Đã hơn một phần tư thế kỷ, thời gian trôi đi với biết
bao vật đổi sao dời, nhưng trong tâm hồn mỗi người dân thành phố "Buồn
Muôn Thủa", kỷ niệm xưa vẫn còn đó, thành phố quen thân của 26 năm về trước
vẫn còn in sâu trong ký ức của mỗi con người. Như đại lộ Thống Nhất, chạy dài từ
trung tâm thành phố ở Ngã 6 cho tới Buôn A Lê A, qua Hội đồng Tỉnh, Câu Lạc Bô
Biên Thùy, Bưu Điện, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Công viên, Ty Ngân Khố, Trường Trung
học Hưng Đức, là cửa ngõ phía Nam của thành phố. Đường Lê Lợi, nối từ đại lộ Thống
Nhất, bọc theo Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá Sĩ quan, cho đến trường Trung Học
Tổng Hợp. Đại lộ Hùng Vương, nối từ Quân Y viện, ngang qua doanh trại đại dội
206 Cảnh sát Dã Chiến cho đến khuôn viên nhà thờ Chính Tòa, ở ngã 6 - Con đường
Phan Chu Trinh, từ Ngã 6, ngang qua Trường Nữ Trung Học Vinh Sơn cho đến Tòa
Giám Mục. Đại lộ Tự Do, nối ngã 6, trung tâm thị xã với bến xe Cây Số 3, cửa Bắc
thị xã, ngang qua biết bao Ty, Sở, và B Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, mà bên
kia là Phi Trường L.19. Con đường Hàm Nghi dài hun hút, nối Phan Chu Trinh chạy
dài cho đến ngõ vào xã Châu Sơn. Đường Phan Bội Châu, cũng từ Phan Chu Trinh, cắt
Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Y Jut, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết chạy dài
cho đến Chùa Khải Đoan, trường Trung Học Bồ Đề và doanh trại Thiết Đoàn 8 Thiết
Giáp, cửa ngõ của phía Tây Thị Xã.
Với bao tấp nập của phố phường, lộng lẫy như Khách sạn Anh Đào,
Hồng Kông, Hoàng Gia, Khu Quang Trung - Hai Bà Trưng và ciné Nguyễn Huệ, Khu
chợ Y Jut với ciné Lo Do, Ngân Hàng Đại Á, Sàigòn Tín Dụng và nhà hàng Thanh
Thế lẫy lừng trên Ama Trang Long. Những tiệm buôn khang trang như Trúc Lâm,
Minh Sơn, Thăng Long, Dân Thiên Đường ...và biết bao thực đơn nổi tiếng của
Vĩnh Thuận, Hoàng Vinh, Tân Cao Nguyên và Le Blanc de Neige....
Những cảnh vật và sinh hoạt đó không dễ gì phôi pha được trong tâm
trí những người dân Banmêthuột và còn biết bao nhiêu nữa, những phồn hoa của
phố thị thủa nào, mà mỗi người, một đời đã sinh ra và lớn lên ở nơi này, hay
hoặc đã một thời được sinh hoạt của phố phường này cưu mang và nuôi dưỡng,
nhất định không thể nào quên được Banmêthuột với kỷ niệm của đời mình.
Banmêthuột, đã 26 năm qua, những tang thương dâu bể đã biến dời, phố phường tấp
nập xưa chỉ còn lại trong ký ức mà thôi và 60 ngàn dân bây gìơ đang phiêu bạt
khắp 4 phương trời, ai còn, ai mất, nào ai đã biết, nhưng trong tim, trong óc
của mỗi dân đinh, Banmêthuột mãi mãi và bất diệt.
BAN MÊ THUỘT, THÀNH PHỐ BỎ NGỎ
Thứ Hai, ngày 10 tháng 3 năm 1975
Khi đem ra cuốn nhật ký viết về trận tấn công Banmêthuột cuả Cộng
quân và tình hình thị xã Banmêthuột từ giây phút đầu tiên 2g 20 sáng ngày 10
tháng 3, năm 1975, tôi hoàn toàn chỉ muốn làm 1 người kể chuyện, không thêm bớt
và bày tỏ quan điểm của cá nhân để đánh giá hoặc nhận định, những điều này nếu
có chỉ là vì sự kiện bắt buộc bởi tính khách quan, phần phê phán, nếu có, hoàn
toàn là quan điểm của người đọc. Tôi cũng muốn bày tỏ 1 điều, là những chi tiết
đọc thấy trên những trang giấy này, sau hơn 26 năm, chỉ là nhật ký, được ghi
lại trong cái nhìn về tình hình thị xã 1 cách khách quan, trên toàn thể khung
cảnh và sự kiện ở thành phố Banmêthuột vào những ngày khốc liệt và khủng khiếp
đó.
Tuy nhiên cái nhìn của tôi nhất định có phần khiếm khuyết, vì từ
trận pháo kích mở màn, 2 giờ 20 phút sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, khi những
chi tiết tin tức từ các chốt an ninh vòng đai thị xã gởi về cho các trung tâm
Hành Quân, cho đến ngày tôi phải rời bỏ Banmêthuột, vẫn còn một vài khu phố tôi
không có cơ hội đi qua vì tình hình an ninh vào những ngày đó. Nhưng những sự
việc xảy ra trong khu vực tôi nhìn được, là toàn thể khu phố thị tứ, sầm uất
nhất của thị xã này. Tôi cũng ao ước có ai đó kể cho tôi đoạn đường di tản mà
Tiểu Khu và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia phải đi qua, từ mặt sau Tiểu Khu hay
từ Quân Y viện đến trung tâm Huấn Luyện Tân Binh của Sư Đòan 23 B Binh ở Trung
đoàn 45 BB, dầu thực sự tôi cũng biết rõ cái nguy hiểm và nỗi gian truân trên
đoạn đường đó. Và với bằng ấy sự tình, trong tôi chỉ có nỗi cảm xúc mãi mãi
không nguôi và mãi mãi không vơi.
* 2 giờ 20 sáng: Bắt đầu trận pháo kích, kéo dài liên tục cho đến
6 giờ sáng, bằng các loại đại bác: 130 ly, Hoả tiễn 122 ly, đại bác 100 ly gắn
trên xe tăng T.54
* 4 giờ sáng: Bộ binh và chiến xa T54 của Cộng quân tấn công mặt
Bắc Phi trường L19 với chiến thuật biển người, tiền pháo, hậu xung. Lực lượng
phòng thủ phi trường là đại đội Thám Sát Tỉnh, (PRU), trực thuộc Bộ chỉ Huy
Cảnh Sát Quốc gia Tỉnh, quân sồ 40 người.
* 5 giờ sáng : Đơn vị phòng thủ Phi trường L19 xin Tiểu Khu tiếp
viện, Tiểu Khu chỉ thị Đại đội 1/224 Ðịa phương Quân, Đại Úy Hải là đại đội
trưởng, nhưng đại đội 224 ĐPQ đã không thể tiến vào Phi Trường L19 được để tiếp
cứu đại đội Thám Sát Tỉnh, vì biển người của Cộng quân.
* 6 giờ 20: Phi trường L19 thất thủ, Đại đội Thám sát Tỉnh tan
hàng.
* 6 giờ 55: Cộng quân làm chủ mặt Bắc thị xã.
