Saturday, August 1, 2020

Hịch Tướng Sĩ - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn


“Hịch Tướng Sĩ” được viết vào năm 1285, khi cuộc xâm lăng lần thứ hai của quân Nguyên Mông đe dọa cả nước. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì đây là “bài hịch hiểu dụ các tỳ tướng”. Sau này được gọi là Hịch Tướng Sĩ, nằm trong phần lời nói đầu của “Binh Thư Yếu Lược” do Trần Quốc Tuấn soạn cho tướng sĩ dưới trướng của ông dành để học tập.

Những trang sử chống ngoại xâm vàng son nhất của Việt Nam đều do công của Trần Quốc Tuấn lập ra. Trong khi đội quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn làm mưa làm gió gần như khắp thế giới thì Việt Nam là một trong ba nước hiếm hoi cùng với Ấn Độ và Indonesia ngăn chặn được cơn hồng thủy Mông Cổ.

Cả ba lần đánh giặc, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Năm 1258, Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh chặn quân Mông Cổ ở Hưng Hoá.

Năm 1284, khi quân Nguyên Mông chuẩn bị sang xâm chiếm nước ta  lần thứ 2, Trần Quốc Tuấn tổ chức duyệt quân ở Đông Bộ Đầu, đọc “Hịch Tướng Sĩ”, sau đó tổ chức rút lui binh lính để bảo toàn lực lượng.

Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn cho quân tổng phản công và trực tiếp chỉ huy đánh thắng trận đầu ở A Lỗ; liên tiếp thắng lớn trong các trận: Hàm Tử, Chương Dương và Vạn Kiếp.
Ba năm sau vào tháng 1 năm 1288 quân Nguyên Mông tiếp tục tràn vào xâm lược nước ta. Trong lần tấn công lần thứ 3 này quân nhà Trần chiến thắng trận Vân Đồn. Tháng 4 năm 1288, thắng lớn trong trận Bạch Đằng và trận phục kích ở ải Nội Bàng thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tí, tức năm 1300 Trần Quốc Tuấn qua đời. Sau khi ông mất, vua phong ông tước “Hưng Đạo Đại Vương”, cho lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.



XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP

Nguyên văn bài HỊCH TƯỚNG SĨ:

Dụ chư tỳ tướng hịch văn, thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của Trần Hưng Đạo Xin xem vi:Hịch tướng sĩ. Dưới đây là nguyên bản và phiên-âm của Ngô Tất Tố trong “Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần” Nxb Đại Nam, Sàigòn, 1960

Ta thường nghe: Kỷ Tín (1) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu (2) chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương. Dự Nhượng (3) nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay cứu nạn cho nước. Kinh Ðức (5) một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh (6) một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?

Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên (7) là người thế nào? Nguyễn Văn Lập tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư (8) lớn tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha (9) đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu! Cốt - đãi - ngột - lang (10) là người thế nào? Xích - tu - tư (11) tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm, đánh quỵ quân Nam Chiếu (12) trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!

Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. ỷ mệnh Hốt Tất Liệt (13) mà đòi ngọc lụa, để phụng sự lòng tham không cùng; khoác hiệu Vân Nam vương (14) mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa (15), cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường (16) đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp (17) của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" (18) làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" (19) làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông (20), mọi người đều tài như Hậu Nghệ (21), có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai (22). Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền (23) mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc (24), để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.

Huệ Chi
(Dịch lại trên cơ sở các bản dịch cũ) (25)

Chú thích:

(1) Kỷ Tín: một tướng của Hán Cao Tổ. Khi Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương. Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ đó trốn thoát.

(2) Do Vu: Tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân thu. Theo Tả truyện Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra che chở cho vua mình.

(3) Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết chết. Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.

(4) Thân Khoái: viên quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.

(5) Kinh Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho vua chạy thoát.

(6) Cảo Khanh: họ Nhan, bề tôi của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông ông đã chửi mắng Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.

(7) Vương Công Kiên: tức Vương Kiên tướng nhà Tống, giữ Hợp Châu (Tứ Xuyên), đã huy động quân dân chiến đấu ở núi Ðiếu Ngư cầm cự với đạo quân Mông - Cổ do Môngke (Mongka, phiên âm Hán Việt là Mông Kha) chỉ huy, trong 4 tháng trời. Ðến khi Môngke chết, quân Mông Cổ đành phải rút.

