Link: Phần 1/10
https://mauaotran.blogspot.com/2022/04/nhat-ky-hoang-khoi-phong-ngay-n-phan-110.html
Phần 2
Ngày N + 2, 7 giờ 30 chiều
Một toán Biệt kích của trung tá Lê Minh cải trang quân phục Việt cộng, dép râu,
súng AK xuất phát từ phía trước mặt. Tôi nghe nhiều tin đồn xấu về những lính
giả Việt cộng cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ. Cầu mong có Lê Minh ở đây.
Anh ta là bạn cùng khóa cùng trung đội với tôi hồi còn là sinh viên sĩ quan.
Trung tá ba mươi tuổi, đem xương máu của anh để đổi lấy những huy chương và
những bóng mai trên cổ áo.
Ngày N + 3, 5 giờ sáng
Đoàn xe khởi hành thật sớm. Trời tối mịt. Đêm qua tôi ngủ thật ngon, cả ngày
kinh hoàng vậy mà đêm tôi có những giấc mơ thật đẹp. Tôi thấy trẻ lại mười năm,
bước vào lớp học. Những em nhỏ áo quần sạch sẽ đứng dậy chào, rồi lớp học bắt
đầu trong những tiếng hoan ca. Phải chi tôi trẻ lại thật sự.
Chúng tôi vẫn ì ạch tiến tới, một binh sĩ cho biết tin tệ hại, đã xảy ra từ hai
ngày trước. Binh sĩ này có mấy người bạn ở thiết giáp thoát chết trong trận
phục kích phía sau đoàn xe, và đã phải chạy thục mạng mới bắt kịp đoàn xe. Trận
đánh diễn ra khoảng giữa đường Phú Bổn và Phú Túc, ngay tại khu rừng đẹp với
những thân cây khô. Thiết giáp đoạn hậu cho cuộc triệt thoái tệ lậu này. Theo
lời mấy binh sĩ thoát chết kể lại, Đại tá Lữ đoàn trưởng đi cùng đơn vị, khoảng
một trung đoàn địch bôn tập từ quốc lộ 19 sang, không bắt kịp đoạn đầu của đoàn
di tản đã chặn đánh khúc sau. Vị trí thuận lợi cho cuộc phục kích, địa thế chật
hẹp, chiến xa không thể xoay trở được, một số nhỏ chạy thoát kịp theo đoàn di
tản phần lớn là M113, hầu hết những chiến xa nặng kẹt lại. Đại tá Lữ đoàn
trưởng tự sát. Thêm vào đó hai tiểu đoàn Địa phương quân người Thượng cũng nổi
loạn, chiếm tỉnh Phú Bổn, truy kích phía sau của đoàn tị nạn, nhiều dân chết,
phía cuối đoàn xe bây giờ là địa ngục.
Tôi còn biết thêm một tin tệ hại không kém, cái tin kia đã dừng lại từ hai ngày
trước, đã bị bỏ lại đằng sau. Tin tôi mới biết sẽ mang sự tệ hại đến cuối con
đường. Tin cho biết là một số Biệt động quân thất trận khi giải vây Ban Mê
Thuột, cùng với hậu cứ của các tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng đã bắt kịp
đoàn người. Bây giờ họ là những ông vua con của từng đoạn đường. Họ nổ súng bừa
bãi, cướp giật giữa ban ngày, họ tước đoạt bình thản bằng mũi súng của họ,
không chừa một ai, già, trẻ, lớn, bé. Họ không chê một thứ gì từ đồng hồ, nhẫn,
giây chuyền, tiền bạc, thậm chí họ còn tước cả những đôi giầy còn tốt của người
khác đang đi, họ cướp ăn, họ giật uống.
Tôi biết chắc chỉ có một vài Biệt động quân làm ẩu. Nhưng bọn đào binh, bọn
quân phạm, bọn vô lại của tất cả các đơn vị đã cố kiếm cho được những bộ áo
ngụy trang của binh chủng này. Trời dần sáng, chúng tôi bắt gặp một dòng suối
cạn, đường thật hẹp chỉ một xe có thể qua, bờ bên này thoai thoải, bờ bên kia
dốc thật gắt lại có thêm một khúc quẹo ngặt nghèo. Xe qua từng chiếc, phải đợi
cho chiếc này lên hết dốc chiếc khác mới có thể tiến lên. Một quân xa chở nặng,
hư số phụ, tuột dốc lưng chừng đồi, rất may xe không có người và anh tài xế
nhảy ra kịp, chiếc xe lật nhiều vòng. Cây cối ngã rạp, đồ đạc văng tứ tung, sau
cùng nó nằm ngửa bốn bánh lên trời, một phần xe choán ngay lối lên dốc. Cần
phải tránh một tai nạn tương tự, nếu không tất cả đoàn xe sẽ kẹt cứng.
Tôi không rõ ai ra lệnh, một vài quân cảnh tiến ra điều hòa lưu thông, họ hoạt
động ở hai đầu dốc. Thượng sĩ Hạp, một nhân viên quân cảnh của trại giam Pleiku
điều hành ở dốc cao, anh chận lại những xe có cần trục, để có thể kéo những xe
khác không đủ sức leo, hễ có một chiếc xe cần trục khác tới thì chiếc trước
được đi.
Một người lính biệt động quân ngồi nhờ trên xe trục công binh cho là đã bi Hạp
xử ức, nên khi có xe khác thay thế gã đã nổ súng bắn Hạp. Anh chết tức khắc.
Bây giờ súc mạnh trong tay không phải là những người cầm súng. Ở đây có quá
nhiều súng. Lẽ phải ở trong tay những kẻ dám giết người.
Ngày N + 3, 4 giờ chiều
Bây giờ chúng tôi lết từng chặng, từng chặng. Địa thế ngày càng tệ hại, nhiều
lúc đoàn xe phải băng ngang cánh rừng chồi, vòng qua những khu vực lầy lội,
tránh những tảng đá to, vượt qua những khe suối nhỏ. Hôm nay lác đác đã có
những người đi bộ, chắc hẳn đã có nhiều xe cộ bỏ lại dọc đường. Hôm nay mặt
trời thật gắt. Mấy đứa trẻ sau xe tôi đã phơi nắng vài ngày, da chúng đỏ như
những con tôm luộc. Nhiều đứa sọp hẳn đi, chúng khóc bây giờ không còn ra
tiếng, toàn thân rung lên, bờ môi tái ngắt. Có đứa như kiệt lực. Mấy tấm vải
căng tạm đã không đủ che cái nắng quái ác này, càng không đủ với khí lạnh ban
đêm. Tôi nhường ca bin xe cho hai em tương đối yếu nhất. Cũng không giải quyết
được gì, các em đòi mẹ xem chừng còn khóc to hơn. Tôi quay về chỗ cũ, một em
bậy ra xe, người tài xế cằn nhằn.
Trời chạng vạng tối, đoàn xe phải băng ngang một con suối lớn. Công binh chiến
đấu phải ủi tạm một con đường. Rút kinh nghiệm về cái chết của Hạp, hôm nay
không hiểu lệnh từ đâu, những người linh công binh mang băng đỏ ở tay phải, đề
hở phù hiệu công binh nơi tay trái, họ điều hòa lưu thông khá hữu hiệu. Từng
chiếc một bò nặng nhọc trên con đường vừa ủi xong, cây cối ngổn ngang bên
đường. Những chiếc xe nặng, bánh lún sâu xuống lòng đất xốp, tạo những đường
rãnh giữa mặt đường. Thỉnh thoảng xe ủi công binh lại phải cào lại mặt đường.
Bây giờ không một ai còn nghỉ đêm. Dư âm của trận phục kích bọc hậu đoàn thiết
giáp vô hình chung là động cơ thúc đẩy người ta tiến tới trước, bất kể ngày
đêm. Đoàn xe như co mình lại chờ đợi.
Qua khỏi cái vực khốn nạn này, chỉ còn vài cây số nữa là tới quận lỵ Củng Sơn,
một quận lỵ của tỉnh Phú Yên, từ đây vượt mười cây số nữa sẽ tới sông Ba, con
sông hiền hòa, mở ra bát ngát ớ cửa bể Tuy Hoà. Qua sông Ba, con đường trên bản
đồ lại trở thành một đường vẽ liền lạc, không còn những gạch đứt quãng. Tôi
tính thầm trong bụng, nhiều lắm hai ngày nữa đoàn xe sẽ tới Tuy Hoà, bởi lẽ qua
khỏi sông Ba, chúng tôi sẽ hiện diện trên thượng nguồn của đập Đồng Cam. Từ đó
về quận lỵ Hiếu Xương hơn hai mươi cây số, con đường xe cộ vẫn sử dụng trong
bao nhiêu năm nay, sẽ không còn những chướng ngại vật thiên nhiên như khi rời
Phú Túc.
