Trận
Banmêthuột, ngày đầu
*( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ần của Chiến tranh Việt Nam” của
Bùi Anh Trinh ).
Lực lượng
phòng thủ của VNCH
Bộ binh :
Theo lời kể của Trung Úy Phan Văn Phụng, Trưởng ban hành quân Tiểu
đoàn 3/53 BB :
– Tiểu đoàn 1/53 (500 quân ) đóng tại Căn cứ B.50. là hậu
cứ của Trung đoàn 53 mỗi khi đi hành quân về.
Giờ đây Tiểu đoàn được nằm tại hậu cứ Trung đoàn cùng với Bộ chỉ huy
Trung đoàn.
– Tiểu đoàn 3/53 có 2 đại
đội ( 200 quân ) nằm ứng chiến tại
khu Gia Binh Sư đoàn 23 tại mặt Nam của thị xã, 1 đại đội ( 100 quân ) phòng thủ
Hậu cứ BTL/SĐ 23, phía Bắc của khu Gia Binh. Còn Đại đội thứ tư được tăng phái
phòng thủ cầu 14, phía Nam của BMT, trên đường đi Quảng Đức.
– Tiểu đoàn 2/53 ( 500 quân
) cùng với Bộ chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 53 đang phòng thủ Căn cứ Dak Song
thuộc Tiểu khu Quảng Đức.
– Đại đội Trinh sát của
Trung đoàn 45 ( 100 quân ) hoạt động tại vùng Quảng Nhiêu, phía Bắc Đắc Lắc,
ngày 8-3-1975 được điều về lục soát khu vực Bản Đôn, phía Tây thị xã BMT, ngày
9-3-1975 được kêu về nằm ứng chiến trong vòng đai Phi trường Phụng Dực.
Pháo binh:
Theo bài viết của Đại tá
Nguyễn Trọng Luật, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc, thì vào thời điểm chiến trận nổ
ra, tại BMT chỉ có 1 trung đội pháo binh
( 2 khẩu ) của Sư đoàn 23.
Nhưng theo lời kể của Thiếu
úy Vĩnh Bình, Pháo đội phó Pháo đội A thuộc Tiểu đoàn 231/PB thì lúc đó tại
BMT có tới 1 Tiểu đoàn pháo binh VNCH,
đó là Tiểu đoàn 231/PB, được bố trí như sau :
– Pháo đội A có 3 trung đội :
1 trung đội đóng tại xã Đạt Lý, cách trung tâm BMT 5 cây số về hướng Bắc,
trên Quốc lộ 14; 1 trung đội đóng tại cây số 72 trên Quốc lộ 21, gần đồn Chu
Cúc giáp ranh với Tiểu khu Khánh Hòa; 1 trung đội đóng tại phi trường L.19,
cách Trung tâm thành phố 2 cây số. ( Mỗi trung đội là 2 khẩu 105 ly ).
– Pháo đội B gồm có 2 trung đội ( 4 khẩu 105 ly ) đóng tại hậu cứ
Tiểu đoàn 231/PB, bên cạnh phi trường Phụng Dực, gần căn cứ B.50; và 1 trung đội ( 2 khẩu 105 ly ) đóng gần Khu
gia binh Sư đoàn 23/BB để yểm trợ cho các đơn vị đang phòng thủ tại khu vực cầu
14, phía Nam BMT.
– Pháo đội C ( 6 khẩu 105 ly ) đóng tại Gia Nghĩa, Quảng Đức để yểm
trợ cho Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 53 tại căn cứ Dak Song và Liên đoàn 24 Biệt
động quân đang hoạt động tại Quảng Đức.
– Tại BMT thay thế cho Pháo đội C/231 là 1 trung đội pháo binh 155
ly ( 2 khẩu ) thuộc Tiểu đoàn 230/PB đóng trong vòng đai phi trường Phụng Dực;
– 1 Trung đội pháo binh diện địa ( 2 khẩu 105 ly ) của Quân khu 2
đóng tại khu Thiết giáp, rìa Tây Bắc của thành phố, dùng để yểm trợ cho các đơn
vị ĐPQ trong phạm vi Chi khu Ban Mê Thuột.
Tổng cộng là
8 trung đội Pháo binh, gồm 14 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly. Ngoại trừ
trung đội pháo binh diện địa thuộc quyền điều động của Ban chỉ huy Pháo binh
thuộc Tiểu khu Đắc Lắc, 7 trung đội còn lại thuộc quyền chỉ huy của Thiếu tá
Đào Đắc Đạo, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 231/PB. ( Có lẽ bài viết của Đại tá Luật
hiểu lầm về lực lượng pháo binh có khả năng phản pháo là trung đội 155 ly duy
nhất bố trí giữa phi trường Phụng Dực và Căn cứ B.50 ).
Thiết giáp :
Tại Căn cứ B.40 có 1 đại đội
thiết vận xa M.113 ( 15 chiếc ) đóng chung với BCH trung đoàn 53.BB.
Tại khu Thiết giáp, phía Tây thị xã BMT, có 1 đại đội thiết vận xa M.113 gồm 11 chiếc. Tuy nhiên M.113 chỉ là những xe chở lính chứ
không phải là chiến xa, cho nên không thể tung ra đối đầu với xe tăng T.54 của
CSVN. M.113 chỉ được dùng như những ụ
súng đại liên di động để phòng thủ trong trường hợp bị tấn công. Và kể từ sau trận Mậu Thân thì M.113 trở
thành mục tiêu lý tưởng cho các xạ thủ B.40, B.41 của quân đội CSVN.
Riêng trong trận này, 11 thiết vận xa tại khu Thiết Giáp trở thành
mục tiêu cho đại bác của xe tăng T.54, súng chống tăng B.40, hỏa tiễn chống chiến
xa AT.3 của quân CSVN. Lính Thiết giáp
VNCH không dại gì leo vào các xe M.113 để chiến đấu, họ nằm trên mui xe với
súng đại liên để chờ bộ binh địch, nhưng một khi đã ở trong tầm bắn của xe tăng
T.54 của CSVN thì họ phải bỏ xe và bỏ chạy.
