(Trích sách
Giải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh)
Bản
đồ Quốc lộ 21, từ Khánh Dương đến Nha Trang
Tình hình
trước khi nổ ra trận M’Drack
Theo hồi ký
của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, Chính Ủy mặt trận Tây Nguyên, thì quân CSVN bắt đầu
tấn công Ban Mê Thuột với 4 sư đoàn Bộ binh, gồm có :
– Sư đoàn 320 CSVN làm chốt chận giữa Pleiku và
BMT. Tuy nhiên thực lực của Sư đoàn này
chỉ có Trung đoàn 9 là còn nguyên vẹn, còn Trung đoàn 48 và Trung đoàn 64 bị
thiệt hại nặng sau trận tấn công Căn cứ Pleime vào tháng 8 năm 1974.
(Sư đoàn
320 CSVN được tướng Văn Tiến Dũng giao đánh chiếm chi khu Thuần Mẫn vào ngày
8-3-1975, làm chốt chận giữa Pleiku và BMT.
Nhưng sư trưởng là Kim Tuấn “mánh” bằng cách đóng quân xa Quốc lộ 5 cây
số cho nên chiều ngày 9-3 Liên đoàn 21 BĐQ từ Pleiku về Buôn Hô để tăng cường
cho BMT mà quân của Kim Tuấn không chận đánh.
Thậm chí
đoàn quân di tản từ Pleiku đi Phú Bổn ngang qua khu vực của sư đoàn 320 CSVN mà
Kim Tuấn cũng không hay biết do vì “trốn quá kỹ”. Chính vì việc này mà Đại tá
Kim Tuấn vẫn phải mang lon Đại tá cho tới ngày về hưu ).
– Sư đoàn 10 CSVN với lực lượng còn nguyên vẹn
nhưng Trung đoàn 66 và Trung đoàn 28 bị tổn thất khá nặng khi tấn công Căn cứ
Núi Lửa và BCH/Chi khu Đức Lập vào ngày 9-3-1975. Riêng Trung đoàn 24 được giao nhiệm vụ hỗ trợ
cho Sư đoàn 316 CSVN đánh vào trung tâm BMT.
Sư đoàn 316 CSVN được giao nhiệm vụ làm nổ lực
chính tấn công vào thị xã BMT.
( Sở dĩ tướng
Hoàng Minh Thảo giao cho Sư đoàn 316 CSVN làm nổ lực chính vì là sư đoàn tân
tuyển, bòn vét thanh niên Nghệ An ở hạng tuổi 16 , chưa đụng trận lần nào cho
nên không biết sợ chết là gì. Còn nếu
giao cho các sư đoàn 10 hay 320 thì họ thừa kinh nghiệm đánh trận bằng “mánh”;
nghĩa là vẫn báo cáo về phía sau giống như họ đang tấn công vũ bão nhưng thực
ra họ chỉ tấn công vào những chỗ không có địch;
còn chỗ nào có địch thì họ né đi, vờ như đi lạc. Trong khi Trung đoàn bộ
và Sư đoàn bộ ở đằng sau xa, ngoài tầm pháo binh và phi cơ ).
– Trung đoàn biệt lập 95 B ( Thuộc sư đoàn 325
B ) cũng là trung đoàn tân tuyển từ Thanh Hóa, cũng ở hạng tuổi 16; được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho SĐ 316 CSVN
đánh vào BMT.
Trung đoàn
95 A biệt lập được giao nhiệm vụ làm chốt chận trên QL.19, giữa Pleiku và Quy
Nhơn.
Trung đoàn
25 biệt lập được giao nhiệm vụ làm chốt chận trên QL.21, giữa BMT và Nha Trang.
( Đây là
trung đoàn chủ lực miền của Mặt trận Tây Nguyên của CSVN, đa số là người Miền
Núi, có nhiều kinh nghiệm chiến trường tại khu vực Quốc lộ 21. Nhưng cũng như sư đoàn 10 và 320, hễ khi nào
thấy “khó ăn” thì họ biến mất vào núi rừng.
Cho nên tốt nhất là cho họ làm chốt chận, nằm chết dí ở một vị trí cố định
).
