Mỹ Voi tin chắc là đã tìm được xác của Bình nhờ một mớ tóc bạc trên xương sọ. Mỹ Voi đã xin hai thùng đạn “moọc chê” để hốt cốt Bình và năn nỉ Trung Tá Trung Ðoàn Trường 15 giúp gởi trực thăng tản thương về Sài Gòn. Sau này khi nhận cốt chồng, quả phụ Nguyễn Ngọc Bình xác nhận đó là những phần còn lại của Bình nhờ một vết riêng ở răng của anh.
Nếp Sống Tử Thủ kéo dài với những tháng ngày phong toả, chiến binh tử thủ An Lộc và số đồng bào còn kẹt trong vùng lửa đạn nhiều khi đã chia sẻ nhau tất cả những gì có để ăn, để mà tiếp tục sống. Một túi cơm sấy cũng phải chia làm nhiều phần để cùng nhau tiếp tục … chờ pháo kích và chiến đấu. Có những khoảng thời gian người “tử thủ” trông mong những cánh dù tiếp tế như những chứng tích duy nhất cho sự liên lạc giữa hậu phương và mặt trận. “Hàng” đến, có khi là một bao gạo, 1 con heo quay, 1 thùng thuốc lá, mấy chục ký bánh mì hay có khi là những thùng đạn khẩn thiết cho sự đứng vững của thị trấn này. Thực phẩm tươi và rau cỏ hầu như không được tìm thấy tại An Lộc trong suốt hai tháng trời tử thủ ban đầu. Lúc đầu người ta còn chia sẻ với nhau một số thịt tươi của một vài trại gà, mấy con bò bị đạn pháo kích chết. Nhưng tất cả nguồn cung cấp này chỉ có thể kéo dài trong 2 tuần lễ là nhiều. Những ruộng rau muống ở một vài khu vực trong thành phố khô cằn vì các cơn nắng cháy Bình Long, mùa mưa khởi sự vào đầu tháng 5 đem đến một chút sinh khí cho thành phố này trong những ngày tử thủ thứ 40 trở đi. Nước mưa làm rau muống đâm chồi trên các vũng lầy ở quanh thành phố. Nhưng rau muống cũng là một trong các đầu mối bắt nguồn cho sự bi thảm.
Ở An Lộc chết có đủ kiểu, đủ cách và tử thần rình rập ở mọi khoảng không gian lẫn thời gian. Có những người đã chết khi đi hái rau, người ta đã hái rau từ những ao đầy xác người chết vì chiến trận. Xác quân Cộng Sản Bắc Việt tùng thiết (bộ binh theo bảo vệ chiến xa), xác thường dân chết vì pháo kích và xác chiến binh Việt Nam Cộng Hoà tử thủ đã ngã gục cho sự đứng vững của An Lộc. Ao rau muống Ấp Thánh Mẫu là một điển hình. Rau mọc kín tới bờ ao, lẫn lộn với xác chết đã sình thối, cũng chỉ đủ cung cấp cho binh sĩ trong vài ngày là đã cạn nguồn.
Ðêm 13/06/72, chúng tôi ngủ nhờ hầm Tướng Hưng. Ðây là một căn hầm khác có lối đi thông qua hầm trung tâm hành quân. Tướng Hưng ít khi nào ngủ tại hầm riêng. Ông hầu như làm việc 20 giờ một ngày với các bản đồ hành quân và một dọc máy truyền tin chằng chịt. Ông “lên máy” hầu như vào mọi lúc. Ông liên lạc với từ cấp Trung Ðội Trưởng trở lên để biết rõ tình hình và từng vị trí một, nhất là những khi có chiến xa Cộng Sản Bắc Việt xuất hiện trong thành phố. Ðôi lúc ông Tướng này thiếp đi ngay trên bàn làm việc, nếu không, ghế bố tại TOC sẽ là nơi ông chợp mắt trong khoảng vài tiếng đồng hồ một ngày. Cả một ngày mệt mỏi với những giây phút căng thẳng chạy đua với thần chết, đêm xuống tất cả chúng tôi ngủ mê man bỏ quên mọi chuyện, quên những tiếng đạn nổ từng chập và đàn muỗi vo ve như sáo thổi dưới căn hầm hoả lò.
