Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng, vị tư lệnh cuối cùng của Quân Đoàn 1 và Vùng I Chiến Thuật.
Trong hình, Tướng Trưởng thị sát quân lực bảo vệ Huế vào ngày 17 Tháng Năm,
1972. Phía sau ông là cố vấn Mỹ, Thiếu Tướng Frederick Kroesen. Chừng 900 quân
thuộc Sư Đoàn 2 của VNCH được không vận tới căn cứ Rakkasan, cách Huế 15 dặm
về phía Tây để tạo “vành đai thép” bảo vệ cố đô.
(Hình: Bettmann/Getty Images) -- Vann
Phan/Người Việt
SANTA ANA,
California (NV) – Quân và dân Miền Nam Tự Do đã mất hết tinh thần chiến đấu trước
cuộc tổng tấn công của các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt, Quân Đoàn 1 QLVNCH,
vùng đất được cho là sẽ bị bỏ lại cho Cộng Sản trong kế hoạch “co cụm” lãnh thổ
của Việt Nam Cộng Hòa, đã mau lẹ rơi vào tình trạng hầu như “không đánh mà tan”
chỉ trong vòng chưa đầy hai tuần lễ.
Nếu cuộc lấn
chiếm Phước Long đã khích lệ tham vọng đánh chiếm miền Nam Việt Nam của các lực
lượng Cộng Sản tấn công, vì Hoa Kỳ (dưới chính quyền Gerald Ford) đã không chịu
trả đũa Cộng Sản Bắc Việt như cựu Tổng Thống Richard Nixon đã hứa, thì cuộc di
tản hỗn độn và bi thảm của Quân Đoàn 2 QLVNCH (về hướng Nha Trang và Sài Gòn)
đã làm cho quân và dân Miền Nam Tự Do mất hết tinh thần chiến đấu.
Biến cố này
xác nhận việc Hoa Kỳ đã dứt khoát cắt hết viện trợ và bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa,
dẫn đến mối lo sợ tột cùng rằng việc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định
chỉ giữ lại Vùng III và Vùng IV và bỏ Vùng I và Vùng II lại cho Cộng Sản là sự
thật 100 phần trăm chứ không còn là lời đồn đoán mơ hồ nữa.
Tâm trạng hoang mang của quân và dân miền Nam
Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973
Khi Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 khởi sự bị các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tấn công dữ dội để rồi thất thủ vào Tháng Ba, 1975, nỗi lo âu rằng Hoa Kỳ đành đoạn bỏ rơi miền Nam Việt Nam lại cho Cộng Sản muốn làm gì thì làm đã trở thành một sự thật cay đắng, nhất là sau khi Hoa Kỳ đã đạt được Hiệp Định Paris 1973 với Cộng Sản Quốc Tế để có thể rút toàn bộ quân đội của họ ra khỏi Việt Nam “trong danh dự,” và sau khi những tù binh Mỹ cuối cùng đã được hồi hương.
Khi Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 khởi sự bị các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tấn công dữ dội để rồi thất thủ vào Tháng Ba, 1975, nỗi lo âu rằng Hoa Kỳ đành đoạn bỏ rơi miền Nam Việt Nam lại cho Cộng Sản muốn làm gì thì làm đã trở thành một sự thật cay đắng, nhất là sau khi Hoa Kỳ đã đạt được Hiệp Định Paris 1973 với Cộng Sản Quốc Tế để có thể rút toàn bộ quân đội của họ ra khỏi Việt Nam “trong danh dự,” và sau khi những tù binh Mỹ cuối cùng đã được hồi hương.
Đó chính là
hậu quả trông thấy của việc Quốc Hội Mỹ, kẻ nắm hầu bao trong mọi cuộc tiêu pha
của chính phủ và quân đội Hoa Kỳ, đã dứt khoát không chi thêm một đô la nào nữa
cho cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Từ $1 tỷ rưỡi trong
những năm trước đó, viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa sau năm
1973 đã bị cắt giảm gắt gao, cụ thể là đến tài khóa 1974-1975 thì chỉ còn lại
$750 triệu, tức là, trên thực tế, chỉ còn có $350 triệu dùng được sau khi khoản
viện trợ đó đã bị trừ đi chi phí $300 triệu dành cho phái bộ quân sự Mỹ (DAO,
Defense Attaché Office, Saigon) còn lưu lại miền Nam Việt Nam cho đến cuối
Tháng Tư, 1975.