(8) Ðiếu Ngư: tên một trái núi rất hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống, Dư Giới có đắp thành ở đó.

(9) Mông Kha: tức Môngke (Mongka) là anh của Hốt Tất Liệt (Qubilai), làm Ðại hãn (Chúa tể) Mông Cổ từ năm 1251, từng trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước ở phía Ðông. Chính y bị tử trận ở thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân nhà Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.

(10) (12) Cốt - đãi - ngột - lang: tức Uryangkhađai (Uriyangqadai), là một tướng giỏi của Môngke con viên tướng nổi tiếng Nubutai (Subutai).
Uryangkhađai từng nhận lệnh Môngke, cùng với Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam - chiếu, một nước ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ xuyên và Vân Nam thủ đô Ðại - lý (Vân Nam). Uryangkhaiđai cũng chính là viên tướng chỉ huy đạo quân xâm lược Việt Nam lần thứ nhất (1258).

(11) Xích-tu-tư: Xem Khảo đính 3.

(13) Hốt Tất Liệt: tức Khubilai (Qubilai), em ruột và là tướng của Môngke. Sau khi Môngke chết (1259), Hốt Tất Liệt đã tự xưng làm Ðại hãn ở Khai Bình, tổ chức cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Aric Bukê (AriqBuka). Năm 1264, Aric Bukê đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh, tức Bắc Kinh ngày nay và đến năm 1271 thì đặt quốc hiệu là Nguyên. Hốt Tất Liệt chính là Nguyên Thế Tổ.

(14) Vân Nam vương: tức Hughêtư (Hugaci) con Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam vương năm 1267, đóng quân ở Vân Nam với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như làm áp lực quân sự đối với nước ta lúc bấy giờ.

(15) Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: lấy ý ở câu nói của Mã Viện đời Hán (trong Hậu Hán thư) Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. Nghĩa là: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.

(16) Nhạc thái thường: nhạc của triều đình dùng trong những tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao giữa ta và quân Nguyên, trong những tiệc yến tiếp sứ giặc, triều đình phải dùng đến nhạc thái thường để giúp vui. Trần Quốc Tuấn coi đó là một điều nhục nhã.

(17) Thái ấp: phần đất vua phong cho các vương hầu.

(18) Ðặt mồi lửa dưới đống củi nỏ (thố hỏa tích tàn), lấy từ một câu văn của Hán thư. Phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng; hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an, nghĩa là: "ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên".

(19) Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội (trừng canh xuy tê): xuất xứ từ một câu văn của Sở từ Trừng ư canh nhi xuy tè hề: ý nói: người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng e sợ, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng lấy miệng thổi.

(20) (21) Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.

(22) Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua "chư hầu" khi vào chầu vua Hán ở Trường An.

(23) Mãi mãi vững bền: dịch thoát câu vĩnh vi thanh chiên: Sách Thế thuyết chép rằng: Vương Tử Kính đêm nằm ngủ ở trai phòng thấy một bọn trộm lẻn vào nhà, trộm hết mọi vật. Ông từ tốn nói với chúng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi đừng lấy. Tác giả mượn điển này để nói bóng về những của cải lưu truyền từ đời nọ đến đời kia.

(24) Nguyên văn là Bình lỗ chi hậu. Bản dịch của Trần Trọng Kim cũng như bản chú thích của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển, 1942, đều cho Bình Lỗ là tên đất. Bùi Văn Nguyên cũng ức đoán Bình Lỗ tức là vùng Phù Lỗ thuộc thị trấn Kim Anh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay. Nhưng chúng tôi tán thành cách dịch của Ngô Tất Tố, Phan Kế Bính... coi đây là một từ chỉ việc bình định giặc nói chung.

(25) Bản dịch này có tham khảo và chọn lọc câu chữ ở các bài dịch trong quá khứ của Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược), Ngô Tất Tố (Văn học đời Trần, 1940), Nguyễn Ðổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử, 1941), Chu Thiên (Chống quân Nguyên, 1957), Bùi Văn Nguyên (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, 1962), Cao Huy Giu (Bd, ÐVSKTT, 1967), Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tàm (Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông, 1967).
.

No comments:

Post a Comment