Lê Thy đánh
máy từ báo QUỐC GIA (Montreal-Canada) số 151-Quốc Hận 2020
Theo
Wikipedia, Quân Lực VNCH có 173 vị tướng từ cấp thống tướng đến chuẩn tướng.
Theo tài liệu
lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Việt Nam ở San Jose, vào tháng 4 năm 1975, VNCH có
112 tướng lãnh trong số có 80 vị đã rời khỏi Việt Nam khi Cộng Sản chiếm
Saigon.
Theo sự tìm
hiểu của chúng tôi, nếu không kể vị Thống Tướng duy nhất là Lê Văn Tỵ đã mất
năm 1964, các tướng lãnh đã mất vì già yếu, vì tử trận (7), các tướng đã hồi
hưu hay giải ngũ thì vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, VNCH có 107 tướng tại ngũ được
liệt kê như sau:
Cần chú
thích thêm là ngoài 29 tướng bị đi cải tạo còn có thêm 9 vị tướng hồi hưu hay
giải ngũ cũng bị cộng sản bắt đi cải tạo, như vậy số tướng lãnh bị bắt đi cải tạo
là 38 vị.
Ngoài ra,
trong số tướng giải ngũ có một tướng thân cận với Dương Văn Minh đã bị TT Thiệu
cho giải ngũ, nhưng lại là một tên cộng sản nằm vùng, bí danh là S7, được Dương
Văn Minh cho tái ngũ ngày 28/4/1975 là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
Những vị tướng tuẫn tiết
1- Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2, Quân Khu 2, tự sát bằng thuốc độc ngày 29
tháng 4, được gia đình đưa vào nhà thương Grall và chết vào trưa ngày 30 tháng
4 sau khi được biết Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng.
2- Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, tự sát tại Bộ Tư Lệnh QĐ rạng
sáng ngày 1 tháng 5 sau khi thăm các chiến hữu thương binh ở Quân Y Viện Phan
Thanh Giản Cần Thơ.
3- Chuẩn Tướng
Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4, Quân Khu 4, tự sát tại Bộ Tư Lệnh QĐ tối
ngày 30 tháng 4 sau khi nói lời vĩnh biệt với vợ và con.
4- Chuẩn Tướng
Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB, tự sát tại Bô Tư Lệnh ở Lai Khê trưa 30
tháng 4 sau khi dùng bữa cơm cuối cùng với chiến hữu.
5- Chuẩn Tướng
Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB, tự tử ở Căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) chiều ngày
30 tháng 4.
Những vị tướng di tản
Trong số 11
vị tướng lãnh trên chỉ có TrT Lữ Lan và Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại còn tại thế,
9 vị còn lại đã qua đời (năm mất trong dấu ngoặc)
Từ ngày 25 đến
30 tháng tư, một số tướng lãnh đã bắt đầu rời Việt Nam, hoặc nhờ phương tiện của
Mỹ, hoặc nhờ tàu và phi cơ của VNCH rời VN đến Đệ Thất Hạm Đội hay những căn cứ
của Mỹ ở Thái Bình Dương rồi từ đó được di tản đến các trại tiếp cư trên đất Mỹ,
một vài vị sau đó đi Canada hay Pháp, trừ Tổng Thống Thiệu đi Anh Quốc.
Hai vị tướng
rời VN sớm nhất là Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Khiêm
– Trung Tướng
Nguyễn văn Thiệu, Tổng Thống kiêm Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ chức
ngày 21-4-1975, ông tuyên bố “Dù mất một Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội
vẫn còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu.
Tôi nguyện sẽ chiến đấu bên cạnh anh em chiến sĩ…”. Tuy nhiên, ngày 25-4-1975,
ông Thiệu cùng ông Trần Thiện Khiêm rời Việt Nam trên một chuyến bay do Toà Ðại
Sứ Hoa Kỳ tổ chức.
– Ðại Tướng
Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng từ chức vào thượng tuần
tháng tư 1975, rời Việt Nam cùng lúc với TT Nguyễn văn Thiệu.
Danh sách các vị tướng di tản (Chức vụ ghi là
chức vụ sau cùng)
Cấp Đại Tướng
1- Cao văn
Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH.