Rốt cuộc sau
5 ngày chiến đấu tại mặt trận BMT thì sư đoàn 316 CSVN bị pháo binh VNCH tiêu
diệt tại Phi trường Phụng Dực. Và sau 5
ngày chiến đấu tại mặt trận Khánh Dương thì Trung đoàn 25/ CSVN và Trung đoàn
95 B/CSVN bị pháo binh và phi cơ VNCH tiêu diệt.
Cho nên sau
khi chiếm được quân Khánh Dương vào ngày 22-3-1975 thì thực lực của quân CSVN
chỉ còn Sư đoàn 10 CSVN là còn khả năng tiếp tục chiến đấu. Trong khi đó ngày 20-3-1975 Lữ đoàn 3 Dù của
VNCH đã khóa đèo M’Drack với 3 tiểu đoàn Bộ binh và 1 tiểu đoàn Pháo binh.
Diễn tiến trận
đánh
Năm 1975,
ngày 23-3, hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp ghi lại : “Đại đội 5 của Tiểu đoàn 8 do chính trị viên
Lê Hải Triều chỉ huy được tăng cường một trung đội ĐKZ 82 ly, 1 trung đội vận tải
1 tổ thông tin 2W được lệnh của Sư đoàn trưởng ( Sư đoàn 10 CSVN ): “hành quân trên đường 21, gặp địch đâu đánh
đó” ( trang 437 ).
( Chính trị
viên đại đội mà chỉ huy đại đội thì có nghĩa là Đại đội trưởng không còn. Và Tư lệnh sư đoàn mà ra lệnh cho đại đội trưởng
thì có nghĩa là Tiểu đoàn trưởng và Trung đoàn trưởng cũng không còn.
Ông Tư lệnh
sư đoàn mà lại ra một cái lệnh “gặp đâu đánh đó” thì ông ta không phải là sĩ
quan hay tướng, mà là một ông đội trưởng du kích….Sự thực muốn ra một cái lệnh
hành quân thì trước tiên phải biết tình hình địch và ta như thế nào; rồi sau đó
phải cho thám báo hay trinh sát đi dọ lại…
Đằng này chỉ biết xuỵt chó vô gai, bảo con người ta cứ tiến tới trước, hễ
địch đã bỏ đi thì có nghĩa là ông Tư lệnh Sư đoàn đánh thắng, còn lỡ như gặp địch
nó bắn cho chết thẳng cẳng thì ông Tư lệnh quay ra tìm súi đứa khác ).
Tướng Hiệp
viết tiếp : “Khi đại đội này vừa đến chân đèo, địch phát hiện được, chúng dùng
súng 12,8 ly trên xe M.113 bắn xối xả vào đội hình; đồng thời địch cho máy bay
đến ném bom….Chỉ huy đại đội 5 bình tỉnh cho bộ đội lợi dụng con suối nhỏ chạy
dọc theo đường 21 trụ lại chuẩn bị đánh chiếm đèo”.
( Bất ngờ bị
súng đại liên trên xe tăng bắn như mưa, lại thêm máy bay thả bom; mà lại bình tỉnh trụ lại để chiếm đèo thì quả
là điên mất rồi. Địch trên đèo là 1 Lữ
đoàn, khoảng 2.000 người, thì 1 đại đội, khoảng 100 người, lấy tư cách gì để chiếm đèo? Trong khi đúng sách vở thì quân tấn công bắt
buộc phải gấp 3 quân phòng thủ )
Lại viết tiếp
: “Lúc này… ta phát hiện địch đã chiếm đèo Ma Đrắc ( Bây giờ mới biết ! ), liền
xin pháo binh bắn chi viện cho Đại đội 5. Ba loạt đạn đầu rơi trúng khu vực đỉnh
đèo. Đến loạt đạn thứ tư, 2 quả đạn 155
ly rơi trúng đội hình Đại đội 5 làm cho 19 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, hơn 20 đồng
chí khác bị thương, gây tổn thất nghiêm trọng cho đơn vị này”
*Chú giải :
Chi tiết 2 trái đạn 155 ly khiến cho các nhà quân sự học chú ý : Quân đội CSVN không có súng 155 ly và không
biết sử dụng súng 155 ly của VNCH. Trong
trang sau đó Tướng Hiệp cho biết kể từ lúc này quân CSVN dùng súng 155 ly tịch
thu được tại BMT. Và đạn sử dụng cho
súng 155 ly là đạn tịch thu tại kho đạn Mai Hắc Đế, BMT.
