Chuẩn
Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II
Thiếu
Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV
Chuẩn
Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV
Chuẩn
Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
***
Ơn Tổ Quốc Trọn Tình – Sinh Vi Tướng Nghĩa
Dân Quân Vẹn Tiết – Tử Vi Thần
Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng Đạo, hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân.”
(Sào Nam PHAN BỘI CHÂU)
Giở lại những trang sử chiến đấu dũng mãnh và
hào hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhân tưởng niệm ngày 30-04, là ngày
nước Việt Nam Cộng Hòa thôi tồn tại, chúng tôi muốn kể lại cho các bạn trẻ Việt
Nam công nghiệp chiến đấu và những giây phút chói chang cuối cùng của những vị
thần tướng làm rạng danh nước Nam trên trường quốc tế: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn
Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ
của dòng họ Nguyễn Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này
sang đời nối tiếp đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về phương
Nam, mà điểm dừng là mũi Cà Mau. ược hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng
Nam thuở còn ở tuổi học sinh siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông
thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất say mê
hội họa, âm nhạc và giỏi về nhạc lý. Sau này khi đã trở thành vị tướng Tư Lệnh
Sư Đoàn 7 Bộ Binh và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV
người nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân, rất được quân và dân
Miền Tây kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu
(tỉnh) hay các đơn vị chiến trường nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc
cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một
bữa trưa. Nếu ở Bộ Tư Lệnh thì người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm
với các sĩ quan, có gì ăn nấy. Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng Nam ăn
chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng
vẫn chu toàn bổn phận của một người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Bà con thân
hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ
chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá giản dị, không vợ con, không nhu cầu
vật chất xa hoa, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành huyền thoại.
Tướng Dương Văn Minh, người được Quốc Hội
Việt Nam Cộng Hòa bỏ phiếu đa số chấp thuận lên nắm quyền Tổng Thống vỏn vẹn
mới có ba ngày đã vội vã ra lệnh toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng
thôi chiến đấu từ 10 giờ sáng ngày 30.04.1975.
Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng lãnh
của quân ta nào đâu chịu đầu hàng một cách nhục nhã như vậy. Đại cuộc không
thành, thành mất thì tướng phải tuẫn tiết theo thành. Thiếu Tướng Nam lên xe đi
vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của
người lần cuối cùng. Mối thương cảm vận nước đến hồi đen tối, chiến hữu gãy
súng và thương phế binh chắc chắn sẽ bị quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la
trên hè phố bụi đất với những vết thương còn lở lói và rướm máu, đã làm cho đôi
mắt của người sưng húp lên. Đến tối Thiếu Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh
nằm bên bờ con sông Cái Khế và nhận được tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh
Phó quân Khu IV đã nổ súng tuẫn tiết trong văn phòng tại trại Lê Lợi. Đến nửa
đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ
lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy
chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế
sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang, đầu người
gục xuống về phía trái. Ngày hôm sau, các sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh đã
đứng nghiêm chào người anh hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang
Quân Đội Cần Thơ. Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đã xuống
Cần Thơ bốc mộ, hỏa thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên
đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, Sài Gòn.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV; Quân Khu IV đã tự sát trong văn phòng Tư
Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Hòa Bỉnh, Cần Thơ, trước Thiếu Tướng
Nam vài tiếng đồng hồ. Tên tuổi của Chuẩn Tướng Hưng được biết đến từ khi ông
còn là một sĩ quan chiến đấu trên chiến trường Miền Tây và được xưng tụng là
một trong những con mãnh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ
chức vụ Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh, ông
được điều động lên Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh và được vinh
thăng Chuẩn Tướng chỉ vài tháng trước khi chiến trận Mùa Hè Đỏ Lửa nổ lớn tại
An Lộc trong năm 1972. Định mệnh đã chọn Chuẩn
Tướng Hưng làm người tử thủ An Lộc và đánh thắng đến bốn sư đoàn địch, vang
danh quân sử Việt Nam và chiến sử thế giới. Hình ảnh dũng cảm và quen thuộc mà
chiến sĩ tử thủ An Lộc ngưỡng mộ người Tư Lệnh của họ, là chiến sĩ Lê Văn Hưng
đầu đội nón sắt, quần lính, áo thun màu ô liu, tay xách cây M16 như bất cứ một
người lính khinh binh nào, làm việc 24/24 giờ một ngày bên chiếc đèn vàng mù mờ
ánh sáng, hay ra chiến hào khích lệ tinh thần binh sĩ và tỉ mỉ giảng giải cách
sử dụng súng chống chiến xa M72 để bắn xe tăng địch.
