Wednesday, August 12, 2020

** Truy tìm nguồn cội từ ngữ: VIỆT NAM & CỘNG HÒA từ đâu mà có


Tên gọi “Việt Nam” có từ khi nào?

01/03/2018

Ngày 18.3 (âm lịch) năm 1292 Trương Lập Đạo dẫn đầu sứ đoàn nhà Nguyên đến Thăng Long. Ngày 19.3 tại Sứ quán, Thế Tử nhà Trần hỏi Lập Đạo đi đường chắc mệt nhọc lắm (驅馳 khu trì), Nguyên sứ trả lời: “天子不以越南為逺何以驅馳 – Thiên tử bất dĩ Việt Nam vi viễn hà dĩ khu trì”.


Bản dịch An Nam Chí Lược của Viện Đại Học Huế năm 1960 ghi: “Thiên tử không cho rằng nước An Nam là nơi xa cách, thì sứ thần ngại gì xông pha”. Một số người thông thạo Hán tự cho rằng Việt là vượt, nam ý chỉ phía nam, đại khái phải hiểu như sau: “Thiên tử không cho rằng đi phượt về phương nam là xa xôi thì làm sao dám mệt mỏi”.
Tuy nhiên An Nam Chí Lược không chỉ nhắc đến từ kép “Việt Nam” một lần duy nhất. Sau đây là các dẫn chứng tiếp theo.

1.     Khoảng năm 1321, bài thơ phụng dâng vua Trần Minh Tông tựa đề “Tặng thế tử Thái hư tử” của Lang trung Văn Tử Phương trong sứ đoàn nhà Nguyên có hai câu:
從此君臣保民社 – Tòng thử quân thần bảo dân xã
主恩長畀越南人 – Chủ ân trường tí Việt Nam nhân
Diễn nghĩa: Từ đây vua tôi của ngài gắng sức bảo vệ nhân dân và xã tắc. Ơn trên mãi mãi ban xuống cho người Việt Nam.

2.     Khoảng năm 1285 hoặc 1286, Trần Ích Tắc được vua nhà Nguyên đãi yến tiệc ở núi Vạn Tuế. Sự việc được chính họ Trần mô tả trong bài thơ “Vạn tuế sơn yến thị nhật trị tuyết” dưới bút danh Thiện Lạc lão nhân. Hai câu cuối:
越南羈旅陪班列 – Việt Nam ki lữ bồi ban liệt
咫尺光昭日月新 – Chỉ xích quang chiêu nhật nguyệt tân
Diễn nghĩa: Đoàn lữ khách Việt Nam từ phương xa được (ưu ái) xếp đặt ngồi ăn tiệc. Chỉ cách hào quang nhật nguyệt của thiên tử (nhà Nguyên) trong gang tấc.

3.     Cũng vào khoảng thời gian ở trên, An vũ sứ người Việt là Lại Ích Khuy trong bài “Nguyên nhật triều hội” tường thuật một buổi chầu đầu năm, mở đầu bằng hai câu xu nịnh:
聖日垂光被越南 – Thánh nhật thùy quang bị Việt Nam
驛亭官栁許停驂 – Dịch đình quan liễu hứa đình tham
Diễn nghĩa: Ánh mặt trời thần thánh (của Nguyên triều) trùm phủ đất Việt Nam. (Đến nỗi) ngựa cũng phải dừng lại ở gốc liễu trạm dịch (để bái vọng?).

4.     Cuối cùng cũng là năm 1292, trong sứ đoàn Trương Lập Đạo đã dẫn, bốn câu thơ tự sự của Lang trung Trần Cương Trung, người Chiết Giang, đất cũ Âu Việt có từ ghép Việt Nam như một xứ sở:
老母越南垂白髪 – Lão mẫu Việt nam thùy bạch phát
病妻燕北待黃昏 – Bệnh thê Yên bắc đãi hoàng hôn
蠻烟瘴雨交州客 – Man yên chướng vũ giao châu khách
三處相思一夢魂 – Tam xứ tương tư nhất mộng hồn
Diễn nghĩa: Mẹ đã già ở đất Việt phương nam xõa tóc trắng. Vợ đang bệnh chốn Yên bắc đợi hoàng hôn. (Trong khi đó tôi) lại phải làm khách Giao châu nơi sương hại mưa độc. Ba xứ ấy cứ quẩn quanh suy tưởng trong một giấc mộng.