Cộng quân từ mặt Bắc tiến vào thị xã theo đường Phan Chu Trinh và
ven vòng đai Phi trưòng L 19, khu xóm đạo, đến đường Phan Bội Châu, khu Trường
Nữ Trung Học Vinh Sơn nằm giữa 2 con đường Phan Chu Trinh và đường Tự Do, mà
bên kia đường Tự Do là dinh Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và bố quân tại đó.
Mặt Tây thị xã
* 7 giờ 5 phút: Cộng quân xâm nhập khu vực suối Bà Hoàng và cuối
đường Hàm Nghi, ngõ vào xã Châu-Sơn.
* 7 giờ 15: Một mũi tiến quân khác của Cộng quân tràn chiếm khu
vực cuối đường Hoàng Diệu, (đường đi Bandon, Khu trung tâm xã hội, do linh mục
Trương Trọng Tài, mới thành lập để nuôi người gìa tàn tật và trẻ mồ côi.
Mặt Nam thị xã
- 7 giờ 30: Cộng quân chiếm khu giáo xứ Tân Mai, Buôn Alê A, nằm
trên đường Thống Nhất, nối liền Quốc Lộ 14 tại Trạm kiểm soát cửa Nam, thuộc Cục
Cảnh sát Quốc Gia. Dân chúng từ mặt Nam thị xã, đổ xô nhau chạy vào khu Dân Y
Viện Banmêthuột và Trường Tiểu Học Nguyễn Du tránh đạn.
Cũng vào thời gian này, dân chúng
từ cửa Bắc thị xã, khu xóm đạo, bồng bế nhau chạy vào trung tâm thành phố, ở
khu Lý Thường Kiệt - Ama Trang Long, chen chúc nhau ở khu vực tiệm Bida Thanh
Sơn, tiệm gạo, nhà sách Văn, trên đường Lý thường Kiệt, đối diện Khách sạn Hoà
Bình và tiệm chụp hình Hưng Ký. Ở mặt Tây, dân chúng đổ xô nhau chạy về khu
trường Tàu nằm trên đường Y - Jut, đối diện Hội Dục Anh. Tình hình tại Trung
Tâm thị xã, Từ khu vực Ngã 6, nhà thờ chính tòa (nhà thờ cha Ngoạn), Khu Quang
Trung, Ciné Nguyễn Huệ, Ama Trang Long, Hai Bà Trung, Lý Thường Kiệt, Y - Jut,
Ciné Lo Do, Tôn Thất Thuyết, đến khách sạn Hoàng Gia, vẫn còn yên tĩnh, chưa có
bóng dáng của Cộng quân.
Cũng thời gian này, các chốt an
ninh vòng đai thị xã hoàn toàn tan vỡ. Nhưng tin tức về các mũi tiến quân của
Cộng quân, các trung tâm hành quân của Tiểu Khu, Trung tâm hành quân Cảnh Lực
của Cảnh sát đã nhận rất đầy đủ.
Từ 7 giờ 30 đến 8 giờ 30 thứ hai,
ngày 10 tháng 3 năm 1975, lực lượng Cộng quân đã hoàn toàn làm chủ tình hình
các mặt Bắc, Tây và Nam thị xã, vành đai an toàn cho thị xã đã bị phá vở, và
các chốt điểm quan yếu như Phi trưòng L19, bến xe cây số 3 ở phía Bắc, Trạm
kiểm soát phía Nam và kho đạn Mai Hắc Đế đã lọt vào tay Cộng quân.
* 8 giờ 45: Lực lượng Cộng quân
từ khu vực đường Phan Bội Châu và Trường Nữ Trung Học Vinh Sơn chiếm khuôn viên
nhà thờ Chính Toà (trung tâm thành phố).
Một cánh quân khác của Cộng quân
từ cuối đường Phan Bội Châu, có T54 cũng đang theo đường Phan Bội Châu tiến về
khu vực nhà thờ Chính Toà.
* 9 giờ: Lực lượng Cộng quân dùng
B40, B41 và cối 60 ly bắn phá khu trungtâm thành phố trên đường Hai Bà Trưng,
đoạn từ Quang Trung đến Ama Trang Long (Khu bến xe Lam cũ, cạnh khách sạn Hồng
Kông, thiêu huỷ hoàn toàn khu phố này và khu phố dọc theo Quang Trung, từ Hai
Bà Trưng đến Lý thường Kiệt, đối diện Khách sạn Tường Hiệp, và Ngân Hàng Đại Á
cũng thành một biển lửa.
Khu phố trung tâm bị bắn cháy,
những cư dân ở đây và dân chúng từ ngoại ô thành phố chạy về tá túc ở khu vực
Lý thường Kiệt, trong các tiệm bida Thanh sơn, tiệm gạo, nhà sách Văn ... đã xô
nhau chạy băng qua đường Lý thường Kiệt, theo Ama Trang Long và Quang Trung
chạy xuống khu chợ, nhà hàng Vĩnh Thuận, đối diện cục Cảnh sát Quốc Gia xã Lạc
Giao để ẩn núp.
* 9 giờ 20 sáng ngày thứ hai, 10
tháng 3 năm 1975, một đơn vị Biệt Động Quân, Quân lực VNCH đầu tiên xâm nhập
được thị xã, qua cửa ngõ phía bắc, rải quân ở khu vực Trường Trung Học Tổng Hợp
Banmêthuột, ngã 4 đường Bà Triệu và đường Hùng Vương.
* 9 giờ 25: Lực lượng Cộng quân
từ khuôn viên nhà thờ chính toà vượt ngã 6, tiến chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy,
khu cư xá sĩ quan, Hội đồng Tỉnh, nằm ở ngã 3 Lê Lợi và Thống nhất, đối diện
khu vườn hoang của bác sĩ Tôn Thất Niệm.
Tuy nhiên, mũi quân phía Nam của
công quân, sau khi chiếm khu vực xứ Tân Mai và Buôn Alê A, đã không vượt được
tư dinh tỉnh Trưởng, án ngữ trên đường Thống Nhất, đã bố quân dọc theo đại lộ
Thống Nhất, bắn phá khu vực Ty Ngân khố và khu Dân Y viện Banmêthuột. Tư dinh
Tỉnh Trưởng là tiền đồn kiên cố nhất đối với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu lúc bấy giờ,
vì tư dinh được bao quanh bằng một hệ thống tường xây và phần dưới của biệt thự
này là tường bằng đá tảng. Tư dinh được một trung đội Địa Phương Quân trấn thủ,
do Trung Úy Hoành chỉ huy.
* 9 giờ 30 phút sáng ngày 10
tháng 3 năm 1975, bộ binh và chiến xa T54 của Cộng quân từ khu cư xá Sĩ quan,
Hội đồng Tỉnh và Câu lạc bộ Biên Thuỳ, tràn qua khu vườn hoang của bác sĩ Tôn
thất Niệm tấn công Bộ chỉ Huy Tiểu Khu Darlac ( Banmêthuột).
* 10 giờ 15: Đơn vị Biệt Động Quân
đưa gia đình Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB ra khỏi thị xã để đến doanh trại Trung đoàn
45 BB (ở cây số 5).
* 10 giờ 20: T54 của Cộng quân
chiếm Sân vận động và khuôn viên Toà Sơ Thẩm Banmêthuột.
* 11 giờ 20: 1 chiếc T54 của công
quân bị bắn cháy trước cổng chính B chỉ Huy Tiểu Khu, đối diện Bưu Điện
Banmêthuột.
