Ngày 22 tháng 8 năm 1933 là ngày Sinh nhật Chuẩn Tướng Lê
Nguyên Vỹ.
Ông là 1 trong 5 Tướng VNCH đã tự sát không chấp nhận để cs bắt.
Tướng Lê Nguyên Vỹ nằm xuống để chúng ta được sống.
Tướng Lê Nguyên Vỹ nằm xuống để chúng ta được sống.
Ngàn đời nhớ ơn Người Chiến Sĩ VNCH.
Tướng Lê Nguyên Vỹ (1933 - 1975)
-Bảo quốc Huân chương Đệ Tam Đẳng
-Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu và một số huy chương quân sự, dân sự
khác.
Ông sinh ngày 22 tháng 8 năm
1933 tại Sơn Tây,[2] miền Bắc Việt Nam trong một gia đình có truyền thống hiếu
học thuộc gia tộc "Lê Nguyên" danh giá. Thuở nhỏ ông học Tiểu học tại
Sơn Tây. Lên Trung học, ông được gia đình cho ra Hà Nội. Năm 1950, ông tốt
nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần
(Part I).
Đệ Tam Đẳng Bảo quốc Huân chương
Huy chương Anh Dũng Bội
Tinh kèm Nhành Dương Liễu
Tuyên dương công trạng
trước Quân đội
|
Source of Huy chương: Michael Do
Nguyên là một tướng Bộ binh của
Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ một trường Võ
bị Địa phương do Chính phủ Quốc gia mở ra ở Trung phần. Ra trường được điều về
đơn vị Bộ binh, sau chuyển qua phục vụ đơn vị Nhảy dù một thời gian ngắn. Sau
đó lại trở về Bộ binh tuần tự giữ nhiều chức vụ cho đến năm 1973, ông được bổ
nhiệm chức vụ Chỉ huy một Sư đoàn Bộ binh (cũng là Chỉ huy cuối cùng của đơn vị
này). Ông là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
Đầu năm 1951, ông tình nguyện
nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/204.567. Theo học khóa 2 Lê
Lợi tại trường Võ bị Địa phương Trung Việt ở Huế,[3] khai giảng ngày 1 tháng 2
năm 1951. Ngày 1 tháng 10 cùng năm mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy
hiện dịch. Ra trường, ông được chuyển về phục vụ trong Tiểu đoàn 19 Việt Nam
thuộc Quân đội Quốc gia là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp với chức vụ
Trung đội trưởng do Đại úy Đỗ Cao Trí làm Tiểu đoàn trưởng. Tháng 4 năm 1952,
ông được thăng cấp Thiếu úy tại nhiệm. Đầu năm 1953, ông được cử theo học khóa
1 Biệt kích tại Trung tâm Huấn luyện Biệt động đội tại Vạt Cháy (Bãi Cháy), Hòn
Gai, Quảng Yên. Mãn khóa trở về đơn vị gốc (Tiểu đoàn 19) ông được thăng cấp
Trung úy và được cử giữ chức vụ Đại đội trưởng. Ngày 1 tháng 3 năm 1954, Tiểu
đoàn 19 Việt Nam giải tán dùng làm nòng cốt để thành lập Tiểu đoàn 6 Nhảy dù.
Cùng năm, ông được tuyển chọn đi du học khóa huấn luyện viên Nhảy dù tại Pau,
Pháp.
Năm 1955, sau khi từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông bị thương trong chiến trận đẩy lui lực lượng Bình Xuyên ra khỏi trường trung học Petrus Ký, Sài Gòn. Tháng 6 năm 1956, ông được thăng cấp Đại úy và được theo học lớp Bộ binh cao cấp. Đầu năm 1957, ông được bổ nhiệm làm Quận trưởng Quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Thiếu tá nhiệm chức. Sau đó trở lại đơn vị Bộ binh, ông được giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 Bộ binh. Ngày Quân lực đầu tiên, tháng 6 năm 1965, theo quy chế ông được mang cấp Thiếu tá thực thụ và được đề bạt lên đảm nhiệm chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 8.
