Phu nhân Đại Tá Lê Quang Mỹ
Tướng Lê
Quang Mỹ, Phó Đề đốc Tư lệnh ĐẦU TIÊN của Hải quân VNCH, tháng 8 năm 1955
Ông cũng là
người kiêm nhiệm chức Tư lệnh ĐẦU TIÊN của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến,
tháng 8 năm 1957
***
Sinh
ngày 27 tháng 2 năm 1926.
1950: Tốt nghiệp khóa II Quang
Trung Trường Võ Bị Huế, cấp bậc Thiếu úy Bộ Binh, nhận đơn vị đầu
tiên tại Sóc Trăng.
1951: Chuyển sang Hải Quân,
tòng sự trên chiến hạm Jeanne d'Arc và Savorgnan de Brazza.
1952: Gia nhận khóa I Sĩ Quan
Hải Quân Nha Trang, tốt nghiệp với cấp bậc Trung úy.
1953: Bổ nhiệm về Cần Thơ
phục vụ trong một đơn vị Hải Quân Pháp. Sau một thời gian ngắn được
bổ nhiệm về Mỹ Tho, nhận lãnh Hải Đoàn 21, với chức vụ Hải Đoàn
Trưởng.
1955: Chỉ huy các đơn vị Hải
Quân tham gia các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng, Hoàng Diệu và Nguyễn
Huệ. Cùng năm này, với cấp bậc Thiếu Tá, được điều động về Saigon
nhận chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng đặc trách về Hải Quân. Ngày 20
tháng 8 năm 1955 với cấp bậc Trung Tá được bổ nhiệm vào chức vụ Tư
Lệnh Hải Quân kiêm Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến
1957: Hết nhiệm kỳ Tư Lệnh
Hải Quân.
1959: Biệt phái về Bộ Tổng
Tham Mưu, giứ chức vụ thanh tra. Sau đó tu nghiệp tại Naval Post
₫graduate School tại Monterey, California, Hoa Kỳ.
1964: Được bổ nhiệm vào chức
vụ Thị Trưởng Đà Nẵng. Hơn nửa năm sau trở về Hải Quân và được điều
động về Bộ Tổng Tham Mưu với chức vụ thanh tra.
1965-1966: Bị tình nghi có
liên quan đến cuộc chỉnh lý Tướng Nguyễn Khánh nên phải sống ẩn dật.
1967: Giải ngũ
1975: Di tản cùng gia đình
tại Căn Cứ Hải Quân Nhà Bè.
Nguồn: điệp mỹ linh
***
Theo tài liệu Wikipedia
Lê Quang Mỹ (1926-1990),
nguyên là một sĩ quan Hải quân cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa, cấp bậc Hải quân Đại tá. Ông xuất thân từ
trường Võ bị Quốc gia do Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ của Chính quyền Thuộc
địa Pháp, mở ra ở miền Trung Việt Nam vào những năm cuối của thập niên 40 (thế
kỷ 20). Tiếp đến, ông được đào tạo thành một sĩ quan Hải quân từ khóa đầu tiên
tại Trường Sĩ quan Hải quân cũng do Chính phủ Quốc gia mở ra ở một tỉnh duyên hải
miền Trung Việt Nam. Trong thời gian tại ngũ, ông đã phục vụ Quân chủng Hải
quân một thời gian dài. Sau đó ông được biệt phái phục vụ ở lĩnh vực Quân huấn
và Tham mưu với những chức vụ khác nhau. Tuy nhiên, căn bản ông vẫn là một sĩ
quan của Quân chủng Hải quân.
Ông
sinh ngày 27 tháng 2 năm 1926. Ông đã tốt nghiệp Trung học theo chương trình
Pháp với văn bằng Thành chung vào khoảng năm 1944.
Liên hiệp Pháp và Quân đội Quốc gia Việt Nam
Năm
1947, ông nhập ngũ vào Hải quân Pháp ban đầu là một Thuỷ thủ phục vụ trên Soái
hạm La Motte Piquet do Đề đốc Jean Decous làm Hạm trưởng. Ông được phục vụ ở bộ
phận Truyền tin và lên đến cấp bậc Hạ sĩ nhất.