* 11 giờ 30: Cộng quân chiếm hoàn
toàn khu trung tâm thành phố. Suốt từ Ngã 6,đường Phan chu Trinh, chạy dài theo
Quang Trung và Ama Trang Long đến Tôn Thất Thuyết... bắn phá các dãy phố dọc
theo AmaTrang Long, Y -Jut và bắn cháy khu chợ Banmêthuột.
* 11 giờ 45: Cộng quân bắn cháy 2
chiếc Commando Car của Thiết Đoàn 8 Thiết Giáp tại ngã 3 Tôn Thất Thuyết - Ama
Trang Long, trước Bar Quốc Tế và tiệm gạo Thanh Bình.
Tình hình dân chúng ở khu Trung
Tâm thành phố
Trung tâm thành phố và khu chợ bị
cháy, dân chúng đổ xô nhau chạy tán loạn, nhóm chạy băng qua đường Tôn thất
Thuyết, xuống suối Đốc Học, để đến Trường Tiểu Học Nguyễn Du, đối diện Dân Y
Viện Banmêthuột, mong thoát khỏi thị xã bằng ngã cửa Nam thành phố, (nếu họ có
thể vượt được vòng vây của Cộng quân đang bắn phá khu tư dinh tỉnh trưởng và Ty
Ngân Khố). Nhóm khác, băng qua đường Quang Trung, chạy bọc sau Ciné Lo Do và
dãy phố đồ gỗ trên đường Y Jut để đến đường Phan bội Châu, lần về hưóng Trường
Trung học Tỉnh Hạt (trường Bán công cũ).
Tại đường Phan bội Châu, 4 chiếc T54
đang án ngữ khu vực từ ngã 4 Phan Bội Châu - Nguyễn tri Phương đến nhà sách Văn
Hoa trên đường Phan bội Châu. Thực sự lúc đó người ta không biết được T54 hay
M113 của Thiết doàn 8, nhưng trong những người chạy loạn, có những sĩ quan lạc
ngũ, đã hướng dẫn dân chúng chạy theo lối họ nhìn. Đòan người theo Phan bội
Châu chạy đến Tôn Thất Thuyết, rồi theo Tôn thất Thuyết chạy đến đường Hòang
Diệu Nguyễn thái Học. Từ ngã 4 Hoàng Diệu - Tôn thất Thuyết chạy dài đến Hoàng
Diệu Nguyễn tri Phương, dân chúng tụ tập hai bên đường nhìn về hướng Bộ Tư Lệnh
Sư đoàn 23 B binh như trông chờ một điều gì, trên bầu trời bộ Tư lệnh, 2 chiếc
máy bay trinh sát L19 vẫn quần quanh trên đầu Bộ Tư Lệnh và đạn phòng không 37
ly hoặc 12 ly 7 của Cộng quân từ hướng Bandon (hướng tây thị xã) bắn lên đan
chéo quanh 2 chiếc L19 như những bông dù làm thành một võng lưới, nhưng không một chiếc L19 nào trúng đạn.
* 11 giờ 50 thứ 2 ngày 10 tháng 3
năm 1975, Hậu cứ Thiết đoàn 8 di tản.
* 12 giờ Cuc Cảnh Sát Quốc Gia Xã
Lạc Giao (Cuc Cảnh Sát thị xã) tan hàng.
* 13 giờ 15: Một tiếng nổ lớn, rồi một cột khói bốc cao che khuất cả khu vực Tiểu Khu, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trúng hỏa
tiển 122 ly của Cộng quân, Trung tâm hành quân bị sập
* 2 giờ 20: Một đám dân chúng chạy
hớt hãi từ khu nhà Công chánh trên đường Hai Bà Trưng, cạnh Bảo Sanh Viện Bác
Ái, đổ xô xuống ngã 4 Hoàng Diệu - Nguyễn thái Học và một người nào đó la lớn:
" Tiểu Khu mất rồi!", nhưng vì tiếng nói bị ngắt quãng, mãi khi họ đến
gần, người ta mới hiểu được Tiểu Khu đã thất thủ!
- Còn Bộ Tư Lệnh Sư đoàn mà ...
- Không thể nào, sáng nay lúc mười giờ mấy, tôi còn thấy Biệt động Quân đang
đánh ở khu bến xe cũ (bên kia đường Hùng Vương, đối diện Tư dinh Tư Lệnh Sư đoàn 23).
- Chỉ cứu gia đình ông Tường thôi, Đ. mẹ! (không rõ trong đám đông, ai đã nói
câu này.)
- "Mấy chả" đang tới kìa! Cả đám người cùng nhau nhìn về hướng Nguyễn
tri Phương - Hoàng Diệu, một đám đông dân chúng chạy trước, theo sau là bộ binh
và T54 của Cộng quân.
Đoàn ngừơi bỏ ngã 4 Hoàng Diệu
Nguyễn thái Học chạy về hướng Hàm Nghi.
Bây giờ là 3 giờ chiều thứ hai,
ngày 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân đã hoàn toàn kiểm soát thành phố.
XIN BẤM VÀO READ MORE ĐẾ ĐỌC TIẾP
* 4 giờ chiều: tin tức xôn xao
cho biết Bộ Chỉ Huy Cảnh sát đã rút lúc 3 giờ 40 vì không chịu nổi mưa pháo và
biển người của Cộng quân. Ở các khu tập trung đông dân chúng, người ta đang bàn
tán xôn xao về tin tức tại trường Tàu ở đường Y Jut, nơi tập trung rất nhiều
người chạy nạn, Cộng quân đang thanh lọc dân chúng, tìm bắt các viên chức chính
phủ, quân nhân, cảnh sát.
* 6 giờ 30 chiều: một toán bộ
binh và 2 chiếc T54 của Cộng quân từ cuối đường Hàm Nghi đang tiến về hướng
Phan Chu Trinh, chạy trước họ vẫn là đám đàn bà, trẻ con và người gìa.
* 7 giờ 15 tối, Cộng quân chia
thành nhiều toán, lục soát từng gia đình trên các khu phố: Phạm Phú Quốc, võ
Tánh, Hàm Nghi, khu cư xá Lam Sơn của Sư đoàn 23 B Binh. Thanh niên trai tráng
đã lẫn trốn từ vườn sau nhà này sang nhà khác hoặc trốn trên trần nhà, hầm
cầu, hầm tránh pháo kích.
* 8 giờ 30, chủ chiếc xe cần câu
làm cây (xe Be) thoát khỏi thị xã, lúc 2 giờ chiều qua ngã Phan Chu Trinh,
xuyên qua nghĩa trang công giáo, phía sau Tòa Giám Mục, bị bắt ở Cây Số 3, xe
bị tịch thu và bị đuổi ngược về thị xã với vợ và 2 đứa con, đã chạy vào khu Võ
Tánh Nguyễn thái Học, anh cho biết đã nhìn thấy rất nhiều Biệt động quân đang
tiến về hướng thị xã, Biệt Động Quân đã tiến vào khoảng giữa Xã Ðạt Lý và vườn
cao-su ở Cây Số 3. (Xã Đạt Lý cách thị xã 6 Km về hướng Bắc, nằm trên Quốc Lộ 14, đường đi Quận Buôn Hô).
* 9 giờ 45, người ta nhận được
tin Chi Khu Banmêthuột, (cách thị xã khoảng 7 Km) đã liên lạc được với Trung Tá
Dậu, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 21 Biệt động Quân. Những tin này được truyền tai
nhau khắp các khu phố, và mọi người, ai cũng tin rằng sẽ có đánh lớn, chắc Biệt
động quân còn chờ Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến đến!