Bây giờ là tám giờ tối của ngày N + 3, xe tôi bắt đầu đổ dốc. Con dốc làm mọi
người phải chóng mặt, không một ai ngồi lại trên xe, tất cả đều xuống đi bộ
ngay sau xe mình. Tôi vẫn ngồi yên trên ghế trưởng xa, người tài xế già cắn
chặt môi, anh để hết số phụ, đạp như gần lút thắng, mỗi lần nhấc chân phải lên,
chiếc xe như chuyển mình lao xuống, anh lại gò người xuống, như trì cả sức nặng
của toàn thân anh trên bàn thắng.
Dưới ánh đèn pha của xe sau rọi tới, bụi đỏ bốc lên mù mịt, xe như đi trên mây,
đôi lúc tròng trành như thuyền lướt trên sóng. Giữa con dốc, một chiếc xe nằm
nghiêng ở đáy vực, dấu vết của tai nạn ngổn ngang chung quanh. Người lính công
binh trên đầu dốc cho biết có vài người chết, vì chiếc xe đứt thắng giữa chừng.
Phần lớn là mấy người già quá, không muốn xuống xe. Tôi nhìn về phía đằng sau,
qua một con dốc cao, công binh lại phải làm tạm con đường theo địa thế, nên
giữa chừng con dốc, con đường quẹo về phía trái một góc hầu như chín mươi độ.
Qua khúc quẹo này, ánh đèn pha của những chiếc xe sau bị khuất lấp, đêm nay
trăng mười hai đã ở xế đỉnh đầu, tôi thấy những người lội bộ sau xe. Dưới ánh
trăng tỏ, và trong đám bụi mờ bỏ lại đằng sau, trung úy Lộc già, vợ con ông ta,
vợ con binh sĩ, bước thất thểu như những bóng ma kỳ lạ. Điều làm tôi đau lòng
nhất, là hình như tôi cũng chịu hoàn cảnh với họ, chia sẻ với họ từng quãng
đường, từng tiếng súng. Rõ ràng là tôi đã chung với họ không thiếu một thứ gì,
thế mà giữa tôi với họ hình như vẫn có một khoảng cách. Tại sao lại có khoảng
cách này. Chỉ trong một thoáng ngắn của bóng trăng đêm nay, cái hình ảnh lếch
thếch của vài em nhỏ chạy lúp xúp cho kịp người lớn, những mái tóc rũ rượi của
phụ nữ, tôi hiểu tại sao lại có sự cách biệt này, sự cách biệt không thể nào
khỏa lấp nổi, khiến tôi không thể nào khổ đau như họ. Nó thật giản di: vợ con
tôi không có đây, vợ con tôi đang ở một vùng an bình tạm nào đó.
Qua khỏi con suối, chờ mọi người lên đủ, người tài xế nhấn ga, chiếc xe lồng
lên, nuốt khoảng trống để bắt kịp đoàn xe trước. Chỉ còn 5 cây số đường rừng để
tới quận Củng Sơn. Tôi thấy quá nhiều người đi bộ, từng nhóm một, chạy dạt qua
hai bên lề đường mỗi khi thấy ánh đèn xe. Tôi hiểu họ không có một chọn lựa nào
khác hơn là bỏ xe xuống đi bộ, do con dốc thì ít, nhưng họ sợ hãi nhiều hơn. Họ
không muốn kẹt lại đằng sau, ở đó mạng người bấp bênh vô cùng. Bấp bênh tới từ
cả hai phía.
Đường trống phía trước mặt, tôi hạ lệnh ngừng xe, kêu gọi mọi người đằng sau
thu gọn hành lý. Anh tài xế, tôi và một người lính dọn lại cái móc hậu đằng
sau, toàn là quân trang quân dụng của tiểu đoàn. Tôi ra lệnh cho họ vứt bớt
những thứ nặng không cần thiết. Bây giờ phải tiết kiệm mạng người, những máy
đánh chữ, máy phóng thanh xách tay đó có ích gì đâu trong hoàn cảnh này. Bây
giờ tôi không còn chọn lựa, bất cứ ai ở gần xe tôi, xin mời lên đi nốt đoạn
đường.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Ngày N + 3, 11 giờ 45 tối
Đoàn xe ngừng lại giữa một cánh rừng chồi. Trăng bị che khuất, nền trời như đặc lại, tất cả đoàn xe tắt máy, tắt đèn. Có tiếng nhắc chừng đừng hút thuốc. Thật tình tôi buồn cười cho cái kiến thức quân sự này. Nó xứng tài làm tướng ở nước tôi, nếu người đó có may mắn. Đoàn xe dài như thế, ồn như thế, con đường không có chọn lựa nào hơn, nếu địch quân có ở đây, đủ để đánh thì chúng đã đánh mấy ngày nay. Có thể chúng đã có mặt, hoặc là quá ít, hoặc là chưa đủ điều kiện để ra tay. Tôi vẫn nghe những tiếng rì rầm, tiếng những cành khô gẫy. Dĩ nhiên không phải là do thú rừng. Thú rừng nào mà không bạt vía, mà không chạy xa đoàn xe kỳ lạ và náo nhiệt này. Tiếng động đó tạo bởi những người đi bộ, họ gánh gồng, bồng bế, đầu đội, tay xách, lặng lẽ tiến tới trước. Họ không thể dừng lại.
Đột nhiên có tiếng động cơ vẳng lại, có tiếng xích lớn nghiến trên mặt đường. Ai nấy đều đinh ninh là tiếng chiến xa. Rõ ràng tiếng động cơ đó có lúc tiến lại gần, rồi lại ra xa, tôi vốn nhạy cảm, nên có thể phân định phương hướng tốt, chắc chắn số chiến xa không nhiều. Nó tiến lại gần, gần đến độ nếu trăng không bị che lấp, chắc tôi đã nhìn thấy nó thấp thoáng sau những chồi cây thưa. Cho tới giờ chưa ai có thể biết đó là chiến xa của phe nào. Tiếng động cơ vẫn ầm ì, kéo dài cả tiếng đồng hồ. Có tiếng súng vẳng lại. Tiếng nổ súng lớn. Trận đánh chắc ở xa, bởi lẽ những lằn lửa đạn liên thanh xé màn đêm, hẳn là phải hàng chục cây số, phía trước mặt đoàn xe. Tôi biết chắc bây giờ địch đã chặn phía trước mặt. Trận đánh vẫn tiếp tục, tiếng xích chiến xa ngừng lại, bây giờ tiếng động cơ máy bay vọng lại, những đốm sáng nhấp nháy trên trời đêm.
Hai chiếc hỏa long xuất hiện trên vùng giao tranh. Đây là những chiếc phi cơ vận tải C47, C119, C123 biến cải, trang bị những khẩu đại liên sáu nòng. Tốc độ bắn hàng ngàn viên trong một phút. Khi khai hỏa nó rống lên như một con bò thần. Hai chiếc hỏa long bay vòng tròn trên vùng giao tranh, những lằn đạn lửa của chúng vẽ thành hai hình nón lật ngược. Cảnh thật đẹp, thật hùng vĩ, trong khi những lằn đạn từ dưới đất tạo thành những đường tiếp tuyến, cát tuyến cho hình nón. Bây giờ tôi thấy tận mắt hình vẽ của những bài toán không gian, những bài toán về phép quay của năm đệ nhất. Trước kia tôi vẽ chúng trên mặt phẳng của tờ giấy, để tưởng tượng ra cảnh này. Bây giờ bài toán nghiệm chứng trước mặt, nhưng cái đáp số của nó thì quả là ghê hồn. Hôm nay, quả tình tôi không muốn thấy cái nghiệm chứng của bài toán.
Ngày N + 4, 5 giờ 30
sáng
Tôi thiếp đi một giấc dài trong lòng xe. Khi tôi thiếp đi hai chiếc máy bay vẫn
vẽ những hình nón của chúng. Thỉnh thoảng chúng đổi chóp, có nghĩa là đổi mục
tiêu tác xạ, kỳ lạ thay những lằn tiếp tuyến hình như cũng toa rập theo phép
tịnh tiến này. Hỏa châu thỉnh thoảng vụt nổ giữa trời cao, soi sáng một vùng
trận địa. Tôi thiếp đi, tôi lại mơ vọng về quá khứ, xa hơn mười năm, mười lăm
năm, bắt gặp các ông thầy toán rải rác trong mấy năm trung học, từ thầy Hà Đạo
Hạnh gầy gò với chiếc Lambretta trắng, thầy Quán đầy trách nhiệm lương sư với
chiếc Mobylette vàng, thầy Nguyễn Xuân Nghiên bên chiếc Taunus 17, Nguyễn Văn
Kỷ Cương với chiếc Volkswagen xanh. Một điều lạ là các thầy không dậy học.
Trong tay không có cục phấn, các thầy bỗng trở thành những xạ thủ đại liên
tuyệt vời, đã bắn những lằn đạn lửa tượng hình cho các bài toán của các thầy.