Ðã từng nghe nói trước khi vào An Lộc, thức giấc lúc 7 gìờ sáng, chúng tôi hỏi Ðại Úy Quý: “Ở đây không có đánh răng, rửa mặt gì hết, phải không ?” Ông trả lời một cách ỡm ờ: “Chắc vậy”. Ấy thế mà 2 ông Dương Phục, Anh Thuần vẫn xin đâu được một ca nước nhỏ thường chì chưa đủ cho một người súc miệng, 3 chúng tôi rửa mặt chung bằng số lượng nước quý giá này.
Mấy người lính tử thủ nói vói chúng tôi: “Bây giờ là thần tiên rồi. Hồi tháng 4, tháng 5 nước uống kiếm không ra, nói chi cái công tác vệ sinh xa xỉ”. Nguồn cung cấp nước ở An Lộc là mấy cái giếng ở khu phố chợ và con suối ở ngoại ô thành phố. Lính tử thủ hàng ngày xách các can xăng đi tìm nước cho mình và cho đồng đội. Có lần một sĩ quan tham mưu của Tướng Hưng chết trong khi đi tìm đường tắm suối, Tướng Hưng đã “cạo” cho mấy ông sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh suốt ngày: “Ai cho mấy ông đi tắm, không tắm đâu có chết, mấy chục ngày rồi tôi có tắm lần nào đâu, đâu có sao”. 14/06/72, một ngày tử thủ mới lại bắt đầu. .Sự yên lặng kỳ lạ của một thành phố chết vây kín khoảng không gian nhỏ bé đã khiến cả vạn con người uổng tử. Sự yên tĩnh thê lương không kéo dài lâu, Chúng tôi đang đứng ở phòng khách trống mái của Tướng Hưng, mấy người lính đang “chế” cơm chiên Dương Châu bằng gạo sấy và thịt hộp. Những tiếng xé gió vụt ngang và những tiếng nổ ầm ầm liên tiếp. Không còn ai ở ngoài, trong khoảng khắc mọi người biến hết vào trong các hầm chìm hầm nổi. Dứt một loạt tiếng nổ, chúng tôi theo chân mấy anh em Sư Ðoàn 5 ra khỏi hầm. Họ cười nói huyên thuyên chẳng màng gì tới đợt pháo vừa nổ, có lẽ sự chịu đựng lâu ngày tạo cho họ thêm nhiều thói quen mới. Tôi hỏi người lính đang luôn tay đảo cơm trong cái chảo gang: “ – 82 hay 107 ? – Hoả tiễn đấy. Trúng hầm thì cũng tiêu luôn. Tụi nó có thứ đầu đạn xuyên hầm nổ chậm, ngoài sân nhiều lỗ lắm, lúc nào ra coi”. Người lính trả lời nhưng mắt vẫn không rời chảo cơm thơm phức.