Diễn tiến trận
đánh
Ngày 10-3
– Lúc 2 giờ sáng, các khẩu pháo 130 ly và 122 ly của Trung đoàn 40 pháo binh CSVN ( 36 khẩu ) đồng
loạt pháo kích vào BCH Tiểu khu Đắc Lắc, hậu cứ BTL Sư đoàn 23, Phi trường L.19
( Rìa phía Đông Bắc của thị xã ), Kho đạn Mai Hắc Đế ( Rìa phía Tây của Thị
xã. ). Tất cả các điểm đặt pháo từ hướng
Tây của Thị xã , nhưng vì khu vực Bản Đôn không còn quân VNCH hoạt động cho nên
không có sĩ quan xác định tọa độ để phản pháo.
Hơn nữa, do vì các trung đội pháo binh của VNCH tại BMT đều là
súng 105 ly và 155 ly cho nên dù có biết được tọa độ đặt súng của pháo binh
CSVN thì cũng đành chịu thua bởi vì súng
105 ly bắn hết tầm chỉ có 10 cây số, súng 155 ly bắn hết tầm là 15 cây số.
Trong khi súng 130 ly của CSVN bắn xa tới
27,8 cây số; hoặc súng 122 ly bắn xa tới 15,4 cây số, nếu bắn đầu đạn trái
phá tên lửa thì xa tới 21 cây số. Tất cả
các khẩu 130 ly và 122 ly của Trung đoàn 40 PB/CSVN đều đặt cách BMT trên 15
cây số.
– Lúc 2 giờ sáng, trong lúc pháo của quân CSVN bắn vào BCH Tiểu
khu và BTL Sư đoàn 23 thì 2 tiểu đoàn đặc
công của Trung đoàn 198 tấn công phi trường L.19 trong thị xã, phi trường
được canh gác bởi 2 đại đội phòng thủ của Không quân. Đến 4 giờ sáng thì quân CSVN chiếm được 2/3
phi trường nhưng thiệt hại nặng vì đụng
phải Chiến đoàn 3 của Lực lượng Lôi Hổ đóng trong vòng đai Phi trường L.19,
nên phải trụ lại chờ tiếp viện..
– Cùng lúc 2 giờ sáng, một đội Đặc công của Trung đoàn 198 CSVN hướng dẫn Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn
149 thuộc Sư đoàn 316 CSVN lên đường đi đánh Phi trường Phụng Dực đang do 1 tiểu đoàn ĐPQ/VNCH trấn giữ.
– Lúc 4 giờ sáng, quân
CSVN tấn công kho đạn Mai Hắc Đế. Lúc 5 giờ sáng, Đại úy Chỉ huy trưởng kho đạn
bị thương nặng. Lúc 5 giờ 30 sáng, kho đạn Mai Hắc Đế bị tràn ngập.
– Lúc 5 giờ sáng, Tiểu đoàn 9 của Trung Đoàn 149 thuộc Sư đoàn
316/CSVN không tìm được lối tiếp cận hàng rào phi trường cho nên tam chiếm khu
chợ xã Hòa Bình rồi báo cáo đã khống chế được quận lỵ Hòa Bình ( Tức là khu sân
bay Hòa Bình, hay là phi trường Phụng Dực.
Sự thực là chưa vào được phi trường, đến 10 giờ mới báo cáo là đã bị địch
chặn lại ).
– Lúc 6 giờ sáng BCH Trung đoàn 149 CSVN và 2 tiểu đoàn trực thuộc
bắt đầu tấn công Căn cứ B.50 đang do Tiểu đoàn 1/53 trấn giữ.
– Lúc 7 giờ sáng, đoàn xe
tăng đầu tiên của CSVN cùng với Trung đoàn 95.B CSVN tiến vào trung tâm thành
phố, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc là Đại tá Nguyễn Trọng Luật xin phép được di
chuyển qua Trung tâm hành quân của Sư đoàn 23 BB để cùng Đại Tá Vũ Thế Quang chỉ
huy lực lượng chống trả.
– Lúc 8 giờ sáng, Tổng cục Tiếp vận tại Sài Gòn nhận được tin mất
liên lạc hữu tuyến lẫn vô tuyến với Ban Mê Thuột. Đại tá
Phạm Bá Hoa, Tham mưu trưởng Tổng cục, tìm cách liên lạc với Chiến đoàn 3 của
Lực lượng Lôi Hổ tại phi trường L.19
BMT. ( Là đơn vị có máy liên lạc siêu tần
số trực tiếp với BTTM ).
Vị sĩ quan chỉ huy của Lực lượng Lôi Hổ cho biết : “ Xe tăng của tụi
nó đã vào cuối sân bay rồi…… Xe tăng của tụi nó tấn công kho đạn đêm qua, và tụi
nó tiến vào thành phố rồi. Khu vực Bộ tư
lệnh Sư đoàn 23 và bên BCH Tiểu khu đều có tiếng súng dữ lắm, em chưa rõ lắm,
nhưng em nghĩ là bị tụi nó chiếm hết rồi, bậy giờ em phải rút ra ngoại ô. Chào Đại tá” ( Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ,
trang 268 )
– Lúc 9 giờ sáng, 2 xe tăng CSVN bị bắn cháy tại đường Thống Nhất.
– Lúc 11 giờ sáng, 1 xe tăng T.54 của CSVN bị Trung đội Tình báo
thuộc Tiểu khu Đắc Lắc bắn cháy trước cổng BCH Tiểu khu, trên đường Thống Nhất.
– Lúc 11 giờ 30 trưa, 2 xe tăng CSVN bị phi cơ bắn cháy cách thành
phố 2 cây số hướng Tây Bắc.
– Lúc 12 giờ 45 trưa, Trung tâm hành quân của BCH Tiểu Khu bị
trúng pháo của xe tăng CSVN. Ban tham mưu hành quân tại TTHQ/Tiểu Khu di chuyển
qua TTHQ của BTL/SĐ 23.
– Lúc 1 giờ 30 trưa, Trung
đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 CSVN tấn công vào BCH Tiểu khu.