***

Như vậy chỉ trừ Việt Nam trong thơ Trần Cương Trung nghĩa là đất Âu Việt xưa (Chiết Giang) ở phía nam để đối với đất Yên phía bắc (nơi có kinh đô nhà Nguyên), cả 4 ngữ cảnh còn lại đều có thể hiểu Việt Nam chính là Đại Việt hoặc An Nam.
Điều đó có nghĩa là tên gọi Việt Nam có tuổi đời trên 700 năm, dài hơn bất cứ mốc thời gian nào mà giới sử học từng đưa ra. Quan điểm biện chứng và phi tuyến tính của chúng tôi như sau:
1.     Đại Việt: Quốc danh thể hiện sự tự tôn, chứa hào khí Nam Việt xưng đế của Triệu Đà, hùng khí Đại Việt của Bá vương Câu Tiễn, tổ tiên nhà Trần ở cửa sông Dương Tử.

2.     An Nam: Quốc hiệu miệt thị của các triều đình phương bắc, ngụ ý tiểu quốc phải ngoan ngoãn chầu cống. Họ bỏ từ tố quan trọng nhất, chứa đựng bản sắc mấy ngàn năm của một cộng đồng văn hóa đặc thù là (Âu) Việt, ven biển từ cửa sông Dương Tử đến Việt Nam. Tương tự khi ta gọi ai đó là chú nhóc ngoan, mà chẳng cần tôn trọng tên riêng của nó.

3.     Việt Nam: Là giải pháp ngoại giao dung hòa 1 và 2, bỏ hai tính từ “đại” và “an”.
Ở góc nhìn này, tên gọi Việt Nam phải được xem như thành quả ngoại giao cương trực của Đại Việt trong hàng ngàn năm qua, nhằm xác định quyền độc lập và tự chủ của quốc gia. Sử học xưa nay chỉ ghi chép và lý giải tuyến tính các sự kiện, thiếu hẳn công tác đúng đắn là tái lập tư duy của cổ nhân trên sử liệu. Do đó người ta đã không bắt được ý tại, trong cái vỏ ngôn ngoại đơn giản đến thô lược, không phù hợp với truyền thống Á Đông thâm trầm và sâu sắc.

SOURCE:

***

Việt Thường

Trước thời các vua Hùng dựng nước, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là nước Việt Thường.
Từ việc tên gọi "Việt Thường" trong Hán văn có ba cách viết khác nhau là 越裳越嘗越常 Đào Duy Anh đoán rằng "Việt Thường" là phiên âm của tên gọi của nước Việt Thường trong tiếng nước Việt Thường, vì là một cái tên phiên âm nên tên gọi Việt Thường có thể viết bằng bất kỳ chữ Hán nào có âm đọc giống như vậy.
Thời Tây Chu, vua nước Sở là Hùng Cừ phong cho con trai út của mình là Chấp Tì (執疵) đất Việt Chương (越章). Theo Đào Duy Anh trong tiếng Trung Quốc "Việt Chương" và "Việt Thường" đồng âm với nhau, hai cái tên này chỉ là một, chỉ khác nhau về tự dạng, nước Việt Thường chính là nằm trên đất Việt Chương.
Thời Hán có một quận gọi là quận Dự Chương (豫章). Cũng theo Đào Duy Anh trong tiếng Trung Quốc "Dự Chương" phát âm gần giống với "Việt Chương/Việt Thường", Đào Duy Anh đoán rằng có thể quận Dự Chương được lập trên đất Việt Thường/Việt Chương cũ. Đất của quận Dự Chương theo Đào Duy Anh ngày nay thuộc Nam Xương, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.[7] Đào Duy Anh cho rằng "Việt Thường" và "Việt Chương" trong tiếng Trung Quốc là đồng âm nhưng trong thực tế thì trong tiếng phổ thông Trung Quốc "Việt Thường" và "Việt Chương" được đọc khác nhau, trong tiếng Hán thượng cổ "Việt Thường", "Việt Chương" và "Dự Chương" cũng không đồng âm.[8]