2- Trần Thiện
Khiêm.
Cấp Trung Tướng
1- Nguyễn
Văn Thiệu.
2- Chung Tấn
Cang (Phó Đô Đốc), Tư Lệnh Hải Quân.
3- Phan Trọng
Chinh, Chỉ Huy Trưởng trường Chỉ Huy &Tham Mưu.
4- Trần Văn
Đôn, Phó Thủ Tướng nội các Nguyễn Bá Cẩn, rời VN qua Pháp.
5- Dư Quốc Đống,
Tư Lệnh Quân Đoàn III.
6- Cao Hảo Hớn,
Tổng Trưởng Chương Trình Phát Triển và Bình Định.
7- Lê Nguyên
Khang, Phụ Tá Hành Quân bộ Tổng Tham Mưu.
8- Ðồng văn
Khuyên, Tham Mưu Trưởng bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Trưởng Tiếp Vận.
9- Lữ Lan (Lữ
Mộng Lan), Chỉ Huy Trưởng trường Cao Đẳng Quốc Phòng.
10- Hoàng
Xuân Lãm, Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng.
11- Vĩnh Lộc,
nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng lúc 3giờ chiều ngày 29 rồi sáng 30 ra đi cùng với
Trung Tướng Trần Văn Trung.
12- Nguyễn
Văn Mạnh, TTM phó đặc trách Địa phương quân và Nghĩa quân.
13- Nguyễn
văn Minh, (Minh đờn vì đờn guitare rất hay), Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
14- Trần Văn
Minh, (Minh nhỏ, hay Minh Lục quân, còn Minh lớn là Trung Tướng Dương văn Minh),
Cựu Tổng Tham Mưu Trưởng, Đai sứ tại Tunisie, Tchad, sang Nice (Pháp).
15- Trần Văn
Minh, (Minh đen), Tư Lệnh Không Quân.
Chú thích : VNCH có 4 tướng đều có tên Minh
nên để dễ phân biệt, mỗi vị được gọi tên với một “biệt danh”.
16- Ðặng văn
Quang, Phụ Tá An Ninh Quốc Gia Phủ Tổng Thống. Lúc đầu đến Montréal, rồi sau
sang Mỹ.
17- Trần Ngọc
Tám, Cựu Đại Sứ VNCH tại Thái Lan.
18- Lâm
Quang Thi, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 1 & QK 1.
19- Nguyễn
Xuân Thịnh, Tư Lệnh Binh Chủng Pháo Binh.
20- Phạm Quốc
Thuần, Chỉ huy Trưởng Trường Sĩ Quan Đồng Đế, Nha Trang.
21- Nguyễn
văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, rồi Quân Đoàn 3 kiêm Tư Lệnh Binh chủng Thiết
Giáp.
22- Trần văn
Trung, Tổng Cục Trưởng Chiến Tranh Chính Trị, đến Mỹ rồi sau sang Pháp.
23- Ngô
Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1.
24- Ngô Dzu,
Trưởng đoàn Quân Sự 4 bên tại Trại Davis, Tân Sơn Nhứt.
Cấp Thiếu Tướng
1- Nguyễn
Cao Kỳ, Cựu Tư Lệnh Không Quân, Cựu Phó Tổng Thống. Trưa ngày 25 tháng tư, trước
10 000 người Công giáo ở xứ đạo Tân Sa Châu, ông tuyên bố: «Tôi sẽ ở lại Saigon
chiến đấu cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát». Sau khi tuyên bố
xong , ông thu xếp cho máy bay di tản qua Thái Lan trong đó có một chiếc trực
thăng chở ông cùng tướng Ngô Quang Trưởng ra Đệ Thất Hạm Đội ngày 29/4.
2- Đào Duy
Ân, Tư Lệnh Phó Diện Địa Quân Đoàn III.
3- Nguyễn Khắc
Bình, Tư Lệnh Cảnh Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo.
4- Võ văn Cảnh,
Phụ Tá Tổng Trưởng Nội Vụ.
5- Bùi Đình
Đạm, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Nhân Lực Bộ Quốc Phòng.
6- Nguyễn
Duy Hinh, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB.