Sở dĩ phải
dùng súng 155 ly của VNCH vì theo hồi ký của tướng Doãn Tế, chỉ huy trưởng Pháo
binh CSVN tại Tây Nguyên, thì trong trận
Ban Mê Thuột và trận Khánh Dương 2 trung đoàn pháo chiến dịch (130 ly và 122
ly) đã bắn hết số đạn 11 ngàn viên mà quân CSVN tại Tây Nguyên đang có.
Người ta ngạc
nhiên là ngoài 4 khẩu 105 ly tại Phước Long bị lọt vào tay CSVN do bị phản bội, còn lại tất cả các khẩu pháo khác đều bị hủy bằng
lựu đạn lân tinh trước khi rút lui. Ở
đâu ra các khẩu 155 ly này? Rà lại chiến
sự BMT trước đó thì chỉ có 2 khẩu 155 ly của Tiểu đoàn 230 PB nằm tại Phi trường
Phụng Dực, nhưng Trung úy Pháo binh Phạm Ngọc Phụng xác nhận 2 khẩu 155 ly này
đã được phá hủy cùng với 4 khẩu 105 ly trong ngày 15-3-1975.
Ngoài ra còn
có 2 khẩu 155 ly thuộc Tiểu đoàn 63 Pháo binh diện địa đặt tại BCH Chi khu
Khánh Dương nhưng hai khẩu này đã được kéo về đèo M’Drack lúc 10 giờ sáng ngày
22-3-1975. Vậy chỉ còn lại hai khẩu 155
ly duy nhất tại BCH Chi Khu Phước An, cũng thuộc Tiểu đoàn 63 Pháo binh diện địa. Có lẽ hai khẩu 155 ly này không được phá hủy
khi Phước An tan hàng vào chiều ngày 17-3-1975.
Súng không bị phá hủy chứng tỏ sĩ quan Trung đội trưởng hoặc hạ sĩ quan
khẩu trưởng bị khống chế bất ngờ.
Tướng Hiệp
ghi nhận có tất cả 4 loạt đạn nhưng 3 loạt đạn đầu rơi trên đỉnh đèo, còn loạt
đạn thứ 4 lại trúng ngay vào quân CSVN, và mỗi loạt chỉ có 2 trái; chứng tỏ chỉ có 2 khẩu chứ không hơn. Tới đây thì vấn đề là ai đã bắn hoặc chỉ cho
CSVN cách sử dụng 2 khẩu súng đó ?
Chỉ có sĩ
quan trung đội trưởng hoặc hạ sĩ quan khẩu đội trưởng mới có thể lấy yếu tố tác
xạ bắn chính xác lên đỉnh đèo ngay loạt đạn đầu. Như vậy loạt đạn thứ 4 là loạt đạn được điều
chỉnh lần thứ 3 thì chắc chắn phải rơi chính xác… nhưng lại là chính xác ngay đội hình của quân
CSVN (!). Chứng tỏ người lấy yếu tố tác
xạ lẫn người quay nòng súng đều là quân VNCH.
Những xạ thủ
VNCH đã bất thần điều chỉnh cho đạn rơi vào quân CSVN thay vì vào quân VNCH. Trước đó họ bị buộc phải bắn dưới sức ép của
những họng súng kê sau ót. Nhưng họ đã
quyết định chết chứ không thể nào giết chiến hữu của mình, ngược lại họ đổi mạng
họ với 1 đại đội quân CSVN.
Ngày 24-3,
lúc 11 giờ sáng, quân Dù tại đỉnh đèo M’Drack phát hiện 5 xe tăng của quân CSVN
đang di chuyển từ Khánh Dương đến M’Drack, pháo binh Dù tại giữa đèo bắn chận,
phi cơ A.37 bắn hạ 3 chiếc tăng. Đồng thời
phi cơ quan sát phát hiện một ổ phòng
không địch bắn lên từ khu vực Rẫy Ông Kỳ, cách M’Drack 20 cây số. Phi cơ A.37 lên oanh kích, hạ 2 vị trí phòng
không.