Khi tôi tỉnh dậy, trời vẫn tối lờ mờ, tiếng xích chiến xa lại vang lên. Tôi
muốn bỏ xe tiến lên xem chuyện gì phía trước. Chẳng lẽ lại là chiến xa địch,
nếu có hẳn là đã có giao tranh bởi lẽ trước tôi cả đoàn xe vài trăm chiếc, ít
nhất đoàn xe cũng kéo dài vài cây số trước mặt, nhất định những chiếc chạy đầu
phải tiếp giáp với những chiếc thiết giáp này, tại sao không có tiếng súng nổ.
Có những tràng M16 nổ chát chúa phía sau. Trời đã lờ mờ sáng, một đoàn độ hơn
mười chiếc GMC, những người nổ súng đứng ở bên hông xe dẫn đầu, anh ta mặc đồ
bông ngụy trang. Đoàn xe tách vào trong rừng chồi chạy cách lề đường trăm
thước. Khoảng một cây số sau, lại có tiếng súng, trong khi những chiếc xe tuần
tự lấn vào đường. Thì ra người anh em biệt động quân mở đường lấn. Chưa có máu
lúc này. Phải đợi cả tuần lễ sau đoàn xe mới mở đường máu. Bây giở hãy lấn cái
đã. Tôi vững bụng tiến về phía trước.
Tiếng chiến xa đêm rồi chỉ là hai chiếc máy ủi của công binh. Những người lính
công binh chiến đấu đã công tác cả tuần lễ trước dọc theo con đường. Họ đã san
bằng những chướng ngại. Và chướng ngại sau cùng của họ: sông Ba. Họ làm việc
suốt đêm, ủi bãi để lập đầu cầu, song không thể nào lập nổi cây cầu, sông không
sâu nhưng bây giờ là mùa nước lũ. Nước từ rừng, từ các triền núi đổ về, chỗ sâu
nhất chỉ tới đầu gối, nhưng nước chảy xiết vô cùng. Lòng sông toàn cát và sỏi,
thượng sĩ Quán công binh điều hành ở đây, trong lúc chờ vật liệu là những tấm
PSB được gởi tới, ông đốc xuất binh sĩ dưới quyền sử dụng hai chiếc máy ủi kéo
xe qua sông. Họ làm việc suốt dêm, mỗi lần kéo độ ba xe lớn, hay năm xe nhỏ. Tất
cả các xe đều nổ máy sử dụng hết số phụ, xe ủi chỉ kéo phụ lực. Nhiều chiếc
Jeep bị ngập nước chết máy giữa dòng, phải nằm lại chờ kéo riêng.
Bây giờ là bẩy giờ sáng, xe tôi sắp sửa xuống bờ sông hai lần, hai lần đều bị
dội ngược lại bởi tiếng súng của người anh em biệt động quân. Người tài xế già
nhìn tôi, người lính đi theo cũng nhìn tôi. Thật tình tôi không sợ phải đụng.
Nhưng đụng làm gì khi qua con sông Ba này chúng tôi vẫn kẹt lại. Thượng sĩ Quán
cho hay mấy ngày nay, Tiểu khu Phú Yên mở đường lên không được, hai tiểu đoàn
địa phương quân không thể nhúc nhích nổi vì những cái chốt kinh hồn đóng dọc
hai mươi cây số đường. Ít ra phải là năm chục cái chốt. Ông ta cũng chờ bắt tay
với địa phương quân cả tuần nay.
Tôi bỏ xe lội bộ lên phía trước. Đã mấy ngày nay không tắm. Mồ hôi và bụi đường
phủ một lớp như bồ hóng trên người. Chỗ xe đậu xuống bến sông khoảng chừng 300
thước. Tôi nghe tiếng trẻ cười đùa vang vọng một khúc sông. Mãi tới hôm nay tôi
mới nghe loáng thoáng được tiếng cười. Ôi tiếng cười hồn nhiên của bầy trẻ thơ,
như những tiếng chim líu lo chào nắng mới.
Năm nay ba hai tuổi, tôi vẫn chưa biết bơi, mặc dù hồi nhỏ nhà tôi ở ngay đầu
phố Kho bạc Hải Dương, chỉ băng ngang một con đường là sang đền Kiếp Bạc, chỗ
người ta lập đền thờ danh tướng Trần Hưng Đạo, ngay bên bờ sông. Trẻ con khắp
phố đứa nào cũng bơi bì bõm từ hồi còn nhỏ, tôi cũng vẫn đi tắm sông mỗi chiều
với chúng nó, vẫn bơi y hệt như một con chó quào quào trên mặt nước, không
tiến, không lùi, rồi cứ chìm dần. Rồi lớn lên làm việc ở Vũng Tầu, ở Phú Quốc,
ở Qui Nhơn, ở Nha Trang, chiều nào tôi cũng đi tắm biển, vẫn không biết bơi.
Đôi lúc tôi cũng thèm biết bơi, nhưng cứ hễ ra biển tôi giỡn sóng một hồi rồi
lên, ngồi phơi mình trên bãi, rồi về. Các anh tôi bơi cả chục vòng ao lớn, chị
tôi bơi ngang sông Hải Dương như chơi. Tôi vẫn ì ạch một chỗ giữa dòng. Tôi tự
an ủi sẽ cho con trai tôi tập bơi, nó sẽ là một tay bơi có hạng.
Sáng nay, nghe tiếng trẻ cười vang vọng lòng sông, tiếng xôn xao của người lớn,
bỗng nhiên tôi thấy thèm biết bơi vô tận. Từ cao tôi nhìn được bao vùng, con
sông chảy mạnh, quanh co len lỏi giữa những cao độ chập chùng. Nó rộng cũng nửa
cây số. Ở bờ bên kia là một bãi cát vàng mênh mông. Giá không có đoàn xe nhà
binh trên đường triệt thoái, tôi tưởng chừng đây như là một ngày hội của phiên
chợ bên sông nào đó.
Khi tắm xong trở về, tôi thấy xe tôi đã tiến sát tới bến, người lính đi theo
tôi bây giờ cũng mặc đồ bông. Nó nhoẻn miệng cười tinh quái với tôi, bên cạnh
nó có thêm một vài khuôn mặt mới cũng áo bông, vẻ mặt thật cô hồn.
Ngày N + 4, 12 giờ trưa
Bãi cát bên kia sông Ba đầy xe, những tài xế mở nắp ca-bô, tháo các bugie ướt
nước, lục đục cúi lau và kiểm soát lại các bộ phận thấm nước. Bãi cát dài mênh
mông, trước khi con đường mở ra từ phía bìa rừng.
Ngày N + 4, 3 giờ chiều
Sau cùng xe tôi cũng qua được dòng sông cuồng nộ đó. Biết bao giờ tôi quay lại
được bến sông này. Xe bò từng thước trên bãi cát, có lúc bánh quay tít, xe vẫn
đứng yên một chỗ, mọi người xúm vào đẩy, cát bắn vào mặt đau rát, không một ai
lơi tay, chiếc xe lết từng đoạn, từng đoạn, sau cùng cũng lên đến mặt đường.
Đúng lúc đó địch pháo vài trái ngắn ngủi, nổ vu vơ giữa rừng chồi.
Không ai bị thương, nhưng ảnh hưởng của vài trái pháo này thật lớn. Nó cho mọi
người biết địch có mặt ở đây. Không biết chúng sẽ tấn công lúc nào.
Ngày N + 4, 6 giờ chiều
Cây cầu nhỏ, ván gỗ, trụ xi măng, sườn sắt, bề ngang vừa đủ một xe lớn. Cây cầu
bắc ngang dòng nước chảy xiết, dòng nước người ta đã khơi về từ sông Ba, nó
chảy song song với con đường vài cây số thì tới đập Đồng Cam, cái đập đã mang
lại sự phì nhiêu cho những cánh đồng phía tây nam tỉnh lỵ Tuy Hoà. Đoàn xe
ngừng lại tại đây, xe tôi cách xe đầu đoàn chừng một cây số, cứ vài phút tôi
lại thấy những xe sang sông sau ùa tới. Xe tôi đậu ngay đầu cầu. Địch đóng chốt
trước mặt. Con đường bây giờ tương đối tốt, tuy mặt đường không tráng nhựa,
nhưng đó là con đường người ta vẫn sử dụng từ hai mươi năm nay. Nếu không có
những chốt phía trước, thì nhiều lắm là hơn một tiếng nữa tôi sẽ có mặt tại Tuy
Hoà, ăn một tô phở, kiếm vài người bạn, kiếm một quán nào đó, kiếm rượu, kiếm
những con sò nổi tiếng của đầm Ô Long.