Dưới sự chăm sóc và chỉ huy của Thiếu Tướng
Nam và Chuẩn Tướng Hưng, Quân Đoàn IV gồm các Sư Đoàn 7, 9 và 21 Bộ Binh đã đem
lại những ngày an bình cho người dân Miền Tây. Hai vị Tướng đã là một cặp chiến
binh kiệt xuất tạo nên bức tường thành vững chắc cho Quân Khu IV. Cho đến cái
ngày oan nghiệt 30.04.1975, hai vị Tướng nhiều lần nhận được lời đề nghị khẩn
thiết của người Mỹ muốn giúp hai vị và gia đình di tản sang Hoa Kỳ, nhưng cả hai
vị Tướng đã khẳng khái từ chối. Cho đến 4 giờ chiều cùng ngày, hai vị Thiếu
Tướng còn cố liên lạc với các đơn vị hỏi xem có nhận được lệnh hành quân và
phóng đồ bố trí chiến đấu chưa. Tất cả đều trả lời không. Hóa ra viên đại tá
được giao trọng trách chuyển lệnh đã bỏ trốn mất. Hai vị Tướng tức uất thở than
cho vận nước. Danh từ đầu hàng từ đầu cho đến tàn cuộc chiến rất xa lạ với
người chiến sĩ QLVNCH. Chuẩn Tướng Hưng
vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô liu trở lại văn phòng Tư Lệnh Phó
gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần khuyên nhủ bà Chuẩn Tướng phu
nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên người, nói cho chúng biết về
người cha đã chết như thế nào cho tổ quốc. Người cũng trân trọng từ biệt các
chiến hữu:
“Tôi không bỏ các anh để đưa vợ con ra ngoại quốc. Tôi cũng không
thể chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm
lỗi tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm nếu có.”
Những người lính ôm lấy lá cờ vàng và cây
súng thân thương vào lòng khóc nức nở. Họ biết giây phút vĩnh biệt người chủ
tướng đã điểm. Chuẩn Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, bình thản
đóng kín cửa văn phòng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra. Bà
Hưng và các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngã người tựa vào
giường nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn thân run rẩy
từng cơn, đôi mắt còn mở to uất hờn. Người đã bắn vào tim để tỏ rõ tiết tháo
một người Tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Máu từ trong tim người
thấm ướt mảng áo ngực và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng thăng thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975.
Khoảng 11 giờ khuya, Thiếu Tướng Nam gọi điện qua chia buồn. Bà Thiếu Tướng
Hưng nghe rõ tiếng thở dài của người Tư Lệnh phía bên kia đầu dây…
Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện
Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, người ta đưa vào thi hài của Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II, một chiến
binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đã uống thuốc độc chết cùng
với vận nước.
Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào
tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng 05.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa
sau ngày ký Hiệp Định Geneva 20.07.1954, Thiếu Tướng Phú đã thề với lòng là
người thà chết chứ không chịu nhục nhã lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy
người đã giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan
khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. Còn nhớ tại trận Điện Biên
Phủ, toàn tiểu đoàn của Đại Úy Phú chỉ còn có 100 tay súng mà phải ngăn chống
một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến
với địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hào. Đại Úy Phú và một số các sĩ
quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngã và một vài giờ sau đó bị sa vào
tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Đại Úy Phú tái
phát và ông mang bệnh lao. định mệnh vẫn còn muốn cho người anh hùng được sống,
để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau
tháng 07.1954 Đại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mảnh khảnh
người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đã nhanh chóng trở
thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư
Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh
Quân Đoàn II; Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng
Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đã vượt ra
khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là
do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật
và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt
ông vào tình trạng bất khiển dụng vì lý do sức khỏe ngay trong ngày 14.03.1975,
hai ngày trước khi Quân Đoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú
đau lòng theo dõi các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh
chóng thấm đỏ hết hai phần ba lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Người biết cái sinh
mạng nhỏ bé của mình cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi
những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đã tràn ngập khắp phố
phường Sài Gòn trong ngày 30.04.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử
bằng cách uống độc dược, để tỏ rõ ý chí bất khuất của người làm Tướng và chứng
tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy
phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Một trong những hồi ức rất đẹp và rất hào
hùng mà Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ còn
để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc ông cầm khẩu súng chống chiến xa M72
nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tại An Lộc bắn
cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một bên, trong lúc Chuẩn Tướng Hưng đã
thủ sẵn một trái lựu đạn trong tay để cùng chết với quân địch. Đại Tá Vỹ đích
thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Đông khi ông về phục vụ dưới cờ của Sư
Đoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968.
Đại Tá Vỹ nổi danh là một chiến binh quả cảm,
một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huy. Sau chiến thắng An
Lộc, Đại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cho đến gần
cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái
ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi
ông, cùng với chiếc lon mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể trọng
của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính.
Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản tính của người bộc trực và
dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấu. Một số sĩ quan trong sư đoàn làm chuyện
càn quấy, ăn chận trên xương máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị thẳng cánh.
Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao
độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người ta nhìn thấy
ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu
với những vấn đề khó khăn. Về mặt quân sự, người có một tầm nhìn chiến lược rất
bao quát và thường hay bày tỏ với các sĩ quan tham mưu:
“Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ngoài này mà sẽ tìm cách
len lỏi đi thẳng về Sài Gòn”.