Đây là lần đầu
tiên súng cao xạ của CSVN xuất hiện sau trận Ban Mê Thuột từ ngày 10 đến ngày
13-3. Kể từ ngày đó các khẩu phòng không
của CSVN im tiếng, ngoại trừ 1 loạt đạn phòng không bắn trúng trực thăng chở Tướng
Lê Trung Tường vào ngày 16-3. Chứng tỏ
quân CSVN cũng không còn đạn phòng không, có lẽ giờ đây đạn phòng không ở ngoài
Bắc mới chuyển đến kịp. So lại với các
sách vở của hai bên nói về cuộc di tản 8 ngày trên LTL.7 thì quả nhiên không hề
có một khẩu phòng không nào xuất hiện. Quân VNCH hoàn toàn làm chủ trên LTL.7.
Ngày 25-3,
lúc 4 giờ 30 sáng, quân CSVN pháo kích quân Dù tại đầu đèo M’Drack, trận pháo
kéo dài khoảng 20 phút.
Lúc 5 giờ
sáng, quân bộ binh CSVN tấn công Đại đội 53 Dù tại đầu đèo. Pháo binh Dù bắn yểm trợ quân phòng thủ
. Lúc 6 giờ 15 sáng quân CSVN rút lui,
phía Dù có 1 chết, 7 bị thương.
Lúc 7 giờ
sáng, xe tăng của quân CSVN bắt đầu tiến tới đầu đèo M’Drack với quân bộ binh
theo sau. Hỏa tiễn Tow của quân Dù bắn hạ
2 tăng, đại bác 106 ly không giật của quân Thiết giáp VNCH bắn hạ 1 tăng.
Lúc 8 giờ
30, quân CSVN rút lui, quân Dù đếm được 20 xác, thu 10 vũ khí. Phía Dù có 2 chết 11 bị thương.
Ngày 27-3,
lúc 7 giờ sáng, quân CSVN pháo 130 ly vào khu vực đỉnh đèo, làm hư 2 khẩu 105
ly của pháo binh Dù. 4 khẩu pháo còn lại
được lệnh rút về giữa đèo. Phi cơ A.37 tấn
công pháo binh CSVN tại khu vực phi trường Khánh Dương.
Lúc 5 giờ
chiều, 1 phi cơ A.37 bị bắn rơi tại khu vực đầu đèo M’Drack, phi công nhảy dù
xuống khu vực kiểm soát của quân Dù.
Ngày 28-3,
lúc 3 giờ chiều, Trung tá Bùi Quyền, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Dù đang trấn
giữ tại đầu đèo M’Drack nhận được lệnh của BCH Lữ đoàn 3 Dù :
(1). Gởi trả
chi đoàn thiết vận xa M.113 về BCH/Lữ đoàn 3 Dù. Cắt 1 đại đội Dù đi theo chi đoàn TVX. Đại đội Dù và chi đoàn TVX sẽ ở lại chặn hậu
cho Tiểu đoàn 5 Dù rút trước, sau đó sẽ rút cuối cùng.
(2). Tiểu
đoàn 5 Dù tìm cách đoạn chiến và rút về phía
sau của Tiểu đoàn 6 Dù ở giữa đèo.
(3). Lữ đoàn 3 Dù sẽ về lập phòng tuyến mới tại
đèo Rù Rì, Nha Trang.
Lúc 4 giờ
chiều, phi cơ A.37 bắn hạ 3 T.54 đang di chuyển từ Phi trường Khánh Dương xuống
M’Drack.
Lúc chiều tối,
đại đội 5/8 của Trung đoàn 25 CSVN, quân
số còn không tới 30 người, phục kích đoàn xe tiếp tế cho quân Dù tại chân
đèo M’Drack. Tiểu đoàn 2 Dù tại chân đèo đẩy lui quân tấn
công nhưng toàn đoàn xe đã bị tiêu hủy.
