1) phe đa số được xem là phe “chính thống
= orthodox
2) phe thiểu số được gọi là phe “xét lại = revisionist.”
Nói một cách tổng quát, lập trường của hai
phe hoàn toàn trái ngược nhau như sau: phe chính thống cho rằng Chiến Tranh Việt
Nam là “một cuộc chiến khộng thể thắng được” (an unwinnable war),
trong khi phe xét lại cho rằng Hoa Kỳ đã có thể thắng, và có thể
với một chi phí thấp hơn rất nhiều, nếu đã áp dụng một chiến lược đúng hơn.
Bài viết
này cố gắng tìm hiểu, phân tích, và đánh giá nhận định của phe chính thống là “CTVN
là một cuộc chiến không thể thắng được.”
Nguồn Gốc
Của Cụm Từ “An Unwinnable War”
Về cụm từ
“an unwinnable war,” mà sau này một số tác già thuộc phe chính thống đã sử dụng
ngay trong nhan đề của các tác phẩm của họ (thí dụ như cuốn Autopsy of an
unwinnable war: Vietnam của 2 tác giả William C. Haponski và Jerry J.
Burcham, do nhà xuất bản Casemate xuất bản năm 2019 và cuốn Vietnam: the
history of an unwinnable war, 1945-1975 của tác giả John Prados
do nhà xuất bản của Viện Đại Học Kansas xuất bản năm 2009), có lẽ đã được sử dụng
lần đầu tiên bởi ông George Ball (1909-1994), Thứ Trưởng Ngoại Giao trong chính
phủ của Tổng Thống Lyndon B. Johnson.
Ông Ball là người duy nhứt, trong số các cố vấn cao cấp của Tổng Thống
Johnson, đã khuyên ông Johnson nên tìm cách giải quyết CTVN bằng thương thuyết
vì ông không tin rằng Hoa Kỳ có thể thắng được trong cuộc chiến đó. Trong văn thư đề ngày 1-7-1965, gởi cho Tổng
Thống Johnson, ông trình bày rất rõ ràng và đầy đủ những suy nghĩ của ông về
CTVN, với mục đích là khuyên can Tổng Thống đừng leo thang chiến tranh tại Việt
Nam. Ngay trong phần mở đầu của văn thư
này, dưới tiêu đề “A Losing War” (tạm dịch: “Một Cuộc Chiến Mà
Ta Đang Thua”), ông đã viết rõ như sau:
“… No one can assure you that we can beat the Viet Cong or even force
them to the conference on our terms, no matter how many hundred thousand white,
foreign (US) troops we deploy.” [1]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “… Không ai có thể bảo đảm với Tổng Thống rằng chúng ta có thể đánh
bại được Việt Cộng hay ngay cả buộc họ đến bàn hội nghị theo điều kiện của
chúng ta, cho dù chúng ta có dàn ra cả trăm ngàn quân da trắng, ngoại quốc [ám
chỉ quân Mỹ].”)
Lúc đó, Tổng
Thống Johnson đã không nghe lời khuyên can này, mà vẫn quyết định leo thang chiến
tranh. Về sau này, sau khi Tổng Thống
Johnson đã qua đời và Thư Viện Lyndon B. Johnson đã được xây dựng, trong một cuộc
phỏng vấn trực tiếp có ghi âm (oral interview) do chính Thư viện này thực hiện,
ông Ball đã lần đầu tiên sử dụng cụm từ “unwinnable war”:
“ … But each one was addressed at some particular proposal for
escalation, challenging the proposal and arguing that we were losing the war,
that it was an unwinnable war, that we could commit any number of – 500,000 I
think the figure I used at one point in a memorandum – and that we still would
not win.” [2]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “… Nhưng mỗi một văn thư [các văn thư mà ông Ball gởi cho Tổng
Thống Johnson] đều nhắm vào một đề nghị leo thang đặc biệt nào đó, thách thức
đề nghị đó và tranh luận rằng chúng ta đang thua trận, rằng đó là một cuộc
chiến không thể thắng được, rằng dầu cho chúng ta có thể sử dụng bất cứ một
quân số nào – tôi nghĩ rằng đã có lúc tôi đã đưa ra con số 500.000 trong một
văn thư – thì chúng ta cũng vẫn sẽ không thể thắng được.”
Luận Cứ Của
Nhận Định
Để có thể
thật sự hiểu rõ quan điểm này, chúng ta cần phải trở về giai đoạn người Mỹ quyết
định leo thang CTVN. Đó là vào đầu năm
1965, hai năm sau vụ đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, với sự tranh dành
quyền lực giữa các tướng lãnh của VNCH tạo ra một sự hỗn loạn về chính trị, khiến
cho lực lượng Cộng sản phát triển quá mạnh và đe dọa Miền Nam rất nặng nề và đẩy
Hoa Kỳ đến nỗi phải quyết định đưa quân sang tham chiến hầu lật ngược lại tình
thế nguy ngập đó.[3, 4] Lúc đó, ngoại trừ ông George Ball như đã
trinh bày bên trên, gần như tất cả các cố vấn thân cận của Tổng Thống Johnson, đặc biệt là Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara, đều đồng ý với chủ trương leo thang chiến tranh tại Miền Nam.
Việc leo thang CTVN được thực hiện bằng hai chủ
trương cùng một lúc:
1) Ồ ạt đổ quân bộ chiến (combat ground troops) vào Miền
Nam;
2) Oanh tạc liên tục Miền Bắc với Chiến Dịch Sấm Rền (RollingThunder)
bằng các máy bay phản lực từ các căn cứ không quân tại Miền Nam (Đà Nẵng là
quan trọng nhứt), các hàng không mẫu hạm ngoài khơi Biển Đông, và bằng các máy
bay oanh tạc chiến lược B-52 từ các căn cứ ngoài đảo Guam hay tại Thái Lan. Và trong khoảng thời gian 3 năm, 1965-1967, cường
độ ác liệt của CTVN đã gia tăng đến mức khủng khiếp. Chúng ta hãy nghe ông McNamara kể lại trong
cuốn hồi ký của ông như sau:
“Between 1965 and 1967, U.S. and South Vietnamese air forces dropped
over a million tons of bombs on the South, more than twice the tonnage dropped
on the North. … Sorties against North Vietnam grew from 25,000 in 1965 to
79,000 in 1966 to 108,000 in 1967, and the tonnage of bombs dropped rose from
63,000 to 136,000 to 226.000.” [5]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Giữa 1965 và 1967, không quân Mỹ và Nam Việt Nam đã thả trên một
triệu tấn bom tại Miền Nam, hơn gấp đôi số lượng bom thả ở Miền Bắc. … Số phi vụ
oanh tạc Miền Bắc đã tăng từ 25.000 năm 1965 lên 79.000 năm 1966 lên đến
108.000 năm 1967, và số lương bom thả tăng từ 63.000 tấn lên 136.000 tấn và lên
đến 226.000 tấn”)
Quyết định
tham chiến và leo thang chiến tranh của Hoa Kỳ, ngoài mục tiêu lật ngược lại
tình thế nguy ngập tại Miền Nam vào đầu năm 1965, còn có một mục tiêu chiến lược
nữa là cho Miền Bắc thấy rõ quyết tâm bảo vệ Miền Nam của Hoa Kỳ, gây thiệt hại
nặng nề cho Miền Bắc để Hà Nội phải từ bỏ chính sách thôn tính Miền Nam bằng
quân sự. Hoa Kỳ hoàn toàn không đạt được
mục tiêu thứ nhì này. Cũng trong cuốn hồi
ký của mình, ông McNamara đã nhận ra sự thất bại của Chiến Dịch Sấm Rền như
sau:
“… as Rolling Thunder intensified, U.S. intelligence estimated that
infiltration increased from about 35,000 men in 1965 to as many as 90,000 in
1967, while Hanoi’s will to carry on the fight stayed firm.” [6]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “… trong khi Chiến Dịch Sấm
Rền gia tăng cường độ, tình báo Hoa Kỳ ước lượng số quân xâm nhập đã tăng từ
35.000 năm 1965 lên đến 90.000 năm 1967, trong lúc đó ý chí tiếp tục cuộc chiến
của Hà Nội vẫn vững chắc.”)
Từ lúc đó
trở đi, ông McNamara bắt đầu có chuyển biến lớn về tư tưởng, ông bắt đầu hoài
nghi khả năng thắng trận của Hoa Kỳ Giữa
ông và các tướng lãnh cao cấp của Hoa Kỳ trong Bộ Tham Mưu Liên Quân (Joint
Chiefs of Staff, thường ghi tắt là JCS),[7]
bắt đầu có sự bất đồng ý kiến về đường lối cho CTVN, nhứt là về chủ trương oanh
tạc Miền Bắc. Ngày 2-5-1967, ông đề nghị
Tổng Thống Johnson bác bỏ yêu cầu của JCS tăng cường và mở rộng Chiến Dịch Sấm
Rền. Ngày 19-5-1967, trong một văn thư đệ
trình Tổng Thống Johnson, ông đã cho thấy tư tưởng bi quan của ông về Việt Nam
như sau:
“ … Continuation of our present moderate policy, while avoiding a larger
war, will not change Hanoi’s mind, so is not enough to satisfy the American
people; increased force levels and actions against the North are likewise
unlikely to change Hanoi’s mind, and are likely to get us in even deeper in Southeast
Asia and into a serious confrontation, if not war, with China and Russia; and
we are not willing to yield. So we must
choose among imperfect alternatives.” [8]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “… Tiếp tục chính sách dung hòa hiện nay của chúng ta, trong khi
tránh được một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn, sẽ không thay đổi được cách suy
nghĩ của Hà Nội, cũng như không đủ để thỏa mãn người dân Mỹ; tăng quân và đánh
mạnh hơn ở Miền Bắc cũng không làm thay đổi được cách suy nghĩ của Hà Nội, lại
rất có thể làm chúng ta lún sâu hơn vào Đông Nam Á và vào một cuộc đụng đầu
nghiêm trọng, nếu không phải là chiến tranh, với Tàu và Nga; và chúng ta cũng
không muốn nhượng bộ. Vì vậy chúng ta phải
lựa chọn giữa những giải pháp bất toàn.”)
Sự bất đồng
ý kiến giữa JCS và ông McNamara càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Chỉ một ngày sau văn thư đề ngày 19-5-1967 kể
trên, tức là ngày 20-5-1967, JCS đã gửi cho ông McNamara một văn thư trong đó họ
đề cập ngay đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân.
Ông McNamara kể lại trong hồi ký của ông như sau:
“On May 20, they sent me another memo repeating their views that
invasions of North Vietnam, Laos, and Cambodia might become necessary,
involving the deployment of U.S. forces to Thailand, and, quite possibly, the
use of nuclear weapons in South China. All of this, they emphasized,
highlighted the need to mobilize U.S. reserves.