Bản đồ Vùng
I Chiến Thuật. (Hình: wikimedia.org)
Viễn tượng
Việt Nam Cộng Hòa sắp bị bỏ rơi nửa chừng, cho dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã
trở nên ngày càng hùng mạnh và có thừa khả năng một mình chiến thắng quân Cộng
Sản Bắc Việt xâm lược nếu được võ trang và tiếp tế đầy đủ như thời gian trước
Hiệp Định Paris 1973, đã làm cho tinh thần của quân và dân Miền Nam Việt Nam
mau lẹ suy sụp.
Ngón đòn cắt
giảm viện trợ Mỹ để gây áp lực buộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải nhường đất
cho Cộng Sản hoặc gia nhập vào một chính phủ liên hiệp với phe Cộng Sản, trên
thực tế, đã gây thiệt hại nặng nề cho nỗ lực chiến đấu chống lại cuộc xâm lược
miền Nam Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt.
Về mặt kinh
tế, những đợt cắt giảm viện trợ tài chánh liên tiếp trong những năm 1973-1975
đã làm cho đồng bạc Việt Nam Cộng Hòa bị phá giá trầm trọng, và mức sống của những
người có đồng lương cố định, như giới quân nhân và công chức, tại miền Nam Việt
Nam bị sa sút thê thảm.
Về mặt quân
sự, việc cắt giảm mức tiếp đạn được và quân trang, quân dụng cho miền Nam Việt
Nam trong khi chiến cuộc đang gia tăng cường độ đã đặt các đơn vị Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa vào thế hết sức bất lợi. Bởi vì các tiền đồn hẻo lánh không được
trọng pháo và phi cơ yểm trợ, cho dù đó là một trận đánh lớn của địch cỡ cuộc tấn
công vào Tiểu Khu Phước Long hồi cuối năm 1974 hoặc là một trận đánh nhỏ vào xã
Khánh An ở Thới Bình thuộc tỉnh An Xuyên (Cà Mau) hồi đầu năm 1975.
Quân Đoàn I tan rã
Ngày 14 Tháng Ba, 1975, trong
một cuộc họp tại Dinh Độc Lập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho biết Bộ Tổng
Tham Mưu QLVNCH quyết định rút bớt Lữ Đoàn 1 và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù từ Quân Đoàn
1 về để bảo vệ thủ đô Sài Gòn, đồng thời ra lệnh cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng,
Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1, rút quân từ các nơi khác về phòng thủ vùng
duyên hải từ Huế và Đà Nẵng cho tới Chu Lai trong kế hoạch “co cụm” lãnh thổ Việt
Nam Cộng Hòa về hướng Quân Khu 3 và Quân Khu 4.
Ngày 19 Tháng Ba, tức là chỉ
ba ngày sau khi các lực lượng Quân Đoàn 2 khởi sự cuộc di tản cồng kềnh và đẫm
máu – vì quân và dân lẫn lộn – khỏi Cao Nguyên trên liên tỉnh lộ 7B, các lực lượng
Quân Khu 1, trong đó có Thủy Quân Lục Chiến, khởi sự rút khỏi Quảng Trị, về lập
phòng tuyến ở Mỹ Chánh ở phía Bắc Huế.
Tuy nhiên, đến tối ngày 20 Tháng Ba, Tổng Thống
Thiệu lại ra lệnh rút nốt Lữ Đoàn 2 Dù về Sài Gòn. Thế là Quân Khu 1 chỉ còn có
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tăng phái cho Quân Đoàn mà thôi, lúc đó gồm có các
Sư Đoàn 1, 2 và 3. Tướng Trưởng đâm ra bối rối trước sự thể quân Cộng Sản Bắc
Việt ngày càng gây áp lực nặng nề, với thêm bốn sư đoàn sẵn sàng vượt sông Bến
Hải và kết hợp với các đơn vị của Cộng Quân đã có sẵn tại vùng Hỏa Tuyến nhằm
tiến chiếm toàn bộ Quân Khu 1.