Suốt đêm ngày 10 tháng 3 năm
1975, người ta nhìn thấy từng đoàn xe Molotova chất đầy hàng hoá và gạo mà
Cộng quân lấy của thành phố chở vào hướng Bandon (phía Tây Thị Xã).
Thứ Ba, ngày 11 tháng 3 năm 1975
* 6 giờ sáng: dân chúng đã đổ dồn về khu vực các ngã 4 đường Hoàng Diệu - Y Jut và Hoàng Diệu - Nguyễn thái Học,
chạy dài cho đến đường Hàm Nghi, tất cả các loại xe, xe Lam 3 bánh, xe nhà, xe
vận tải, xe cần câu... chở đầy những người và đông đảo người đi bộ mang đầy
bao, bị, nối đuôi theo xe để chạy ra khỏi thị xã, nhưng xe chỉ lăn bánh được
vài chục mét là bị đuổi trở lại, và bộ đội Cộng quân mặc thường phục lẫn trong
đám đông đã rút AK 47, K54 thi nhau bắn chỉ thiên từng loạt để uy hiếp và ngăn
chặn. Lệnh ban ra "không ai được chạy loạn, ai về nhà nấy".
Cũng thời gian này, những người
chạy xuống khu suối Đốc Học từ chiều hôm qua, 10 tháng 3 năm 1975, vẫn còn chen
chúc nhau ở trường Tiểu học Nguyễn Du. Cảnh màn trời, chiếu đất, ngủ đứng, ngủ
ngồi lần đầu tiên dân thành phố phải chịu trong suốt mấy mươi năm qua. Tội
nghiệp nhất là trẻ em và cụ già, họ vẫn chưa thoát khỏi thị xã bằng ngã phía
Nam của thành phố. Vì bộ binh và T54 của Cộng quân đang bủa vây tư dinh Tỉnh
trưởng và một cánh quân khác đang hướng về Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB.
* 6 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3
năm 1975 ,tiếng súng lớn nhỏ của Cộng quân nổ vang đi nhắm vào tư dinh Tỉnh
trưởng, sau một đêm tương đối yên tĩnh. Và cùng lúc, Cộng quân tấn công Hậu cứ Bộ
Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh.
* 8 giờ sáng ngày 11/3/1975, tư
dinh Tỉnh trưởng thất thủ.
- Có lẽ Đại Tá Tỉnh Trưởng đã tử
thương, ai đó đang cất tiếng hỏi đám đông,
- Từ sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh đến tìm Tiểu Khu Trưởng, thì ông ta đã chạy qua Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 rồi !
- Từ sáng sớm ngày 10 tháng 3/1975, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh đến tìm Tiểu Khu Trưởng, thì ông ta đã chạy qua Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 rồi !
* 10 giờ 10, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn
23 BB bị trúng Bom của máy bay A37.
* 10 giờ 38 phút, Hậu cứ Bộ Tư
Lệnh Sư đoàn 23 b binh tan vỡ
* 4 giờ chiều ngày 11 tháng 3 năm
1975, Cộng quân dùng xe phóng thanh và đến gõ cửa từng nhà phát lời kêu gọi
Quân nhân, viên chức chính phủ và cảnh sát Quốc gia ra đầu thú.
Thứ Tư, ngày 12 tháng 3 năm 1975
Sau khi Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 BB
di tản, dân chúng đã không còn tụ tập nhiều ở các ngã 4 và đường phố như mấy
ngày qua. Banmêthuột thực sự đã lọt vào tay Cộng quân, dầu rằng 4 chi khu (4
Quận), Banmêthuột, Lạc Thiện,Phước An và Buôn Hô vẫn còn nguyên vẹn và người ta
vẫn biết Liên đoàn 21 Biệt động Quân vẫn còn ngoài vòng đai thị xã, nhưng thực
sự người ta đã tuyệt vọng và người ta đang cầu nguyện và chỉ còn cầu nguyện mà
thôi.
Hôm nay những gia dình chạy khỏi
trung tâm thành phố, được trở lại nhìn xem cảnh cũ mấy hôm qua, Khu chợ
Banmêthuột chỉ còn là một bãi tro tàn, những hàng quán chỉ còn chơ vơ mấy cây cột
chưa cháy hết. Khu phố Quang Trung, từ ciné Nguyễn Huệ đến Lo Do, từ tiệm kem
Chi Cao đến Dân Thiên Đường,Trúc Lâm, Minh Sơn tan hoang đổ nát. Và trên đường
Y Jut, đối diện với khu chợ cháy, chạy qua Ama trang Long đến Tôn thất Thuyết,
phố xá đều bị đâp phá, cạy cửa, cháy đổ, mặt đường còn nguyên dấu đạn cày và
nám cháy, mùi khét vẫn còn xông lên nồng nặc.
Ở đâu cũng có người thanh toán
nhau, cũng có nằm vùng chỉ điểm, cũng sát phạt hận thù.
* 11 giờ trưa, Cộng quân lại lục
soát khu phố ở trường Bồ Đề.
* 12 giờ, 1 toán khác lại lục
soát khu phố Lê văn Duyệt, Hàm Nghi, khu Tịnh thất Cao Đài ở Nguyễn tri Phương,
Khu Hàm Nghi, Phạm Phú Quốc, Khu cư xá Lam sơn. Các viên chức, quân nhân, thanh
niên bị săn đuổi chạy trốn từ khu phố này đến khu phố khác từ chiều tối hôm 10
tháng 3 đến nay, không lúc nào mà không bị căng thẳng, lo âu.
Trong những đêm vừa qua cũng có một số người chạy thoát khỏi thị xã, nhưng trong một vài nơi tụ tập dân chúng,
người ta vẫn còn nhìn ra được một vài Ty Sở Trưởng và sĩ quan cùng viên chức cảnh
sát.
Thứ Năm, ngày 13 tháng 3 năm 1975
Tình hình thị xã gần như đã dịu
lại, nhưng cái căng thẳng và sự khủng bố vẫn còn quanh quẩn đâu đó. Dân chúng
đã từ từ về nhà cũ của mình.
Tại khu cư xá sĩ quan nằm trên
đường Lê Lợi, sau lưng Câu lạc bộ Biên Thùy, chạy dài đến ngã
ba Bà Triệu - Lê
Lợi, Cộng quân đã đặt nhiều trạm gác, ụ phòng không, và dọc theo hai vệ đường,
các hố cá nhân đã được đào và ngụy trang, rất nhiều T54 đã đậu rải rác trên
suốt con đường này.
Vũ Trường Biên Thùy hay Câu Lạc
Bộ Biên Thùy, nằm trên ngã ba Lê Lợi - Thống Nhất, đối diện Hội Đồng Tỉnh, nơi
hàng đêm vang vọng tiếng hát oanh vàng một thời, với bóng dáng bao giai nhân ẩn
hiện dưới đèn màu, giờ đây là một căn nhà hoang, 4 vách đổ nát, nối tiếp vũ
trường là khu cư xá sĩ quan, cửa ngõ tan tành, tủ, ghế, đồ gia dụng và giấy tờ
bay bừa bãi ngoài sân... nhìn cảnh tan hoang đó thật không khỏi ngậm ngùi mà
thương tiếc thủa vàng son vừa qua, chỉ trong vòng 3 ngày trước. Những hoa khôi
vũ trường bây giờ biết lưu lạc ra sao, rồi những khách hào hoa đa tình, những
sĩ quan độc thân, đêm đêm tìm lãng quên hay trút bỏ nỗi niềm qua men rượu hay
màu mắt giai nhân để tạm quên hoài bão một đời trong phút chốc, giờ đây đã là dĩ
vãng, dĩ vãng qua rồi biết bao giờ trở lại!