Their continued willingness to risk a nuclear confrontation appalled
me.” [9]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Vào ngày
20 Tháng 5, họ [chỉ JCS] gửi cho tôi thêm một văn thư nữa, lập lại các quan
điểm của họ rằng có thể cần phải đổ quân tấn công vào Bắc Việt, Lào, và Cao
Miên, cũng như dàn quân sang cả Thái Lan, và, rất có thể, phải sử dụng vũ khí hạt
nhân tại Hoa Nam. Tất cả các việc đó, họ
nhấn mạnh, cho thấy rõ cần phải động viên quân trừ bị của Hoa Kỳ. Việc họ tiếp tục sẵn sàng chấp nhận một cuộc
đụng đầu hạt nhân làm tôi kinh hoàng”)
Mất tin
tưởng vào cách suy nghĩ của JCS, ông McNamara quay sang CIA (Central
Intelligence Agency = Cơ Quan Trung Ương Tình Báo của Hoa Kỳ) và nhờ CIA đánh
giá việc oanh tạc Miền Bắc. CIA đã báo
cáo thẳng thừng như sau:
“We do not believe that any of the programs … is capable of reducing the
flow of military and other essential goods sufficiently to affect the war in
the South or to decrease Hanoi’s determination to persist in the war.” [10]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Chúng tôi không tin rằng bất cứ một chương trình nào trong các
chương trình … có đủ khả năng làm suy giảm mức độ vận chuyển chiến cụ và các tiếp
liệu cần thiết để có thể ảnh hưởng đến cuộc chiến ở Miền Nam hay làm suy giảm
quyết tâm của Hà Nội tiếp tục cuộc chiến.”)
McNamara
còn tiến thêm một bước nữa trong việc đánh giá lại tình hình CTVN. Ông và Bộ Trưởng Hải Quân Paul Nitze cho
thành lập, một cách bán chính thức, một nhóm nghiên cứu đặc biệt trong Hải Quân
gọi là Navy Vietnam Appraisal Group, gồm 10 vị đề đốc của Hải
Quân và 1 vị chuẩn tướng của Thủy Quân Lục Chiến, do Đề Đốc Gene R. LaRocque đứng
đầu, sang Việt Nam, nghiên cứu tình hình tại chỗ. Trong thời gian sáu tháng, nhóm này đã tìm hiểu,
nghiên cứu và đánh giá một loạt các chương trình, kế hoạch, khả năng có thể áp
dụng (options) cho CTVN, trong đó có cả khả năng quân đội Hoa Kỳ sẽ đổ bộ và tấn
công thẳng vào Bắc Việt. Kết luận sau
cùng của nhóm nghiên cứu này là Hoa Kỳ sẽ không thể thắng được về quân sự. Ông McNamara ghi lại như sau trong hồi ký của
ông:
“These and other options examined were evaluated as insufficient to
achieve a military victory.” [11]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Các khả năng đó cùng những khả năng khác đã được khảo sát đều được
đánh giá là không đủ để đưa đến một chiến thắng quân sự.”)
Với tư tưởng
bi quan đã ăn sâu vào đầu rồi, công thêm với những kết luận cũng hoàn toàn bi
quan của CIA và nhóm nghiên cứu của Hải Quân vừa kể trên, ông McNamara đã đi đến
kết luận là Hoa Kỳ đã thất bại trong CTVN rồi.
Ông viết như sau trong cuốn hồi ký:
“By now it was clear to me that our policies and programs in Indochina
had evolved in ways we had neither anticipated nor intended, and that the
costs—human, political, social, and economic—had grown far farther than anyone
had imagined. We had failed.” [12]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Tới đây thì đối với tôi đã quá rõ rằng những chinh sách và chương trình
của chúng ta tại Đông Dương đã tiến triển đến mức mà chúng ta đã không có tiên
liệu hay có ý định, và rằng những cái giá mà chúng ta phải trả--về con người, về
chính trị, xã hội, và kinh tế--đã vượt xa hơn mức mà bất cứ ai đã có thể tưởng
tượng. Chúng ta đã thất bại.”)
Cuộc Tổng
Tấn Công Tết Mậu Thân của phe Cộng Sản (khởi sự vào ngày 30-1-1968), mặc dù là
một thất bại rất nặng nề về quân sự của phe Cộng Sản, càng làm cho McNamara tin
chắc là ông đã suy nghĩ đúng: phe Cộng Sản đã thắng. McNamara từ chức Tổng Trưởng Quốc Phòng vào cuối tháng 2-1968. Quyết định cuối cùng
của ông trước khi từ chức là bác bỏ yêu cầu của Tướng Westmoreland tặng thêm
200.000 quân cho lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam vào ngày 27-2-1968.[13]
Ngày
31-3-1968, Tổng Thống Johnson tuyên bố không ra ứng cử nữa, ngưng oanh tạc Bắc
Việt và kêu gọi Hà Nội đến bàn hội nghị.
Sau khi lên cầm quyền, tân Tổng Thống Richard M. Nixon bắt đầu thực hiện
Việt Nam Hóa Chiến Tranh, khởi sự rút quân, và tiến hành
hòa đàm với Bắc Việt, và ký Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973. Quốc Hội Mỹ bắt đầu thực hiện các biện pháp
trói tay Hành pháp, cắt giảm và sau cùng là cắt bỏ quân viện cho VNCH. Ngày 30-4-1975, VNCH đầu hàng. Phe Cộng Sản đã thắng cuộc CTVN.
Phát Triển
Của Nhận Định
Từ sau
năm 1975, mặc cảm thua trận tại Việt Nam, Vietnam syndrome, đã dằn
vặt người Mỹ trong mấy thập niên. Năm
1995, ông McNamara cho xuất bản cuốn hồi ký của ông. Cuốn hồi ký này đã gây rất nhiều tranh luận
trong các giới học giả, sử gia Mỹ nghịên cứu về CTVN, và, dĩ nhiên, khen chê đều
có. Ông McNamara cho rằng dù gì đi nữa,
cuốn hồi ký của ông chỉ cho thấy một phía của việc đánh giá CTVN. Ông muốn nghe phía bên kia (tức phe Cộng sản)
đã nhìn và nghĩ về CTVN ra sao. Ông đã
nhờ ông Leslie Gelb, lúc đó là Chủ Tịch của Hội Đồng Ngoại Giao (Council on
Foreign Relations –CFR),[14] một cơ
quan nghiên cứu bất vụ lợi (non-profit think tank) chuyên về chính sách ngoại
giao và các vấn đề bang giao quốc tế, thăm dò xem Hà Nội có muốn trao đổi kinh
nghiệm về CTVN với Hoa Kỳ hay không. Thời
điểm này rất thuận tiện vì Hoa Kỳ đã bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam vào tháng
2-1994, tái lập bang giao giữa hai nước vào năm 1995, và đến ngày 11-4-1997, ông
Douglas “Pete” Peterson, một cựu phi công Mỹ bị bắn rơi tại Bắc Việt, bị bắt làm
tù binh và giam giữ tại Hỏa Lò, Hà Nội hơn 6 năm, được Tổng Thống Bill Clinton bổ
nhiệm làm Đại Sứ Hoa Kỳ đầu tiên (sau CTVN) tại Việt Nam.
Trong khoảng
thời gian từ tháng 11-1995 cho đến tháng 2-1998, đã có tất cả 6 đợt gặp gỡ tại
Hà Nội, giữa các học giả và cựu viên chức dân sự và quân sự của Hoa Kỳ và Việt
Nam, trong đó, quan trọng nhứt, về phía Hoa Kỳ là cưu Tổng Tưởng Quốc Phòng
Robert S. McNamara, và về phía Việt Nam là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. Nhiều tài liệu đã được soạn thảo để chuẩn bị
cho các đề tài thảo luận trong các cuộc gặp gỡ đó. Sau đó, tất cả được đúc kết lại thành một tập tài
liệu dùng làm căn bản để thảo luận tại một hội nghi quốc tế mang tên là “The
Vietnam War Re-examined: Its History and Lessons” do Rockefeller
Foundation tổ chức tại Bellagio, Ý Đại Lợi, từ ngày 27 đến 31 Tháng Bảy năm
1998, có sự tham dự của các viên chức và học giả Mỹ-Việt cùng một số học giả quốc
tế. Sau hội nghị, năm 1999, tập tài liệu
này được Nhà xuất bản Public Affairs tại New York in thành sách với nhan đề “Argument
without end: in search of answers to the Vietnam tragedy.” [15]
Cuốn
sách này gồm tất cả 8 chương trình bày những kết luận rút ra từ các đề tài đã
thảo luận trong các buổi họp tại Hà Nội.
Chương Bảy, dưới tiêu đề U.S. Military Victory in Vietnam: A
Dangerous Illusion? từ trang 313 đến trang 371, sẽ giúp chúng ta hiểu
thật rõ luận cứ căn bản của nhận định tiêu cực này của ông McNamara và những
người cùng phe với ông về CTVN. Toàn bộ
Chương Bảy này, ngoại trừ phần Introduction (tr. 313-317) do ông McNamara viết,
hoàn toàn do cưu Đại Tá Herbert Y. Schandler phụ trách.
Ông
Herbert Y. Schandler (1928-2015) là một cựu chiến binh và là một nhà nghiên cứu
về CTVN. Ông tốt nghiệp Tường Vỏ Bị
Westpoint của Hoa Kỳ vào năm 1952, đã phục vụ hai nhiệm kỳ tại Việt Nam trong Lực
Lượng Đặc Biệt và giải ngũ với cấp bậc Đại Tá của Lục Quân Hoa Kỳ. Ông đậu Tiến Sĩ về Hành Chánh Công Quyền (PhD
in Public Aministration) tại Viện Đại Học Harvard, và là tác giả của 2 cuốn
sách nổi tiếng sau đây về CTVN:
·
The Unmaking of a president: Lyndon Johnson and
Vietnam, do Nhà Xuất Bản Đại Học Princeton xuất bản năm 1977
·
America in Vietnam: the war that couldn’t be won, do Nhà Xuất Bản Rowman
& Littlefield xuất bản năm 2009
Tiến sĩ
Schandler được ông McNamara giao cho nhiệm vụ trả lời câu hỏi chánh đã được dùng
làm tiêu đề cho Chương Bảy: Chiến thắng về quân sự của Hoa Kỳ tại Việt
Nam có phải là một ảo tưởng nguy hiểm không? Và câu trả lời của ông Schandler là như sau:
“The achievement of a military victory by U.S. forces in Vietnam was
indeed a dangerous illusion.” [16]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Việc thực hiện được một chiến thắng quân sự của Hoa Kỳ tại Việt
Nam quả thật là một ảo tưởng nguy hiểm.”)