– Lúc 2 giờ chiều, Trung đội Tình báo Đắc Lắc và Trung đội Công vụ
ĐPQ rút khỏi BCH Tiểu khu.
– Lúc 2 giờ chiều, 4 xe tăng CSVN bị Tiểu đoàn 204 ĐPQ/VNCH bắn
cháy trong thành phố.
– Lúc 2 giờ chiều, Trung đoàn 149/SĐ 320 CSVN ( thiếu tiểu đoàn 9
) tấn công căn cứ B.50 đang do Tiểu đoàn 1/53 thuộc Trung đoàn 53 BB/VNCH trấn
giữ. Tiểu đoàn 231 Pháo binh VNCH đóng trên đồi đối diện với căn cứ B.50 bèn
chong 2 khẩu 105 ly bắn trực xạ vào 2 tiểu đoàn CSVN đang tấn công B.50.
Đến 3 giờ 30
chiều thì cuộc tấn công hoàn toàn thất bại, quân CSVN chạy tháo về hướng Tây
Nam, đụng phải Đại đội trinh sát thuộc Trung đoàn 45 VNCH đang
chờ sẵn tại bìa rừng cao su gần phi đạo.
Sau khi im tiếng súng, Đại đội Trinh sát VNCH đếm được 40 xác chết, 100
nón cối rơi lại, thu nhiều vũ khí, trong đó có 5 hỏa tiễn tầm nhiệt SA.7 còn mới
nguyên. Còn tại căn cứ B.50 đếm được khoảng 150 xác, thu 50 vũ khí.
– Lúc 3 giờ 30 chiều, chiến trường im tiếng súng.
Đại tá Luật
báo cáo cho tướng Phú là trong ngày đã bắn cháy 7 xe tăng của quân CSVN. Tướng Phú cho biết Liên đoàn 21 BĐQ đang tiến về BMT ( Bài viết của Đại
tá Luật cho biết quân BĐQ đi bộ từ Buôn Hô đến BMT nhưng sự thực 24 giờ sau
quân BĐQ mới đến ).
Tình hình trong đêm yên tĩnh. Theo như bài viết của Đại tá Luật
thì Kho đạn Mai Hắc Đế, phi trường L.19 và BCH/ Tiểu khu đã bị địch chiếm, ông
và Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB đang cố thủ tại Hậu cứ BTL/SĐ
23 và chờ tiếp viện của Quân đoàn.
Đặc biệt Đại tá Luật không nói gì tới lệnh lạc của Bộ tư lệnh Quân
khu 2 hay của Tướng Phạm Văn Phú, hay của Tham mưu trưởng Quân khu Lê Khắc
Lý. Và tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn,
người đang theo sát Tướng Phú, cũng không có một dòng đả động tới chuyện Tướng
Phú có liên lạc hay ra lệnh cho Đại tá Luật hoặc Đại tá Quang trong 2 ngày 10
và 11-3-1975.
Về phần CSVN thì trong đêm
10-3, Tướng Đặng Vũ Hiệp ghi vào sổ tay : “Đã chiếm được sân bay thị xã và
tòa tỉnh trưởng, khống chế được sân bay hòa Bình ( phi trường Phụng Dực ). Các mũi đều đánh tốt, riêng mũi phía Nam (
Trung đoàn 149 ) có khó khăn, thắng lợi thu được chưa tương xứng với tổn thất của
bộ đội”. Đây là Tướng Hiệp viết theo lối
tuyên huấn để tránh nói ra sự thật là Trung
đoàn 149 CSVN đã bị xóa sổ.
Như vậy là trong ngày quân CSVN chưa chiếm BCH Tiểu Khu như Đại tá
Luật đã viết, chẳng qua là lúc 2 giờ chiều Trung đội Tình báo và Trung đội Công
vụ đã rút khỏi BCH/TK để hộ tống BCH hành quân Tiểu khu Đắc Lắc di chuyển về
BCH hành quân SĐ23.BB/VNCH.
Riêng tư dinh tỉnh trưởng, sát với BCH Tiểu khu, do 1 trung đội
ĐPQ ( Trung úy Hoành ) trấn giữ vẫn cầm cự cho tới 7 giờ 45 sáng hôm sau.
*Chú giải : So sánh cách bố
trí lực lượng của quân VNCH và kế hoạch tấn công của quân CSVN thì phía CSVN có
nhiều sơ suất trầm trọng. Trong khi lực
lượng chính của VNCH tập trung tại khu vực Phi
trường Phụng Dực với BCH Trung đoàn 53 và Tiểu đoàn 1/53, 1 tiểu đoàn ĐPQ, 1 đại
đội Trinh sát Bộ binh, 1 Đại đội Pháo binh với 2 khẩu 155 ly và 4 khẩu 105 ly,
1 chi đội Thiết vận xa M.113 ( khoảng 15 chiếc )
Thế nhưng tướng CSVN Hoàng
Minh Thảo đã phân công cho 1 trung
đoàn ( hơn 2.000 người ) và 1 đại đội xe tăng đánh vào BTL/Sư đoàn 23 mà
nơi này chỉ có 1 đại đội Bộ binh phòng thủ ( Khoảng 100 người ). Một trung đoàn
khác ( hơn 2.000 người ) cùng với 1 đại đội xe tăng tấn công BCH Tiểu khu mà
nơi này chỉ có trung đội công vụ của Tiểu
Khu và Trung đội tình báo TK phòng thủ ( 2 trung đội khoảng 60 người ). Và một trung đoàn khác ( hơn 2.000 người )
cùng 1 đại đội tăng đánh vào khu vực Kho xăng của SĐ.23 nhưng tại đây chỉ
có 1 trung đội lính văn phòng canh giữ (
khoảng 30 người ).
Trong khi đó lại phân công cho 1 trung đoàn ( hơn 2.000 người ),
không có xe tăng, đánh khu vực phi trường Phụng Dực khiến cho cả 1 trung đoàn
tan tành sau 2 giờ chiến đấu. Theo sách
vở quân sự, muốn tấn công lực lượng đang phòng thủ tại khu phi trường Phụng Dực ( khoảng 1.400 người ) thì quân CSVN phải là 1 sư
đoàn ( Từ 8.000 đến 10.000 người ).