7- Hoàng Văn
Lạc, Tư Lệnh Phó Quân Khu 1.
8- Võ xuân
Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân.
9- Bùi Thế
Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
10- Nguyễn
Ngọc Loan, Chánh Thanh Tra Bộ Quốc Phòng.
11- Phan
Đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB.
12- Lâm
Ngươn Tánh (Hải Hàm Đề Đốc), Phụ Tá Quốc Vụ Khanh đặc trách cứu trợ đồng bào di
cư Miền Trung.
13- Lâm
Quang Thơ, Chỉ Huy trưởng trường Võ Bị Đà Lạt.
14- Lê Ngọc
Triển, Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ TTM (4/1975).
15- Chương Dzềnh
Quay, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn IV.
Cấp Chuẩn Tướng
1- Trương Bảy,
Phụ Tá Tư Lệnh Cảnh Sát đặc biệt.
2- Nguyễn Chấn,
Cục Công Binh, Biệt phái Phụ Tá Tổng Trưởng Canh Nông.
3- Nguyễn
Thanh Châu (Phó Đề Đốc), Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, Nha
Trang.
4- Nguyễn Hữu
Chí (Phó Đề Đốc), Phụ tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển.
5- Nguyễn
Văn Chức, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận (4/1975).
6- Vũ Đình
Đào (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Vùng 3 Duyên Hải.
7- Đinh Mạnh
Hùng (Phó Đề Đốc), Phụ Tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Sông.
8- Hoàng Cơ
Minh (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải.
9- Nghiêm
Văn Phú (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Lực Lượng Tuần Thám 212.
10- Đặng Cao
Thăng (Phó Đề Đốc), Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Sông ngòi.
11- Hồ Văn Kỳ
Thoại (Phó Đề Đốc) Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
12- Diệp
Quang Thủy (Phó Đề Đốc), Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
13- Từ Văn
Bê, Chỉ Huy Trưởng Tiếp vận và Kỹ Thuật KQ.
14- Võ Dinh,
Chỉ Huy Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu KQ.
15- Nguyễn Đức
Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 KQ, định cư ở Montréal.
16 – Đặng
Đình Linh, Tham mưu phó Kỹ Thuật và Tiếp Vận Không Quân.
17- Nguyễn
Văn Lượng, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 KQ.
18- Nguyễn
Ngọc Oánh, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện KQ.
19- Nguyễn Hữu
Tẩn, Tư Lệnh Sư Đoàn 4 KQ, được Dương Văn Minh cử quyền Tư Lệnh Không Quân ngày
29/4/1975.
20- Phan Phụng
Tiên, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 KQ.
21- Huỳnh Bá
Tính, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 KQ.
22- Nguyễn
Văn Giàu (Đại tá BB), biệt phái qua Bộ Nội Vụ thăng cấp Chuẩn Tướng Tư Lệnh Cảnh
Lực.
23- Phan Hòa
Hiệp, Trưởng Đoàn LHQS 2 bên.
24- Lê Quang
Lưỡng, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù.
25- Vũ Đức
Lượng, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội.
26- Ðổ Kiến
Nhiễu, Ðô Trưởng Sài Gòn.
27- Phạm Hữu
Nhơn, Trưởng Phòng 7 Bộ TTM.
28- Trần văn
Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn 2 Bộ Binh.
29- Huỳnh Thới
Tây, (Đại tá BB), biệt phái qua Bộ Nội Vụ thăng cấp Chuẩn Tướng Tư Lệnh Đặc Cảnh
Trung Ương.
30- Trần
Đình Thọ, Trưởng Phòng 3, Bộ TTM.
31- Trang Sĩ
Tấn (đồng hóa Chuẩn Tướng), Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đô Thành.
Những Vị Tướng bị Cộng Sản bắt đi “học tập cải
tạo”
Số tướng
lãnh bị đi học tập cải tạo gồm các tướng lãnh không muốn đi hay bị kẹt lai.