Dọc theo bờ biển, khác với những thị xã khác như Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Qui Nhơn,
Nha Trang, Phan Rang thay đổi bộ mặt trong khoảng mười năm sau cùng của trận
chiến. Sự thay đổi hào nhoáng bề ngoài nhưng bên trong đầy dẫy những tệ trạng,
Tuy Hoà vẫn giữ được cái vẻ đẹp bình lặng của nó. Tôi còn yêu Tuy Hoà qua sự
biết ơn của thị xã này với thi sĩ Tàn Đà Nguyễn Khắc Hiếu và nhà văn Y Uyên.
Một tên đường dành cho thi sĩ, người hơn nửa thế kỷ trước vì cơm áo đã tha
phương cầu thực đến đây. Một pho tượng cho nhà văn trẻ tuổi vì tai trời ách
nước, đã có lần làm việc vài năm ở đó. Y Uyên cùng lớp với tôi vài năm ở Nguyễn
Trãi, khi sang Chu Văn An anh chọn ban C, còn tôi lựa ban B. Anh lớn hơn tôi ba
tuổi, nên hồi đó không bao giờ anh ta chịu quen với tụi lỏi. Rồi lớp chúng tôi
lớn lên, mỗi người mỗi ngả. Khi nghe tin anh chết, tôi ở mãi ngoài Trung không
thể về đưa tiễn anh đến chỗ cuối cùng. Sau này mỗi lần qua Tuy Hoà, tôi đều có
ghé thăm pho tượng mà thị xã Tuy Hoà đã dựng để ghi nhớ anh. Bây giờ tôi ngồi
đây, con đường thẳng tắp trước mặt, chỉ có hai mươi cây số ngắn ngủi nữa, nhưng
Tuy Hoà xa thật xa, xa như một niềm tin đã mất.
Ngày N + 4, 9 giờ tối
Xếp của tôi, trung tá Kha, đã leo lên trực thăng từ hai tối trước, chỗ quận
Củng Sơn, bây giở ông phó Nguyện cũng bỏ tiểu đoàn sang tá túc nơi đoàn xe biệt
động quân. Cả tiểu đoàn bây giờ chỉ còn tôi, xe nằm mỗi nơi một chiếc, chưa kể
những chiếc đã bỏ lại dọc đường, người thì mỗi người một ngả. Tôi về tiểu đoàn
này như một sĩ quan ngồi chơi xơi nước, chờ thời, bỗng nhiên lãnh một quả ra
gì, một quả di tản có một không hai trong quân sử. Xếp chúa phải về trước để lo
doanh trại cho đơn vị ở Nha Trang, lý do chính đáng, nhưng xếp phó lại di tản
cá nhân, ông làm gương cho trung úy Giỏi, ban nhân viên, ti nạn bên Thiết giáp.
Kể từ sau hôm thượng sĩ Hạp bi bắn chết, ngoại trừ những gì không thể che giấu
được của binh chủng còn phơi ra, tôi thấy binh sĩ của tôi bây giờ cũng có áo
bông, nón đi rừng, hoặc là ở trần khoác ngoài một chiếc áo giáp. Mạnh ai nấy
tìm một chỗ yên thân. Một số binh sĩ bơ vơ đến tìm tôi, góp nhặt lại bây giờ có
độ mười chiếc xe lớn nhỏ, khoảng chừng bốn mươi lính và ít ra một trăm rưởi đàn
bà con nít. Xe đậu lung tung. Tôi nói với họ:
"Ban ngày các anh có thể đi đây đi đó, nhưng tối đến, phải tập họp kín đáo
bên cạnh xe tôi, đàn bà, con nít có thể ớ tại xe, nhưng các anh phải có mặt ở
xe tôi mỗi tối lúc tám giờ. Không thể biết đến bao giờ đoàn xe có thể khởi
hành. Phải đoàn kết lại. Tôi nghĩ đến việc phải gác chiếc cầu này. Nó mà sụp
thì tám phần mười đoàn xe sẽ kẹt lại. Có bốn mươi người lính chỉ để cho hai
vọng gác hai đầu cầu, cách nhau chừng hai mươi thước. Tôi có đủ quân số để lo
vụ này."
Đêm nay trăng mười hai đã treo cao trên nền trời.
Ngày N + 5, 8 giờ sáng
Quân vận và Quân nhu bán cơm sấy, thịt hộp, sữa, thuốc lá Quân tiếp vụ với giá
cắt cổ. Người ta chen lấn nhau mua. Độ khoảng nửa tiếng sau tôi nghe liếng súng
nổ. Người ta chạy túa ra. Mấy anh em đồ bông có nhiều chiến lợi phẩm. Thật tình
lúc này mà bán lương khô với giá cắt cổ là một hành động đáng bị trừng tri
nặng, song tôi cũng không tán thành hành động còn lại. Càng không tán thành
nữa, các anh em đó mang đến xe nào có nhiều phụ nữ.
Bây giờ thì có quá nhiều biệt động quân. Có một điều hơi dễ phân biệt. Biệt
động quân thật từ trên đầu xuống nón nâu, quân phục binh chủng, có phù hiệu.
Còn giả thì hoặc là có quần, không áo. May ra có đủ bộ thì cũng không thể có
nón nâu. Đào đâu ra nón nâu lúc này. Những người anh em biệt động quân giả này
mới đáng tởm. Họ lùng cảnh sát tước khí giới, làm nhục giữa đám đông, chọc ghẹo
phụ nữ một cách thô bỉ. Mới ngừng lại một ngày tưởng chừng như đã tới ngưỡng
cửa địa ngục. Cả đêm qua tôi ngủ những giấc ngắn. Chốc chốc xe đổ về một toán
từ phía sông Ba. Đêm qua xe tôi đậu ở đầu cầu, đằng sau khoảng chừng chục
chiếc, sáng nay phía sau nối dài, cả trăm chiếc.
Vài người lính trong tiểu đoàn nói có vài ngàn chiếc chưa qua sông. Nắng hôm
nay thật gắt. Mặt trời như một bó lửa khổng lồ. Không một ngọn gió, hơi người
nồng nặc trên các xe. Mới có chín giờ sáng mà tưởng chừng như quá ngọ. Tôi tìm
chỗ tắm, cái dòng nước thượng nguồn của đập Đồng Cam này, nước đổ về từ sông
Ba, nước tập họp từ trên rừng nên còn mang mùi ngai ngái của lá. Mùa nước lũ,
nước chảy xiết và lạnh như nước đá. Tắm xong, tôi tìm một bóng mát ngả lưng.
Con đường nhô cao khoảng chừng ba thước. Bên trái là những thửa ruộng còn trơ
gốc rạ, vài ruộng bắp còn non, xa xa ẩn hiện những mái nhà. Nhiều người tiến
vào trong xóm. Tôi ngừng lại tại một khoảng đất đầy những cây chuối hoang, tôi
tước một ít tàu khô, làm một chỗ nằm thoải mái. Bây giờ không còn trông thấy
đoàn xe, tôi lạc vào một thế giới khác, có tiếng đập của quả tim tôi, mỗi lúc
một to, át cả tiếng lao xao của đám đông vẳng lại từ mặt đường. Rồi tôi thiếp
đi.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy trước mặt một người lính biệt động quân thật. Chắc chắn
phải là thật, cái nón nâu lót trên một hòn đá gối đầu, bộ quần áo rách bươm,
thật tình tôi yên lòng bởi lẽ anh ta không đeo súng, cũng không thấy dao, không
thấy những trái lựu đạn. Tôi ngồi dậy dợm đi về xe, cùng lúc người lính này
cũng nhỏm dậy, thấy tôi anh nhoẻn miệng cười. Tôi thấy bỏ đi thì kỳ, nên đành
ngồi lại. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh ta. Khó có thể đoán nổi tuổi, sương gió
đã làm mặt anh ta xạm lại, thêm vào đó lại bệnh đậu mùa, nên mặt anh bị rỗ khá
nhiều. Nhưng anh có đôi mắt thật đặc biệt, thật đẹp, thật buồn, thật xa vắng.
Cả hai im lặng, tôi tẩn mẩn xé mấy tầu lá khô, anh ta nhâm nhi một cọng cỏ.
Đột nhiên anh ta đứng dậy lấy ra một con dao nhỏ, loại dao bấm Trung cộng, anh
ta tiến về phía trái, dừng lại bên một bụi trúc nhỏ. Lui cui một hồi, anh ta
trở về chỗ cũ, trên tay có vài gióng trúc. Anh loay hoay đánh dấu trên thân
đoạn trúc, rồi dùng mũi dao để tiện lỗ làm một cái ống tiêu. Khoảng nửa tiếng
sau anh kê gióng trúc lên miệng, thổi vài hơi. Dáng chừng như chưa vừa ý, anh
lại tẩn mẩn làm cái khác, đến lỗ thứ ba, ống trúc bi dập, tét làm đôi. Anh vẫn không
tỏ một chút gì trên nét mặt, anh kiên nhẫn gò người trên gióng trúc sau cùng,
anh cẩn thận xoáy từng mũi dao, sau cùng ống tiêu hoàn thành, anh thổi thử vài
hơi gật gù đắc ý. Tôi nằm xuống ngửa mặt nhìn trời, hồn lắng xuống chờ tiếng
tiêu của anh. Năm phút sau vẫn yên lặng, hé mắt ra tôi thấy anh thui cái ống
tiêu một cách từ tốn. Mãi tới lúc đó anh ta mới nói với tôi:
"Phải thui thì tiếng mới trong."