Hồi ký của tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp, trang 418 : “Việc đánh chiếm sân bay Hòa Bình và căn cứ
Trung đoàn 53 là mục tiêu quan trọng phải đánh ngay từ đầu. Vì nhiều lý do công tác bảo đảm, ta không thể
đưa bộ binh và xe tăng vào để đánh ngay mà chỉ sử dụng Trung đoàn Đặc công 198
thực hiện nhiệm vụ này, khi được lệnh nổ súng, lúc 2 giờ 10 phút ngày 10 tháng
3 Trung đoàn nhanh chóng chiếm được sân bay Hòa Bình.
Nhưng khi đánh vào căn cứ 53, Trung đoàn 198 gặp nhiều khó khăn,
tuy có đánh chiếm một số mục tiêu nhưng sau đó địch đã phản kích và đánh bật ta
ra và cho xe tăng bịt cửa mở”.
Theo Thiếu úy Nguyễn Công Phúc, một sĩ quan của đại đội Trinh sát
của Trung đoàn 45 VNCH thì sau trận đánh
sáng ngày 10-3 tại vòng đai phi trường Phụng Dực, Thiếu úy Phúc lục được một
quyển sổ tay trong xác của một Đại đội trưởng CSVN cho thấy đây là Tiểu đoàn K.5 thuộc Sư đoàn 316 CSVN từ Miền
Bắc mới vào Nam bằng xe hơi. Nghĩa
là trung đoàn đánh căn cứ 53 là của sư đoàn 316.
Bản đồ Thị
xã Ban Mê Thuột
Trận
Banmêthuột, ngày thứ hai
( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ần của Chiến tranh Việt Nam” của
Bùi Anh Trinh ).
Ngày 11-3
– Lúc 2 giờ sáng, Liên đoàn
21/BĐQ báo tin cho Đại tá Luật, Tiểu khu trưởng Đắc Lắc, là họ đã đến làng
Đạt Lý, cách trung tâm thành phố 8 cây số.
Nhưng sự thực đây chỉ là trung đội
thám báo đi dò dường từ Buôn Hô tới Đạt Lý là nơi có đặt 2 khẩu 105 ly của
Tiểu đoàn 231 Pháo binh. Cho tới lúc này
tình hình tại Đạt Lý hoàn toàn yên tĩnh.
Lúc 4 giờ sáng BCH Liên
đoàn 21 BĐQ báo cho Đại tá Luật là quân Liên đoàn đã tới bìa thành phố. ( Sự thực cũng chỉ là đại đội trinh sát mới tới Đạt Lý, tại đây có 1 trung đội Pháo binh
của SĐ 23 BB vẫn còn an toàn trong căn cứ Chư Pao; còn đại quân của Liên đoàn đang trên đường di chuyển từ Buôn Hô về BMT, cánh quân cuối cùng đến
nơi vào mờ sáng ngày 12-3 ).
Lúc 6 giờ 30
sáng, pháo binh CSVN bắt đầu nả pháo liên tục vào BCH Tiểu khu và BTL Sư đoàn
23 BB.
Lúc 7 giờ
sáng, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 CSVN cùng với 16 xe tăng tiến vào Hậu cứ
BTL/SĐ 23 BB, đại bác của các xe tăng CSVN bắn thẳng vào BTL. SĐ23. Lúc này tại hậu cứ của BTL/SĐ.23 có 1 đại đội
Bộ binh thuộc tiểu đoàn 3/53 với lính cơ hữu tại hậu cứ BTL, cùng với Trung đội
công vụ của Tiểu Khu Đắc Lắc và lính cơ hữu của BCH Tiểu khu ( Lính cơ hữu của
BCH/TK chỉ trang bị súng Carbin M.2 ).
Lúc 7 giờ 30
sáng,
xe tăng và quân của Trung đoàn 95.B/
CSVN đã bao vây vị trí của BTL/SĐ 23, cách khoảng 300 mét. Lúc này phía VNCH chỉ có 1 khẩu súng chống
tăng là khẩu 106 ly không giật được đặt trên 1 xe tăng M.113, đây là loại vũ
khí chống tăng duy nhất của Bộ binh VNCH, có thể bắn xe tăng địch ở tầm trên
200 m. Còn loại M.72 chỉ bắn có hiệu quả
ở tầm gần, dưới 50 mét ( Bắn bên hông mới có thể làm đứt xích xe tăng, còn bắn
phía trước mặt xe thì không ăn thua, bắn phía sau bên phải có thể làm cháy xe
do trúng bình xăng ).
Lúc 7 giờ 45
sáng, xe tăng CSVN tiến vào dinh Tỉnh trưởng Đắc Lắc đang được 1
trung đội ĐPQ trấn giữ, 2 xe tăng bị hạ ngay cổng vào tư dinh bằng súng M.72. (
Nghĩa là tầm bắn dưới 50 m. Tuy nhiên
M.72 chỉ làm xe tăng T.54 đứt xích chứ không bị cháy cho nên 2 chiếc T.54 trở
thành 2 lô cốt của 2 khẩu đại liên 12 ly 8, làm chủ khu vực trận địa toàn nội
vi tư dinh ). Trung đội ĐPQ/VNCH rút lui
khỏi tư dinh.
Kế bên tư dinh là BTL/Sư đoàn 23 BB, Bộ chỉ huy đầu não của quân
VNCH tại BMT. Hạ được BTL/SĐ có nghĩa là hạ được BMT. Tuy nhiên lúc đó lực lượng chính của quân
VNCH tại BMT không phải là BTL/SĐ 23 VNCH mà là Trung đoàn 53 thuộc SĐ 23 VNCH
đang nằm tại Căn cứ B.50, cạnh phi trường Phụng Dực.