Ngày 21 Tháng Ba, Cộng Quân
đã cắt đứt Quốc Lộ 1 ở Truồi (giữa Huế và Đà Nẵng) và đóng chốt ở đèo Phú Gia.
Như thế, đoạn đường bộ giữa Huế và Đà Nẵng đã bị Cộng Quân khống chế. Ngày 25
Tháng Ba, Tướng Trưởng quyết định cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến rút ra cửa
Thuận An trong khi Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Biệt Động Quân và Địa Phương Quân được lệnh
xuống cửa Tư Hiền đề các tàu của Hài Quân VNCH đến đón.
Trong tình
thế hỗn độn khi quân và dân Vùng I chen chúc nhau chạy loạn giữa những đợt pháo
kích truy đuổi của Cộng Quân, cả hai đoàn quân rút lui nói trên đã tan rã tại
hai cửa biển này, và khi về tới Đà Nẵng thì chỉ còn lại một phần ba quân số. Cuộc
rút lui của Sư Đoàn 2 Bộ Binh tương đối thành công hơn chút đỉnh vì họ chỉ phải
di chuyển từ Chu Lai ra bờ biển để được tàu Hải Quân chở ra Cú Lao Ré ở gần đó,
vì thế hơn phân nứa sư đoàn này đã về tới Bình Tuy.
Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng, vị tướng nổi tiếng trong sạch, từng chiến thắng lẫy lừng trận
Quảng Trị 1972. Đức thanh liêm, trong sạch của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được
người dân miền Nam ca ngợi bằng câu vè dân gian: Nhất Thắng, nhì Chinh, tam
Thanh, tứ Trưởng (tức các vị Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng, Thiếu Tướng Phan Trọng
Chinh, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng).
Ngày 27 Tháng Ba, 1975, tình hình
Đà Nẵng vô cùng nghiêm trọng, quân Cộng Sản Bắc Việt dùng đủ loại trọng pháo và
súng cối pháo kích liên tục vào Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 1 và nhiều nơi trong thành
phố Đà Nẵng, tạo bất ổn và gây nhiều thương vong cho các lực lượng đồn trú, đồng
thời làm cho tinh thần của dân chúng thêm hoảng loạn. Hơn nữa, dân chúng từ Quảng
Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi… đổ về đây quá đông từ nhiều ngày
trước khiến chính quyền và các lực lượng an ninh không thể nào kiểm soát được
tình hình tại chỗ. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đành ra lệnh rút bỏ Đà Nẵng.
Ngày 28 Tháng Ba, tàu Hải
Quân đến Đà Nẵng đón binh sĩ và dân chúng di tản đưa vào Nha Trang, Cam Ranh,
và Vũng Tàu, với ưu tiên dành cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến từng hứng chịu
những tổn thất nặng nề trong cuộc rút lui hỗn độn dẫn đến sự tan rã của Quân
Đoàn 1 và Vùng I Chiến Thuật.
Ngày 29 Tháng Ba, các lực lượng
Cộng Sản Bắc Việt tiến vào chiếm đóng đô thị lớn hàng thứ hai tại miền Nam Việt
Nam, thành phố từng giữ một vị trí chiến
lược độc đáo kể từ khi người Pháp khởi sự cuộc chiến tranh chinh phục Việt Nam
hồi năm 1858. Rồi hơn một thế kỷ sau đó, hồi năm 1965, các lực lượng Mỹ bắt đầu
đổ bộ vào miền Nam Việt Nam để cứu vãn tình hình quân sự nguy ngập tại đây, và
bây giờ khi Cộng Sản Bắc Việt bỗng chốc trở thành chủ nhân nơi này trên đường
tiến quân về Nam để đánh chiếm Sài Gòn.