( Ngày 23
Trung đoàn 25 với quân số còn lại sau các trận đụng độ liên miên trên Quốc lộ
21 đã luồn rừng xuống giữa đèo và chân đèo mà không qua quân Dù tại
M’drack. Sự kiện chận đánh đoàn xe tiếp
vận khiến Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù e ngại quân CSVN từ Khánh Dương có thể đi
vòng theo đường rừng để đánh bọc hậu quân Dù ).
Lúc sẫm tối,
chi đoàn M.113 và đại đội trên cùng của Tiểu đoàn 5 Dù rời tuyến để rút xuống
phía dưới. Từng chiếc M.113 chở theo
quân Dù rời tuyến cách khoảng để địch không phát hiện ra âm mưu rút quân. Trước đó họ đã gài mìn tự động để ngừa địch
bám theo.
Lúc 10 giờ
đêm, chi đoàn TVX và đại đội Dù vượt qua
BCH Tiểu đoàn 5 Dù để xuống giữa đèo thì toàn bộ Tiểu đoàn 5 Dù rời vị trí để
băng rừng xuống chân đèo.
Lúc 10 giờ
30 đêm, bãi mìn tự động trên tuyến đầu đèo phát nổ, chứng tỏ quân CSVN mò vào
thám sát và đã biết quân Dù đã rút. Cùng
lúc đó chi đoàn M.113 bị phục kích khi tới gần vị trí của Tiểu đoàn 6 Dù ở giữa
đèo, có 3 M.113 bị bắn cháy. Chi đoàn vẫn
tiếp tục chạy băng về phía trước.
Ngày 29-3,
lúc 1 giờ 30 khuya, một đại đội của Tiểu đoàn 5 Dù chạm địch cách vị trí 2 chiếc
M.113 bị bắn cháy khoảng 800 mét. Khoảng
1 trung đội thương vong, Đại đội trưởng tử trận; thành phần còn lại tạt về BCH Tiểu đoàn.
Lúc 6 giờ
sáng, Tiểu đoàn 5 Dù bắt được đường mòn di chuyển của khoảng 1 Trung đoàn CSVN
đi qua trước đó. Tiều đoàn 5 Dù lần theo
đường đó xuống chân đèo.
Lúc 10 giờ,
theo hồi ký của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, quân CSVN mở màn tấn công quân Dù tại
M’drack với một trận pháo bằng súng đại bác 155 ly của VNCH tịch thu được tại
BMT. Hồi ký Tướng Hiệp :
“ Mở đầu cuộc
tiến công tiêu diệt Lữ đoàn 3 là trận pháo ác liệt giữa pháo binh ta và pháo
binh địch làm rung chuyển cả đoạn đường đèo dài hơn 10 Km. Những khẩu pháo của ta vừa thu được ở Buôn Mê
Thuột và những xe đạn pháo từ kho Mai Hắc Đế được chuyển đến đã giáng xuống các
trận địa pháo của Lữ đoàn 3 Dù những đòn sấm sét…”.
Thực ra thì
chỉ có 2 khẩu 155 ly với hằng ngàn quả đạn, nhưng súng 155 ly bắn xa 15 cây số
trong khi súng 105 ly của quân Dù chỉ bắn được 10 cây số cho nên Pháo binh Dù
đành chịu trận chứ không phản pháo được.
Lúc 10 giờ
30, phi cơ A.37 thả bom tại khu vực Khánh Dương , nơi đặt súng 155 ly của CSVN.
Lúc 11 giờ
15, Tiểu đoàn 6 Dù báo cáo quân CSVN đã rút lui khỏi khu vực đánh nhau ở giữa
đèo, để lại một số xác chết; quân Dù tịch thu được một số vũ khí và bắt sống 4
tù binh thuộc Trung đoàn 25 CSVN. Lúc
này Tiểu đoàn 5 Dù đã di chuyển xuống tới chân đèo và chuyển hướng về hướng Nam
chứ không đâm ra Quốc lộ 21.