Trung tuần tháng 8 năm 1968, sau chiến trận Mậu thân đợt 2, ông được thăng cấp Trung tá lên giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 Bộ binh. Đến giữa năm 1970, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Tháng 8 cùng năm ông được cử đi du học khóa Tham mưu cao cấp (khóa 1970 - 1971) thụ huấn 42 tuần tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ [4]
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1971, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ binh. Mặt trận Mùa hè đỏ lửa năm 1972, ông trực tiếp tham gia trong Chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, tháng 7 cùng năm ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Chiến thuật Quân đoàn III, sau đó được cử đi du hành thăm viếng Trung Hoa Quốc gia (Đài Loan).
Tháng 6 năm 1973, ông được chuyển về Quân khu 4 giữ chức Tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh do Chuẩn tướng Lê Văn Hưng làm Tư lệnh. Tháng 8, ông bị tai nạn trực thăng trong lúc thị sát mặt trận tại vùng kinh rạch thuộc địa bàn hành quân của Sư đoàn (trực thăng đụng phải ngọn dừa rớt xuống nước), ông bị gẫy chân phải về Tổng viện Cộng hòa điều trị 2 tháng.[5]. Ngày 7 tháng 11 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch về Quân khu 3 nhận chức Chánh thanh tra trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn III. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1974, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.
• Sư đoàn 5 Bộ binh vào thời điểm tháng 4/1975, nhân sự ở Bộ tư lệnh Sư đoàn và các Chỉ huy Trung đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:
• Tư lệnh - Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ
• Tư lệnh phó - Đại tá Trần Văn Thoàn [6]
• Tham mưu trưởng - Đại tá Từ Vấn [7]
• Chỉ huy Pháo binh - Trung tá Tống Mạnh Hùng [8]
• Trung đoàn 7 - Đại tá Nguyễn Văn Vượng [9]
• Trung đoàn 8 - Đại tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng [10]
• Trung đoàn 9 - Đại tá Trần Phương Quế [11]
Ngày
30 tháng 4 năm 1975, sau khi nghe nhật lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh kêu
gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó
và chờ quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đến bàn giao. Ông ra
lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Sau
đó ông dùng khẩu Beretta 6.35 bắn vào đầu tự sát tại Bộ Tư lệnh ở Lai Khê. Hưởng
dương 42 tuổi.
Thi thể ông được an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư lệnh. Ngày 2 tháng 5 năm 1975 được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.
Năm 1987, do Nghĩa trang Hạnh Thông Tây có lệnh giải tỏa, hài cốt ông được thân mẫu là cụ Lê Thị Huệ cùng với người em là Lê Nguyên Quốc từ miền Bắc vào hợp cùng người anh con bác là Trung tá Lê Nguyên Hoàng (mới đi tù về) đến Nghĩa trang Hạnh Thông Tây bốc mộ và hỏa thiêu, đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại nguyên quán số nhà 151 phố Lê Lợi, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (nay là thành phố Hà Nội). Sau đó, tái cải táng xây lăng mộ tại Nghĩa trang của gia tộc Lê Nguyên ở thị xã Sơn Tây.
• Thân phụ: Cụ Lê Nguyên Liên
• Thân mẫu: Cụ Lê Thị Huệ
• Các em: Lê Thị Diễn, Lê Thị Khánh và Lê Nguyên Quốc
• Phu nhân: Bà Phan Thị Kim Yến (Hiện nay bà và các con cháu định cư tại Hoa Kỳ)
• Các con: Lê Nguyên Quang, Lê Nguyên Minh, Lê Nguyên Chính và Lê Thị Tường Vy
Tướng
Lê Nguyên Vỹ được đánh giá là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng
nổ, có tài tham mưu và là một chỉ huỵ bộc trực, thanh liêm, chống tham nhũng.
Ông là một trong những vị tướng hiếm hoi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tinh
thần tự lực cánh sinh, tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào sự
trợ giúp từ phía Hoa Kỳ.
SOURCES:
.
No comments:
Post a Comment