Rồi tiếng tiêu cất lên, khi trầm khi bổng. Tôi nhớ một đoạn của Kim Dung viết
về tiếng tiêu của Nhậm Doanh Doanh trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ, diễn tả tiếng
tiêu ngưng lại lúc bách điểu chia ly, trăm hoa tàn tạ, gió lặng, tuyết tan, vũ
trụ ngưng trong cảnh tịch mịch đó. Tôi cho là tiếng tiêu của Doanh Doanh cũng
hay đến thế này là cùng, bởi lẽ Doanh Doanh là một nhân vật do trí tưởng tượng
phong phú của Kim Dung tạo nên. Tiếng tiêu của người lính Biệt động quân này có
lúc làm tôi bay bổng chín từng trời, có lúc dồn dập như đoàn xe hàng trăm chiếc
hàng ngang chạy băng trảng cỏ, có lúc cuồn cuộn như nước sông Ba, có lúc thê
lương như tiếng khóc của đứa bé chào đời ngoài đồng trống. Tôi quên hết quá khứ
với những mong ước thời trai trẻ, quên hết hiện tại nóng hổi của đoàn triệt
thoái kỳ lạ hôm nay, tôi quên cả tương lai vất vả. Hình như tôi vẫn ngủ, tiếng
tiêu vẫn mơ hồ lẩn quất bên tai.
Ngày N + 5, 3 giờ chiều
Trực thăng mang sắt PSB đến sông Ba, không thấm vào đâu với nhu cầu của công
binh, song cũng đủ cho một lằn đường trên bãi cát. Khi bay ngang qua chỗ cây
cầu gỗ nhỏ, có người khênh ra một cái băng ca, người phi công động lòng trắc ẩn
sà xuống, vài người khênh người bi nạn lên, rồi người ta ùa tới, phi cơ phải
cất cánh khẩn cấp. Bây giờ chắc không có ai dám đáp xuống đám đông hỗn loạn
này.
Buổi chiều bọn trẻ ùa xuống nước. Chúng la hét, nghịch ngợm ồn cả một vùng.
Bóng mấy người vợ lính lui cui với bầy con nhỏ.
Ngày N + 5, 5 giờ chiều
Gặp Thái Tăng An giữa cầu. An vẫn giữ được nụ cười tươi. Tôi theo An về xe anh,
vẫn có ly cà phê buổi chiều. An là loại người cần cà phê hơn cơm, ngày một bữa
cơm đủ rồi nhưng cà phê phải ba cữ. Tốt nghiệp trường Mỹ thuật Huế, anh vẫn vẽ
mỗi khi rảnh rỗi. Anh nói, nếu thoát về được sẽ ghi lại trên khung vải những
hình ảnh đặc biệt của chuyến đi này.
Ngày N + 5, 7 giờ tối
Đài BBC loan tin về cuộc di tản của chúng tôi . Phải công nhận là bản tin xác
thực. Trong phần bình luận, luận điệu của đài này có vẻ thiên tả. Nó không được
vô tư. Tôi văng tục. Tuy nhiên trong phần tin chiến sự quân khu 1, tôi nghe
được một chút tin về tướng Trưởng đã mang vợ con từ Sài Gòn ra Đà Nẵng. Ông
quyết giữ Huế và Đà Nẵng bằng mọi giá.
Bây giờ là mười giờ tối của ngày 22-3-1975. Đêm nay là đêm thứ sáu của cuộc
hành trình. Tôi đứng trên mui xe, nhìn bao quát cả vùng. Trăng hôm nay thật
sáng, sáng dị thường, sáng đến độ tôi có thể thấy những con dơi chao muỗi chợt
tới, chợt lui giữa bầu trời sữa. Suốt đêm qua và cả ngày nay tôi thấy xe cứ ùn
ùn kéo đến, cái đuôi mỗi lúc một tăng trưởng. Rồi người đi bộ, gánh gồng bồng
bế nhau tới, có người già chống gậy, có em bé còn ẵm ngửa, phần lớn đều nghèo,
chắc chắn là nghèo, hoặc là bắt đầu nghèo. Chập tối nay, xướng ngôn viên của
đài Đông kinh đã mệnh danh cho đoàn người là những người "bỏ phiếu bằng
chân". Tôi có mặt trong đoàn người này, khởi đi từ cao nguyên trung phần,
quân và dân ba tỉnh Pleiku, Kontum, Phú Bổn xuôi về miền duyên hải. Cái gì chở
họ ở nơi sẽ đến?
Ngày N + 6, 6 giờ sáng
Ngày thứ ba ngừng lại ở đập Đồng Cam. Sáng nay dậy sớm, mãi tới hôm nay tôi mới
để ý đến một cái chòi vịt, người nông dân chủ chòi ở đây, vẫn lầm lũi dậy sớm
cùng với ánh sáng mặt trời, một đàn vịt chừng hơn ngàn con vịt nhỏ, bằng nắm
tay, những con vịt lội ngược dòng nước xiết, trong khi kẻ chăn lững thững đi
trên bờ.
Ngày N + 6, 8 giờ sáng
Song song với dòng nước, song song với con đường là hai quả đồi nhỏ. Một đồn
địa phương quân án ngữ trên đỉnh ngọn đồi. Sáng nay địch quân đã có mặt ớ đỉnh
đồi còn lại. Chúng sử dụng súng cối bắn qua đồn, quân trú phòng ở đồn này phản
pháo lại. Tôi nghe rõ tiếng depart của cả hai bên. Tôi thấy rõ những trái đạn nổ
trên cả hai ngọn đồi. Mỗi bên bắn vài trái rồi thôi. Đoàn người đứng xem một
cách vô tư.
Rõ ràng là địch quân chưa muốn đánh vào đoàn người. Chúng chỉ muốn cầm chân
chúng tôi tại đây. Với hàng trung đoàn làm chốt trong đoạn đường hai mươi cây
số cuối cùng. Với cái đích pháo kích sáng nay. Rõ ràng ý định của địch là muốn
bắt sống, hoặc tiêu diệt trọn vẹn chúng tôi. Điều đó tôi nghĩ chúng có thể làm
được, nếu tiểu khu Phú Yên không mở đường được, nếu đoàn người cứ ở lại đây,
không tiếp tế, không lương thực.
Ngày N + 6, 4 giờ chiều
Đủ mọi tin đồn bao phủ đoàn xe. Tin có kích thước lớn như miền Nam còn từ Phan
Rang trớ vào, một vùng trái độn từ Phan Rang trở ra giao cho Mặt trận Giải
phóng, tin kích thước nhỏ xảy ra trong đoàn người như phụ nữ bị hiếp dâm.
Ngày N + 6, 11 giờ đêm.
Đêm nay đài BBC và Đông Kinh đều nói tới hai cái túi người khổng lồ ở Đà Nẵng
và Nha Trang, Cam Ranh. Thế là tướng Trưởng đã bỏ Huế. Dân Huế, Quảng Tín,
Quảng nam, Quảng Ngãi, đổ dồn về Đà Nẵng. Dân Tuy Hoà, Qui Nhơn đổ dồn về Nha
Trang, Cam Ranh. Chiến sự vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng sôi động không kém.
Tôi nghĩ đến những người dân xứ Quảng, những đồi cát chập chùng ven biển và
những cơn gió Lào.
Cả quân khu 1 chỉ còn Đà Nẵng thoi thóp hỗn loạn. Hàng triệu người đã bỏ tất cả
ra đi về miền Đất Hứa. Nhưng Đất Hứa sau cùng chỉ là những đám mây trôi nổi
trên trời. Từ ba tối nay tôi đã nhường ca bin cho hai em nhỏ bị sốt. Tôi ngủ
trên một cái võng làm bằng một cái vải bạt nhà binh, mắc giữa hai cản xe. Tôi
nằm quay đầu về con nước, trăng lồng lộng trên trời, phản chiếu lấp lánh trên
dòng nước chảy mạnh thành những vết sáng loang loáng. Từ lúc nghe tiếng tiêu
của người lính biệt động quân tôi tỉnh táo vô cùng.