Khi giải
thích tại sao ông nghĩ rằng chiến thắng quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam chỉ là
một ảo tưởng, Tiến sĩ Schandler đã viết rõ ràng như sau:
“The heart of the illusion is the failure of the U.S. military and
civilian leaders alike to understand the nature of the war in which they became
involved in Vietnam. It was a people’s
war – a civil war. Fundamentally,
therefore, it was not simply a war of North Vietnamese aggression, as we viewed
it at the time.” [17]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Tâm điểm của ảo tưởng này là sự thất bại của các nhà lãnh đạo quân
sự và dân sự Hoa Kỳ không hiểu được bản chất của cuộc chiến tranh mà họ đã đính
líu vào tại Việt Nam. Nó là một cuộc
chiến tranh nhân dân, một cuộc nội chiến.
Vì thế, trên căn bản, nó không phải đơn thuần là một cuốc chiến tranh xâm
lược của Bắc Việt, như cách chúng ta đã nhìn nó vào lúc đó”)
Phản Biện
Lại Các Luận Cứ Của Nhận Định
Căn bản
quan trọng nhứt của luận cứ cho nhận định tiêu cực về CTVN nầy xuất phát từ sự
thất bại của quân đội viễn chinh Pháp trong Chiến Tranh Đông Dương (CTĐD,
1945-1954) tức là cuộc kháng chiến của người Việt Nam chống lại dã tâm muốn đặt
lại ách thống trị của người Pháp. Các
tác giả thuộc phái chính thống đều đã nhìn CTVN như là một sự tiếp nối của
CTĐD, và quân đội Mỹ cũng giống như quân đội Pháp là một quân đội ngoại nhập và
vì thế sẽ bị dân chúng Việt Nam chống đối và sau cùng cũng sẽ thất bại như quân
đội viễn chinh Pháp. Quan điểm này chính
là nguồn gốc của tất cả mọi lập luận sai lầm của phe chính thống về bản chất của
CTVN. Phe chính thống đã dựa vào những
suy nghĩ và kết luận của ông McNamara, người chủ trương và thực hiện đường lối
quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, là Hoa Kỳ đã làm hết tất cả những gì Hoa Kỳ có
thể làm được về quân sự rồi mà vẫn không thể thắng được, vậy CTVN đúng là “một
cuộc chiến tranh không thể thắng được.” Chúng ta sẽ đánh giá từng luận cứ của nhận định
tiêu cực này.
Luận Cứ Về
Bản Chất Của CTVN
Trước hết
chúng ta hãy thảo luận về khẳng định của Tiến sĩ Schandler rằng CTVN là một cuộc
“chiến tranh nhân dân,” và vì vậy nó là một cuộc “chiến
tranh không thể thắng được.” Luận
cứ này cho thấy tác giả Schandler đã chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi lý luận của
phe Cộng sản. Quan niệm chiến tranh nhân
dân do Tướng Cộng sản Võ Nguyên Giáp đúc kết từ kinh nghiệm chống ngoại xâm
trong cả ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Nó hoàn toàn đúng khi nói về CTĐD khi toàn dân Việt Nam đứng lên chống lại
quân đội viễn chinh Pháp. Nhưng hoàn
toàn sai khi nói về CTVN với chủ ý gán ghép cho quân đội Mỹ vai trò tương tự
như quân đội Pháp, và xem dân chúng Miền Nam như dân chúng Việt Nam trong thời
gian CTĐD. Người Mỹ rõ ràng là
không hiểu gì hết về lịch sử Việt Nam trong thời cận đại. Các tác giả phe chính thống thường cho rằng
các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Mỹ không hiểu Bắc Việt (chính vì vậy
mà McNamara đã phải sang Hà Nội nhiều lần, trong khoảng thời gian 1995-1998, chịu
bị sĩ nhục để tìm hiểu quá muộn màng về Bắc Việt, như đã trình
bày bên trên) nhưng họ không biết rằng, thật ra, họ cũng không hiểu luôn
cả đồng minh của họ là VNCH.
Có thể
nói mà không sợ sai lầm rằng phần đông những người Mỹ có tìm hiểu về Việt Nam,
trong đó có các tác giả phe chính thống, cũng như các nhà lãnh đạo chính trị và
quân sự của Mỹ, đều tin rằng Bắc Việt, và biểu hiện cụ thể là Đảng Cộng Sản Việt
Nam (ĐCSVN), là đại diện chính thống duy nhứt của dân tộc Việt Nam và chính họ cũng
đã từng là những người có công đánh đuổi quân đôi viễn chinh Pháp để giành độc
lập cho Việt Nam. Chính vì cách suy nghĩ
rất sai lầm này, mặc dù VNCH là đồng minh của mình trong cuộc Chiến Tranh Lạnh
chống lại sự bành trướng của phe Cộng sản tại Đông Nam Á, người Mỹ vẫn có phần
nào không thành thật tôn trọng VNCH, nếu không muốn nói là có nhiều lúc khinh
khi ra mặt. Họ đã không chịu tìm
hiểu cho thật rõ VNCH từ đâu mà ra và tại sao VNCH, từ chánh phủ cho đến dân
chúng, đã không thể nào chấp nhận sống chung với người Cộng Sản. Phần trình bày ngay bên dưới đây cho thấy rõ
những diễn tiến của lịch sử cận đại của Việt Nam đưa đến sự thành lập của quốc
gia mang tên Việt Nam Cộng Hòa.
“Từ sau khi Pháp đặt ách thống trị tại Việt Nam, về tổ chức
và đảng phái, ÐCSVN không phải là đảng phái chính trị đầu tiên và
duy nhứt chống lại thực dân Pháp.
Ngay từ cuối thế kỷ 19 đã có nhiều tổ chức, phong trào kháng
Pháp như Văn Thân, Cần Vương, Ðông Kinh Nghĩa Thục, Ðông Du, vv. Sang đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện khá
nhiều chính đảng chống Pháp như Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDÐ), Ðại
Việt, Duy Dân, Tân Việt Cách Mạng Ðảng, vv. Cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ năm 1927 đã
xảy ra ngay cả trước khi ÐCSVN ra đời (1930). Về cá nhân thì HCM cũng không phải là
nhà ái quốc đầu tiên và duy nhứt chống Pháp: người Việt Nam không ai
là không biết tên các nhà ái quốc chống Pháp như sau: cuối thế kỷ 19
là các vị như Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Phan
Ðình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám; sang thế kỷ 20 là
các vị như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, Tạ
Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, vv.” [18]
Ngay cả
trước khi ĐCSVN thực hiện thành công Cuộc Cách Mạng Tháng Tám tại Hà Nội (14 đến
30-8-1945), dân chúng tại Miền Nam Việt Nam (lúc đó còn gọi là Nam Kỳ hay Nam Bộ)
đã nô nức tham gia vào các tổ chức và phong trào đấu tranh giành độc lập.
“Ngày 18 tháng 3, 1945 tức hơn một tuần sau ngày Nhật đảo chánh 9 tháng
3, lần đầu tiên ở Sài Gòn đã có một cuộc biểu tình khổng lồ, công khai, trên
50.000 người ở sân thể thao Vườn Ông Thượng. Dân chúng Sài Gòn đã nô nức hưởng ứng
lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà tham dự lễ tưởng niệm các nhà ái quốc Hoàng Hoa
Thám, Phan Ðình Phùng, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh, Dương
Bá Trạc. Hài cốt hỏa thiêu của Dương Bá Trạc đã được ông Trần Văn Ân gởi về từ
Chiêu Nam (Singapour). Một bàn thờ Tổ Quốc với một đại kỳ màu vàng trên có khắc
hai chữ Việt Nam đỏ chói được dựng lên giữa sân, khói trầm nghi ngút. Lần lượt
lên diễn đàn có: Hồ Văn Ngà chủ tịch Việt Nam Quốc gia Ðộc lập Ðảng, Trần Quang
Vinh đại biểu Cao Ðài, Nguyễn Vĩnh Thạnh đoàn trưởng Cận vệ quân và Nội ứng
Nghĩa binh (đã cộng tác với quân đội Nhật trong ngày đảo chánh Pháp), luật sư
Diệp Ba... Những lời kêu gọi dân chúng tham gia cùng đứng lên củng cố hàng ngũ
quyết tâm xóa tan tàn tích thực dân Pháp, những lời tha thiết tưởng niệm các
nhà ái quốc đã từng hy sinh cho đại cuộc chống ngoại xâm, đã được hùng hồn nói
lên trong bầu không khí tự do, phấn khởi của một dân tộc không còn e dè, lo ngại
kẻ thù như trước.” [19]
Và sau
đó, một lần nữa, sau khi Nhưt đầu hàng Đồng Minh, khi quân Anh vào Miền Nam để
giải giới quân đội Nhựt, người Pháp lợi dụng cơ hội mang quân vào với ý định
chiếm lại Việt Nam, dân chúng Nam Bộ, đủ mọi thành phần, già trẻ bé lớn, với vũ
khí thô sơ, tầm vong vạt nhọn, một lần nữa lại đi trước Miền Bắc, tổ chức kháng
chiến chống Pháp ngay lập tức từ ngày 23-9-1945 (Hà Nội chỉ chính thức đánh
Pháp từ ngày 19-12-1946). Cuốn hồi ký, Tập
2 (1945-1954) của ký giả Nam Đình Nguyễn Kỳ Nam ghi lại tình hình lúc đó như
sau:
“Tức thì, hôm sau [tức là ngày 24-9-1945], súng nổ khắp nơi : Cầu
Mac-Mahon [tức cầu Công Lý, trên đường dẫn ra phi trường Tân Sơn Nhứt]
bị dân-quân giàn trận đánh quân Anh-Ấn giữ cầu rồi đến cầu Bông, cầu Thị Nghè,
cầu Kiệu [cuối đường Hai Bà Trưng dẫn sang Phú Nhuận] đâu đâu
cũng có trận đánh kich-liệt. Dân-quân
rút ra khỏi Saigon, tổ-chức lại: hể đêm đến, là đột-nhập châu thành đánh phá khắp
nơi.” [20]
Từ lúc đó
trở đi, Việt Minh, do ĐCSVN lãnh đạo, dùng mọi thủ đoạn tiêu diệt một số khá
đông những người yêu nước không-cộng-sản, đủ mọi thành phần và thuộc đủ các chính
đảng, để nắm giữ độc quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngay tại Sài Gòn, Việt Minh cũng không ngần
ngại thủ tiêu một số các nhà yêu nước này.