Lúc 10 giờ sáng, Bộ chỉ huy nhẹ của Trung đoàn 53 VNCH và Tiểu đoàn 2/53 VNCH đang phòng thủ tại Căn cứ Dak Song, Quảng Đức nhận được lệnh của Đại
tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23.BB, rút
về cứu ứng cho BMT. Nhưng trên đường
về bị 2 tiểu đoàn CSVN phục kích. Trung đoàn phó Trung đoàn 53 và hầu hết các
sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị bắt, một số tàn quân được Trung úy Trọng,
Trưởng ban hành quân TĐ 2/53 hướng dẫn chạy về Đà Lạt.
Lúc 10 giờ
sáng, xe tăng của quân CSVN bắt đầu tấn công vào vị trí phòng thủ tại BTL/SĐ
23. Đích thân Đại tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy
bán đại đội Bộ binh phòng thủ tại cổng chính.
Lực lượng phòng thủ có 1 khẩu 106
ly không giật đặt trên 1 thiết vận xa M.113.
Khi chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào tầm bắn 100 mét, Đại tá Luật ra
lệnh khai hỏa nhưng khẩu súng bị gãy kim
hỏa và không có kim hỏa dự phòng để thay thế (sic). Đoàn xe tăng tiếp tục tiến vào BTL. Bắt buộc Đại tá Luật phải gọi phi cơ để chống
chiến xa.
Từ lúc bắt đầu xảy ra trận đánh cho tới giờ phi cơ không được phép
dội bom trong thành phố bởi vì còn dân ở trong đó. Tuy nhiên lúc này không còn lựa chọn nào
khác, Đại tá
Luật gọi cho phi cơ quan sát, ra lệnh thả bom ngay trước cổng BTL,
chấp nhận hủy bỏ quy định về khoảng cách an toàn tối thiểu ( phải cách xa phe
ta tối thiểu 1.000 mét ). Nghĩa là chấp
nhận ném bom hủy diệt cả ta và địch.
Lúc 10 giờ 10 sáng, một phi cơ A.37 đã cắt bom theo như yêu cầu của Đại tá
Luật nhưng đường bay lệch một góc rất nhỏ nên quả bom đã rơi trúng Trung tâm
hành quân của BTL/SĐ.23. Theo
sách vở của kỹ thuật ném bom thì việc này không thể nào thực hiện được ( cắt
bom chính xác trong vòng 100 mét ); lối
cắt bom chấp nhận nguy hiểm chỉ được phép dùng để hủy diệt căn cứ của ta sau
khi chính chỉ huy trưởng đơn vị ở dưới đất quyết định cùng tự sát theo đồn do
vì địch đã tràn ngập.
*(Theo quy định kỹ thuật ném bom,
người pilot của máy bay A.37 không được phép thả bom gần phe ta trong
vòng 1.000 mét; nhưng có thể thả ngay
lên đầu phe ta nếu quan sát viên điều không tiền tuyến trên phi cơ quan sát ghi
nhận chính đơn vị trưởng dưới đất yêu cầu. Trong trường hợp này chính Đại tá Luật
yêu cầu trên máy vô tuyến, dĩ nhiên các máy vô tuyến khác hoạt động trên cùng tần
số sẽ làm chứng về lời yêu cầu của Đại tá Luật.
Tài liệu của Phạm Huấn ghi rằng lúc trái bom rơi là đúng 8 giờ
sáng, lúc đó ông đang đứng bên cạnh máy truyền tin vô tuyến của Trung tâm hành
quân Không trợ II. Trong khi bài viết của Đại tá Luật lại ghi là khoảng 10 giờ 10 sáng; không biết ai nói đúng nhưng chi tiết gọi máy
bay của Đại tá Luật có lý hơn ).
Sau khi trái
bom đánh sập Trung tâm hành quân, toàn bộ cơ quan đầu não của quân VNCH khoảng
100 người chia làm 2 cánh đào thoát khỏi BTL/SĐ23 giữa tiếng
loa kêu gọi đầu hàng của quân CSVN nằm vùng phát đi từ chùa Khải Đoan, gần
BTL/SĐ 23.
Lúc 11 giờ
30 trưa,
Tiểu đoàn 3/53 đang phòng ngự tại Khu gia binh SĐ 23 bị mất liên lạc với Đại tá
Vũ Thế Quang, lính của Đại đội bảo vệ BTL chạy về khu gia binh loan báo Đại tá Quang và Đại tá Luật đã bỏ chạy. Tiểu đoàn 3/53 xin lệnh Trung tá Võ Ân, Trung
đoàn trưởng 53. Trung tá Ân cho lệnh Tiểu
đoàn rút về hậu cứ Trung đoàn 45, cách trung tâm BMT 5 cây số để phòng thủ tại
đây chờ quân tiếp viện của Liên đoàn 21 BĐQ.
Tiểu đoàn 3/53 ra lệnh cho đại đội thứ 4 đang trấn giữ cầu 14 rút về hậu
cứ TrĐ 45/BB.
Lúc 3 giờ 30 chiều, Đại tướng
Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng VNCH ra lệnh cho Tướng Phú bốc Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB
thả xuống BMT để chỉ huy thay thế Đại tá Vũ Thế Quang.
Lúc 5 giờ chiều, Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm gọi cho Tướng Phú, chấp thuận cử một sĩ quan khác thay thế Đại
tá Luật làm tỉnh trưởng BMT để theo đoàn quân của Sư đoàn 23 BB về tái chiếm
BMT.
Lúc 6 giờ chiều, toàn bộ tiểu đoàn 3/53 tập trung đầy
đủ tại hậu cứ Trung đoàn 45, nhưng lúc này nhân số đông lên gấp 3 bởi vì binh
sĩ trong tiểu đoàn đã hộ tống toàn bộ gia đình của họ và những gia đình khác của
Sư đoàn 23 BB cùng chạy lánh nạn về đó ( kể cả gia đình Tướng Lê Trung Tường,
tư lệnh SĐ.23/BB/VNCH. Tại đây đã có sẵn
các con của Đại tá Phùng Văn Quang, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 45 BB. Còn bà Phùng Văn Quang thì đang đi thăm chồng
tại Pleiku ).