Tại Ngã 6, khu nhà thờ Chính tòa,
đường Hùng Vương chạy dài đến Quân Y Viện, đường Tự Do từ Ngâ 6 chạy dài ra Cây
số 3, các hố cá nhân và ụ phòng không đã được thiết lập. Khách sạn Anh Đào,
khang trang và thanh lịch nhất thành phố, chỉ mới khánh thành chưa tròn tuổi
cũng đổ nát một vài nơi. Con đường Phan Chu Trinh từ Ngẫ 6 đến Phan bội Châu,
cũng rất nhiều hố cá nhân và súng phòng không. Cuối đường Phan bi Châu, Hám
Nghi, Vỏ Tánh, Cộng quân cũng đã thành lập các trạm gác, có T54 yểm trợ. Đặc
biệt là cuối đường Hoàng Diệu, ngỏ vào BanDon, những hố cá nhân và ụ phòng
không, cùng một hệ thống giao thông hào đã đào xong. Cộng quân đã chăng lưới 4
mặt thành phố.
Những sự việc này báo cho người
dân thành phố biết: chiến tranh đang xảy đến, nhưng qủa thật trong lòng mọi
người không mộtai không lo sợ cuộc chiến tranh này.
Thứ Sáu, ngày 14 tháng 3 năm1975
Hôm nay Cộng quân bắt đầu thiết
lập các tổ chức hành chánh tại thành phố này, lấy danh gọi là Ủy ban nhân dân
cách mạng, Thị, Tỉnh, Phường, Khu phố và Tổ dân phố, và các chức vụ Chủ tịch
Phường, Khu phố và Tổ trưởng tổ dân phố. Phường 2 đặt tại ngã ba Phan Chu Trinh
- Hàm Nghi, Chủ tịch là Trâm, chủ một xưởng cưa tại xã Thọ Thành cầu 14, Các chức
vụ chủ tịch hay tổ trưởng là các cán bộ Cộng sản nằm vùng, hoạt động trong thành
phố, do đó, những viên chức, sĩ quan, quân nhân, cảnh sát đều được những người
này nhận diện, đặc biệt là các chức vụ an ninh, như Phó chủ tịch an ninh
phường, Tổ phó an ninh tổ dân phố...
Một Ủy ban Quân quản được thành
lập gọi là Ủy Ban Quân quản Thị, do Việt Châu (bí danh) cầm đầu, đặt tai Khách
sạn Darlắc của ông bà Lý trần Lý, ở số 9 Hai bà Trưng, là văn phòng Phối Trí
Viên Cảnh sát Đặc Biệt cũ, đồng thời lấy Trường Trung học Bồ Đề, Hội Đồng Tỉnh
làm nơi ra đầu thú cho các viên chức, quân nhân, cảnh sát làm việc cho chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng nơi tiếp nhận các sĩ quan, viên chức cao cấp lại
đặt riêng ở số 9 đường Hai bà Trưng.
Những người đến trình diện đều
được cấp giấy chứng nhận đã đến trình diện và cho phép trở về quê làm an sinh
sống, nhưng nếu là viên chức cao cấp, sĩ quan quân đi hay sĩ quan cảnh sát thì
lập tức bị bắt giữ và dẫn vào khu vực Bandon.
Tất cả các trụ sở Ủy ban nhân dân
Phường, Khu phố, nơi tiếp nhận người ra đầu thú đều treo cờ Mặt trận giải phóng
miền nam.
* 11 giờ 30 ngày 14 tháng 3 năm
1975: Một phi vụ F105 đã oanh tạc vào các điểm treo cờ của Cộng quân, nhưng lại
thả lạc vào khu suối Đốc học, rất may là không một người dân nào bị thương vong.
Đây là lần đầu tiên trong 4 ngày qua, một phi vụ không nhắm vào khu vực quân sự,
nhưng thực ra, khu quân sự đã không còn nữa, kể từ khi Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư
Doàn 23 b binh di tản.
Kể từ lúc có phi vụ oanh tạc này,
tinh thần dân chúng thành phố đã lên rất cao. Người ta không nghĩ đến chết
chóc, mà chỉ nghĩ đến chiến thắng. Những tin đồn về lực lượng Nhảy dù đã được
đổ xuống khu nhà dòng Thiên An trên quốc lộ 21, Thuỷ Quân Lục Chiến đã mở đường
khu Cư-Cúc, trên đường tới Quận Phước An, Liên đoàn 7 Biệt động Quân đã đổ bộ
khu vực xã Đạt Lý, được truyền đi khắp thành phố, người ta gặp nhau ngoài đường
đều đưa tay chào nhau theo kiểu nhà binh mà không hề úy kỵ.
Thứ Bảy - Lễ dọn Phục Sinh, 15
tháng 3 năm 1975
* 10 giờ 25 phút ngày 15 tháng 3
năm 1975, một phi vụ thứ 2 nhằm vào các điểm treo cờ của Cộng quân, phi vụ được
coi là chính xác, trái bom thứ nhất đúng vào mục tiêu là văn phòng Xã Lạc Giao,
phá huỷ trụ sở xã và cuc Cảnh sát Thị xã, trái thứ 2 rơi sau lưng trụ sở Phường
2, khu xóm đạo, làm tử thương một chủ xe be làm cây, ông Nguyễn Ơn, trái thứ 3
rơi đối diện trụ sở này, bên kia đường Phan Chu Trinh, lạc vào quán Café Vui
Sống của Ông Bà Trung, làm tử thương 3 người con gái, trong đó có bà Lài, là vợ
Trung Úy Kỳ và trọng thương 2 người khác.
Sau phi vụ oanh tạc này, Cộng
quân đã hạ hết cờ ở các trụ sở và ra lệnh cho toàn thị xã, mỗi nhà phải đào hầm
tránh bom trước cửa nhà. Đồng thời, người ta truyền miệng nhau Không Quân đã
thả truyền đơn yêu cầu đồng bào di tản khỏi thị xã, một số gia đình đã di chuyển
ra cây số 5, tạm ẩn trong khu nhà thờ cha Diệu, Xứ Phú Long và Chùa Dược Sư.
Tuy nhiên, ai cũng nhìn được nỗi vui mừng hiện lên khuôn mặt từng người dân thị
xã.
Chủ Nhật Lễ Phục Sinh 16 tháng 3
năm 1975
Sáng sớm hôm nay, dân thành phố
nhìn thấy các đường phố chính đều đầy dẫy những hố tránh bom cá nhân mà Cộng
quân đã đào trong đêm qua, đặc biệt là các con đường chạy ra ngoại ô thị xã như
cuối đường Phan chu Trinh, cuối Hàm Nghi và Võ Tánh, suốt dọc Đaị lộ Thống nhất
và Tự Do, đường Hùng Vương và cuối đường Hoàng Diệu, tại mỗi điểm cuối đường
này, đều đặt súng phòng không và T 54 trấn giữ.