Ngày 30-3,
lúc 6 giờ 30 sáng, quân CSVN pháo kích đủ loại súng lớn, nhỏ vào vị trí của Tiểu
đoàn 6 Dù ở giữa đèo và Tiểu đoàn 2 Dù ở chân đèo. Đồng thời xe tăng CSVN từ trên đầu đèo mở đèn
pha chạy xuống.
Lúc 7 giờ
20, phi cơ thả bom tấn công đoàn Tăng của CSVN.
Lửa cháy lan rộng khắp vùng cỏ tranh ở giữa đèo.
Lúc 9 giờ 30
chiến trường im tiếng súng, các máy truyền tin của BCH Lữ đoàn 3 Dù và các tiểu
đoàn 6, 2 không còn hoạt động.
Lúc 11 giờ
trưa, Tiểu đoàn 5 Dù di chuyển bằng đường rừng để về quân Diên Khánh của tỉnh
Khánh Hòa. Tiểu đoàn không liên lạc được
với BCH Lữ đoàn.
Lúc 10 giờ
20 đêm, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù là Trung tá Lê Văn Phát liên lạc với BTL
Quân đoàn II để xin yểm trợ. Tướng Phú
ra lệnh “ráng chống đỡ đêm nay, ngày mai sẽ có 2 Tiểu đoàn BĐQ , và sau đó, sẽ
có 1 Lữ đoàn TQLC lên chiến đấu tại mặt trận này”.
Thực ra lúc
đó quân Dù cần biện pháp chế ngự pháo hạng nặng và chiến xa của quân CSVN, tức
là cần vũ khí hiệu lực ngay tức thời.
Ngày 31-3
Lúc 7 giờ
sáng, Lữ đoàn 3 Dù báo cáo vị trí đầu đèo của Tiểu đoàn 5 Dù đã bị địch chiếm,
không còn liên lạc được với TĐ 5 Dù. Thực
ra TĐ 5 Dù đã rời tuyến đêm 28-3, hiện giờ đang trên đường băng rừng về Diên
Khánh. Trong ngày có tất cả 20 phi tuần A.37 thả bom yểm trợ cho quân Dù tại
M’drack.
Tướng Phú
xin được sử dụng 2 Tiểu đoàn BĐQ từ Bình Định về tăng cường phòng thủ đèo Cả
lên thẳng đèo M’drack để phối hợp với quân Dù. ( Tiểu đoàn 51 và Tiểu đoàn 35
thuộc Liên đoàn 6 BĐQ, trước đó 2 tiểu đoàn này phòng thủ đèo Bình Đê, giáp
ranh với Quảng Ngãi ).
Lúc 2 giờ
chiều, Tướng Cao Văn Viên chấp thuận đưa 2 tiểu đoàn BĐQ lên đèo M’drack để
tăng cường cho quân Dù.
Lúc 3 giờ
50, Tướng Phú cho lệnh sử dụng bom CBU để chận quân CSVN tại đèo M’drack.
Diễn tiến trận
đánh từ 23-3 cho tới 30-3 được ghi theo hồi ký của Trung tá Bùi Quyền, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Dù VNCH.
Ngày 1-4
Lúc 4 giờ
sáng, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù là Trung tá Lê Văn Phát quyết định rút quân về
Trung tâm huấn luyện BĐQ Dục Mỹ, BCH lữ đoàn và Tiểu đoàn 2 cùng với Tiểu đoàn
35 BĐQ, chi đoàn Thiết vận xa và 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 5 Dù rút bằng xe
trong khi Tiểu đoàn 6 Dù và Tiểu đoàn 51 BĐQ ở lại chặn hậu.
Theo hồi ký
của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp : “Ngày 1 tháng 4, giữa lúc Sư đoàn 320 giải phóng
thị xã Tuy Hòa, thì tại khu vực đèo Phượng Hoàng ( M’drack ) các chiến sĩ Sư
đoàn 10, Trung đoàn 25 và xe tăng ta mở đợt tấn công vào toàn bộ các cụm quân của
lữ dù 3. Sau 2 giờ chiến đấu, lữ dù 3
hoàn toàn bị tiêu diệt” (trang 439).