“Bà Nguyễn Ngọc Sương [Thủ Lãnh Phụ Nữ Tiền Phong], y khoa bác
sĩ tốt nghiệp từ Pháp, và chồng là luật sư Hồ Vĩnh Ký, khoảng một tháng sau
ngày mở màn Nam bộ Kháng chiến, đã bị bộ hạ của Trần Văn Giàu [cán bộ Cộng
Sản, thủ lãnh Việt Minh] xử bắn ở Bến Súc cùng nhiều đồng chí khác, ngày
23 tháng 10-1945, khi quân đội Anh-Ấn tiến chiếm Thủ Dầu Một. Những người bị Trần Văn Giàu bắt ở Thủ Ðức
trong đó có Trần Văn Thạch (người đã hỏi Trần Văn Giàu trong buổi họp có báo
chí tham dự ngày 30 tháng 8-1945, năm ngày sau khi Lâm ủy Hành chánh ra mắt:
“Ai đã cử anh làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp?”), tất cả đã bị bọn cai ngục được
lịnh phải thủ tiêu.” [21]
Trong
giai đoạn đầu này của Nam Bộ Kháng Chiến, mặt trận Việt Minh, với cơ quan Quốc
Gia Tự Vệ Cuộc dưới sự chỉ đạo của các cán bộ Cộng sản như Dương Bạch Mai, Nguyễn
Văn Trấn (nổi danh là hung thần Chợ Đệm), đã thủ tiêu không biết bao những nhà
yêu nước không cộng sản như Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hoặc Cộng
sản nhưng thuộc Đệ Tứ Quốc Tế như các ông Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn
Thạch, vv Trong lúc đó, ở ngoài Bắc thì
rất nhiều đảng viên thuộc các chính đảng quốc gia không-cộng-sản, nhứt là Việt
Nam Quốc Dân Đảng, cũng đã bị phe Cộng sản truy sát và thủ tiêu. Khái Hưng, một nhà văn nổi tiếng trong nhóm Tự
Lực Văn Đoàn, vì là một đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng, cũng đã phải chịu
chung số phận.[22]
Thấy rõ bộ mặt thật của ĐCSVN, các nhà yêu nước quốc gia không-cộng-sản bắt đầu rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, tìm mọi cách rời các chiến khu để trở về thành phố. Ở ngoài Bắc, dân chúng gọi phong trào đó là “dinh tê,” ở trong Nam thì gọi là “về thành.” Xin đơn cử ra đây hai trường hợp điển hình của hai chính khách nổi tiếng của Miền Nam:
1) Giáo sư Trần Văn Hương, khi Kháng Chiến Nam Bộ bắt đầu, là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Kháng (Hành Chánh Kháng Chiến) của tỉnh Tây Ninh, về sau đã hai lần làm Đô Trưởng Sài Gòn, hai lần làm Thủ Tướng, sau đó là Phó Tổng Thống rồi Tổng Thống;
2) Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, trong thời gian kháng chiến là Quân Y Trưởng của Sư Đoàn 320,[23] về sau tham chính nhiều lần với các chức vụ Tổng Ủy Viên, Tổng Trưởng, Phó Thủ Tướng. Phần đông các vị này hoàn toàn không có về thành để hợp tác với Pháp, thí dụ: ông Trần Văn Hương chỉ tham chính với chức vụ Đô Trưởng Sài Gòn sau khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước vào tháng 7-1954. Tuy nhiên, việc rời bỏ kháng chiến này chỉ mới liên hệ đến các cá nhân thôi. Phải đợi đến khi ĐCSVN bắt đầu thi hành chương trình Cải Cách Ruộng Đất, khởi sự từ năm 1953, giết hại hàng trăm ngàn người dân vô tội, thì dân chúng mới thấy rõ sự độc ác, tàn bạo và vô luận của họ,[24] và việc rời bỏ kháng chiến mới thật sự trở thành một phong trào quần chúng.
Thấy rõ bộ mặt thật của ĐCSVN, các nhà yêu nước quốc gia không-cộng-sản bắt đầu rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, tìm mọi cách rời các chiến khu để trở về thành phố. Ở ngoài Bắc, dân chúng gọi phong trào đó là “dinh tê,” ở trong Nam thì gọi là “về thành.” Xin đơn cử ra đây hai trường hợp điển hình của hai chính khách nổi tiếng của Miền Nam:
1) Giáo sư Trần Văn Hương, khi Kháng Chiến Nam Bộ bắt đầu, là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Kháng (Hành Chánh Kháng Chiến) của tỉnh Tây Ninh, về sau đã hai lần làm Đô Trưởng Sài Gòn, hai lần làm Thủ Tướng, sau đó là Phó Tổng Thống rồi Tổng Thống;
2) Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, trong thời gian kháng chiến là Quân Y Trưởng của Sư Đoàn 320,[23] về sau tham chính nhiều lần với các chức vụ Tổng Ủy Viên, Tổng Trưởng, Phó Thủ Tướng. Phần đông các vị này hoàn toàn không có về thành để hợp tác với Pháp, thí dụ: ông Trần Văn Hương chỉ tham chính với chức vụ Đô Trưởng Sài Gòn sau khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước vào tháng 7-1954. Tuy nhiên, việc rời bỏ kháng chiến này chỉ mới liên hệ đến các cá nhân thôi. Phải đợi đến khi ĐCSVN bắt đầu thi hành chương trình Cải Cách Ruộng Đất, khởi sự từ năm 1953, giết hại hàng trăm ngàn người dân vô tội, thì dân chúng mới thấy rõ sự độc ác, tàn bạo và vô luận của họ,[24] và việc rời bỏ kháng chiến mới thật sự trở thành một phong trào quần chúng.
Đến đây
thiết tưởng chúng ta cũng nên bàn qua về tính chính thống của chính quyền Bắc
Việt. Vấn đề này đã từng được một tác giả
nhận định như sau:
“Phải thành thật mà nhận rằng, do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy, nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) lúc mới thành lập đã hội đủ phần nào các điều kiện
để mang tính chính thống và được hậu thuẩn của nhân dân. Điểm quan trọng cần ghi nhận ngay ở đây là sự
hậu thuẫn này nhân dân Việt Nam dành cho một chính quyền đại diện cho toàn dân để
tranh đấu cho độc lập và tự do của đất nước, chớ không phải dành cho một nhà nước
Cộng sản để xây dựng chủ nghïa xã hội. Cuộc
kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp cũng đặt trên cơ sở
này. Chính quyền VNDCCH đã tự động và
đơn phương thay đổi điều kiện trong bản hợp đồng với nhân dân. Năm 1951, khi ĐCSVN tái sinh dưới danh hiệu Đảng
Lao Động VN và trực tiếp nắm quyền lãnh đạo kháng chiến, đẩy nhân dân vào chỗ giết nhau trong các vụ đấu tố cải cách ruộng đất (trong khi miệng vẫn hô hào đoàn
kết toàn dân) thì cũng chính năm đó phải được xem là thời điểm chấm dứt tính
chính thống của nhà nước VNDCCH. Phân
tích đến cùng, ta phải thấy rõ là thật ra chính ĐCSVN đã bức tử nhà nước chính
thống VNDCCH. Và hành động bất hợp pháp
này, ngay lập tức, đã bị nhân dân phản kháng và chống đối. Sự gia tăng rõ rệt của
những vụ liều chết tìm cách rời bỏ chiến khu để trở về thành sau năm 1952 cûa
nhiều phần tử yêu nước đã từng thực sự đóng góp cho kháng chiến và của đông đảo
đồng bào nông thôn đã nói lên sự phản đối này. Tiếp theo đó, với sự chia cắt đất nước, trắng
trợn phản bội quyền lợi của đất nước và với sự quyết liệt chối bỏ và xa lánh
cûa hàng triệu ngườ di cư vào Nam, sự chính thống cûa nhà nước VNDCCH vĩnh viễn
chấm dứt.” [25]
Cũng
trong thời gian này, quân đội viễn chinh Pháp ngày càng sa lầy trong cuộc chiến,
bắt buộc chính phủ Pháp phải tìm một giải pháp chính trị. Các chính đảng quốc gia chống Cộng nhân cơ hội
đã mời Cưu hoàng Bảo Đại về nước lập chính phủ:
“Ngày 9-9-1947, 24 đại diện các đảng phái và đoàn thể sang Hong
Kong gặp C.H. Bảo Dại.” [26]
Họ trình
bày nguyên vọng chung là:
“…yêu cầu Cựu
hoàng Bảo Ðại, người đại diện độc nhất, đủ tư cách của dân tộc
Việt Nam ra chấp chính và mở cuộc đàm phán với nước Pháp, hầu tái
lập hòa bình ở Việt Nam và thực hiện hòa bình và độc lập.” [27]
Sau
khi chính phủ Pháp thỏa mãn những yêu cầu của Ngài, trong đó điều kiện tiên quyết
quan trọng nhứt là Pháp phải trả Nam Kỳ về cho Việt Nam, Cựu Hoàng mới lên đường
về Việt Nam và thành lập Chính phủ đầu tiên của Quốc Gia Việt Nam vào ngày
1-7-1949 do chính Cưu Hoàng làm Thủ Tướng.[28] Quốc Gia Việt Nam này chính là tiền thân của
VNCH được thành lập vào ngày 26-10-1955 với ông Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống đầu
tiên.
Tất
cả những diễn tiến lịch sử cận đại của Việt Nam vừa trình bày bên trên cho thấy
rất rõ ràng việc các tác giả phe chính thống cho rằng Bắc Việt là chính quyền
chính thống của dân tộc Việt Nam cũng như cho rằng VNCH là do Hoa Kỳ tạo ra sau
Hiệp Định Genève 1954 đều là hoàn toàn sai lầm.
Việc đổ lỗi cho VNCH đã vi phạm Hiệp Định Genève 1954 vì không chịu tổ
chức tổng tuyển cử vào năm 1956 (lý do chánh khiến cho Bắc Việt phải gây chiến
để thống nhứt Việt Nam) cũng hoàn toàn không có cơ sở pháp lý vì Chính phủ Quốc
Gia Việt Nam (mà VNCH kế thừa) đã không có ký và
công nhận Hiệp Định đó. Bác sĩ
Trần Văn Đỗ, Ngoại Trưởng và Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam tại Hội Nghị
Genève, đã phát biểu như sau:
"Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây
nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã
nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất
của (Quốc gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định
ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt
Nam... chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức
rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản
không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam
yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do
hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực
hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở." [29]
Sau khi
Hiệp Định Genève được ký kết vào ngày 20-7-1954 đã có một khoảng thời gian 300
ngày cho dân chúng được hoàn toàn tư do di chuyển để thay đổi nơi sinh sống. Và kết quả cho thấy trong khoảng thời gian đó
chỉ có 4.269 người chọn đi ra Miền Bắc sinh sống so với tổng số 892.876 người
đã chọn lựa di chuyển vào sinh sống tại Miền Nam.[30]
Như vậy, rõ ràng CTVN không phải là một cuộc chiến tranh nhân dân
như tác giả Schandler đã khẳng định. Nó
phải được xem là một cuộc chiến tranh xâm lược. Các lý do rất rõ ràng như sau:
·
Cả VNCH và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức
Bắc Việt) đều là những quốc gia với đầy
đủ tất cả các yếu tố do công pháp quốc tế quy định theo Điều Ước
Montevideo về Quyền và Trách Nhiệm của Quốc Gia (1933):
o
Có một lãnh thổ được xác định
o
Có một dân cư được xác định
o
Có một chính phủ có năng lực kiểm soát
hiệu quả
o
Có năng lực tham gia vào điều ước với quốc
gia khác
·
“Hành vi dùng vũ lực quân sự để tước đoạt
chính quyền, lãnh thổ của một quốc gia khác, theo định nghĩa của Điều 1, Nghị
quyết 3314 năm 1974 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, là hành vi xâm lược theo
công pháp quốc tế.” [31]
Có điều cần ghi nhận thêm rằng đây không phải chỉ là một cuộc chiến tranh xâm lược bình thường mà là một cuộc chiến tranh xâm lược mang màu sắc ý thức hệ rất phức tạp mà hai phe đều là những người cùng một dòng máu, tương tư như cuộc Chiến Tranh Triều Tiên (1951-1953) mà chính Liên Hiệp Quốc đã lên án và cho phép mang quân sang chống lại quân xâm lược Bắc Triều Tiên.