Nỗi lo lắng của người dân thành
phố trong lúc này chính là thực phẩm, gạo, mắm, muối. Tất cả những tiệm gạo tư
nhân, kể cả kho gạo dự trữ cuả Phủ Thủ Tướng trên đường Tự Do, cạnh đặc biệt
(Sở Cảnh sát Đặc biệt cũ), cũng đã bị Cộng quân chở vào hướng Bandon trong suốt
mấy đêm qua. Các nhà thuốc Tây tư nhân, thuốc của Bệnh viện, cũng đã bị công
quân lấy hết, bi đát nhất là những gia đình công chức, quân nhân, cảnh sát,
trước đây những gia đình này sống nhờ vào đồng lương, nay đã không còn nữa,
nhiều gia đình phải ăn cháo, hoặc chạy vào rẫy kiếm một thứ gì đó ăn trừ bữa,
thật là thảm hoạ đối với thành phố trong lúc này.
Thứ Hai, ngày 17 tháng 3 năm 1975
Hôm nay, mọi nỗi lo lắng của
người dân thành phố hầu như đã bị vất bỏ hết, người ta lo lắng đến tuyệt vọng,
nhiều người đã khóc ra tiếng vì 2 tin tức họ nhận được sau đây:
- 2 Trung đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 23 được đổ xuống Phước An đã bỏ Banmêthuột về Nha Trang
- Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 2 đã rút khỏi Pleiku.
Không ai bảo ai, mỗi người lại tụ
họp với nhau để bàn luận.
- Không thể nào Quân đoàn II lại
di tản, Quân đoàn II mất là toàn thể lãnh thổ Quân Khu 2 sẽ thuộc vào tay Cộng
quân, mà trước nhất là các tỉnh KonTum, Pleiku, Phú Bổn, Quảng Đức và kế đến là
các tỉnh đồng bằng Phú Yên, Bình Định mất nốt. Cộng quân sẽ tiến chiếm Cao
nguyên Nam Trung phần: Đà Lạt, Lâm Đồng, uy hiếp miền Đông Nam phần, mà bước
đầu là chiếm Long Khánh, để đánh Saìgòn.
Mặt khác, Nha Trang, Phan Rang
khó lòng giữ được, Phan Thiết sẽ mất, như vậy làm sao có thể giữ được Sàigòn.
Không có một chiến lược, chiến thuật nào lại sơ đẳng kiểu này.
Đặc biệt là trong khi đó, các đơn
vị chủ lực cuả ta chưa hề đụng đầu với Cộng quân, như Trung đòan 44, 45 Bộ Binh,
Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Lực lượng Tổng Trừ bị, Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục
Chiến, Các sư đoàn không Quân, Thiết Giáp chưa hề thương tổn .
Bỏ Cao Nguyên ??? Không thể nào,
Pleiku tuy không phải là một thành phố kinh tế hay kỹ nghệ, nhưng so với
Banmêthuột, Pleiku rất lớn và là huyết mạch của Quân đoàn 2. Thành phố này
phồn thịnh nhờ những đơn vị Quân Lực đồn trú tại đây: Bộ Tư Lệnh Quân Đòan 2,
Tiểu đoàn 69 Pháo binh, Pháo Binh 175 ly, Liên đoàn 6 Truyền Tin, Liên Đoàn 21
Biệt Động Quân, Liên đoàn 72 Quân Y, Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị, Sở 2
An Ninh Quân Đội, Tiểu đoàn Quân Cảnh, Quân Nhu, Quân cụ, Quân vận, vân vân ân
và vân vân... Thành phố Pleiku, từ khu Diệp Kính cho đến khu chợ Mới, thật là
sầm uất. Hai con đường dài nhất có lẽ là đường Hoàng Diệu, chạy dài từ Trà Bá
cho đến Tòa Án Mới, xuyên qua nhiều phố xá, khách sạn (Bồng Lai), Trường Trung
Tiểu Học (Thánh Phao Lồ, Trung Học công lập Pleiku ..., Con đường thứ 2 là
đường Phan Đình Phùng, chạy dài từ Cầu số 3 (đường vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2)
cho đến nhà thờ Quân đi ở Khu Chợ Mới. Với những Câu Lạc bộ và khách sạn nổi
tiếng như Thanh Lịch, Câu Lạc bộ Phượng Hoàng, Café Dinh Điền, Bún Nhà Xác, bên
hẻm Dân Y Viện... mà ai nỡ để rơi vào tay Cộng quân.
NHỮNG
CHUYỆN KHÔI HÀI
Sau
khi Cộng quân làm chủ thành phố Banmêthuột, nhiều rất nhiều những chuyện thật
khôi hài, nhưng lại rất thật đã xày ra trên thành phố này. Không hiểu sau này,
khi con, cháu, em út tôi lớn lên, đọc lại những điều tôi viết ở đây, chúng có
tin không hay không, vì bây giờ đã là năm 1975, chỉ còn 25 năm nữa là hết thế
kỷ thứ 20, thế giới loài người đang ở vào giai đoạn mà khoa học kỷ thuật đang
tiến bộ cực thịnh, con người đã lên tận mặt trăng, và những cán bộ Cộng sản vẫn
huyênh hoang vổ ngực "Xã hội chủ nghĩa là ưu việt, là đỉnh cao trí tuệ của
loài người, là lương tâm của thời đại". Tôi cũng mong mỏi trong thế hệ trẻ
mai sau, những người mà xã hội miền Bắc ưu đãi, có cơ hội, hoặc đã từng được du
học, hay sẽ được du học ở các nước Cộng sản khác, nhìn lại xã hội miền Bắc từ
1954 đến 1975, tình trạng sinh hoạt và dân trí của miền Bắc, so sánh với xã hội của các nước mà họ đã, đang được du học, cũng như so sánh với xã hội miền Nam,
dầu là với thành phố Banmêthuột nhỏ bé này, để thực sự nhìn rõ trình độ, dân
trí của xã hội miền Bắc và hiểu rõ cái khốn khổ của những người dân Bắc.
(1)
Mất trộm
Sau
khi Banmêthuột thất thủ, một số dân thành phố chạy thoát khỏi thị xã, bộ đội
Cộng sản đã chiếm dụng những căn nhà này cấp cho sĩ quan hoặc cán bộ.
Banmêthuột tuy là một thành phố nhỏ so với các thành phố khác như Nha Trang, Đà
Lạt, hay Đà Nẵng ... những nhà cửa phố xá được xây dựng trong khoảng thập niên
60, với những điều kiện căn bản của lối kiến trúc tân thời như nhà tắm, nhà
bếp, phòng khách, phòng ngủ rất tiện nghi và khang trang, mà những người lính
hay sĩ quan, cán bộ Bắc Việt chưa có dịp nhìn thấy ở ngoài Bắc.
Một
ngày, có 2 bộ đôi chiếm dụng 1 căn nhà trên đường Hai bà Trưng, ra chợ mua 4
con cá lóc (do bạn hàng từ Quận Lạc Thiện mang ra chợ Banmêthuột bán) đem về
nhốt trong hầm cầu (toilet bowl), ngày hôm sau, cá biến mất, 2 vị bộ đôi khả ái
đã gọi những nhà lân cận ra đòi xử bắn vì tôi ăn trộm cá của lãnh đạo, hàng xóm
hết cả hồn vía.