Có tiếng khuấy nhẹ nước đâu đây, có tiếng phụ nữ, tôi hướng về tiếng động,
chừng ba chục thước trước mặt tôi một cậu bé chừng mười tuổi đứng yên lặng trên
bờ. Hai thiếu nữ nhô đầu khỏi dòng nước, chắc chắn phải là thiếu nữ thanh tân,
bởi tôi thấy rõ hai mái tóc dài. Có lẽ cậu bé đứng canh chừng cho hai chị tắm.
Chắc chắn họ phải rất trẻ, bởi nếu không họ đã tắm ban ngày cùng với vợ con
binh sĩ. Phải là thiếu nữ thanh tân mới e thẹn như thế. Tôi đã được xem hình
chụp bức họa Les Baigneuses nổi danh thuở xưa, vô tình hôm nay tôi được chứng
kiến những Baigneuses của thời tao loạn, tắm giữa dòng nước thiên nhiên, dưới
ánh trăng lồng lộng. Trước mặt là những chốt của tử thần, sau lưng đường về nhà
cũ đã hết. Dĩ nhiên là họ tắm có áo quần, nhưng quả tình là đẹp. Tiếc thay
không có Thái Tăng An ở đây, anh đã lỡ một cơ hội gợi hứng cho một bức tranh
đẹp. Hãy tắm lẹ lên các em, mặc dù thâm tâm tôi muốn các em tắm tự nhiên, thoải
mái, khỏa thân trong dòng nước bạc. Tôi không phải đạo đức thật, lại càng không
phải đạo đức giả, song trong cảnh trăng nước này, các em lại tắm với áo quần
thì tôi thấy có một cái gì bất ổn. Tôi chỉ muốn chiêm ngưỡng một nhan sắc,
không hề có một chút dục tính nào trong khung cảnh này.
Tôi ngủ ngon, trăng cao ở trên trời, trong giấc ngủ tôi nghe được tiếng tiêu
của người lính nọ, tiếng tiêu dồn dập, háo hức, với hình ảnh hai cô bé tắm khỏa
thân trong trăng nước.
Ngày N + 7, 3 giờ 30
sáng
Có tiếng nổ lớn ở phía sông Ba, rồi những tiếng súng nhỏ vang lên đệm nhịp. Từ
nóc xe tôi nhìn thấy những luồng đạn lửa, thỉnh thoảng có những tiếng nổ lớn
cùng với ánh lửa bùng ra. Đích tấn công đoạn cuối chưa qua sông. Chắc chắn
không phải là pháo kích, không có tiếng nổ depart, những tiếng nổ lớn đó phải
là lựu đạn, bộc phá. Chúng tôi qua sông đã ba ngày. Đoạn cuối này hầu như phần
lớn là dân chúng, không có ai chỉ huy.
Ngày N + 7, 6 giờ 30
sáng
Từ rạng sáng nhiều toán người đã tới, họ đã đi ngay sau khi cuộc đột kích chấm
dứt. Trận đánh chỉ kéo dài mười lăm phút. Một số xe bị phá hủy, một số người
chết và bị thương. Một số khác qua sông ngay trong đêm, lầm lũi đi giữa rừng.
Lác đác đã tới đây, từng tốp. Có người ngừng lại ở cuối đoàn xe, nhiều người
nét mặt sợ hãi còn vương trên đôi mắt, hốt hoảng tiến lên, ngừng lại ở đầu đoàn
xe. Cả ngàn chiếc còn kẹt lại bên kia sông Ba.
Có tiếng xì xầm trong bụi lau trước mặt, những cây lau rung rinh. Sợ địch quân
có thể tấn công bất ngờ như đã làm trước đó, tôi vẫy hai người lính, cùng rón
rén lại gần. Một cảnh thương tâm trước mặt, một em nhỏ chừng mười ba tuổi nằm
trên cáng. Cáng được cột bởi những cây gậy đi rừng, rõ ràng là một cáng hướng
đạo. Em bé chân trái bị mảnh đạn cắt gần lìa đầu gối, máu ướt đầm lớp quần áo
buộc quanh vết thương, đôi mắt em thất thần, em vẫy ba người bạn lại, hai em
chừng mười bốn và một em chừng mười một. Em nói với các bạn một cách rõ ràng cương
quyết:
"Minh, Ngọc, hãy bỏ tao lại đây, hãy đi với mọi người. Chắc tao không thể
sống được. Mang theo tao tụi mày sẽ không thoát khỏi đây."
Tôi thấy vẻ ngập ngừng của hai đứa lớn. Tôi tiến lại gần và nói với tất cả:
"Các em đi trước đi. Để em bị thương ở lại đây, tôi có bác sĩ lo hộ."
Tôi đã nói dối. Tôi biết chắc em bị thương không thể sống nổi. Cái chân trái
gần cụt hẳn, máu ra như suối cả mấy tiếng đồng hồ rồi. Tôi biết một bác sĩ
Thiết giáp, tôi nhớ xe ông ta cách xe tôi chừng trăm thước. Tôi bảo người lính
đi tìm, rồi hối hai em Minh và Ngọc phải đi ngay đi. Em nhỏ nhất bây giờ mới
tiến lên mở ba lô lấy một chiếc chăn mỏng, đắp lên người bạn bất hạnh. Cả ba
lùi lại tôi thấy các em chào nhau bằng kiểu chào hướng đạo. Ba đứa trẻ quay đi,
nước mắt dàn dụa. Bóng ba đứa lúp xúp trên mặt đường. Dường như mọi người còn
ngủ cả. Chập sau vị bác sĩ tới, ông ta nói với tôi kín đáo, em nhỏ không thể
cứu nổi, mạch đập loạn lắm rồi. Vả lại ông ta cũng chằng có gì để hành nghề cả,
ông chỉ có được một mũi an thần cho nó dịu bớt cơn đau. Chỉ còn có thể để giúp
em bình yên đi vào giấc ngủ sau cùng.
Ngày N + 7, 8 giờ sáng
Đoàn người đã ngừng lại đây bốn ngày. Sáng nay sau khi những người đi bộ từ
sông Ba tới cho biết đích xác tình hình phía sau, một số người nôn nóng, họ mạo
hiểm, mặc thường phục, chạy xe Honda, Suzuki, Vespa đi trước. Có chừng hơn trăm
chiếc xe, khoảng độ trên hai trăm người. Họ tập họp thành đoàn, khởi hành thật
từ tốn. Cứ y như là một cuộc đi cắm trại vùng quê. Tôi có vài người lính trong
đám người mạo hiểm này. Nhiều người phía đầu đoàn xe, leo lên cao nhìn bóng họ
xa dần xa dần.
Có tiếng súng đại liên ở trước mặt, tiếng AK nổ thật ròn. Súng nổ liên hồi
trong vòng mười phút. Chập sau vài kẻ mạo hiểm trở về, địch đã xả súng bắn vào
những người này không thương tiếc. Chúng chờ cho cả đoàn lọt vào ổ phục kích
mới khai hỏa, không có vụ bắn dọa. Chúng bắn chí tình. Súng đại liên có sẵn yếu
tố tác xạ bắn như mưa bấc từ phía sau, phía trước ập lại, súng nhỏ bắn tự động
ngang hông. Vài kẻ chạy lẹt đẹt sau cùng thoát nạn. Trung sĩ nhất Mười, người
lính cũ của tôi thoát nạn, anh là một trong những kẻ dẫn đầu, khi địch quân
khai hỏa, anh bò nhảy đại xuống nước, núp vào một bụi lau. Anh thấy rõ chi tiết
của cuộc thảm sát. Những kẻ bị thương nặng bị thanh toán ngay tại chỗ, vài
người bị thương nhẹ bị bắt sống mang đi. Xác chết kéo dài cả cây số, xe cộ nằm
tênh hênh giữa đường. Mười chờ cả tiếng đồng hồ sau, anh nương theo những bụi
lau ven bờ, quay ngược về chỗ cũ.
Ngày N + 7, 10 giờ tối
Đài BBC loan tin Đà Nẵng di tản, địch đã vào Quảng Ngãi từ hai ngày trước. Phía
nam cao nguyên, Lâm Đồng bị uy hiếp nặng nề. Giọng bình thản của người xướng
ngôn viên tả cảnh Đà Nẵng, khiến tôi tưởng như đang nghe đọc truyện ở địa ngục.
Ngày N + 8, 7 giờ sáng
Hôm nay là ngày thứ chín của cuộc hành trình. Tôi đã ngừng ở đập Đồng Cam được
sáu đêm năm ngày. Khoảng thời gian này tôi nghiệm thấy cái vô nghĩa của kiếp
người. Sống được trong khoảng thời gian này đã khó, sống cho ra người, một con
người đúng nghĩa còn khó hơn. Tôi thấy tội nghiệp cho tôi, tội nghiệp cho mọi
người, cho cả người cán binh bên kia chiến tuyến.
Mấy tối nay, qua các đài phát thanh ngoại quốc, tôi thấy rõ tất cả đều là lừa
bịp. Bàn cờ đã đến hồi kết thúc, người ta sắp xóa đi đánh ván khác. Rõ ràng
miền Nam sắp trở thành một quân cờ thí.