Tàn cơn binh lửa
Trước khi thực
hiện kế hoạch bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa, một đồng minh quan trọng tại Đông Nam
Á, không những chỉ trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 mà còn kéo dài cho
tới những thập niên đầu của thế kỷ 21 nữa, Quốc Hội và chính phủ Hoa Kỳ, được sự
hỗ trợ tích cực của nền báo chí thiên tả cố hữu trong nước, đã tìm cách đổ hết
mọi tội lỗi lên đầu chính phủ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa để ru ngủ lương tâm
mà phủi tay trước cuộc diện tồi tệ. Nào là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tham
nhũng, nào là quân đội Việt Nam Cộng Hòa thiếu khả năng, nào là Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu độc tài và phe đảng, vân vân.
Từ cuối năm
1972 tới đầu năm 1975, nhiều phái đoàn của Quốc Hội Mỹ đã được cử đến miền Nam
Việt Nam để hạch sách và điều tra về tình trạng tham nhũng trong chính quyền và
quân đội, về cách đối xử với các tù nhân tại các nhà lao không đúng với Công Ước
Geneva về tù binh chiến tranh, về hành vi kiểm duyệt và bóp nghẹt báo chí trong
nước, về tin đồn chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam bán thuốc Tây và đạn
dược cho Cộng Sản… Tất cả chỉ với mục đích tìm cho ra ít nhất một cái cớ nào đó
để có thể bỏ rơi không thương tiếc Việt Nam Cộng Hòa, một đồng minh thân thiết
và quan trọng mà chỉ ba thập niên sau họ lại bắt đầu cảm thấy sự sinh tồn của
người bạn đó là thiết yếu cho nền an ninh của thế giới tại vùng Ấn Độ và Thái
Bình Dương trước hiểm họa bành trướng hầu như không có gì cản nổi của Cộng Sản
Trung Hoa.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân
Đoàn 1 và Quân Khu 1, gắn huy chương tưởng thưởng quân nhân Hoa Kỳ sau trận chiến,
vào ngày 12 Tháng Tám, 1972, tại Đà Nẵng.
(Hình: Bettmann/Getty Images)
Mặc dù hầu hết
quân và dân tại miền Trung Việt Nam – và sau đó là toàn thể dân chúng miền Nam
Việt Nam – đều phải hứng chịu những hậu quả tàn khốc do sự tan rã bất ngờ của
Quân Đoàn 1 QLVNCH nơi địa đầu giới tuyến, tưởng cũng nên ghi nhận rằng, giữa
những tang thương, bi hận đó của cuộc chiến, Tướng Ngô Quang Trưởng và Lữ Đoàn
147 Thủy Quân Lục Chiến, éo le thay, lại nằm trong số các nạn nhân đáng thương
của cuộc lui binh hết sức đáng tiếc đó.
Tướng Trưởng,
một vị tướng lãnh tài ba và trong sạch của QLVNCH với biết bao chiến công lừng
lẫy, bỗng dưng trở thành một bại tướng trong tình thế hỗn loạn và mờ mịt của cuộc
rút quân mà ngay từ những giờ phút đầu tiên đã vượt khỏi tầm kiểm soát của ông.
Đại Tướng Mỹ Norman Schwarzkopf, trước kia
là cố vấn cho Đại Tá Ngô Quang Trưởng và sau này trở thành tư lệnh cuộc Hành
Quân Bão Sa Mạc (Desert Storm) ở Iraq hồi năm 1991, nhận định rằng Tướng Trưởng là “vị tư lệnh tác chiến sáng chói nhất mà
ông từng được biết tới” (Truong was “the most brilliant tactical commander I’d
ever known”).
Còn Lữ Đoàn
147 của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến “bách chiến, bách thắng” thì hầu như bị bỏ
quên (vì không có ai đến đón họ xuống tàu di tản như đã định trong kế hoạch
hành quân) tại bãi biển Thuận An, khiến lữ đoàn này phải một mình chiến đấu giữa
vòng vây của các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt. Để rồi lữ đoàn này đành phải cay
đắng hứng chịu số thương vong cao nhất, với hàng trăm chiến binh tử trận trong
giao tranh và dưới mưa pháo của địch cùng với hàng nghìn chiến binh khác bị địch
bắt sống sau khi họ đã chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng mà không được tiếp
tế, đừng nói chi tới tiếp viện. (Vann Phan)
SOURCE:
.
No comments:
Post a Comment