- Ai
đã vào nhà ăn trộm cá, phải thành thật khai để được khoan hồng, nếu ngoan cố,
dấu diếm, tất cả đều bị xử bắn.
Hàng
xóm sợ quá đành đứng chịu trận để cho cán bộ thóa mạ, mãi một lúc khá lâu, có bác
H. đã ngoài 60 tuổi, lấy hết can đảm để hỏi cán bộ:
- Thưa
cán bộ nhốt cá ở đâu mà bị mất trộm?
- Đây, vào đây tao chỉ cho, cán bộ cách mạng không bao giờ nói láo
- Đây, vào đây tao chỉ cho, cán bộ cách mạng không bao giờ nói láo
Ông cụ
theo cán bộ vào nhà mới hay rằng cán bộ đã nhốt cá trong bồn cầu (Toilet Bowl),
Cán bộ lại còn khen, nước trong thùng này mát lắm. Cụ H dở khóc dở cười và đã
cố gắng gỉai thích cho cán bộ cái công dụng của bồn.
Chao
ôi, qủa thật là khôi hài.
(2)
Đài địch
Ai đã
từng sinh sống tại Banmêthuột, hay có dịp ghé thăm, chắc cũng hiểu rằng phố xá,
nhà cửa ở Banmêthuột được xây cất theo lối kiến trúc Âu - Á lẫn lộn, đặc biệt
là những căn nhà 2, 3 tầng lầu.
Là
vùng cao nguyên, nên về mùa gío, các tần số gặp rất nhiều nhiễu âm, gây khó
khăn cho các máy thu thanh, thu hình, do vậy để nghe đài Phát thanh Sàigon, đài
BBC hay đài VOA, đặc biệt là đài Truyền Thanh Truyền hình Nha Trang, người ta
phải dùng anten trời nhiều nhánh, dựng trên nóc nhà.
Những
toán Cộng quân khi đi lùng xét, nhìn thấy những căn nhà có anten trời nhiều
nhánh, đã gọi về bộ chỉ huy: "báo cáo ở khu này có rất nhiều đài
địch" và lập tức bắn B40, B41 vào tiêu hủy đài địch. Đau khổ thay cho
những đài địch của thành phố chúng tôi.
Sự
việc xảy ra, làm cho người dân thành phố thật hốt hoảng, họ đi tìm hiểu nguyên
nhân, mới hay rằng, tại miền Bắc, cho đến năm 1975, mỗi Xã chỉ có được 1 cái
"đài" (Radio), đặt tại văn phòng Xã, rồi nối dây loa ra khu xóm gần
nhất và dân chúng chỉ nghe được đài phát thanh Hà nội, là công cụ tuyên truyền
của nhà Nước, cho nên chiếm được Banmêthuột rồi, bộ đội mới biết cái gì là máy
Radio, máy truyền hình, đồng hồ "2 cửa sổ, không người lái" (đồng hồ
có lịch thứ và ngày tự động, không phải lên dây thiều). Có người dân thành phố
cắc cớ hỏi, "thưa cán bộ, ở ngoài Bắc có Ti-Vi (TV) không ạ". Cán bộ
đã mạnh dạn trả lời "có chứ, Ti vi thiếu gì, ngoài Hà Nội Ti-vi chạy đầy
đường".
Chao
ôi, chuyện thật là khôi hài.
(3)
Thâm tình
Trong
thời gian một năm đầu, thân nhân của những người tù cải tạo không được phép đi
thăm nuôi và tù cải tạo hoàn toàn mất hết liên lạc với thế giới bên ngoài, họ
không thể biết được những gì đã đang xảy ra trên đất nước, cho phố phường hay
là cho chính gia đình họ.
Một
năm sau, tù cải tạo được gia đình đến thăm, và thân nhân đã kể cho họ nghe
những gì đã đang xảy ra cho gia đình và thân nhân họ. Trong muôn ngàn chuyện
nghe được, như là con gái miền nam hai mông có gân, cái nồi ngồi trên cái
cốc ...
Tôi muốn viết ra đây câu chuyện thâm tình này.
Năm
1954, sau Hiệp định Genève 20 tháng 7, gần một triệu người miền Bắc đã chạy
trốn Cộng sản vào Nam, gia đình, anh em cũng phân ly từ đó. Những người vào Nam
thì may mắn hơn, có điều kiện học hành để trở thành Luật sư, Bác sĩ, như Luật
sư Đ. đã thành danh, thành nghiệp, căn biệt thự của ông tại TMG Sàigòn có vòng
tường xây vây quanh, cửa sắt đóng kín tối ngày. Trái lại, chị của ông thì vẫn ở
lại miền Bắc, sống trong hoàn cảnh của xã hội này. Miền Nam lọt vào tay Cộng
quân, bà chị ông xin phép chính quyền Huyện đi thăm ông và các cháu, nhờ địa
chỉ bà cất giữ ở những tấm thiệp liên lạc vào thời gian 1957 - 1958, khi mà
chính quyền miền Bắc còn cho phép thân nhân 2 miền viết thiệp thăm hỏi nhau.
Tìm đến địa chỉ rồi, bà bần thần lo sợ không dám kêu cửa, nhà to qúa như dinh
Tổng đốc, bà nghĩ vậy thôi, nhưng thực ra bà cũng chẳng biết dinh Tổng đốc to
đến thế nào. Chờ một hồi lâu, rồi bà manh dạn kêu cửa, chẳng ai trả lời, bà đập
vào cánh cổng sắt, cũng im hơi lặng tiếng. Bà xuống xe lửa lúc 7 giờ 30 sáng,
hỏi thăm đường đi tới đây chờ cho đến giờ này, mệt quá, bà ngồi ngủ thiếp đi
trước cổng nhà. Vào năm Sài gòn mới mất, dân Sàigòn ai ở nhà nấy, họ không dám
ra đường vì sợ công an để ý, theo dõi, vì thế, gia đình ông Đ ngoại trừ ông ra
vào thường xuyên, vợ con ông cũng hiếm khi ra khỏi nhà và bà chị ông gặp phải
cái thời không may là vậy.
Hơn 11
giờ trưa, ông Đ lái chiếc Peugot 505 về nhà, thấy một bà nhà quê còn ngủ trước
cổng, Ông xuống xe, e ngại nhìn bà và khách sáo hỏi "cụ tìm ai?" -
"Tôi tìm nhà em tôi là K.N.Đ, nhưng thưa quan có lẽ tôi lầm". Luật sư
Đ mới rõ lẽ thì ra chị ruột ông. Ông mời bà chị vào nhà, trước bụng bà là một bao
vải, sau lưng mang thêm một bao tải khác, Luật sư Đ muốn mang hộ chị, nhưng bà
không cho. Nhìn thấy căn nhà qúa to, nền nhà lót gạch bông, bà không dám bước, cúi xuống cởi đôi dép bố cao su ra cầm tay, Luật sư Đ nhìn chị thương hại.
Chị ông đã 63 tuổi rồi.
- Chị
ngồi chơi, em gọi nhà em và các cháu ra chào chị.
- Anh để mặc chị.
- Anh để mặc chị.
Ông
vào nhà gọi vợ, con ra, chào bà, bà vẫn đứng khép nép không dám ngồi xuống bộ
ghế cẩm lai láng bóng.
- Đây
là chị ruột của tôi, chị cả, hai con hãy chào cô cả đi.