Câu chuyện chưa dứt, Ðại Úy Quý xuất hiện với nón sắt áo giáp nhưng cởi trần, 2 tay ông truyền nhau một vật gì trông không rõ. Ông nói :” Miểng văng tới tận đây còn nóng hổi, các anh coi”. Sau đợt pháo chào buổi sáng của quân Cộng Sản Bắc Việt, chúng tôi sửa soạn xuống phố chợ để thăm 2 đơn vị anh hùng trung đoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù. Quý dặn dò: “Áo giáp nón sắt, ba lô để lại để chạy pháo cho lẹ”. Anh em chúng tôi băng qua mấy dẫy nhà đổ nát, bắt đầu vào con đường đất đỏ Hàm Nghi, đã trông thấy khu phố chợ, cũng vẫn là một cảnh hoang tàn đổ nát. Y viện An Lộc đây rồi, không ai còn có thể nhận ra nơi đây đã từng là môt bệnh viện nếu không có tấm bảng lỗ chỗ vết đạn treo lủng lẳng từ trên một đầu trụ xi măng có hàng chữ “Phòng nhận bệnh” …
Anh em tử thủ kể lại cho chúng tôi rằng trong những ngày máu lửa của Bình Long có đến 600 người đã chết tại bệnh viện này, kể cả thương binh, đồng bào bị thương đang được chữa trị cũng như những người lánh nạn tìm sự an toàn ở dấu hiệu quốc tế Hồng Thập Tự. Cộng quân pháo kích dã man vào khu nhà thờ và nhà thương với mục đích rõ rệt, giết hại thật nhiều người để An Lộc hỗn loạn, binh sĩ mất tinh thần hầu chúng có thể dứt điểm An Lộc một cách mau chóng. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 Bộ Binh đặt tại một trong các cao ốc đang xây dở trên đại lộ Hoàng Hôn hay đường Trần Hưng Ðạo cũng vậy, chúng tôi đến thăm nơi này giữa lúc Ðại Tá Mạch Văn Trường đang gắn lon Ðại Úy đặc cách mặt trận cho Trung Úy Ðào Lâm Tòng, một Ðại Ðội Trưởng xuất sắc của Tiểu Ðoàn 3/8. Trung Úy Tòng sáng 14/06/72 đã giải toả đồi 100 phía Ðông Bắc An Lộc và cắm hiệu kỳ Tiểu Ðoàn 3/8 trên đồi này. Ngày 13/06/72, Biệt Cách Dù giải toả đồi Ðồng Long ở vòng đai Bắc An Lộc và lá Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà phất phới tung bay trong nắng sớm sau 68 ngày Cộng quân chiếm cứ cao diểm 148 m này. Cũng vào ngày 13/06 các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân gan dạ đã giải toả sân bay L.19 ở Tây Bắc An Lộc. Những chiến tích này khiến cho tất cả địch quân bị đẩy lui ra xa thành phố An Lộc và là một khởi điểm vàng son cho sự đứng vững của thành phố này.
Ðại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh (sau này là Tư lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh) và Thiếu Tá Hoàng Trung Liêm, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 52 Pháo Binh đã tiếp đón chúng tôi thật ân cần. Họ xúc động vì sự có mặt của chúng tôi tại An Lộc. Ðại Tá Trường và Thiếu Tá Liêm hướng dẫn chúng tôi đi quanh khu vực Bộ chỉ Huy Trung Ðoàn, từ 4 con đường rải rác chung quanh 15 chiếc T54 và PT 76, cái thì đứt xích, lật nghiêng, cái thì văng cả pháo tháp nằm ngang ngửa trên mặt lộ. Duy có một điểm giống nhau, tất cả đều cùng nám đen và bắt đầy hoen rỉ. Lâu ngày chưa có ai để tâm sự, Ðại Tá Trường miên man kể chuyện chiến trận cam go từ khi Trung Ðoàn được trực thăng vận vào An Lộc ngày 11/04/72 và chịu đựng 4 trận tấn công biển người với chiến xa yểm trợ. Ðại Tá Trường “thú thật” cả đời đánh giặc chưa khi nào dự trận nào khủng khiếp như trận này và đây cũng là lần đầu tiên phải đương đầu với chiến xa địch.