Sự phán đoán đó về sau đã hoàn toàn đúng. Một
quân đoàn Bắc Việt không giao chiến với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, mà tìm cách len lỏi
xuyên qua những điểm bố trí của sư đoàn, hối hả tiến về Sài Gòn để dứt điểm
Tướng Dương Văn Minh. Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn
Tướng Vỹ và toàn ban sĩ quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh
đọc nhật lệnh quan trọng. Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là
Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây
tiếp tục đánh. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan, kêu gọi
chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và
chờ binh đội cộng quân đến bàn giao.
Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng miễn cưỡng ra lệnh
cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Trước
khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng
với ông. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ quan
đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng, nên họ
đã khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng
ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắc như những
hạt sỏi. Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi
nhanh về hướng chiếc trailer dùng làm văn phòng tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan
kinh hoàng nghe hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ chiếc trailer. Mọi người hối
hả chạy ùa tới mở cửa thì thấy Chuẩn
Tướng Vỹ nằm trên vũng máu và người đã thực sự ra đi, trên tay còn cầm khẩu
Beretta 6.35 mà mọi người không nhớ là nó còn nằm trong chiếc trailer. Chuẩn
Tướng Vỹ đã bắn vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầu. Khi các sĩ quan và
binh đội cộng sản vào tiếp quản doanh trại. sĩ quan sư đoàn cao cấp của địch đã
nghiêng mình kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói: “Đây mới xứng đáng
là con nhà Tướng.”
Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị chủ
tướng ra an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh. Ít lâu sau, thi
thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây,
Gò Vấp, Sài Gòn. Năm 1987, bà cụ thân
mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh hùng và
đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.
Cũng với tấm lòng của những người mẹ thương
con bao la mênh mông như đại dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn
Tướng Trần Văn Hai tuổi già tấm lưng còng còm cõi với thời gian, đã
mưu trí gạt được quân cộng đang tràn ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7
Bộ Binh đem được thi thể vị Tư Lệnh về Gò Vấp mai táng. Bà rưng rưng
nước mắt nghẹn ngào nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung U¨y thuộc
cấp, trong đó có một vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm
nhường của Chuẩn Tướng là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra
đi người còn cố gửi về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó. Lúc còn sống Chuẩn Tướng Hai
nổi tiếng là vị Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh đạm không có của cải vật chất
gì đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp cho, thì khi người ra đi,
người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh thần tướng cùng tấm lòng sắt son đối
với dân tộc và tổ quốcTài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những
chức vụ quan trọng trong hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy
Trưởng Biệt Động Quân, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát
Quốc Gia và sau cùng là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm những chức vụ cao
tột như vậy mà người vẫn sống một cuộc sống bình dị, nghiền ngẫm kinh Phật,
trên tay lúc nào cũng thấy những loại sách học hỏi khác nhau. Chuẩn Tướng Hai
cũng nổi tiếng là vị Tướng thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các
cấp dưới quyền hết mực, thậm chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đã trở thành huyền thoại về Đại Tá Hai, Chỉ Huy Trưởng
Biệt Động Quân, đầu năm 1968 đã cùng vài sĩ quan đáp phi cơ C123 ra tận chiến
trường Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận từng chiến hào tiền tuyến thăm
hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân, dưới những cơn mưa pháo rền
trời của địch.
Năm 1974 định mệnh đã đưa Chuẩn Tướng Hai về
làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để tên tuổi của người lưu tại nghìn thu trong sử
sách, bằng cái chết hào hùng mà đã làm địch quân kinh hoàng.
Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một tuần,
đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản,
mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải là người thân cận hay thuộc phe phái của ông
Thiệu, điều đó cho thấy uy tín của người rất lớn. Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ
chối và cương quyết ở lại sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai
trong ngày cuối cùng vẫn tươm tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi
trong văn phòng Tư Lệnh chờ quân địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và
chiến binh thuộc cấp trở về với gia đình, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại
bảo vệ vị chủ tướng của họ. Vì họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ
Đồng Tâm, hoặc nếu có bàn giao thì cái phương thức ông làm sẽ không phải là
phương thức kiểu đầu hàng. Một con người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn
hai mươi năm, không lý do gì người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế
trưa, một đơn vị cộng quân thận trọng tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin
được tiếp quản căn cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên trên
có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm nghị
đòi hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó, ông
không muốn bàn chuyện nào khác. Tình hình rất căng thẳng, hai bên giương súng
ghìm nhau. Mãi lâu sau mới có một người gõ của xin vào rụt rè tự nhận là sư
đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên sĩ
quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ dàng,
nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho địch
biết, rằng muốn chiếm được nước Nam thì họ phải trả một cái giá nào đó. Chiều
tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đã uống
thuốc độc tự sát trong văn phòng Tư Lệnh.
Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam,
những chiến sĩ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, suốt đời tận tụy với
nước non, đã hiến dâng cho tổ quốc những giọt máu đỏ thắm tinh khôi cuối cùng
của mình.
Tên tuổi và tấm gương chiến đấu của những vị
Thần Tướng ấy mãi mãi lưu lại trong sử sách Việt Nam và được dân tộc Việt Nam
ngàn đời phụng thờ hương khói..
Phạm Phong
Dinh
.
No comments:
Post a Comment