Một số tướng
đã giải ngũ cũng bị đi “cải tạo” (có ghi chữ Cựu). Một số tướng đã bị giam
trong khám Chí Hòa thời VNCH vì nghi án tham nhũng hay lý do chính tri bị tiếp
tục cải tạo dưới thời cộng sản. Thời gian học tập cải tạo từ vài năm đến 17
năm. Có 8 vị bị 17 năm (từ số 1 đến số 8). Duy nhất có Cựu Trung Tướng Nguyễn
Văn Vỹ chỉ học tập có 6 tháng.
Những vị bị cải tạo 17 năm (1975 -1992)
1- Thiếu Tướng
Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
2- Thiếu Tướng
Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB.
3- Thiếu Tướng
Đỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân.
4- Chuẩn Tướng
Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh.
5- Chuẩn Tướng
Phạm Ngoc Sang, Tư Lệnh Không Đoàn 6, bị CS bắt khi thua trận ở Phan Rang cùng
với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.
6- Chuẩn Tướng
Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 2, Chỉ huy cuộc hành quân
rút lui bỏ các tỉnh vùng Cao Nguyên tháng 3, 1975.
7- Chuẩn Tướng
Lê Văn Thân, Tư Lệnh phó lãnh thổ Quân khu 2.
8- Chuẩn Tướng
Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB.
Những vị bị cải tạo 12-13 năm (được thả năm
1987,1988)
9- Trung Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi: Bị tai tiếng tham nhũng ở Quân đoàn 4, ông phải bàn giao chức
vụ cho Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đi nhận chức Chỉ Huy Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Cuối tháng 3, 1975, Khi QĐ 2 bị tan rã, TT Thiệu cử ông làm Tư Lệnh phó QĐ 3
kiêm Tư Lệnh Tiền Phương QĐ đặc trách giữ phòng tuyến Phan Rang, nhưng sau cùng
Phan Rang cũng bị chiếm và ông bị địch bắt. Ông là tướng lãnh có cấp bậc cao nhất
bị bắt tại chiến trường.
10- Trung Tướng
Nguyễn Hữu Có, đã giải ngũ năm 1967, tuy là cựu thù với ĐT Dương Văn Minh,
nhưng lại tái ngũ ngày 28/4/1975 làm Cố Vấn cho Tướng DVM. Bị đi cải tạo 12
năm, nhưng khi được thả lại hoạt động cho Mặt Trận Tổ Quốc, cơ quan ngoại vi của
cộng sản.
11- Trung Tướng
Lâm Văn Phát, cùng thời với các tướng Trần Thiện Khiêm, Dương văn Đức, Nguyễn
Khánh, tham gia đảo chánh 4 lần, bị tước hết cấp bậc, bị gìải ngũ năm 1965.
Ngày 28/4/1075, Dương Văn Minh thăng cấp Trung Tướng cử ông làm Tư Lệnh Biệt
Khu Thủ đô thay tướng Nguyễn Văn Minh vừa đào nhiệm.
12- Thiếu Tướng
Nguyễn Xuân Trang, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh, sau biệt phái qua Bộ Ngoại Giao Phụ
tá Ngoại Trưởng Trần Văn Lắm.
13- Thiếu Tướng
Nguyễn Chấn Á, người Việt gốc Hoa, Thiếu Tướng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc
(Đài Loan), Gia nhập Quân Lực VNCH, ông được giữ nguyên chức vụ. Chỉ Huy Trưởng
Quân Cảnh, Cố Vấn Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
14- Thiếu Tướng
Văn Thành Cao (Cao Đài) hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm được phong Thiếu Tướng
(1955) Tổng Cục Phó Chiến Tranh Chính Trị.
15- Thiếu Tướng
Đoàn Văn Quảng, Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng, chết trong trại giam Nam Hà, Hà
Nam Ninh vì bịnh không thuốc men năm 1984.
16- Chuẩn Tướng
Lý tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
17- Chuẩn Tướng
Vũ Văn Giai, bị cách chức Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB hồi tháng 5 năm 1972, bị kết tội
5 năm tù vì thua trận Quảng Trị, bị giam trong Khám Chí Hoà . Khi CS vào Saigon
ông bị đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến năm 1987 mới được thả.
18- Chuẩn Tướng
Lê Văn Tư, cựu Tư Lệnh SĐ 25BB, bị tạm giam trong Khám Chí Hòa năm 1974 vì nghi
án buôn lậu trong quân đội, bị đi tù từ Nam ra Bắc 13 năm.