SOURCE: Wikipedia

***

Việt Thường Thị ở đâu? Văn Lang ở đâu?
Hà Văn Thuỳ

Chim Bạch Trĩ

I.. Hai quan niệm về Việt Thường thị

1.      Chủ trương có nước Việt Thường miền Cửu Chân

Cuốn sách sớm nhất nhắc tới Việt Thường thị là Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim Bạch Trĩ.” Muộn hơn là Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”
Về vị trí nước Việt Thường, có nhiều sách giải thích khác nhau: Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) cho rằng nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào.
Sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại ghi rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Những tài liệu trên đã ảnh hưởng tới các nhà nho cùng học giả người Việt:
Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: “Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình”, rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.” Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi cụ thể hơn: “Phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: “Đức trạch chưa thấm khắp đến phương xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt; chính lệnh chưa ban ra tới, người quân tử không bắt người ta thần phục”. Theo lời thông dịch, sứ giả muốn nói: “Ông già trong nước chúng tôi có nói: “Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay, ý chừng Trung Quốc có thánh nhân chăng?” Vì thế, chúng tôi sang chầu”. Chu Công đem dâng lễ vật lên nhà tông miếu. Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho năm cỗ xe biền đều làm theo lối chỉ nam. Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.”
Do ảnh hưởng dây chuyền như vậy mà về sau càng nhiều người chủ trương Việt Thường thị là vùng Nghệ Tĩnh ngày nay.

2.      Phái  phủ nhận nước Việt Thường ở Việt Nam

Hơn nửa thế kỷ trước, năm 1957, trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (nxb Văn Hóa – Thông Tin, 2005) học giả Đào Duy Anh đưa ra ý kiến phản bác chủ trương nước Việt Thường ở Việt Nam. Ông cho rằng, đó là quốc gia của người Việt ở Nam Dương Tử: “Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá, nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: “Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng…” Sách Thượng thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục sinh) ở đầu thời Hán, đọc cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu.

(Các sách xưa) đều chỉ chép Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như Legge và Pelliot cũng cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau…

Chúng tôi tưởng rằng đối với những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường, thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người ta không thể đặt đúng được. Chúng tôi cũng theo sách xưa mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi. Ðem so sánh chữ Việt Thường viết trong các sách… Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?) là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng, đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu Dương… ” (tr. 215-217)

Mười năm trước, kỹ sư hàng hải trẻ Trương Thái Du cũng cho rằng Việt Thường thị ở Nam Dương Tử và đưa ra cách lý giải về thuật ngữ Giao Chỉ khá thuyết phục: “Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán.” (Trương Thái. Du Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam.http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)

II. Kiến giải của chúng tôi

1.      Không thể có nước Việt Thường ở miền Trung Việt Nam

Thừa nhận việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Trung Quốc là có thể tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:
·         Các tài liệu nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) phải là địa danh đã có lúc đó. Trong khi Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam! Vì không có Giao Chỉ nên cũng chẳng làm gì có Việt Thường ở Việt Nam.
·         Giả sử nhà nước Việt Thường ở miền Trung là có thật thì cũng không thể có chuyện quan hệ ngoại giao với Trung Nguyên vì lẽ: ngoại giao chỉ có thể xẩy ra giữa hai nước lân bang, gần gũi về địa lý, có liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa với sự hiểu biết, nương tựa nhau. Trong khi đó, giữa Việt Thường miền Trung với Trung Nguyên quá xa về địa lý, giao thông khó khăn, lại cách trở bởi nhiều nhà nước khác nên không có mối quan hệ gì về kinh tế, chính trị. Chỉ vì “”Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay,” mà sang chầu, là lý do thiếu thuyết phục!

Chỉ bằng lập luận này đã đủ bác bỏ chủ trương cho rằng Giao Chỉ – Việt Thường trong các cổ thư trên là địa danh ở Việt Nam.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Tiền biên, càng tỏ ra hoang tưởng khi chép: “Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.” Phù Nam chỉ hình thành từ thế kỷ I, còn Lâm Ấp mới ra đời năm 192 sau Công Nguyên thì làm sao mà sứ của Việt Thường nghìn năm trước đi qua hai nước chưa ra đời này?! Thêm nữa, làm thế nào mà sứ giả từ Nam Hoàng Hà đi xuống tận đồng bằng sông Cửu Long rồi ngược lên Nghệ Tĩnh ? Làm sao mà tin được chuyện vô lý như vậy? Khi biết rằng, Hậu Hán thư chép: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta càng thấy sự thiếu chính xác của cuốn sử triều Nguyễn!
Tại sao hàng trăm năm các học giả hàng đầu của chúng ta vẫn tin vào sự vô lý thô thiển như vậy?!