Luận Cứ Về
Chiến Lược Quân Sự Của Hoa Kỳ Tại Việt Nam
Luận cứ này gồm hai điểm chính sau
đây:
·
Hoa Kỳ đã sử dụng hết sức mạnh quân sự của mình rồi mà
vẫn không làm cho Bắc Việt từ bỏ ý định thôn tính Miền Nam
·
Nếu leo thang nữa thì sẽ không tránh được một cuộc đụng
độ hạt nhân
Chúng ta
sẽ lần lượt xem xét từng điểm của luận cứ này
Hoa Kỳ Đã
Sử Dụng Hết Sức Mạnh Quân Sự Của Mình
Luận điểm
này vừa nói lên phương tiện vừa cho thấy mục tiêu của việc Mỹ tham chiến tại Việt
Nam: phương tiện là dùng hết sức mạnh quân sự của Mỹ, mục tiêu là làm cho Bắc
Việt thấy rõ lợi hại mà từ bỏ ý định thôn tính Miền Nam.
Trước hết
hãy xét về mục tiêu. Luận điểm này cho
thấy rõ cái giới hạn của việc Mỹ tham chiến: chỉ muốn Bắc Việt ngừng lại việc tấn
công Miền Nam, nghĩa là trở lại tình trạng hai nước Việt Nam chia cắt tại vĩ
tuyến 17 (giống như ở Đức và Triều Tiên).
Chính vì thế rất nhiều người đã chỉ trích rất đúng là Mỹ đánh giặc mà chỉ muốn hòa, chớ không muốn thắng, trong khi địch thì nhất định phải thắng bằng mọi giá, thế nên Mỹ thua là chuyện đương nhiên.
Cũng chính vì mục tiêu giới hạn này mà chính phủ Mỹ, tức là phe dân sự,
đã đặt ra không biết bao nhiêu hạn chế, gọi là “rules of engagement,”
đối với giới quân sự. Trong việc oanh tạc
Miền Bắc, tức là Chiến Dịch Sấm Rền (Rolling Thunder), các mục tiêu rất hạn chế
và hoàn toàn do phe dân sự chọn lựa và chỉ định, với kết quả vô cùng tai hại,
như nhận định sau đây của Tướng Bruce Palmer, Jr., Tư Lệnh Quân Đoàn II của Hoa
Kỳ tại Việt Nam (II Field Force, Vietnam) trong thời gian 1967-1968:
“In the end, these limited strikes had little effect on the enemy
buildup culminating in the massive Easter Offensive across the DMZ in late
March 1972. This buildup, incidentally,
should have warned the allies of the strong probability of an attack launched
directly from the DMZ.” [32] (Xin tạm dịch sang Việt ngữ
như sau: “Sau cùng, những cuộc oanh kích giới hạn đó đã không ngăn chận được
việc tăng cường lực lương của địch mà đỉnh cao là cuộc tổng tấn công Mùa Phục
Sinh tiến hành vượt ngang qua Khu Phi Quân Sự vào cuối Tháng 3 năm 1972. Tiện đây phải nói là việc tăng cường lực lượng
đó đã có thể báo động cho quân đồng minh về khả năng lớn của một cuộc tấn công
của địch từ Khu Phi Quân Sư.”)
Cũng
chính vì mục tiêu giới hạn như thế mà Mỹ đã áp dụng chiến lược leo thang từng
bước (gradual escalation). Phương thức
leo thang từng bước có thể đem lại hiệu quả tốt trong đấu tranh chính trị hay
ngoại giao, nhưng, trong chiến tranh, nó là một sự sai lầm, có thể đem lại tai
họa không nhỏ bởi vì cách đánh như vậy giúp cho kẻ đich có thời gian bổ sung,
tăng cường và trở lại tấn công. Nói cho
đúng, thật ra, chiến lược của Mỹ còn tệ hơn nhiều, cứ đánh rồi ngừng, ngừng rồi
đánh, rõ ràng là không tìm cách đánh cho dứt điểm. Nhìn lại các diễn tiến của cuộc chiến, chúng
ta có thể thấy rất rõ ràng là phe Công sản đã có được những khoảng thời gian 3
hay 4 năm để bổ sung lực lương cho một đợt tổng tấn công mới: 1968 (Tết Mậu
Thân = Tet Offensive), 1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa = Easter Offensive), và 1975 (Chiến
Dịch Hồ Chí Minh).
Trong tác phẩm The real lessons of the Vietnam War, hai soan giả John Norton Moore và Robert F. Turner đã phê bình rất nặng về chiến lược này của Mỹ như sau:
Trong tác phẩm The real lessons of the Vietnam War, hai soan giả John Norton Moore và Robert F. Turner đã phê bình rất nặng về chiến lược này của Mỹ như sau:
“In fact, our policy was not even gradual escalation; that is,
progressive and increasing application of force to strangle the enemy. Instead, our policy was escalation and
de-escalation, an “on again, off again” knee-jerk reaction that varied with the
intuitive whims of President Johnson and his advisors.” [33]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Thật ra, chính sách của chúng ta cũng không phải là leo thang từng bước; nghĩa là, từ từ tăng cường lực lượng để bóp nghẹt kẻ thù. Thay vì vậy, chính sách của chúng ta là leo thang và xuống thang, phản ứng “khi đánh, khi không” một cách máy móc tùy theo các nổi hứng theo trực giác của Tổng Thống Johnson và các cố vấn của ông ấy.”)
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Thật ra, chính sách của chúng ta cũng không phải là leo thang từng bước; nghĩa là, từ từ tăng cường lực lượng để bóp nghẹt kẻ thù. Thay vì vậy, chính sách của chúng ta là leo thang và xuống thang, phản ứng “khi đánh, khi không” một cách máy móc tùy theo các nổi hứng theo trực giác của Tổng Thống Johnson và các cố vấn của ông ấy.”)
Nói tóm lại,
về mục tiêu, rõ ràng là Mỹ không có chủ trương tiêu diệt kẻ địch là Bắc Việt, nghĩa
là không muốn có một chiến thắng hoàn toàn và tuyệt đối trong CTVN. Đó là một sách lược chiến tranh hoàn toàn đi
ngược tư tưởng quân sự của các tướng lãnh từ xưa tới nay, phản ảnh qua câu nói
để đời của Thống Tướng (tướng 5 sao) Hoa Kỳ Douglas MacArthur: “In war
there is no substitute for victory” (Tạm dịch: Trong chiến tranh không
có gì thay thế được cho chiến thắng).
Trở lại
luận điểm này, phần hai nói rằng Hoa Kỳ đã sử dụng hết sức mạnh quân sự của
mình rồi. Sự thật có đúng như vậy hay
không?
Nói chung
chiến lược quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam gồm 2 bộ phận:
1) Gừi bộ binh tác chiến (ground combat troops) vào Miền Nam để tiêu diệt các đơn vị của quân đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tức là Việt Cộng) và các đơn vị của quân đội nhân dân của Miền Bắc sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập vào;
2) Dùng Không Quân để ngăn chận việc quân Bắc Việt sử dụng Đường mòn Hố Chí Minh và oanh kích Miền Bắc để làm cho Bắc Việt phải từ bỏ ý định thôn tính Miền Nam.
1) Gừi bộ binh tác chiến (ground combat troops) vào Miền Nam để tiêu diệt các đơn vị của quân đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tức là Việt Cộng) và các đơn vị của quân đội nhân dân của Miền Bắc sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập vào;
2) Dùng Không Quân để ngăn chận việc quân Bắc Việt sử dụng Đường mòn Hố Chí Minh và oanh kích Miền Bắc để làm cho Bắc Việt phải từ bỏ ý định thôn tính Miền Nam.
Về sự hiện
diện của quân đội Hoa Kỳ ở Miền Nam, phải công nhận rằng tại thời điểm đầu năm 1968,
Hoa Kỳ đã có tại Miền Nam một lực lượng quân sự rất đáng kể, gần nửa triệu quân
(497.498 người) gồm đủ tất cả các quân binh chủng và các đơn vị thiện chiến,
trong đó đáng kể nhứt là các đơn vị sau đây:
·
Lục Quân (U.S. Army):
o
Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận (1St Cavalry
Division - Airmoblie), tức là Sư Đoàn 1 Anh Cả Đỏ, theo cách gọi của quân Bắc
Việt
o
Các Sư Đoàn Bộ Binh 1, 9, và 25 (1st, 9th
, 25th Infantry Division)
o
Sư Đoàn 23 Bộ Binh (23rd Infantry Division,
cũng có tên là Americal Division)
o
Sư Đoàn Dù 101 (101st Airborne Division)
o
Lữ Đoàn 3 Sư Đoàn Dù 82 (3rd Brigade, 82nd
Airborne Division)
·
Thủy Quân Lục Chiến (U.S. Marine Corps):
o
Sư Đoàn 1 (1st Marine Division) đóng tại Chu
Lai, Quảng Ngải
o
Sư Đoàn 3 (3rd Marine Division) đóng tại Đà Nẵng, Quảng
Nam
o
Sư Đoàn 5 (5th Marine Division) đóng tại Khe Sanh, Quảng
Trị
·
Hải Quân (U.S. Navy):
o
Đã có tất cả 20 Hàng Không Mẫu Hạm (Aircraft Carriers)
đã từng được điều động tham chiến tại Việt Nam, thí dụ như Constellation, Coral
Sea, Enterprise, Hancock, Hornet, Midway, vv.