Trong đêm tối, các sĩ quan và binh sĩ thuộc Sư đoàn 23 BB sắp xếp
cho gia đình chuẩn bị mờ sáng hôm sau lên đường di tản về Phước An, tức là hướng
về Nha Trang. Trong khi các sĩ quan đang
bàn bạc thì cùng lúc đó Đại Tá Vũ Thế
Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, bị quân CSVN bắt trên đường đi Phước An để về
Nha Trang. Ông đã chạy trước gia đình binh sĩ một bước, nhưng không may cho
ông là nội tuyến của CSVN theo dõi ông từ lúc ông mới rời BTL/ SĐ.23.
Về phần Đại tá Luât
cũng thế, ông muốn bọc lên hướng Bắc của thành phố để theo đường tắt băng xuống
Phước An, nhưng lộ trình của ông cũng bị
nội tuyến CSVN bám sát từ khi ông vừa rời BTL/SĐ 23, ông bị bắt cùng thời gian
với Đại tá Quang.
*( Theo hồi ký của Tướng CSVN Đặng Vũ Hiệp cho biết lúc Đại tá Luật
bị bắt thì ông ta cùng đi với 12 sĩ quan, còn Đại tá Quang thì : “chạy một mình, vứt bỏ cả giày, cả
mũ; trên người chỉ mang một cái túi con”
).
Ngày
11-3, lúc 11 giờ đêm, Tướng Thiệu gọi cho Tướng Phú chỉ thị “tránh sa lầy, sử dụng
quân quá nhiều cho một mặt trận. Toàn
quyền linh động, có thể bỏ BMT”. ( Theo Phạm Huấn ).
* Chú giải : Sở dĩ Tướng
Thiệu chỉ thị như vậy bởi vì Tướng Phú đã báo cáo về bộ TTM : “Phi trường
Pleiku bị pháo”, “BTL/Quân khu 2 bị pháo”, “Trung đoàn 42 và 47 giao tranh suốt
ngày với các đơn vị Cọng sản Bắc Việt”, “Sư đoàn 22 Bộ binh hiện đã trực diện với
toàn bộ Sư đoàn 3 Sao Vàng và các trung đoàn biệt lập của Bắc Việt tại Quân khu
5”, “17 chiến xa Cọng sản Bắc Việt xuất hiện gần Phù Cát, Bình Định”.
Nhận được báo cáo như vậy, Tướng Thiệu và Bộ TTM nghi là có thể
quân CSVN tổng tấn công trên toàn Quân khu 2, có thể nhất là đánh Bình Định để
cắt đôi lãnh thổ VNCH. Cho nên Tướng Thiệu chỉ thị : “nếu cần thì bỏ BMT để giữ các nơi
còn vững, chớ có hoang mang điều động mà vỡ lỡ tất cả, riêng BMT sẽ tổ chức phản
công sau” .Chỉ thị lúc 11 giờ tối ngày 10-3
Lúc đó chưa ai biết rõ ý đồ của quân CSVN, thường thì quân CSVN
đánh “diện” trước, tức là đánh mục tiêu phụ trước; sau khi địch lo tập trung cứu ứng cho mục
tiêu phụ thì CSVN mới đánh “điểm”, tức là đánh mục tiêu chính ( “Dương Đông
kích Tây”, đây là chiến thuật cơ bản của
binh thư Trung Quốc ).
Sau này sách của Phạm Huấn chê trách Tướng Thiệu ra lệnh “tiền hậu
bất nhất”, mới đêm hôm trước cho phép nếu cần thì bỏ BMT nhưng sáng hôm sau lại
ra lệnh… tái chiếm !?. ( trang 126 ) Thực ra Phạm Huấn không đủ trình độ quân sự
để nghĩ ra rằng sau khi nói chuyện với Tướng Phú thì Tướng Thiệu đã cùng với
các Tướng khác tại BTTM ngồi nghiên cứu tình hình và thấy rõ Ban Mê Thuột mới
là mục tiêu tấn công chính ( điểm ); còn Bình Định, Pleiku chỉ là những mục
tiêu phụ ( diện ).
Một khi đã rõ quân CSVN tập trung đánh BMT thì chỉ cần tập trung ứng
cứu tại BMT: Trước tiên là điều ngay Sư
đoàn 23 BB từ Pleiku về cứu nguy BMT; quân CSVN chỉ mới chiếm được đất trong
thành phố chứ lực lượng chính của VNCH là Trung đoàn 53 và 2 tiểu đoàn trực thuộc
vẫn còn nguyên, Liên đoàn 21 BĐQ chưa sứt mẻ.
Như vậy lệnh của Tướng Thiệu là sáng suốt chứ không phải “tiền hậu bất
nhất”.
Bản đồ từ
biên giới Việt- Miên tới Nha Trang
Trận Banmêthuột,
ngày thứ ba và thứ tư
*( Trích sách “Giải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam” của
Bùi Anh Trinh ).
Ngày 12-3
Theo lệnh của Tướng Cao Văn Viên, Tướng Phú chỉ thị Tướng Lê Trung
Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, bay về BMT để chỉ huy trực tiếp Trung đoàn 53 BB
và Liên đoàn 21/BĐQ.
Lúc 4 giờ
sáng BCH Liên đoàn 21 BĐQ và 1 trung đội pháo binh BĐQ đến xã Đạt Lý, cách trung
tâm BMT 5 cây số về hướng Bắc, trên quốc lộ 14.
Một trung đội pháo binh của LĐ.21 BĐQ nhập với trung đội pháo binh Sư
đoàn 23 BB tại căn cứ Chư Pao.
Lúc 5 giờ
sáng, gia đình
binh sĩ Sư đoàn 23 BB rời hậu cứ Trung đoàn 45 để di tản bộ về Phước An. Còn binh sĩ và sĩ quan ở lại để tổ chức lập
tuyến phòng ngự tại Hậu cứ Trung đoàn 45, cách trung tâm BMT 5 cây số.
Lúc 6 giờ
sáng,
toàn bộ Liên đoàn 21 bắt đầu tiến vào khu vực Phi trường L.19.