19- Chuẩn Tướng
Trần Quốc Lịch, Chánh Thanh Tra QĐ 4, bị giam trong Khám Chí Hòa năm 1974 vì
nghi can buôn lậu trong quân đội, bị tù từ Nam ra Bắc 13 năm.
20- Chuẩn Tướng
Hồ Trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù, Chánh Thanh Tra QĐ 3. Sau khi được thả, ông ở
lại VN.
21- Chuẩn Tướng
Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó, Quân Ðoàn 2, bị CS bắt làm tù binh tại Tuy Hòa.
22- Chuẩn Tướng
Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn 3, QK3.
23- Chuẩn Tướng
Lê Trung Trực, Phụ Tá Trung Tướng Đặng Văn Quang.
24- Chuẩn Tướng
Lý Bá Hỷ, Phó Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, 13 năm tù, sau định cư ở Pháp.
25- Chuẩn Tướng
Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 9 Bộ Binh.
26- Chuẩn Tướng
Chung Tấn Phát, Chánh Văn Phòng Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu.
27- Chuẩn Tướng
Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Phó Cảnh Sát Quốc Gia, chết trong trại giam Nam Hà, Hà Nam
Ninh năm 1984 vì bịnh thiếu thuốc men.
Những vị bị cải tạo dưới 5 năm
28- Thiếu Tướng
Quân Y sĩ Vũ Ngọc Hoàn, bị lưu đày từ Nam ra Bắc đến năm 1980.
29- Chuẩn Tướng
Quân Y sĩ Phạm Hà Thanh, bị cầm tù đến năm 1977.
Những vị cựu tướng lãnh vẫn bị đi tù
30- Cựu
Trung Tướng Lâm Thành Nguyên (tự Hai Ngoán), chỉ huy Lực Lượng Hòa Hảo được Bảo
Đại thăng cấp Đại Tá, rồi Thiếu Tướng và Ngô Đình Diệm đồng hóa Trung Tướng khi
về hợp tác với chánh phủ VNCH, Năm 1955, ông được giải ngũ nhưng vẫn là lãnh tụ
của giáo phái Hòa Hảo. Năm 1975, ông bị CS bắt giam tại Khám Chí Hòa và chết tại
đây năm 1977.
31- Cựu
Trung Tướng Dương Văn Đức, được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm thăng Thiếu Tướng năm
1956, lúc ông mới 31 tuổi là người trẻ tuổi nhất được thăng cấp tướng. Bất bình
với TT Diệm, ông từ chức, sau ông làm Chỉnh Lý với Nguyễn Khánh, ông được thăng
Trung Tướng, được cử làm Tư lệnh Quân Đoàn IV.
Ông bị buộc
giải ngũ năm 1964, mắc bịnh tâm thần luôn nhục mạ cấp lãnh đạo. Bị CS bắt đi cải
tạo từ Nam ra Bắc đến năm 1987, ở lại VN sau khi được thả.
32- Cựu
Trung Tướng Lê Văn Kim, giải ngũ năm 1965 cùng 2 tướng Mai Hữu Xuân và Trần Văn
Đôn lập ra công ty xuất nhập cảng DOXUKI, bị CS bắt đi cải tạo đến năm 1982.
33- Cựu
Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, giải ngũ năm 1973. Bị CS bắt
lúc ông bị trọng bịnh và bị quản thúc ở nhà thương St- Paul cho đến năm 1979,
được thả nhờ sự can thiệp của Thứ trưởng Quốc Phòng Pháp. Đó là thông tin trên
Wikipedia.
Nhưng Huy Đức,
trong «Bên Thắng Cuộc» viết rõ hơn : «Vừa được thả về cuối năm 1975, Tướng Vỹ
phát biểu: Chúng tôi ăn cơm ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân
đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tướng cách mạng, đừng tin những lời đồn
vô căn cứ. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngày hôm đầu ra trình diện đã phát
biểu: Tôi hiểu rõ quân đội trong nầy lắm, tệ lắm, xấu lắm, và mấy ngày hôm nay
thấy rõ bộ đội cách mạng rất kỹ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà
tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh bình
ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng…» (ngưng trích). (Bên Thắng Cuộc, q. 1, tr.