Sự thực thì
lúc đó Lữ đoàn 3 Dù đã rút, chỉ còn Tiểu đoàn 6 Dù và Tiểu đoàn 51 BĐQ nhưng
sau đó Tiểu đoàn 51 BĐQ rút trước, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Đổng Kim Quang tử
trận. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Dù là
Trung tá Trần Hữu Thành cùng Tiểu đoàn ở lại chặn hậu cho đến khi hết đạn. Trung tá Thành bị bắt làm tù binh.
Lúc 6 giờ
sáng, Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Lam Sơn là Đại tá Nguyễn Hữu Toán thấy
quân Dù rút ngang qua thì cũng cho lệnh TTHL/ Lam Sơn di tản.
Lúc 8 giờ
sáng, đoàn quân của Đại tá Toán kéo theo Trung tâm huấn luyện Pháo binh Dục Mỹ
do Đại tá Hồ Sĩ Khải chỉ huy.
Lúc 9 giờ
sáng, đoàn quân di tản ngang qua Trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ kéo
theo đoàn di tản của Trung tâm do Đại tá Nguyễn Văn Đại chỉ huy, BCH Lữ đoàn 3
Dù cũng rút theo Trung tâm huấn luyện BĐQ.
Lúc đó tại
TTHL/BĐQ có Tiểu đoàn 58 BĐQ thuộc Liên đoàn 7 BĐQ từ Tuy Hòa rút về đang trấn
giữ các cao điểm chung quanh TTHL/BĐQ Dục Mỹ, BCH Tiểu đoàn đóng tại Núi Đeo,
cách TTHL 4 cây số. Thấy đoàn xe di tản đi ngang qua, Tiểu đoàn 58 liên lạc với
TTHL nhưng không có trả lời, Tiểu đoàn Trưởng là Thiếu tá Phan Văn Kế bèn dẫn
BCH Tiểu đoàn rút bộ về TTHL, tại đây mới hay là TTHL đã rút chạy. Tiểu đoàn trưởng TĐ.58 cho lệnh quân trên núi
rút xuống quốc lộ rồi lội bộ ra Ninh Hòa, cách 8 cây số.
Ra tới ngã
ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 21 tại Ninh Hòa, quân Tiểu đoàn 58 thấy đoàn di tản của
Phú Yên từ phía Bắc chạy về Nha Trang, đủ các loại xe cộ, và có cả chạy bộ. Thiếu tá Kế cho lệnh tan hàng, tự tìm phương
tiện về Sài Gòn, hẹn gặp nhau tại hậu cứ Liên đoàn 7 BĐQ.
Lúc 10 giờ
sáng BCH Lữ đoàn 3 Dù trấn đóng đèo Rù Rì là cửa ngõ vào thành phố Nha
Trang, Quân của các Trung tâm huấn luyện
kéo thẳng vào Phan Rang. Đại tá Hồ Sĩ Khải,
chỉ huy trưởng TTHL/Pháo binh Dục Mỹ nhập vào đơn vị của Sư đoàn 23 BB đang trấn
giữ đèo Rọ Tượng, cách Nha Trang 28 cây số.
Buổi chiều,
Tiểu đoàn 34 BĐQ đang trấn giữ đèo Cả thấy đoàn di tản từ Phú Yên chạy vào Nam
loan báo quân CSVN đã chiếm Phú Yên nên cũng vội vàng lui binh theo đoàn Phú
Yên, đến đèo Rọ Tượng thì gặp quân trấn
thủ của Sư đoàn 23 đang trấn đóng tại đó nên trụ lại để xin lệnh BCH Liên đoàn
6 BĐQ nhưng họ không liên lạc được vì 2 tiểu đoàn BĐQ đã theo BCH Lữ đoàn 3 Dù
và TTHL/BĐQ di chuyển về Phan Rang.
Lúc 11 giờ
sáng, máy bay của Tướng Phú đáp xuống Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế để đón Tướng Phạm
Quốc Thuần đi bay thị sát toàn vùng Khánh Hòa.
Thấy vậy các sĩ quan của trường cho lệnh mọi người “về nhà lo cho gia
đình”, nghĩa là cho lệnh tan hàng để tự túc di tản.
BÙI ANH TRINH
.
No comments:
Post a Comment