Lúc 8 giờ
sáng, một phi
đoàn trực thăng gồm 46 chiếc UH.1 và Chinook bốc Trung đoàn 45 thuộc Sư đoàn 23
BB từ căn cứ Hàm Rồng đổ xuống Phước An,
cách BMT 20 cây số về hướng Đông Nam.
Cùng đi với Trung đoàn 45 có Bộ chỉ huy hành quân của Sư đoàn 23 Bộ binh, Đại đội trinh
sát Sư đoàn 23 BB và các phóng viên chiến trường.
Lúc 11 giờ, Liên đoàn
21 BĐQ đang di chuyển tới phi trường L19, cách trung tâm thành phố 2 cây số về
hướng Đông Bắc, thì nhận được lệnh của Tướng Lê Trung Tường tạt về hướng Đông,
tiến đến Hậu cứ Trung đoàn 45 ( cũng là Trung tâm huấn luyện của Sư đoàn 23 BB
) để nhập với Tiểu đoàn 3/53 BB cùng phòng thủ khu vực Hậu cứ Trung đoàn 45 BB
và Trung tâm huấn luyện.
Lúc 11 giờ
30, trực thăng
của Tướng Tường đáp xuống Hậu cứ Trung tâm huấn luyện để bốc gia đình tướng Tường
đang bị kẹt lại ( Phạm Huấn, trang 132 ) Chứng kiến cảnh này, binh sĩ thuộc Sư
đoàn 23 BB rất bất mãn.
Lúc 12 giờ, hàng loạt
lính Sư đoàn 23 BB cởi áo trận, thay đồ dân sự đuổi theo gia đình của họ đang
trên đường chạy về Phước An. Tiểu đoàn
3/53 chỉ còn 1/3 quân số. Tiểu đoàn trưởng
báo về BCH Trung đoàn tại Căn cứ B.50.
Trung tá Võ Ân cho lệnh kéo toàn bộ số quân còn lại nhập về B.50, một nửa
tăng cường phòng thủ cho Pháo đội Pháo binh của Tiểu đoàn 231/PB, một nửa tăng
cường phòng thủ tại B.50.
Sau khi quân BB đi khỏi, quân ĐPQ của Đắc Lắc, khoảng 1 tiểu đoàn,
cũng bỏ súng đi về nhà để lo cho gia đình.
Đa số đều là người Sắc tộc Ê Đê.
Lúc 12 giờ
30, Liên đoàn
21/BĐQ báo cáo cho Tướng Tường tại Phước An rằng quân Trung đoàn 53 BB và các
đơn vị ĐPQ đã rút hết, xin chỉ thị của Tư lệnh mặt trận. Tướng Tường chỉ thị cố thủ tại đó để chờ quân
Trung đoàn 45 và Trung đoàn 44 sẽ được trực thăng vận xuống Trung tâm huấn luyện
SĐ. 23 BB.
Lúc 2 giờ
chiều,
máy bay trực thăng bay chuyến cuối để thả Trung đoàn 45 BB xuống Phước An chứ
không thả xuống Trung tâm huấn luyện. Chỉ
có Đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 được đổ xuống Phi trường Phụng Dực, đại đội này
tiến vào căn cứ B.50 để nhập với Trung đoàn 53 BB.
Lúc 2 giờ 30
chiều,
Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu.2/VNCH bay thị sát trên trời BMT, liên lạc
với Trung đoàn 53, Liên đoàn 21 và các đơn vị ĐPQ đang tụ về Hậu cứ Trung đoàn
45.
Lúc
3 giờ chiều, hàng loạt binh sĩ thộc Liên đoàn 21 BĐQ cởi áo trận bỏ về với gia
đình. Đa số họ là người Sắc tộc Miền
Núi, trước đây thuộc Lực lượng Biệt kích Mỹ.
Buổi chiều, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 CSVN cùng với 1 tiểu
đoàn của Trung đoàn 95.B/CSVN và 1 đại đội xe tăng tiến về Hậu cứ Trung đoàn 45
đang do Liên đoàn 21 BĐQ trấn giữ. Sự thực
là lúc đó Hậu cứ Trung đoàn 45 đã bỏ ngỏ
vì Trung tá Lê Quí Dậu cho toàn bộ Liên đoàn 21 BĐQ rút về Phước An.( 5 ngày
sau, ngày 17-3, sổ tay của Thiếu tá Phạm Huấn ghi lại quân số của Liên đoàn 21
BĐQ chỉ còn 110 người mà không đụng một trận nào. Trong khi quân số nguyên thủy là trên 2.300
người ).
Buổi chiều, Trung đoàn 174
thuộc Sư đoàn 316 CSVN đánh chiếm cầu Thọ Thành (Sê-Rê-Pốc ) bít đường về của 2
trung đội Pháo binh VNCH đang nằm tại xã Đạt Lý. Trung đội trưởng Pháo binh
BĐQ tại Đạt Lý mất liên lạc với Liên đoàn 21 BB. Trung đội trưởng Pháo binh SĐ.23, Thiếu úy
Vĩnh Bình, xin lệnh của Tiểu đoàn trưởng 231/PB đang nằm tại B.50 cùng với
Trung đoàn 53 BB. Thiếu tá Đào Đắc Đạo
khuyên 2 trung đội pháo binh nên rút ngược về Buôn Hô, cách trận địa BMT 30 cây
số, trên quốc lộ 14, đường đi Pleiku.
Ngày 13-3
Lúc 9 giờ
sáng,
một đoàn trực thăng gồm khoảng 50 chiếc UH.1 và 8 chiếc Chinook bốc BCH Trung
đoàn 44 BB/VNCH, Tiểu đoàn 3/44, và Đại đội Trinh sát Trung đoàn 44 từ Pleiku đổ
xuống Phước An. Theo như kế hoạch của
BTL/Quân đoàn thì Tiểu đoàn 1/44 và Tiểu đoàn 2/44 cùng với Trung đoàn phó sẽ
đi đợt sau.
Lúc 10 giờ
15, đoàn quân của
Trung đoàn 44 VNCH đáp xuống Phước An, Tiểu đoàn 3/44 nhập vào phòng tuyến của
Trung đoàn 45 BB.