Mỗi hàng không mẫu hạm này đều chở được hàng trăm phi cơ khu trục phản lực
như A-4 Skyhawk, A-6 Intruder, A-7 Corsair II, vv
·
Không Quân (U.S. Air Force):
o
Sư Đoàn 7 Không Quân (Seventh Air Force) với Bộ Tư Lệnh
đóng tại Tân Sơn Nhứt và các phi đoàn đóng rải rác tại 10 căn cứ không quân
trên khắp lãnh thổ của VNCH; phi cơ phần lớn là khu trục phản lực mà nổi tiếng
nhứt là F-4 Phantom (Bắc Việt gọi là Con Ma), F-105 Thunderchief (Bắc Việt gọi
là Thần Sấm), vv.
Vấn đề cần
phải được thảo luận ở đây là Hoa Kỳ đã sử dụng lực lương quân sự hùng hậu này
như thế nào, với chiến lược gì và với hiệu quả ra sao. Bộ Tư Lệnh của lực lượng này thường được gọi
tắt là MACV (Military Assistance Command, Vietnam) và người chỉ huy là Đại Tướng
(General, tướng 4 sao) William C. Westmoreland (1914-2005), thường được giới
báo chí Hoa Kỳ gọi tắt là Westy. Tướng
Westmoreland tốt nghiệp Trường Võ Bị West Point vào năm 1936 và khởi nghiệp là
một sĩ quan pháo binh, tham dự Đệ Nhị Thế Chiến tại các mặt trận ở Bắc Phi, Ý,
Pháp và Đức, lập được nhiều chiến công, thăng cấp rất nhanh và trở thành Đại
Tá, Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn 9 Bộ Binh Hoa Kỳ. Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm đứt, ông theo học
khóa nhảy dù của Bộ Binh, được bổ nhiệm làm Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 504 của
Sư Đoàn Dù 82, và sau đó là Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn Dù này. Năm 1952, vào lúc 38 tuổi, ông thăng cấp Chuẩn
Tướng (Brigadier-General, tướng 1 sao) và trở thành vị Chuẩn Tướng trẻ tuổi nhứt
của Lục Quân Hoa Kỳ. Trong Chiến Tranh
Triều Tiên, ông là Tư Lệnh Trung Đoàn Dù 187.
Sau Chiến Tranh Triều Tiên, ông lần lượt đảm nhận các chức vu Tư Lệnh Sư
Đoàn Dù 101 (1958-1960), Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị West Point (1960-1963),
thăng lên cấp Trung Tướng (Lieutenant-General, tướng 3 sao, tháng 7-1963), và
Tư Lênh Quân Đoàn Dù 18 (XVIII Airborne Corps).
Tháng 1-1964, ông được cử sang Việt Nam làm Tư Lệnh Phó của MACV và đến
tháng 6-1964 ông được thăng cấp lên Đại Tướng và được Tổng Thống Johnson bổ nhiệm
làm Tư Lệnh MACV.
Tướng
Westmoreland áp dụng một chiến lược gọi là “Lùng và Diệt” (Search and
Destroy), thực hiện một hình thức chiến tranh tiêu hao (war of
attrition) với mục đích làm tiêu hao tối đa lực lượng của địch để
đạt đến một “điểm vượt” (crossover point) được định nghĩa
là điểm mà số quân bổ sung của địch không thể bù đắp được cho số thương vong của
địch. Vì vậy, Westmoreland đã ra lệnh tổ chức các cuộc hành quân
đại quy mô, rất tốn kém, sử dụng một lực lượng rất lớn ở cấp lữ đoàn hoặc sư
đoàn và đánh vào các căn cứ và mật khu quan trọng của địch, thí dụ như Hành
Quân Attleboro tại Dầu Tiếng, Tỉnh Bình Dương, từ ngày 14-9 đến ngày
25-11-1966, Hành Quân Cedar Falls tại khu Tam Giác Sắt, từ ngày 8 đến
26-1-1967, và Junction City tại Chiến Khu C, từ ngày 22-2 đến ngày 14-5-1967. Trong khoảng thời gian 3 năm, với quân số gia
tăng từ 184.300 (1965) lên đến 485.600 (1967), Westmoreland vẫn không thể nào đạt
được “điểm vượt” như mong muốn, ngay cả với cách tính trận liệt (order-of-battle
hay thường được viết tắt là OB) có lợi cho báo cáo của ông bằng cách giảm thiểu
con số du kích và dân quân của phe Cộng sản, đưa đến mâu thuẩn rất
trầm trọng giữa MACV và CIA (Central Intelligene Agency = Cơ Quan Trung Ương
Tình Báo của Hoa Kỳ), phản ảnh qua vụ bản báo cáo về tình báo SNIE14.3-67.[34]
Trong năm 1967, một số người trong và ngoài chính quyền của Mỹ bắt đầu hoài nghi, công kích và sau cùng đề nghị Tổng Thống Johnson từ bỏ chiến lược “Lùng và Diệt” của Tướng Westmoreland. Nhưng Tổng Thống Johnson vẫn không nghe, vẫn tin tưởng Tướng Westmoreland. Cuối năm 1967, ngày 21-11, tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia ở Washington, D.C., Tướng Westmorfeland vẫn còn lạc quan tuyên bố như sau:
Trong năm 1967, một số người trong và ngoài chính quyền của Mỹ bắt đầu hoài nghi, công kích và sau cùng đề nghị Tổng Thống Johnson từ bỏ chiến lược “Lùng và Diệt” của Tướng Westmoreland. Nhưng Tổng Thống Johnson vẫn không nghe, vẫn tin tưởng Tướng Westmoreland. Cuối năm 1967, ngày 21-11, tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia ở Washington, D.C., Tướng Westmorfeland vẫn còn lạc quan tuyên bố như sau:
““We have
reached an important point where the end begins to come into view.” [35]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chúng ta đã đạt đến một điểm quan trọng cho thấy kết thúc bắt đầu hiện ra.”)
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chúng ta đã đạt đến một điểm quan trọng cho thấy kết thúc bắt đầu hiện ra.”)
Chỉ hơn 2
tháng sau, ngày 31-1-1968, Trận Tổng Công Kích Mậu Thân diễn ra một cách ác liệt
tại thủ đô Sài Gòn, các thành phố lớn và gần như tất cả các tỉnh lỵ của
VNCH. Chiến lược “Lùng và Diệt” của Tướng
Westmoreland hoàn toàn bị phá sản. Yêu cầu
tăng thêm 200.000 quân của ông bị Tổng Thống Johnson thẳng tay bác bỏ. Ông được triệu hồi về Mỹ giữ chức Tham Mưu
Trưởng Lục Quân Hoia Kỳ (U.S. Army Chief of Staff) và Phó Tướng của ông là Đại
Tướng Creighton Abrams (1914-1974) được cử lên thay ông làm Tư Lệnh MACV.
Một điều
hết sức quan trọng cần phải được lưu ý ngay.
Trận Mậu Thân là một thất bại quân sự hết sức lớn, chưa từng có đối với
Việt Công. Sau đây là nhũng con số thống
kê về thương vong chính thức do chính ĐCSVN xác nhận:
“111.306 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và chính trị ở miền nam đã
hy sinh và bị thương; trong đó, 44.824 cán bộ và chiến sĩ lực lượng vũ trang đã
hy sinh.” [36]
Nhưng thật
trớ trêu, chính người Mỹ lại xem đây là một thất bại lớn của phe Tự Do, và từ
đó họ quyết định tìm mọi cách xuống thang chiến tranh, thương thuyết với phe Cộng
sản để rút quân về nước. Tổng Thống
Johnson ra lênh ngưng oanh tạc Miền Bắc và tuyên bố không ra tái cử nữa. Sau khi đắc cử, Tổng Thống Nixon thực hiện
việc rút quân trong chương trình Việt-Nam-Hóa (Vietnamization).
Phần lớn
các tác giả thuộc phái chính thống đều sử dụng mốc thời gian 1968 của Trận Mậu
Thân, xem đó là thời điểm Chính phủ Mỹ đã dứt khoát nhận ra là không thể nào thắng
được tại Việt Nam. Ba tác phẩm quan trọng
của nhóm tác giả chính thống nầy là: Vietnam: a history của
Stanley Karnow, America’s longest war của George Herring, và A
Bright shining lie của Neil Sheehan đều dành một đa số trang rất lớn để
nói về CTVN cho tới năm 1968, phần thời gian còn lại của CTVN (nhiều hơn gấp đôi, từ 1968 đến 1975) chỉ được đề cập đến rất sơ sài như sau:
·
Vietnam: a history
o
Từ trang đầu đến trang 567: cho đến 1968
o
Từ trang 568 đến trang 670 (102 trang): thời gian còn
lại của CTVN, 1968-1975
·
America’s longest war:
o
Từ trang đầu đến trang 221: cho đến 1968
o
Từ trang 222 đến trang 282 (60 trang): thời gian còn lại
của CTVN, 1968-1975
·
A Bright shining lie:
o
Từ trang đầu đến trang 725: cho đến 1968
o
Từ trang 726 đến trang 791 (65 trang): thời gian còn lại
của CTVN, 1968-1975
Trong khi
đó, rõ ràng là từ sau Trận Mậu Thân, VNCH và các nước Đồng Minh đã đạt được nhiều
thắng lợi rất lớn, có lúc đã làm lệch cán cân CTVN, gây rất nhiều khó khăn cho
phe Cộng Sản.
Không kể
hai chiến thắng lớn của QLVNCH vào các năm 1968 (Tết Mậu Thân) và 1972 (Mùa Hè
Đỏ Lửa, Tử thủ An Lộc, Tái chiếm Quảng Trị, và giữ vững Kontum), quân đội Mỹ, dưới quyền Tư Lệnh của Tướng Abrams, đã áp dụng một chiến lược mới gọi là “Clear
and Hold = Quét và Giữ.” Chiến
lược này đặt trọng tâm vào vấn đề bình định.