2.      Việt Thường thị chỉ có thể ở miền Nam Dương Tử.

Chúng tôi cho rằng Việt Thường thị nhiều khả năng là tiền thân của nước Việt của vua Câu Tiễn. Quá trình lịch sử có thể diễn ra như sau:
Khoảng 3300 năm TCN, nhà nước Thần Nông của người Việt ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ được thành lập trên kinh đô Lương Chử. Khảo cổ học cho thấy, khoảng 2300 năm TCN, do nước dâng nhấn chìm kinh đô Lương Chử, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Những mảnh vỡ của Xích Quỷ lập những tiểu quốc riêng của mình, trong đó có nước Việt Thường. Việt Thường (越裳) là tên được ghi trong sách cổ, với nghĩa: nước Việt mặc váy. Điều này đúng với phong tục mặc váy (quấn xà rông) của dân phương Nam, nay còn thịnh hành từ Campuchia, Lào, Thái Lan tới Miến Điện, Srilanca… Là một phần của văn hóa Lương Chử, Việt Thường rất tiến bộ: đồ đá mài, đồ gốm, đồ ngọc tinh xảo, làm chủ Âm Dương, ngũ hành, lịch Âm Dương, kinh Dịch và chữ giáp cốt. Việc Việt Thường hiến rùa mang chữ Khoa Đẩu, lịch Âm Dương cho vua Nghiêu rất có thể xảy ra.

Vào đời Hạ, một dòng của Hạ Vũ tới Việt Thường, học lối sống của người địa phương, rồi trở thành thủ lĩnh. Qua triều Thương-Ân, Việt Thường vẫn vững vàng phía Nam Dương Tử. Khi nhà Chu đánh nhà Thương, liên minh với 800 nước, tổ chức ăn thề. Do ở xa nên Việt Thường không tham gia liên minh. Đánh thắng nhà Thương, Chu xưng bá, thống lĩnh hơn 800 chư hầu, thanh thế rất lớn. Thêm nữa, nhà Chu thi hành chính trị tốt đẹp. Trước tình hình đó, Việt Thường thấy cần giao hảo, nên cống chim trĩ trắng, vật thờ linh thiêng của mình. Như được chép trong Hậu Hán thư: “Sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Tới thời kỳ này, do tiếp xúc nhiều với dân phía Bắc, thấy quần tiện dụng hơn nên người Việt chuyển sang mặc quần. Tên “nước Việt mặc váy” (越裳) cũng mất theo, chỉ còn lại nước Việt () của vua Câu Tiễn.

Thời Chiến Quốc, do chiến tranh khốc liệt, người Việt ở Nam Dương Tử di tản đi nhiều nơi: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện… Người Nhật có tục thờ chim trĩ trắng phải chăng là theo phong tục Việt Thường? Đúng như tra cứu mà ông Đào Duy Anh dẫn ở trên, người Việt Thường mang tích cống chim trĩ cho nhà Chu tới nơi lập nghiệp như kỷ niệm về tổ tiên mình. Điều này không lạ. Lớp di cư khỏi đồng bằng Trong Nguồn hơn 4000 năm trước, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, mang về Việt Nam câu ca: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng sự tích một bọc trăm trứng để ghi nhớ cội nguồn. Lớp di cư khoảng 3500 năm trước – sau khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương lập nhà Ân – mang về quê cũ Việt Nam dư âm cuộc chiến tranh khốc liệt cùng người anh hùng đánh giặc được tượng hình trong cậu bé làng Dóng. Từ cuộc di tản thời Chiến Quốc, có những nhóm người Việt Thường di cư tới miền Trung Việt Nam. Theo truyền thống, họ lấy tên quê cũ đặt cho đất mới. Sau này, vào thời Hán, dựa theo tên Việt Thường sẵn có, người Hán đặt ra huyện Việt Thường. Tại Việt Nam, tiếng Việt được bảo tồn nên Việt Thường vẫn là Việt Thường. Ở Giang Nam, người Hán chiếm nhưng không còn nói được tiếng Việt nên Việt Thường nói trại thành Việt Chương?

Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái cột mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của nhà nước Hoàng Đế, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, “cột mốc”mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ. Học giả thời Tấn, Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lịch sử cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Trong sử sách, việc đoán mò rồi viết đại của các thầy Tàu không hiếm. Do không hiểu chữ “hồ” trong kinh Thi Lang bạt kỳ hồ/ tái trí kỳ vĩ vốn tiếng Việt là hố, hang: “Sói chui vào hang, vẫn lòi cái đuôi”, thầy đại nho Chu Hy giảng “hồ là cái yếm nơi cổ con sói khi già chùng xuống nên bước tới, nó dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.” Hơn 800 năm các đại nho vẫn tin, con sói già có yếm thòng ở cổ, thì việc người ta hoang tín vào một tên đất ghi trong sách hai nghìn năm trước khi nó được đặt trên thực địa, đâu phải chuyện lạ?! Từ đây, sai lầm tiếp tục qua các nhà nho thời Nguyễn, rồi học giả Pháp cho tới ngày nay!

III. Kết luận

Sách sử cùng nhiều chứng lý khác cho thấy rằng, từ xa xưa đã có nước Việt Thường của người Việt ở phía Nam Dương Tử. Nước Việt này có kinh tế, văn hóa phát triển, có quan hệ ngoại giao với nhà Đường Ngu và nhà Chu, có thể là tiền thân của nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Tới thời Chiến Quốc, do áp lực của chiến tranh tàn khốc, người Việt Thường đã di tản xuống nhiều quốc gia phương Nam.

Để phản bác chủ trương “Việt Thường quốc vùng Nghệ Tĩnh” chẳng đòi hỏi kiến thức cao siêu mà chỉ cần đọc nghiêm túc cổ thư rồi lập luận một cách hợp lý. Hơn 60 năm trước, học giả Đào Duy Anh đã biện giải khá thuyết phục. Nhưng không hiểu vì sao, thời gian trôi trọn một vòng hoa giáp mà không ai tỉnh ngộ nghe ông, lại cứ u mê tự giam trong cõi vô minh. Cái “Việt Thường quốc Nghệ Tĩnh” hoang tưởng đâu phải là phao cứu sinh để cố sống cố chết trì bám? Nay nếu mất Việt Thường quốc xứ Nghệ thì đó chỉ là vật ngoài thân, có gì đáng tiếc? Trong khi ta có cả gia tài vĩ đại: đất Việt là nơi phát tích của con người và văn hóa phương Đông?!

Vu Lan năm 2015

Tái bút,
Thưa bạn đọc, bài trên tôi viết bốn năm trước, nay xin bổ sung đôi điều.

Sau khi công bố bài “Xóa bỏ huyền thoại nhà nước Văn Lang 2700 năm,” tôi nhận được câu hỏi: Vậy thì nước Văn Lang ở đâu?” Phải nói rằng, đó là điều bí ẩn nhất của Sử Việt. Lý do dẫn tới ngộ nhận về “Việt Thường thị xứ Nghệ” cũng chính là lý do dẫn tác giả Việt sử lược sai lầm khi cho rằng Văn Lang ra đời 700 năm TCN mà trung tâm là đồng bằng sông Hồng. Không thể có chuyện này vì nếu vậy thì lịch sử Việt Nam quá ngắn so với tầm vóc thực của nó và quan trọng hơn là khi đó chưa có đồng bằng sông Hồng. Vậy Văn Lang thực sự ở đâu và ra đời khi nào? Theo truyền thuyết Hồng Bàng thị, thì khi lên làm vua, Hùng Vương “lấy tên nước là Văn Lang.” Căn cứ vào ranh giới của Văn Lang có thể suy ra, Hùng Vương đã đổi quốc hiệu từ Xích Quỷ sang Văn Lang. Xích Quỷ tồn tại không đến 100 năm. Trong một bài công bố trước đây (Tổ tiên người Việt thực sự ở đâu?) tôi cho rằng, năm 2698 TCN, do bại trận ở Trác Lộc, Lạc Long Quân dẫn quân dân của mình xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Ngàn Hống rồi Hùng Vương lập nước Văn Lang xứ Nghệ. Một kịch bản “đẹp”tròn trịa cho lịch sử. Nhưng sau đó thấy sai, tôi đã rút lại ý tưởng tiểu thuyết ấy và hơn một lần xin lỗi bạn đọc.