Trung Ðoàn từ Trị Tâm lên An Lộc ngày 11/04/1972 nhận chuyên trách nhiệm phía Bắc An Lộc, lo luôn “tổng tiền đồn” cho Sư Ðoàn 5. Không đầy 48 giờ sau, quân Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn công biển người đầu tiên vào An Lộc với từng đoàn chiến xa tiến nhanh như vũ bão vào thành phố. Trước cuộc tấn công đầu, địch bắt đầu “pháo tập” (trận địa pháo) vào thành phố từ 07/04/72 và kéo dài liên miên trong những ngày sau đó. Trận đánh ngày 13/04, lần đầu tiên chạm chiến xa địch và đương đầu với quân số đông đảo của địch quân, binh sĩ mất tinh thần thấy rõ. 20 phút sau đứt liên lạc với Bộ Chỉ Huy là xe tăng Bắc Việt xuất hiện. Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân chịu không nổi cũng rút luôn vào thành phố. Tất cả mọi người chiến đấu đều được ra tuyến, M72 được sử dụng tối đa, cối 81 chặn từng thước vuông một trên đường tiến quân địch, tùng thiết địch bỏ chạy, bộ binh Bắc Việt phía sau không tiến lên được, xe tăng Bắc Việt chỉ còn cách đậy nắp tiến một mình và làm bia nhắm cho M72 huỷ diệt. Trận tấn công đầu thất bại, địch lui binh và tiếp tục trận địa pháo vào thành phố. Ðại Tá Trường, xuất thân khóa 12 Võ Bị Ðà Lạt, tốt nghiệp tham mưu cao cấp, bởi vậy ông rất tôn trọng nguyên tắc chỉ huy tham mưu khi cầm quân. Sau trận đánh 13/04, lính chết và bị thương được đưa lui về phía sau để Ðại Ðội 52 Quân Y đảm trách và khỏi làm xuống tinh thần binh sĩ. Tuy vậy, ông cho biết là sau trận tấn công thứ hai ngày 15/04, ông không áp dụng “cẩm nang” này nữa, An Lộc chỗ nào cũng bị pháo, người đưa về quân y cũng không săn sóc được có khi lại gia tăng tổn thất khi di chuyển. Bởi vậy ông ra lệnh đơn vị nào lo cho đơn vị ấy băng bó lấy và chôn cất tại chỗ. Qua trận 13/04/72, cấp chỉ huy cũng như binh lính có thêm kinh nghiệm đánh chiến xa và không còn “khớp” như trước. Ðại Tá Trường và các sĩ quan của ông thấy rõ là sẽ diệt được hết chiến xa địch nếu phân tán được chiến xa và bộ binh địch, cứ mỗi đại đội bộ binh thì có 4 chiến xa địch đi kèm. Làm tan rã bộ binh, xe tăng địch sẽ dễ dàng bị huỷ diệt. Bởi thế, ông pháo binh “nhà nghề” Hoàng Trung Liêm được giao phó dọn một bãi pháo binh trên con đường địch sẽ đi qua để vào tuyến Trung Ðoàn 8. Sau nhiều giờ nghiên cứu, Thiếu Tá Liêm chọn chỗ, tập trung hoả lực súng cối và chờ đợi. Ngày 15/04/72, Cộng Sản Bắc Việt lại tiến vào An Lộc như lần trước với bộ binh và chiến xa, không may mắn cho họ là đã đi vào đúng “bãi pháo”, bộ binh địch chạy tán loạn và chiến xa không còn ai “tùng thiết”.
Xe tăng địch lại làm nước liều đậy nắp tiến lừng lững vào trung tâm thành phố, binh sĩ Việt Nam Cộng Hoà từ dưới hố nhảy lên phóng M72 từ sau đít xe tăng và biến cả khối thép khỗng lồ thành những con “cua rang muối”. Cũng từ trận này, một số binh sĩ được Ðại Tá Trường cho sử dụng súng chống chiến xa B40, B41 tịch thu được của quân Bắc Việt, chỉ cần một phát là chiến xa địch cháy phừng phừng, lính Cộng Sản Bắc Việt nhảy từ trong xe ra, da thịt cháy vàng như bị thui. Ðại Tá Trường nói tiếp: “Nếu bộ binh và chiến xa của tụi nó phối hợp được với nhau, An Lộc này chắc chắn đã thất thủ. Tại mặt trận này chúng tôi không có một xe tăng nào cả, chỉ có lèo tèo vài chiếc commando-car V100, nội pháo kích không cũng bị hư hại.” Ðại Tá Trường cũng ca ngợi Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, cánh quân trấn giữ mặt Nam An Lộc, nhất là cú “bắt tay” thần sầu của Tiểu Ðoàn 6 và 8 Dù ngày 08/06. Ðại Tá Trường tâm sự :”Ðại Tá Lưỡng, Lữ Ðoàn Trưởng Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, tấn mặt Nam, tôi mặt Bắc, môi hở thì răng lạnh, hôm tôi bị thương ông Lưỡng tới thăm và nói lúc này bị thương thì chết rồi. Tôi kể chuyện bị địch đánh rát quá, ông Lưỡng khuyên tôi nên biến chế mìn để chặn đường chiến xa địch. Nghe lời ông Lưỡng, tôi cho chế cứ 2 đầu đạn 155 ly với ngòi nổ thành một quả mìn, mấy đợt tấn công sau này xe tăng Cộng Sản Bắc Việt bị lủng luờn hết vì mìn biến chế này”.