Một nhân viên CIA cao cấp, ông William Colby (trước đã từng là Trường Trạm
CIA tại Việt Nam), được bổ nhiệm phụ trách cơ quan CORDS (Civil Operations and
Revolutionary Development Support) để thực hiện một kế hoạch mới về bình định gọi
tắt là APC (Accelerated Pacification Campaign = Chiến dịch Bình Định Nhanh), mà
cốt lõi là Chiến Dịch Phượng Hoàng
(Phoenix Program), nhằm tiêu diệt ha tầng cơ sở của Việt Cộng (tức Mặt Trận Giải
Phóng) để tái lập an ninh cho các thôn ấp dưới sự kiểm soat của chính quyền
VNCH. Kế hoạch APC đưa ra chỉ tiêu đầu
tiên là trong vòng 3 tháng (90 ngày) sẽ vô hiệu hóa hạ tầng cơ sở của Việt Công
(Viet Cong Infrastructure, gọi tắt là VCI) và lập lại an ninh hoàn toàn cho
1.000 ấp xôi đậu. Kế hoạch này được thực
hiện thành công tốt đẹp, vươt hơn chỉ tiêu 1.000 ấp đã đề ra. Trên thực tế, vào đầu tháng 1-1969, VNCH đã
kiểm soát hoàn toàn được 1.320 ấp.[37]
Chiến Dịch Phượng Hoàng đã gây tổn thất rất
nặng nề cho VCI như sau:
“Between 1968 and 1972, Phoenix "neutralized" 81,740 people
suspected of VC membership, of whom 26,369 were killed. A significant number of
VC were killed, and between 1969 and 1971 the program was quite successful in
destroying VC infrastructure in many important areas.” [38]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Giữa 1968 và 1972, Chiến Dịch Phượng Hoàng “đã vô hiệu hóa” 81.740 người tình nghi là Việt Cộng, trong đó có 26.369 người đã bị giết. Một số lớn Việt Cộng đã bị giết, và giữa 1969 và 1971, chương trình đã thành công trong việc tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tai nhiều khu vực quan trọng.”)
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Giữa 1968 và 1972, Chiến Dịch Phượng Hoàng “đã vô hiệu hóa” 81.740 người tình nghi là Việt Cộng, trong đó có 26.369 người đã bị giết. Một số lớn Việt Cộng đã bị giết, và giữa 1969 và 1971, chương trình đã thành công trong việc tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tai nhiều khu vực quan trọng.”)
Hơn nữa,
một số những hạn chế quan trọng của thời Tổng Thống Johnson đã bị hủy bỏ. Sau khi Tướng Lon Nol đảo chánh, lật đổ chính
quyền thân Cộng sản của Sihanouk đầu năm
1970, Tổng Thống Nixon, vào cuối tháng 4-1970, đã ra lệnh cho quân đội Mỹ, cùng
với QLVNCH, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ Miên, tấn công phá hủy những mật
khu an toàn của phe Cộng sản đã được Sihanouk cho phép đóng dọc theo biên giới
từ bao nhiêu năm trước đó. Chiến dịch
này đã đạt những thành quả quan trọng như sau:
“Major General Nguyen Duy Hinh, author of a postwar monograph, summed up
results of the incursion overall, tabulating 9,300 tons of weapons, ammunition,
and supplies seized, plus 7,000 tons of rice, altogether constituting enemy
requirements for at least six months of operations in the COSVN area.” [39]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, tác giả của một tập sách chuyên đề xuất bản sau chiến tranh, đã tóm lược một cách tổng quát những thành quả của chiến dịch như sau: tịch thu được 9.300 tấn vũ khí, đạn dược và tiếp liệu cùng với 7.000 tấn gạo, đủ dùng ít nhứt cho các cuộc hành quân trong sáu tháng trong khu vực của Trung Ương Cục Miền Nam.”) [COSVN là chữ viết tắt của Central Office for South Vietnam]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh, tác giả của một tập sách chuyên đề xuất bản sau chiến tranh, đã tóm lược một cách tổng quát những thành quả của chiến dịch như sau: tịch thu được 9.300 tấn vũ khí, đạn dược và tiếp liệu cùng với 7.000 tấn gạo, đủ dùng ít nhứt cho các cuộc hành quân trong sáu tháng trong khu vực của Trung Ương Cục Miền Nam.”) [COSVN là chữ viết tắt của Central Office for South Vietnam]
Cũng
trong tình thần hủy bỏ những điều cấm kỵ dưới thời Tổng Thống Johnson, ngày
9-5-1972, Tổng Thống Nixon ra lệnh cho Hàng không mẫu hạm USS Coral Sea phong tỏa
cảng Hải Phòng (nơi tiếp nhận khoảng 85% hàng nhập cảng của Bắc Việt) bằng cách
gài mìn trong Vịnh Bắc Việt. Và khi Bắc
Việt ngang nhiên rời bỏ Hòa Đàm Paris vào cuối năm 1972, Tổng Thống Nixon đã ra
lệnh cho máy bay oanh tạc chiến lược B-52 trải thảm Hà Nội trong 13 ngày đêm
vào dịp Giáng Sinh 1972 (Christmas Bombing) khiến cho Bắc Việt phải trở lại bàn
hội nghị.
Những điều
vừa kể trên cho thấy rõ ràng chiến lược mà Hoa Kỳ đã áp dụng trong khoảng thời
gian 1965 (sau khi Mỹ đổ quân bộ chiến vào Việt Nam) cho đến 1968 (Trận Mậu
Thân) là hoàn toàn sai lầm và vì vậy đã không đạt được chiến thắng. Chúng ta cũng thấy rõ là với một chiến lược mới,
chú trọng nhiều hơn vào vấn đề bình định, đồng thời phá bỏ tất cả những rào cản,
hạn chế vô lý, trói tay quân đội của phe dân sự Mỹ, quân đội Mỹ và QLVNCH đã có
những chiến thắng quân sự rõ rệt (trong các năm 1968, 1970 và 1972), tạo ra được những thay đổi, xoay
chuyển hoàn toàn có lợi cho phe Đồng Minh.
Tất cả giúp khẳng định điều sau đây: Chiến Tranh Việt Nam Dứt
Khoát Không Phải Là Một Cuộc Chiến Tranh
Không Thể Thắng Được và Nếu Hoa Kỳ Đã Áp Dụng Một Chiến Lược Đúng Ngay Từ Đầu
Thì Hoa Kỳ và VNCH Đã Có Thể Thắng CTVN.
Nếu Leo
Thang Nữa Sẽ Không Tránh Được Một Cuộc Đụng Độ Hạt Nhân
Xin nhắc lại,
như trên đã nói, khả năng về việc có thể sử dụng vũ khí hạt nhân đã được đề cập
đến trong văn thư đề ngày 20-5-1967 của JCS (Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ) và
gây kinh hoàng cho Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara. Chúng ta hãy xem xét giá trị của luận cứ này
trong bối cảnh của Chiến Tranh Lạnh và trong khung thời gian 1965-1975.
Trước hết,
như phần trên của bài viết đã trình bày rất chi tiết, khả năng Hoa Kỳ và VNCH,
với một chiến lược khác và không bị giới hạn bởi ràng buộc, cản trở, trói tay,
có thể thắng CTVN, mà không cần sử dụng đến vũ khí hạt nhân, là rất cao.
Giả sử,
ngay cả với chiến lược mới và với sự hủy bỏ tất cả các giới hạn đó mà Hoa Kỳ vẫn
chưa thể thắng được và đành phải sử dụng đến vũ khí hạt nhân thì có khả năng xảy
ra một cuộc đụng độ hạt nhân hay không?
Câu trả lời
là: rất có thể KHÔNG. Tại
sao không?
Nếu Hoa Kỳ
sử dụng vũ khí hạt nhân tại Hoa Nam thì Trung Quốc không thể trả đũa được nên
không thể gọi là “một cuộc đụng độ hạt nhân” được vì chỉ có một
bên là Trung Quốc lãnh bom nguyên tử thôi.
Trung Quốc không thể trả đũa Hoa Kỳ được vì mặc dù TRung Quốc đã có thử
bom nguyên tử từ tháng 10-1964 nhưng Trung Quốc vẫn chưa có phương tiện
(delivery system) là hỏa tiễn mang đầu đạn
nguyên tử để phóng đi. Hơn nữa, trong thập
niên 1960, Trung Quốc còn đang khốn đốn, chia rẽ nội bộ trầm trọng trong Cuộc
Cách Mạng Văn Hóa. Chỉ có Liên Xô là có
phương tiện để trả đũa Hoa Kỳ. Nhưng khả
năng Liên Xô dám đứng ra lãnh một cuộc đụng độ hạt nhân với Hoa Kỳ thì gần như
chắc chắn là không có. Có hai sự kiện lịch
sử quan trọng mà chúng ta có thể dựa vào để kết luận như thế.
Thứ nhứt,
trong cuộc khủng hoảng Cuba (1962), trước quyết tâm của Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận
một cuộc chiến tranh hạt nhân, Liên Xô đã chùn bước, rút lui, chịu tháo gỡ tất
cả các giàn hỏa tiễn tại Cuba. Liên Xô
đã không chịu hy sinh vì Cuba thì lý do gì mà Liên Xô có thể chịu hy sinh vì
Trung Quốc?
Thứ hai,
Liên Xô và Trung Quốc, trong thập niên 1960, đã trở thành thù địch, kình chống
nhau kịch liệt, và, vì vấn đề biên giới, đã từng đánh nhau nhiều lần trong suốt
mấy tháng trời trong một cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1969 (từ ngày 2-3
cho đến ngày 11-9-1969) tại đảo Trân Bảo (Zhenbao Island) trên sông Ussuri, gần
biên giới Mãn Châu. Chính trong thời
gian cuộc xung đột biên giới này, Liên Xô cũng đã có ý muốn sử dụng vũ khí hạt
nhân để đánh phủ đầu Trung Quốc, đặc biệt nhắm vào các cơ sở nghiên cứu và phát
triển nguyên tử của Trung Quốc. Liên Xô
đã tiếp cận và thăm dò ý kiến của các đảng Cộng sản tai các nước Úc, Phần Lan
và Ý. Liên Xô cũng đã thăm dò ý kiến
luôn cả với Hoa Kỳ về chuyện này.[40]
Thay Lời
Kết
Bài viết
này đã cho thấy rất rõ ràng là nhận định “Chiến Tranh Việt Nam là một cuộc
chiến không thể thắng được” là hoàn toàn sai lầm. Nếu đã áp dụng ngay từ đầu một chiến lược
khác, hoàn toàn không có những hạn chế, trói buộc vô lý, Hoa Kỳ đã có thể thắng
trong TCVN, và với một giá thấp hơn nhiều.
Trên thực tế, Hoa Kỳ đã không làm như vậy, và với sự phản bội, vô liêm
sĩ của Quốc Hội Hoa Kỳ của hai Khóa 93 (1973-1975) và Khóa 94 (1975-1977) do Đảng
Dân Chủ kiểm soát, bỏ rơi đồng minh, cắt giảm và sau cùng cắt bỏ hết quân viện
cho VNCH, đã đưa đến kết quả bi thảm là VNCH đã thất trận và bị xóa tên trên bản
đồ thế giới.[41]
Một tác giả Hoa Kỳ thuộc phe xét lại (revisionist) đã nhận định một cách hết sức đúng đắn về việc thất trận của VNCH như sau:
Một tác giả Hoa Kỳ thuộc phe xét lại (revisionist) đã nhận định một cách hết sức đúng đắn về việc thất trận của VNCH như sau:
“The South Vietnamese regime did not fall in 1975 because it was
uniquely corrupt and illegitimate. It
fell to Soviet-equipped North Vietnamese tanks only because the United States,
which had left troops in South Korea to defend a comparably corrupt and
authoritarian dictatorship, had abandoned its allies in South Vietnam.” [42]
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chế độ Nam Việt Nam đã không sụp đổ vào năm 1975 vì nó là một chính quyền duy nhứt tham nhũng và không chính thống. Nó chỉ sụp đổ trước các chiến xa của Bắc Việt do Liên Xô trang bị vì Hoa Kỳ, trước đó đã duy trì quân đội tại Nam Triều Tiên để bảo vệ một chế độ độc tài và tham nhũng tương tư, đã bỏ rơi đồng minh của mình tại Nam Việt Nam.”)