41). Có thế nào một Trung Tướng VNCH tồi tệ như vậy mà Huy Đức căn cứ vào báo
Saigon Giải Phóng để nhục mạ tướng lãnh VN hay thực sự tồi tệ như vậy để được cộng
sản trả ơn cho xuất cảnh sang Pháp năm 1979.?
34- Cựu Thiếu
Tướng (Đề Đốc Hải Quân) Trần Văn Chơn, giải ngũ 1974, là tướng hải quân duy nhất
không di tản. Bị giam từ Nam ra Bắc cho đến năm 1987.
35- Cựu Thiếu
Tướng Nguyễn Thanh Sằng, giải ngũ năm 1973, bị cầm tù đến năm 1987.
36- Cựu Thiếu
Tướng Huỳnh Văn Cao, giải ngũ năm 1966 vì Biến Động Miền Trung. Thượng Nghị Sĩ
1967- 1975. Đi cải tạo từ Nam ra Bắc đến 1987.
37- Cựu Chuẩn
Tướng Phan Ðình Thứ (tự Lam Sơn), Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, bị tù năm
1972 vì bắn chết môt trung sĩ người Thượng, bị buộc giải ngũ năm 1973. Ông trải
qua 13 năm tù từ Nam đến Bắc.
38- Cựu Chuẩn
Tướng Phan Xuân Nhuận, Tư Lệnh SĐ 1 BB, bị giáng chức thành Đại Tá và bị giải
ngũ vì Biến Động Miền Trung năm 1966. Bị giam ở Hoàng Liên Sơn đến năm 1987
Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh, Tình báo viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Là Cộng sản
nằm vùng mang bí danh S7, lại là thân cận của tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống
Thiệu cho ông về hưu tháng 5, 1974 cốt để cắt vây cánh của ông Minh, lúc ấy ông
là Chánh Thanh Tra Quân Đoàn I làm Phụ Tá cho tân Tổng Tham Mưu Trưởng là tướng
Vĩnh Lộc, nhưng hôm sau, tướng Vĩnh Lộc di tản, ông thay thế Vĩnh Lộc. Chính
ông là người ra nhật lệnh yêu cầu quân đội VNCH buông súng. Vì có công với Việt
Cộng, ông không phải đi cải tạo, nhưng không có chức vụ gì ngoài việc được cho
làm Ủy viên Mặt Trận tổ Quốc VN, sống nghèo khổ ở làng Bến Tranh (Mỹ Tho) trong
một nghĩa địa cho tới ngày mất (29/9/2019).
Lâm Vĩnh Bình
15/03/2020
Chú thích :
Về các người
bị cộng sản bắt đi học tập cải tạo, Huy Đức viết:« Ở Saigon, 443 360 người ra
trình diện, trong đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1 806 trung tá, 3 978 thiếu
tá, 39 304 sĩ quan cấp úy, 35 564 cảnh sát, 1 932 nhân viên tình báo các loại,
1 469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9 306 người trong các đảng phái được
cách mạng coi là phản động. Chỉ có 4 162 người phải truy bắt trong đó có một
viên tướng và 281 sĩ quan cấp tá» (Huy Đức. Bên Thắng cuộc. q.1, tr 37) . Bộ
sách gồm 2 quyển gần 1000 trang do tác giả xuất bản tại Boston (OSIN Book,
2012), lúc tác giả được một học bổng sang Mỹ tu nghiệp. Theo tác giả, ông đã
dùng hơn 20 năm để tra cứu tài liệu và phỏng vấn nhiều lãnh đạo cao cấp của đảng
cộng sản cũng như phe bại trận. So với các tài liệu của đảng xuất bản, bộ sách
nầy cung cấp nhiều thông tin tương đối khả tín mà nhiều nguồn liệu trích dẫn,
thí dụ như Wikipedia.
https://baovecovang2012.wordpress.com/2020/05/29/30-thang-tu-cac-tuong-lanh-vnch-di-dau-lam-vinh-binh/
.
No comments:
Post a Comment