Nay có thêm tư liệu, khảo cổ học cho thấy năm 2300 TCN, nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Văn Lang tan rã. Như vậy, Văn Lang của các Vua Hùng tồn tại gần 500 năm. Ta không bao giờ biết được trong thời gian ấy có bao nhiêu Vua Hùng và các vị làm được gì. Chỉ biết rằng, đã xảy ra sự kiện nghiêm trọng là họ Hiên Viên xâm lăng đất Việt ở Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế cùng cuộc kháng chiến khốc liệt, lâu dài của người Việt. Đất Việt ta đang sống quan hệ thế nào với Xích Quỷ-Văn Lang? Không chỉ liên hệ về máu huyết Lạc Việt họ tộc Hồng Bàng, nay ta còn tìm được tại  Uông Bí những mẫu vật ngọc Lương Chử, vào thời hưng thịnh nhất, trong đó tiêu biểu là chiếc gối khắc hình thần nhân thú diện- hình người mặt thú, hiện vật đặc hữu của văn hóa Lương Chử. Nhưng quý nhất là chiếc ấn hình rùa lớn, hình vuông, mỗi mặt khoảng 13 cm, có bốn chữ Giáp cốt. Theo thứ tự, ấn này có thể là của vị quan đứng đầu khu vực. Điều này chứng tỏ, đất Việt Nam xưa là bộ phận của nhà nước Xích Quỷ-Văn Lang.



Cũng đúng thời điểm 2300 TCN xảy ra chuyện Việt Thường thị tới cống vua Nghiêu. Tuy truyện này được viết ra rất muộn, vào thời nhà Tống nhưng có nhiều chi tiết thực (chữ khoa đẩu, lịch rùa) nên có thể tin được. Dựa theo vị trí của Nam Giao, ta biết Việt Thường thị ở Nam Dương Tử. Một câu hỏi: Việt Thường thị liên quan thế nào với Văn Lang? Sự thể có lẽ như sau: khi nước dâng, kinh đô và phần đất thấp phía Đông bị chìm. Dân cư Văn Lang di tản tới vùng cao. Vua quan của Văn Lang lập quốc gia Việt mới mà ta không không biết tên cụ thể. Do người Trung Hoa gọi là Việt Thường rồi ghi trong sử nên có tên Việt Thường thị. Nước Việt mặc váy không phải là quốc hiệu mà là tên gọi mang tính kỳ thị của ngoại bang. Về bản chất, Việt Thường là nhà nước của người Lạc Việt, họ Hồng Bàng, trên đất đai Văn Lang xưa. Từ thời Nghiêu đến Chu Thành vương (2300 – 1063), Việt Thường thị tồn tại hơn 1200 năm không hề có thông tin gì. Sau đó thì biết, trên vùng đất của Việt Thường xuất hiện nước Việt của Câu Tiễn. Một câu hỏi: Việt Thường thị tồn tại đến khi nào và liên quan gì tới Văn Lang của Hùng Duệ Vương?
Đấy vẫn là những bí ẩn của lịch sử!
 Sài Gòn,Thu 2019
Hà Văn Thuỳ

SOURCE:

*****



*****

Về nguồn gốc chủ nghĩa Cộng Hòa Việt Nam
Lưu thông toàn cầu và các mối quan hệ thuộc địa

(Christopher Goscha)

Minh Toàn dịch văn bản chính
Nguyên Ngọc biên tập, dịch và bổ sung các chú thích
24/03/2020


Lời giới thiệu:

Hôm nay, 24 tháng 3 năm 2020, là vừa đúng kỷ niệm 94 năm ngày mất của Phan Châu Trinh, một nhân vật đặc sắc và rất độc đáo của lịch sử Việt Nam cận đại. Huỳnh Thúc Kháng, một trong những người đồng chí gần gũi và thân thiết nhất của Phan Châu Trinh đã gọi ông là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. 

Còn Christopher Goscha, học giả uyên bác ở Đại học Québec, Canada, chuyên gia về Đông Nam Á, Đông Dương và Việt Nam, trong công trình công phu và sâu sắc “Về nguồn gốc chủ nghĩa Cộng hòa Việt Nam” mà hôm nay Viện Phan Châu Trinh mong muốn trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc, thì đặt câu hỏi: “Có phải Phan Châu Trinh là nhà Cộng hòa đầu tiên của Việt Nam?”. Hỏi như thế, tức cũng là đã trả lời. Như vậy, cách nay hơn một thế kỷ, Phan Châu Trinh là người Việt Nam đầu tiên, sớm một cách khác thường, đã vươn đến những tư tưởng tiến bộ nhất của nhân loại, và tha thiết, kiên định coi đó là con đường duy nhất đúng để thật sự giải phóng cho dân tộc, giải phóng căn bản và triệt để nhất cho con người Việt Nam.

.

No comments:

Post a Comment