Rời Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, chúng tôi xuống một con dốc, chợ An Lộc ở dưới kia, đạn pháo kích đã làm nhà lồng chợ trơ trọi những khung sắt cháy nám, cả một vùng chung quanh chợ chỉ còn những đống gạch đổ nát. Trung Ðoàn 8 Bộ Binh và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù đóng cách nhau có một con đường nhỏ. Từ trên một vọng gác của Trung Ðoàn 8, chúng tôi trông thấy những ngôi mộ mới được sắp xếp có hàng lối ở bên cạnh ngôi chợ hiu quạnh và tan tành của An Lộc, đó là nghĩa trang Biệt Cách. Ðịch vẫn chưa ngưng tiếng pháo, tuy vậy mấy người lính mũ xanh vẫn tiếp tục đi lượm gạch và xây vòng rào chung quanh nghĩa trang dành riêng cho anh em họ. Những nguời khác lúi húi dựng một đài kỷ niệm trước lối vào nghĩa trang. Giữa không khí kỳ quặc của thành phố chết, giữa những tiếng pháo nổ chát chúa, những hình ảnh chan chứa tình người này làm cho chúng tôi xúc động, và chúng tôi đã có mặt ở nghĩa trang Biệt Cách. Ðài kỷ niệm cao hơn đầu người và có khắc hai câu thơ mà sau này chúng tôi được biết là của một người con gái Bình Long đặt ra đề tặng các anh hùng Biệt Cách :”An Lộc địa, sử ghi chiến tích – Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân”. Người thiếu nữ đó là Pha. Cô chẳng còn ai thân thích sau những ngày máu lửa ở An Lộc. Chính Pha cũng bị miểng đạn đại bác ghim vào chân. Các chiến sĩ Biệt Cách Dù đã tìm thấy cô và đưa về cho Bác Sĩ chữa trị ở khu phố chợ. Những buổi chiều im tiếng pháo, Pha đòi các anh em Biệt Cách Dù khiêng ra ngoài hè để nhìn cảnh Bình Long đổ nát. Những buổi chiều tiếp nối…, đến một hôm Pha bật khóc khi nghe mấy người lính mũ xanh kể tên các chiến hữu trên mộ bia ở nghĩa trang Biệt Cách. Tưởng rằng các dòng nước mắt đã khô cạn sau những ngày ròng rã bị “pháo tập” của Cộng Sản Bắc Việt, nhưng chính chiều hôm đó cô đã bật khóc và cảm đề hai câu thơ trên chứa đựng biết bao đau thương tại An Lộc.