Lúc 2 giờ
chiều,
Trung tá Ngô Văn Xuân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 chờ không thấy trực
thăng đổ nửa còn lại của Trung đoàn, ông hỏi thăm thì không ai biết tại
sao. Đến 4 giờ thì ông được cho biết là
nửa còn lại sẽ không về BMT.
* Chú giải : Vì danh dự của
Quân đội VNCH, Trung tá Xuân không nói ra nguyên do thực sự của lệnh không chở
2 tiểu đoàn Bộ binh về BMT. Tuy nhiên có một chứng nhân khác có thể kể rõ sự việc
mà sau đó cũng được các phóng viên chiến trường tiết lộ một phần :
Đại úy Nhảy dù Tôn Thất Thạnh, Đại đội trưởng đại đội Trinh sát của
Lữ đoàn 1 Dù có mặt trong chuyến đầu chở Trung đoàn 44 đáp xuống Phước An. Nguyên Đại úy Thạnh vừa mới ra khỏi Tổng y viện
Cọng Hòa sau khi bị thương trong trận Thường Đức. Đang nắm giấy phép xuất viện với 15 ngày phép
dưỡng sức thì ông nhận được tin BMT bị thất thủ, trong khi cha mẹ của ông đang
sinh sống tại Phước An. Cha của ông là cụ
Tôn Thất Thiết, cựu Trưởng phòng Nội dịch phủ Tổng thống dưới thời Ngô Đình Diệm.
Sẵn còn giấy phép xuất viện, Đại úy Thạnh ra phi trường Tân Sơn Nhất
tìm bạn trong đoàn trực thăng chở quân tái chiếm BMT để xin đi theo lên Pleiku
với ý định về Phước An giúp gia đình di tản.
Từ Pleiku ông theo Trung đoàn 44 nhảy xuống Phước An, lúc đi ông mang
theo một khuẩu AR.15, một áo đạn, và nhiều lựu đạn mini.
Vừa bước khỏi máy bay trực thăng ông nhìn quanh, dự định theo một
toán quân nào đó để tìm đường về đồn điền của cụ Thiết. Nhưng ông chợt bàng hoàng nhận ra không còn một
người lính nào hết : Tất cả hoặc đã thay
xong đồ dân sự hoặc đang cởi đồ lính để mặc đồ dân sự, không biết họ hẹn nhau từ lúc nào mà vừa mới
bước xuống đất thì họ bỏ súng và thay đồ ngay tại bãi đáp.
Hoảng quá Đại úy Thạnh chạy ngược trở lại chiếc trực thăng đang
còn nổ máy để xin trở lại Pleiku. Trên
đường bay ông nghe Pilot trực thăng báo cáo tình hình cho Trung tâm hành quân của
Sư đoàn 6 Không quân. Trên máy cũng có
tiếng báo cáo của các Pilot khác vời tình hình tương tự. Vì vậy mà BTL Quân đoàn 2 cho ngưng chuyến thứ
hai.
Còn về chuyến đổ Trung đoàn 45 BB vào ngày hôm trước, có các phóng
viên báo chí đi theo, họ đã thuật lại kỹ càng giai đoạn bốc quân tại Căn cứ Hàm
Rồng Pleiku. Trong đoàn quân có các các
phụ nữ mặc đồ trận đi theo chồng, các phóng viên ghi nhận một người phụ nữ tiêu
biểu là phu nhân của Đại tá Trung đoàn
trưởng Phùng Văn Quang, bà mặc đồ trận, đội nón sắt, mang lựu đạn. Khi trả lời phỏng vấn, bà Quang cho biết các
con của bà đang bị kẹt lại Thị xã Ban Mê Thuột, bà muốn theo chồng tái chiếm
Ban Mê Thuột.
Dĩ nhiên khi vừa đặt chân xuống đất, các bà đã thay đồ dân sự chạy
ngược về BMT để tìm các con. Báo chí
không loan tin này, cũng không loan tin các người đàn ông cởi áo lính đi tìm vợ
con.. Chỉ một ngày sau, trên phòng tuyến của Trung đoàn 45 tại Phước An chỉ
còn lại sĩ quan và một số binh sĩ độc thân hoặc không có gia đình tại BMT.
Bốn ngày sau, ngày 17, sổ tay của Thiếu tá Phạm Huấn ghi lại quân
số của Sư đoàn 23 tại Phước An là Trung đoàn 45 còn 200 người, Trung đoàn 44
còn 300 người. Trong khi cả hai Trung
đoàn không đụng trận nào cả!! Quân số nguyên thủy của Trung đoàn 45 BB trên
2.000 người. Còn quân số của BCH Trung
đoàn 44 BB và Tiểu đoàn 3/44 khoảng 600 người
Lúc mờ sáng, hai trung đội
pháo binh tại Đạt Lý kéo súng về Buôn Hô.
Tại Buôn Hô dân chúng đang chạy ngược trở lại hướng BMT để xuống Phước
An vì nghe đài BBC loan báo BMT đã lọt vào tay quân CSVN.
Buổi trưa, hai trung đội pháo binh đóng tại Buôn Hô mà không có bộ
binh bảo vệ, các đơn vị ĐPQ thuộc Chi khu Buôn Hô đã tự động tan hàng, người Miền
Núi thì trở về buôn làng, người Kinh thì lo đưa gia đình di tản. Dân chúng báo cho biết quân CSVN từ đèo Tử sĩ
(Thuần Mẫn ) đang tiến về Buôn Hô, hai vị trung đội trưởng pháo binh bèn quyết
định kéo súng quay trở lại Đạt Lý.
Tại Đạt Lý
dòng người di tản cuồn cuộn tràn về Phước An theo ngõ tắt băng qua các đồn điền
cà phê. Thiếu úy Vĩnh Bình xin lệnh Tiểu đoàn trưởng
Đào Đắc Đạo, Thiếu tá Đạo cho lệnh hủy súng và đưa binh sĩ về Phước An theo đường
của dân chạy loạn.
Bản đồ từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang
BÙI ANH TRINH
.