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chế độ Nam Việt Nam đã không sụp đổ vào năm 1975 vì nó là một chính quyền duy nhứt tham nhũng và không chính thống. Nó chỉ sụp đổ trước các chiến xa của Bắc Việt do Liên Xô trang bị vì Hoa Kỳ, trước đó đã duy trì quân đội tại Nam Triều Tiên để bảo vệ một chế độ độc tài và tham nhũng tương tư, đã bỏ rơi đồng minh của mình tại Nam Việt Nam.”)
Ghi Chú:
1.
Memorandum for the President from George Ball,
"A Compromise Solution in South Vietnam," 1 July 1965, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon4/doc260.htm
2.
Barrett, David M.
“The mythology surrounding Lyndon Johnson, his advisers, and the 1965
decision to escalate the Vietnam War,” Political science quarterly,
vol. 103, issue 4 (winter 1988/1989), tr. 641.
3.
Lâm Vĩnh Thế, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ
vào Đà Nẵng ngày 8 tháng 3 năm 1965, tài liệu trực tuyến, có thể đọc
toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/thuy-quan-luc-chien-hoa-ky-do-bo-vao-dha-nang-ngay-8-thang-3-nam-1965 Trong bài viết này, tác giả trích dẫn một báo
cáo của Tướng William C. Westmoreland, Tư Lệnh MACV (Military Assistance
Command, Vietnam = Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam) vào đầu
tháng 3-1965, có ghi như sau: “nếu
tình hình nầy tiếp tục, trong vòng 6 tháng, các lực lượng Nam Việt Nam sẽ chỉ
còn kiểm soát được các khu vực chung quanh các tỉnh lỵ và quận lỵ ..
chúng ta sẽ chứng kiến việc Việt Cộng tiếp thu toàn bộ xứ sở nầy, có lẽ trong
vòng một năm.” Đoạn văn này của báo cáo được trích ra từ cuốn
hồi ký của Tướng Westmoreland do nhà xuất bản Doubleday xuất bản tại New York
vào năm 1976, A soldier reports, tr.147.
4.
In country: remembering the Vietnam War / edited by John Prados. Lanham, Md.: Ivan R. Dee Publisher,
2011. Tại tr. 8, soạn giả ghi như sau: “…
President Johnson considered General Westmoreland’s large-scale reinforcement
and approved it. The deployment of the
First Cavalry Division (Airmobile), along with the Third Marine Division,
followed by the First Infantry Division and the First Brigade/101st
Airborne Division, was the first wave of the new MACV force. … the fact is that
in the twelve months ending in December 1965 the American force level in
country increased from twenty-three thousand to 183,000 personnel.”
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: Tổng Thống Johnson xem xét đề nghị tăng
quân trên quy mô lớn của Tướng Westmoreland và chấp thuận nó. Việc điều quân được thực hiện với Sư Đoàn 1 Kỵ
Binh Không Vận, cùng với Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến, tiếp theo là Sư Đoàn 1
Bộ Binh cùng với Lữ Đoàn 1 của Sư Đoàn 101 Dù, đó là đợt đầu cho lực lượng mới
của Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tai Việt Nam … sự kiện có thật là trong
12 tháng kết thúc vào Tháng 12-1965, lực lượng Hoa Kỳ đã tăng từ 23.000 lên đến
183.000).
5.
McNamara, Robert S. và Brian VanDeMark. In retrospect: the tragedy and lessons
of Vietnam. New York: Random
House, 1995. Tr. 243-244.
6.
McNamara, sđd, tr. 244.
7.
Joint Chiefs of Staff, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Joint_Chiefs_of_Staff. JCS là Bộ Tham mưu Liên Quân của Quân Đội Hoa
Kỳ, gồm các vị đại tướng (tướng 4 sao) tư lệnh của 4 quân chủng Lục Quân, Hải
Quân, Không Quân, và Thủy Quân Lục Chiến, đứng đầu (Chairman of the JCS) là một
vị đại tướng do Tổng Thống chỉ định, lần lượt chọn ra từ 4 quân chủng kể
trên. Tại thời điểm này, năm 1967, Đại
Tướng Lục Quân Earl (Bus) Wheeler là Chairman của JCS.
8.
McNamara, sđd, tr. 266.
9.
McNamara, sđd, tr. 275.
10.
McNamara, sđd, tr. 275.
11.
McNamara, sđd, tr. 276.
12.
McNamara, sđd, tr. 280.
13.
McNamara, sđd, tr. 315.
14.
Council on Foreign Relations, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Council_on_Foreign_Relation
15.
Argument without end: in search of answers to
the Vietnam tragedy / Robert S. McNamara và những người khác. New York: Public Affairs, 1999.
16.
Argument without end, sđd, tr. 368.
17.
Argument without end, sđd, tr. 319.
18.
Lâm Vĩnh Thế. Nhận
định và đánh giá bộ phim “The Vietnam War” của hai đao diễn Ken Burns và Lynn
Novick, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet
sau đây: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/nhan-dinh-va-danh-gia-bo-phim-the-vietnam-war-cua-hai-dao-dien-ken-burns-va-lynn-novick
19.
Trần Ngươn Phiêu.
Gió mùa Đông Bắc (Chương 6), tài liệu trực tuyến, có thể đọc
toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.diendantheky.net/2011/04/gio-mua-ong-bac-chuong-6.html
20.
Nguyễn Kỳ Nam. Hồi-ký
“1925-1964.” Tập II: 1945-1954.
Sài Gòn: Nhựt-báo Dân Chủ Mới xuất bản, 1964, tr. 231.
21.
Trần Ngươn Phiêu, sđd, Chương 7.
22.
Hoàng Hưng. Cái
chết của Khái Hưng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ
Internet sau đây: https://baotiengdan.com/2019/07/29/cai-chet-cua-khai-hung/
23.
Lâm Lễ Trinh. Mạn
đàm với BS Nguyễn Lưu Viên: từ Hà Nội La Celle Saint-Cloud đến những ngày VNCH
hấp hối, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet
sau đây: http://aihuuluatkhoa.com/yahoo_site_admin/assets/docs/MAN_DAM_VOI_BSI_NLV.5092817.pdf
24.Nguyễn Minh Cần. Xin đừng quên! Nửa thế kỷ trước… Mở hồ
sơ tội ác Hồ Chí Minh: vấy máu Cải Cách Ruộng Đất, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ
Internet sau đây: http://www.geocities.ws/xoathantuong/nmc_xdq.htm
25.H.V.N. “Cộng sản Việt Nam mới
thật là Ngụy,” Tạp chí Dân Quyền (Montreal, Canada), số 51 (Tháng
5/1982), tr. 20-21.
26.Ðoàn Thêm. Hai
mươi năm qua: việc từng ngày (1945-1964); tựa của Lãng Nhân. Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu tái bản,
[1979?]. Tr. 37.
27.Bảo Ðại. Con
rồng Việt Nam: hồi ký chính trị (1913-1987). [Không ghi nơi xuất bản]: Nguyễn Phước
Tộc xuất bàn, 1990. Tr. 284.
28.Đoàn Thêm, sđd, tr. 56.
29.Hiệp định Genève, 1954, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa
chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Gen%C3%A8ve,_1954
30.Fourth Interim Report of
the International Commission for Supervision and Control in Vietnam. London, U.K.: HMSO, 1955, tr. 30.
31.30/4 – Xâm lược hay giải
phóng: từ góc nhìn công pháp quốc tế, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.luatkhoa.org/2017/04/30-4-xam-luoc-hay-giai-phong-tu-goc-nhin-cong-phap-quoc-te/
32.Palmer, Bruce. The 25-year war: America’s military
role in Vietnam. Lexington:
University Press of Kentucky, 1984. Tr.
125.
33.
The Real lessons of the Vietnam War: reflections
twenty-five years after the fall of Saigon / edited by John Norton
Moore & Robert F. Turner. Durham,
N.C.: Carolina Academic Press, 2002. Tr.
391.
34.
Lâm Vĩnh Thế. Tài
liệu SNIE 14.3-67: một bài học đắt giá của việc chính-trị-hóa tình báo,
tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/tai-lieu-snie-14-3-67-mot-bai-hoc-dat-gia-cua-viec-chinh-tri-hoa-tinh-bao
35.
Lindsay, James. M.
TWE remembers: General Westmoreland says the “End begins to come
into view” in Vietnam, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa
chỉ Internet sau đây: https://www.cfr.org/blog/twe-remembers-general-westmoreland-says-end-begins-come-view-vietnam
36.
Tết Mậu Thân 1968 qua những số liệu, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/7976502-.html Đây là Trang Web của nhựt báo Nhân Dân
điện tử, cơ quan trung ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tiếng nói của Đảng,
Nhà Nước và Nhân dân Việt Nam; bài báo này đã được đăng tải trực tuyến vào ngày
Thứ Sáu 17/09/2010, lúc 13 giờ 25.
37.
Sorley, Lewis. A
Better war: the unexamined victories and final tragedy of America’s last years
in Vietnam. New York: Harcourt
Brace, 1999. Tr. 66.
38.
Phoenix Program, tài liệu trực tuyến, có
thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Phoenix_Program
39.
Sorley, sđd, tr. 204-205. Thông tin mà tác giả Sorley trích dẫn là ở
tr. 7 của quyển Lam Sơn 719 của Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh do
Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ (U.S. Army Center for Military History)
xuất bản tại Washinton, D.C. vào năm 1979.
40.
Gerson, Michael S. và những người khác. The Sino-Soviet border conflict:
deterrence, escalation, and the threat of nuclear war in 1969, tài liệu
trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.cna.org/CNA_files/PDF/D0022974.A2.pdf
41.
Lâm Vĩnh Thế. Hoa
Kỳ bỏ rơi Đồng Minh Việt Nam Cộng Hòa: trách nhiệm thuộc về ai?, tài liệu
trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/hoa-ky-bo-roi-dong-minh-viet-nam-cong-hoa-trach-nhiem-thuoc-ve-ai
42.
Lind, Michael. Vietnam:
the necessary war: a reinterpretation of America’s most disastrous military
conflict. New York: Simon &
Schuster, 1999. Tr. xvii.
SOURCES:
.
No comments:
Post a Comment