Trong trận chiến tháng 04 năm 1972, sự thất bại về quân sự của Cộng Sản Bắc Việt chắc hẳn không làm Hà Nội điên dầu cho bằng sự kiện quân “giải phóng” đi tới đâu là đồng bào ùn ùn bỏ chạy tới đó. Ghê tởm bằng kinh nghiệm của Tết Mậu Thân năm 1968 với cả ngàn thường dân bị chôn sống tại Huế, đồng bào Bình Long chạy tháo thân từ Lộc Ninh về An Lộc. Mọi người vượt lửa đạn bỏ hết tài sản, của cải tiến vào trong cõi chết để tìm sự sống, tình quân dân thắm thíết được tìm thấy ở An Lộc, không phải chỉ là sáo ngữ nhưng là sự thật. Ðồng bào nuôi chiến sĩ, chiến sĩ nuôi đồng bào. Tướng Hưng thì diễn tả rõ hơn: “Lúc thì chiến sĩ đi chôn đồng bào, lúc thì đồng bào đi chôn chiến sĩ”. Có một số người lưu lại An Lộc cho đến những giai đoạn sau cùng của cuộc chiến, có những người không chịu nổi những trận “pháo tập” kinh hoàng đã bồng bế dắt díu nhau hướng về phương Nam, vô số người bỏ mạng dọc hành lang máu từ An Lộc về Tân Khai qua Suối Tàu Ô tới Chơn Thành. Cộng Sản Bắc Vệt cố công ngăn chặn đám dân chạy loạn này hầu bắt lính bổ sung các đơn vị kiệt quệ của chúng và đồng thời lưu giữ đàn bà trẻ em vì chúng biết chắc chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà không khi nào dám xả súng bắn vào đám thường dân ruột thịt dù trong đó có lẫn lộn các đơn vị chính quy Cộng Sản Bắc Việt. Có những ngày khoảng 3,000 người chạy qua Tàu Ô về tới Chơn Thành chỉ còn lại 500. Thảm kịch không ngôn ngữ nào diễn tả được, không gia đình nào toàn vẹn khi vượt qua lưới đạn ác nghiệt của Cộng Sản Bắc Việt để về vùng quốc gia. Chuyến đi vĩ đại nhất diễn ra vào ngày 12/06/72. Khoảng 12,000 đồng bào từ An Lộc tiến về hướng Nam qua Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch đến Tân Khai. Cộng quân đã chận bắn xối xã vào họ và có chừng 2,000 người đã bỏ mạng. Tuy vậy hàng ngàn người còn lại đã tìm thấy ánh sáng của tự do ở Chơn Thành.. Chính quyền địa phương cũng như đồng bào đều hiểu rõ những nguy hiểm chờ sẵn trên “hành lang máu” đó, nhưng biết làm cách nào khác. Khi An Lộc không còn đủ thuốc men, lương thực, và quân Cộng Sản Bắc Việt vẫn có thể mở các trận đánh mới gây tổn thất thảm khốc cho số thường dân đông đảo này. Trong số hơn trăm đồng bào lưu lại An Lộc cho đến hoàng hôn của cuộc chiến, bà Ngô Văn Xuyến, nhủ danh Văn Thị Ngôn, đã trở thành người nổi tiếng khi những cảm xúc Chơn Thành của bà được phát thanh trên hệ thống truyền thanh quốc gia ngay trong những ngày An Lộc còn bị phong toả. Tổng Thống Thiệu, trong chuyến viếng thăm An Lộc ngày 07/07/72 cũng đã tìm gặp bà để bày tỏ sự cảm phục của ông. Bà Ngôn đã diễn tả sự đùm bọc giữa lính và dân một cách mộc mạc, nhưng lại làm se sắt lòng người hơn bất cứ một bài văn nào diễn tả những tình cảnh ở An Lộc. Ở An Lộc chắc chắn có đến muôn ngàn câu chuyện bi thương, những gương chiến đấu bền bỉ, sự chịu đựng đến tận cùng sức chịu đựng của con người. Người viết dù đã thực hiện được mộng ước lớn nhất trong đời phóng viên chiến trường là vào An Lộc để tỏ sự kính phục với tất cả những người đã giữ vững thành phố này, nhưng có lẽ đã chỉ nhìn An Lộc dưới một góc cạnh đầy khiếm khuyết. Tuy vậy, điều chắc chắn và rõ ràng vẫn là An Lộc Anh Hùng – Bình Long Anh Dũng …
Phan Nhật Nam và Jennifer Nguyễn
SOURCE:
https://baovecovang2012.wordpress.com
No comments:
Post a Comment