Đầu
tháng 9 năm 1949, ông được cho đi học sĩ quan. Theo học khóa 2 Quang Trung tại
trường Võ bị Quốc gia Huế, khai giảng ngày 25 tháng 9 năm 1949. Ngày 24 tháng 6
năm 1950 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện
dịch. Ra trường, ông được điều động đi phục vụ ở một đơn vị Bộ binh thuộc Quân
đội Liên hiệp Pháp đồn trú tại Sóc Trăng với chức vụ Trung đội trưởng.
Cuối
năm 1951, ông tình nguyện xin gia nhập trở lại Lực lượng Hải quân của Quốc gia
Việt Nam, ông được theo học khóa 1 tại trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang,
khai giảng ngày 1 tháng 1 năm 1952. Ngày 1 tháng 10 cùng năm mãn khóa tốt
nghiệp với cấp bậc Hải quân Thiếu úy.
Sau đó ông phục vụ trên Tuần dương hạm Jeanne d'Arc, kế tiếp chuyển đi phục vụ
trên Tuần dương hạm Savorgan de Brazza. Đầu năm 1953, ông được thăng cấp Hải
quân Trung úy tại
nhiệm. Tháng 11 cuối năm, ông được thăng cấp Hải quân Đại úy,
nhận lãnh Trợ Chiến hạm mang tên Nguyễn Văn Trụ (HQ-245) và được cử làm Hạm
trưởng đầu tiên của Chiến hạm này. Đến giữa năm 1954, ông được bổ nhiệm làm Chỉ
huy trưởng đầu tiên Hải đoàn Xung phong 21 ở Cần Thơ.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Tháng
3 năm 1955, ông được thăng cấp Hải quân Thiếu tá giữ
chức vụ Chỉ huy trưởng Giang lực. Ngày 28 tháng 8 cùng năm, ông được Thủ
tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh
Quân chủng Hải quân đầu tiên kiêm Hạm trưởng Soái hạm Tuần dương hạm mang
tên Chi Lăng (HQ-01). Ngày 26 tháng 10 năm 1955, ông được thăng cấp Hải
quân Trung tá tại
nhiệm, đồng thời cũng chính thức chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Việt Nam
Cộng hòa. Ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông được thăng cấp Hải quân Đại tá tại
nhiệm.
Tháng
10 năm 1957, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Hải quân lại cho Hải quân Trung
tá Trần Văn Chơn. Sau đó, ông được chuyển về
trường Đại học Quân sự giữ chức vụ Chỉ huy phó. Đầu năm 1959, ông thuyên chuyển
về Bộ Quốc phòng giữ chức vụ Phó Thanh tra Quân đội. Đầu năm 1963, ông
được cử đi du học tại trường Hậu Đại học Hải quân ở Monterey thuộc Tiểu bang
California, Hoa Kỳ trong thời gian 6 tháng.
Sau
cuộc Đảo chính ngày 1/11/1963 lật
đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông được cử ra miền Trung giữ
chức vụ Thị trưởng Đà Nẵng. Sau cuộc Chỉnh lý ngày 30/1/1964 do
tướng Nguyễn Khánh cầm đầu, ông được chuyển trở lại Bộ Quốc phòng tái nhiệm
chức vụ Phó Thanh tra Quân đội. Sau ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1969, ông
được giải ngũ vì đã có thâm niên quân vụ trên 20 năm.
Ngày 29 tháng 4, ông cùng gia đình được Quân vận đỉnh của căn cứ Hải
quân Nhà Bè đưa ra Chiến hạm để di tản khỏi Việt Nam. Sau đó, gia đình ông được
sang định cư ở thành phố Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 1990, ông từ
trần tại nơi định cư, Hưởng thọ 64 tuổi.
.
No comments:
Post a Comment