Ngày N + 8, 4 giờ chiều
Một chiếc trực thăng bay thật thấp trên đầu đoàn xe, tôi nhìn rõ Kim Tuấn và Võ
Sum trên đó, Sum thò cả nửa người ra ngoài, anh thu hình đoàn người ti nạn, Kim
Tuấn phía sau, với tay ra ngoài liệng xuống những ổ bánh mì trong các túi ni
lông. Rán đi các bạn ta, hãy thu hình cho trọn đoàn người, hãy nhớ kỹ từng
khúc. Hãy nói to với mọi người về hình ảnh mà các anh đã thấy.
Ngày N + 8, 10 giờ đêm
Đà Lạt vừa mất. Lâm Đồng đứng như một ốc đảo giữa rừng. Đài BBC nói đến các
hình ảnh đẹp của sinh viên sĩ quan Võ bi Đà Lạt. Họ đã làm trắc diện và đoạn
hậu cho quân dân ở đây xuôi xuống Nha Trang. Đoàn di tản này tương đối có kỷ
luật và tổ chức chặt chẽ nhất.
Lại thêm một thành phố thân yêu nữa mất đi. Cầu mong cho những người thân và
bằng hữu ở đây tới được chỗ an lành. Kể từ hôm nay, trọn quân khu I đã mất,
quân khu II chỉ còn lác đác vài tỉnh duyên hải. Bây giờ Qui Nhơn là ải địa đầu,
chiến trận khốc liệt tại quận Bồng Sơn, một quận lỵ trù phú nằm trên quốc lộ 1,
với những rừng dừa cao vút và thẳng tắp ở đây đang hứng chịu những lằn đạn oan
nghiệt.
Ngày N + 9, 4 giờ chiều
Hai phi tuần A37 ào tới như một cơn lốc. Tôi thấy rõ những trái bom rơi xuống
từ phi cơ. Bom đánh trước mặt đoàn xe chừng hơn cây số. Tôi nghe rõ tiếng phòng
không của địch bắn trả. Mãi tới hôm nay mới có không yểm. Điệu này ngày mai
chúng tôi có thể dọt. Tôi nói với người tài xế già:
"Ông coi lại xe cộ trong buổi chiều nay, rán đừng chết máy giữa
đường."
Ngày N + 9, 6 giờ chiều
Gặp bác sĩ Cao Huy Tích, thuộc Quân y viện Phú Bổn, xe của anh hư, tôi mời về
xe tôi bất cứ lúc nào. Đúng lúc này gã họ Thái lại tới tìm tôi san sẻ một chút
cà phê vừa kiếm được. An nói có lẽ ngày mai mà không dông được, thì ngày mốt
anh sẽ tính đi bộ cùng một số nhỏ những lính thuộc tiểu đoàn 20 Chiến tranh
Chính tri. Họ có một hướng dẫn viên người địa phương. Cứ men theo sông Ba
khoảng vài cây số, có một con đường mòn, đường đi tắt của những người nông dân
trong vùng này lội bộ đến Tuy Hoà. An nói với tôi, nếu muốn hãy đi cùng anh,
không thể chở đợi đây lâu hơn. Tin tức ngày càng tồi tệ. Tôi trả lời anh tôi
còn hai đêm để quyết định việc này. Tuy trả lời vậy, song tôi biết chắc tôi sẽ
không tham dự việc này.
Ngày N + 10, 8 giờ sáng
Hôm nay là ngày 27-3-1975. Chúng tôi dời Pleiku được mười một ngày. Nằm ở đập
Đồng Cam này vừa đúng một tuần. Tôi vẫn chưa thấy cái đập tuy rằng nó ở cách
chỗ chúng tôi chừng ba cây số. Có tiếng động cơ trực thăng lại gần, chúng xuất
hiện từ xa như những chấm đen, lớn dần, lớn dần rời bất thần chúng xả những làn
khói trắng về phía sau, trong khi những hỏa tiễn lao về phía trước.
Đám đông bỗng hỗn loạn, người chạy ngược xuôi, trong chớp mắt không một ai còn
ở mặt đường. Đêm qua người ta đã xì xào về đoạn đường hôm nay. Hàng ngàn động
cơ như rú lên cùng một loạt. Cùng lúc đó trên trời xuất hiện thêm hai phi tuần
A37. Người phi công gan dạ bay thật thấp, tôi thấy rõ cái mũ tròn và bộ đồ bay
màu da cam, anh vẫy chào đoàn xe phía dưới, rồi vọt cao lên trời, lên cao mãi
nhỏ như một con én, bỗng chúc đầu lao xuống. Tôi thấy những cụm khói nhỏ bên
hông tầu, những cụm khói của đại bác phòng không nở ra những bông hoa trắng
trên nền trời xanh bát ngát. Phi cơ vẫn lao xuống với tốc độ phản lực, xuống
thấp sát những ngọn cây trên đỉnh núi, một trái bom thoát khỏi thân tầu, cùng
lúc với chiếc phi cơ vọt thẳng lên trời.
Từng trái một, hai chiếc A37 như không biết có những khẩu phòng không dưới đất,
đạn đan như lưới trên trời, những bông hoa trắng nở ra liên hồi. Như một cuộc
biểu diễn của các tay bay lão luyện, mấy chiếc trực thăng cũng góp mặt, chúng
chợt tới, chợt lui như những con dơi chao muỗi, chòng chành như những con
thuyền giữa sóng lớn, ở cao độ thấp hơn, phóng những hỏa tiễn xuống vị trí
địch.
Trái bom cuối cùng đã thả, hai chiếc A37 vọt lên trời như những chiếc pháo
thăng thiên, hai người phi công gan dạ vòng về cuối đoàn xe, họ bay ngay trên
đầu mọi người, họ vẫy cánh chào từ biệt ở phía trước mặt, rồi lên cao, và khuất
lấp giữa trời.
Bây giở là 8 giờ 40 phút, một chiếc trực thăng bay sà sát trên đầu chúng tôi,
người xạ thủ đại liên nhô nửa mình ra khỏi thân tầu, rõ ràng anh khoát tay về
phía trước. Máy xe vẫn nổ, phải chăng đây là hiệu lệnh lên đường. Có sự nhúc
nhích phía trước, rồi đoàn xe cựa mình tiến tới, từ giã xóm nhỏ bên đường. Giã
từ cái chòi vịt im lìm, giã từ người nông dân chủ chòi lầm lũi bên con nước xiết.
Đại bác nổ rền từ phía trước, đây là những khẩu đại bác phòng không của chúng
tôi, cũng may có được vài xe thiết giáp phòng không dẫn đầu, mấy người xạ thủ
tác xạ vào bất cứ chỗ nào khả nghi, từng tảng đá lớn tung lên, từng ngôi nhà
tranh bốc cháy. Tôi biết có nhiều ngôi nhà cháy oan, có nhiều người vô tội
chết.
Làm sao hơn được trong lúc đây là đoàn xe chạy chết. Đoàn xe khởi đi như một
con thú dữ, địch bám sát hai bên đường, chúng tôi bứng từng chốt, đại bác 37
1y, bốn nòng bắn trực xạ cho những mục tiêu trong vòng ba trăm thước. Đoàn xe
chạy tới đâu, ghi dấu khói lửa hai bên vệ đường đến đó. Địch chôn nhiều mìn
trên đường, khoảng hai cây số đầu tiên, chúng tôi bứng đi được một chốt lớn.
Địch pháo vào đoàn xe, bây giờ chúng đã biết đoàn người quyết đi, đã biết chúng
tôi cố mở đường máu trở về, và dĩ nhiên địch quyết ngăn lại bằng mọi giá.
Một trái 82 ly rớt trên mặt đường phía sau xe tôi chừng năm chục thước, trái
đạn nổ ngang hông một xe Jeep, hai người chết ngay, vài người bị thương. Làm
sao chúng tôi có thể mang những người chết theo, người chết được đặt bên vệ
đường, xe sau tiến tới, chiếc xe Jeep được hất ra khỏi lề. Từng chốt một, những
chiếc thiết giáp mở đường ngừng lại, những người lính biệt kích tiến lên, họ
thanh toán nốt mục tiêu, ghi dấu những trái mìn phát hiện bằng những tờ giấy
được chặn bởi một cục đá. Họ dò mìn bằng đôi mắt, bằng kinh nghiệm, làm sao
tránh khỏi những trái mìn chôn giấu kỹ. Bây giờ làm gì có thời gian sử dụng máy
dò mìn, vả lại địch cũng mới bôn tập tới đây, chúng cũng không có đủ thời gian
để chôn giấu kỹ.
Bây giờ đập Đồng Cam thấp thoáng trước mắt, nằm vắt ngang dòng nước. Con đập
thật nhỏ, thật cũ, những thành cầu sắt bắc xung quanh nên trông giống một cây
cầu hơn là một cái đập. Qua khỏi đập là một thôn xóm nhỏ, những mái nhà lá nằm
sát nhau, nổi bật trên cánh đồng, địa thế bây giờ chỉ còn những trái đồi nhỏ,
sát hai vệ đường là cánh đồng cỏ lát. Súng nổ ran phía trước, và chiếc thiết
giáp đầu đoàn bò chậm chạp trên cầu.
Ngày N + 10, 11 giờ
sáng
Bốn cây số đã qua với một tiếng đồng hồ. Địch pháo trước mặt, đoàn xe ngừng
lại. Chiếc thiết giáp chạy ở phía đầu đoàn xe quay nòng qua trái, tôi thấy rõ
một tòa cổ miếu nằm thênh thang giữa đồng bi bứng hẳn lên, thấp thoáng xa xa,
bóng của những người lính biệt kích thoăn thoắt hai vệ đường, đoàn xe tiến tới
từng thước đất, từng thước đường.
Đường cái quan tương đối rộng, xe Honda họp thành hai trắc diện dị kỳ.
Ngày N + 10, 11 giờ 30
Xe tôi đã qua khỏi đập Đồng Cam, dòng nước bây giờ mở rộng sau cái đập, chừng
năm chục thước bề ngang, nước chảy lờ đờ, những đám lộc bình trôi hờ hững. Tôi
ngửi thấy mùi thối của những xác chết lâu ngày, cùng với sự xuất hiện của những
căn nhà đầu tiên, vài căn đang cháy dở, cái thôn xóm nghèo chừng năm mươi nóc
gia, bỗng nhiên mang cơn đại họa. Bây giờ mùi thối đã bớt đi, bởi những căn nhà
cháy khét lẹt. Cuối thôn con đường quẹo phải, một cây cổ thụ che khuất tầm
nhìn, mùi thối lại xông lên nồng nặc. Qua khỏi khúc quẹo con đường mở ra trước
mắt, hàng trăm chiếc xe Honda, Suzuki, Vespa nằm rải rác trên một đoạn đường
một cây số. Người chết khắp nơi trên khúc đường này. Đây là những kẻ mạo hiểm
của ba ngày trước, những người mang tính mạng ra đánh một canh bạc cuối. Họ đã
tính sai về lòng nhân đạo của những người bên kia.
Nắng như đổ lửa trên đầu, hơi người chết xông lên khiến cho nhiều người lộn
mửa. Tôi trông thấy chiếc Vespa trắng của trung sĩ nhất Khánh, một người lính
cũ của tôi. Không biết Khánh có thoát nạn không? Chúng tôi ngừng lại giữa những
xác người ngổn ngang. Nhiều xác đã trương lên, nhiều xác đã bắt đầu chảy nước
vàng. Mấy người biệt động quân giả lại một lần nữa có dịp trở thành những con
thú, họ gỡ những chiếc đồng hồ tay của người chết, họ bỏ xe hơi xuống đi bộ
kiếm những xe còn tốt của người đã chết.
Ngày N + 10, 1 giờ trưa
Ba xác chết trôi lững lờ trên dòng nước, một xác trương to và trắng như một con
heo cạo. Kỳ lạ một điều là hình như chúng tôi không thể vượt khỏi ba xác chết
này, bởi lẽ chúng tôi vừa chạy vừa bứng chốt đằng trước. Cứ khoảng hai cây số
một chốt lớn, ngừng lại chờ thiết giáp và biệt kích dọn xong con đường. Khoảng
thời gian chờ đợi này, ba cái xác cứ tuần tự lướt qua.
Ngày N + 10, 2 giờ 30
chiều
Đoàn xe tới một làng tương đối trù phú, có vài ngôi nhà gạch ngói đỏ tươi, có
những cây cau cao đang trổ trái. Làng ở bên kia dòng nước, tôi thấy những chiếc
cầu nhỏ để dân chúng xuống tắm giặt. Địch bắn từ bìa làng, hàng ngàn cây súng
trên đoàn xe đáp lễ, M79 đệm nhịp như pháo cối. Ít nhất cũng nửa làng ra tro.
Dòng nước vẫn chảy thẳng, ba cái xác người lơ lửng trôi xa.
Bây giờ chúng tôi quẹo trái về quận Hiếu Xương, mười ba cây số được đánh đổi
bằng sáu tiếng đồng hồ, chỉ còn ba cây số nữa chúng tôi bắt tay được với địa
phương quân, họ có hai tiểu đoàn ở đây, mở đường hơn tuần lễ không được. Gặp họ
kể như chúng tôi thoát hiểm. Trận đánh giảm cường độ, bây giờ chỉ còn súng nhỏ
nổ từng chập. Người ta không còn xả súng bắn bừa vào những chỗ khả nghi nữa.
Lác đác dọc dường, dân địa phương xuất hiện, những người dân hiền hòa ở đây,
bầy ra vệ đường từng lu nước lạnh, từng mẹt trái cây, và thức ăn tạm cho người
chạy giặc đỡ đói lòng.
Có một lúc im tiếng súng, tôi nhìn về phía sau, đoàn xe bị cắt ra làm nhiều
quãng, xe hai bánh và người đi bộ lũ lượt trên đường, trám vào các quãng trống
đó nên đoàn xe hầu như vẫn liền lạc. Bọn lính trên xe tôi nói cười huyên náo.
Một trái khói tím trước mặt, một tràng M16 nổ vu vơ, mấy chiếc xe đầu đoàn
ngừng lại, rồi một chiếc xe Jeep tách ra đậu ven đường, vài người lính biệt
kích từ trên xe bước xuống, họ tiến vào một khoảng trống có nhiều ngôi mộ cổ,
những ngôi mộ có tường bao quanh như một lăng tẩm nhỏ. Vài phút sau họ trở ra,
một người lính biệt kích khoát tay, cả đoàn xe từ từ chuyển, chiếc xe Jeep vẫn
đậu ở đó, mấy người lính biệt kích đứng tản mát chung quanh, trong khi vị chỉ
huy của họ ngồi bất động trên xe Jeep.
Đột nhiên chiếc xe Jeep nghiêng đi, cùng với một bó lửa tỏa ra, xe bốc cháy,
một trái B40 bắn sẻ đã kết liễu vi sĩ quan biệt kích. Sự kiện xảy ra như chớp
mắt, trước mặt xe tôi chừng năm chục thước. Xác người sĩ quan đổ xuống, nửa
thân trên nhô hẳn ra thành xe. Những người lính biệt kích chồm dậy, họ túa vào
mấy ngôi mộ, đạn rít bên tai, đạn cầy dưới đất. Họ xung phong vào địa thế trống
trải, thượng liên đích nổ ròn tan. Một người lính biệt kích đang chạy, bật ngửa
về phía sau, anh bi thương ở chân, lăn người hai vòng, núp vào một bờ đất nhỏ,
trong khi các bạn anh bọc vòng hai cánh. Nhiều tiếng M79 nổ, từ phía sau mấy
ngôi mộ. Ba người áo đen từ trong mấy ngôi mộ chạy ra, nhưng không chạy được
xa, ngã vật xuống bởi những làn đạn của những tay súng lão luyện. Chúng ngã
xuống cùng lúc với một trái lựu đạn nổ trên đầu.
Trận đánh diễn ra không đầy năm phút, kể từ lúc trái B40 nổ, cho tới khi những
người lính biệt kích trở về khiêng xác vị chỉ huy của họ xuống, mui xe Jeep vẫn
cháy âm ỉ.
Những người lính biệt kích này, đã theo chúng tôi suốt đoạn đường. Đêm đêm, họ
vẫn âm thầm đi kích để bảo vệ cho đoàn xe. Chỉ còn một cây số nữa là bạn. Trong
6 tiếng đồng hồ liên tục, những người này đã giẫm nát những chốt địch.
Bây giờ là bốn giờ rưỡi ngày 28-3-1975. Vĩnh biệt người sĩ quan biệt kích vữa
nằm xuống, vĩnh biệt người chết dọc đường, vĩnh biệt những người đã nằm xuống
cho chúng tôi kéo dài hơi thở. Khoảng bao lâu nữa chúng tôi sẽ thiếu khí trời.
Tôi nhớ đến tiếng tiêu của người lính biệt động quân, cái vô nghĩa của kiếp
người, trong một sát na ngắn ngủi.
Có thể tối nay, những người dân Sài Gòn, những người dân ở các vùng yên bình
tạm bợ sẽ được nghe một mẩu tin nhỏ trên các đài phát thanh hoặc trên màn ảnh
nhỏ: "Quân và dân ba tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn đã đến được Tuy
Hoà."
Nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1988, bản đăng trên talawas với sự đồng ý của tác giả
SOURCE:
No comments:
Post a Comment