- Vâng ạ
- Chị ạ, đây là cháu Loan thứ 3, cháu 18 tuổi, cháu Trân 15, Em còn 2 cháu trai, một đã đi xa,(đi Mỹ), một đã từ trần. Ông lấy mấy tấm hình chỉ cho bà 2 người con trai vắng mặt của ông, trong đó, người con trưởng là Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến đã tử trận năm 1972.
- Vâng ạ
- Chị ạ, đây là cháu Loan thứ 3, cháu 18 tuổi, cháu Trân 15, Em còn 2 cháu trai, một đã đi xa,(đi Mỹ), một đã từ trần. Ông lấy mấy tấm hình chỉ cho bà 2 người con trai vắng mặt của ông, trong đó, người con trưởng là Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến đã tử trận năm 1972.
Suốt
thời gian ở tại nhà em, bà không bao giờ rời xa cái bao tải bà mang, lúc nào bà
cũng ngắm chừng dưới gầm giường. Bà vợ của Luật sư Đ thấy vậy, đã dọn một cái tủ
trống, giao cho chị chồng chìa khóa tủ, bảo bà hãy cất đồ qúy gía trong bao vào
tủ và khóa lại, nhưng bà vẫn không chịu.
Một
buổi sáng, vợ chồng ông Đ dẫn bà đi chợ, coi cảnh tàn tạ của Sàigòn, nhưng bà
nói "đẹp như thiên đàng"! Hai người con gái của ông bà Đ ở nhà, nhưng
trong lòng 2 chị em Loan, Trân vẫn ấm ức về cái bao tải của cô cả, hai chị em
lôi bao tải ra, mở tung các thứ, thì ra trong bao tải chỉ là áo, quần, và chén:
- 4
cái quần dài, vải nhum nâu còn hôi mùi vải.
- 4 cái áo không còn mới, có cái đã sờn chỉ may.
- 8 cái chén sành, sờ vào hơi nhám, gói trong áo quần.
- 2 đôi dép bố cao su còn mới tinh.
- 4 cái áo không còn mới, có cái đã sờn chỉ may.
- 8 cái chén sành, sờ vào hơi nhám, gói trong áo quần.
- 2 đôi dép bố cao su còn mới tinh.
Về đến
nhà, bà cả trước hết là coi lại túi vải, trong khi 2 cô con gái kéo bà Đ vô
phòng tường thuật cho mẹ nghe gói đồ qúi gía của cô cả. Và đến lúc này, bà chị
của Luật sư Đ mới kể rõ sự tình
- Tôi
nghe người ta bảo, ở miền Nam, dân chúng khổ lắm, cơm ăn không no, áo quần
không có, Mỹ, Ngụy bắt làm việc nhiều, mà tiền của làm ra thì bị bọn Mỹ lấy
mang về Mỹ hết, cho nên miền Bắc phải thắt lưng buộc bụng, hạt gạo xẻ làm đôi,
một nửa nuôi chiến trưòng là bộ đội để họ đi giải phóng cho miền Nam, một nửa
thì gởi cho đồng bào miền Nam ruột thịt. Biết bao nhiêu đồng bào miền Nam vì
không có ăn đã chết đói, thậm chí chén, bát, áo quần cũng không có đủ dùng. Vì
vậy khi được phép vào Nam thăm em, tôi đã bán trộm Hợp Tác Xã 2 con heo, để mua
áo quần, chén bát cho em và các cháu. Tôi đâu có ngờ sự thể ra là vậy.
Nghe
xong câu chuyện, cả nhà, chị em, cô cháu ôm nhau mà khóc . Em gái ruột của bà Đ là vợ của Thiếu tá LVM, đi thăm chồng ở tù cải tạo đã kể câu chuyện về bà chị
cả của ông Đ.
Câu
chuyện này qủa là trùng hợp với câu chuyện tù binh Cộng sản bị bắt trong mặt trận Hạ Lào, các tù binh kể lại, họ được chính ủy trung đoàn cũng như chính trị
viên tiểu đoàn cho biết, xe tăng của Việt Nam Cộng Hòa làm bằng giấy carton, cứ
xung phong dùng lưỡi lê mà đâm. Thật là khôi hài thay cho thế hệ chúng ta.
Đảng
Cộng sản đã lường gạt dân miền Bắc thế nào, bây giờ vào miền Nam rồi dân miền
Bắc đã rõ. Câu chuyện ở xã hội miền Bắc là vậy, nhưng xã hội miền Nam thì sao?
Tôi
cũng muốn nhân đây nói ra một chút khôi hài mà những người lính Việt Nam Cộng Hòa
như tôi hôm nay (cuối tháng 3/1975) nghĩ về bối cảnh của miền Nam vào những
ngày tháng mất Banmêthuột - mất Quân đoàn 2, lãnh thổ đã chôn vùi thân thể,
thấm máu, mồ hôi và nước mắt của chúng tôi và đồng đi.
(3)
Phong tào tố tham nhũng của linh mục Trần hữu Thanh
Trong
khoảng thời gian giữa năm 1973 và suốt năm 1974, nghĩa là sau Hiệp định Balê
27/3/1973 và đặc biệt là trước khi Banmêthuột và Quân đoàn 2 rơi vào tay Cộng
quân, tại Sài gòn, đã có nhiều tổ chức và phong trào nổi lên phá rối đe dọa nền
trật tự trị an xã hội một cách nghiêm trọng, trong đó phải kể đến 3 phong trào
được thành lập có qui mô và có tổ chức, đó là phong trào tố tham nhũng do Ông
Trần Hưũ Thanh, một linh mục thuc nhà dòng Chúa Cưú Thế Sài gòn cầm đầu, Phong
trào đòi tự do tôn giáo của Ni sư Huỳnh Liên, Phong trào đòi tự do báo chí của một số ký gỉa, tổ chức 10 ngày xuống đường đi ăn mày và tuyệt thực và còn rất
nhiều những tuyên bố vung vít làm tổn hại quốc gia hoặc hoàn toàn bất lợi cho
nền Cộng hòa, làm lợi cho Cộng sản của nhiều người tự xưng là yêu nước, như ông
Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, Nguyễn Phương...
Ông tố
tham nhũng, chống tham nhũng, được một vài tờ báo tiếp tay, đã tố cáo những viên
chức cao cấp của chính phủ, một vài sĩ quan cao cấp và đủ mọi thành phần trong
mọi ngạch trật của quốc gia đều bị ông điểm mặt.
Mục
đích của ông là trong sạch hoá xã hội (?), nhưng tiếc thay, xã hôi lại là những
con người, không phải là thánh nhân. Con người thì vốn là có tội , từ sinh ra thì
đã mắc tội tổ tông, như giáo lý ông đã học nằm lòng. Con người vốn là tham,
thâm, si, có thất tình lục dục như giáo lý đức Phật đã dạy, cần phải diệt.
Chủ
trương và hậu qủa của việc ông làm là ly tán nhân tâm, hủy diệt lòng tin của
quân đội và đồng bào đối với các vị lãnh đạo quốc gia, làm tan rã tinh thần
chiến đấu của những người lính trên chiến trường, ngoài mặt trận, để Cộng sản
chiến thắng trên từng mặt trận, dọn đường cho Cộng sản đánh chiếm miền Nam.
Đồng
bộ với việc ông Trần Hưũ Thanh làm là một số ký gỉa đòi quyền tự do báo chí, tổ
chức tuần lễ tuyệt thực và xuống đường đi ăn mày.
Song
song với các hành động trên đây là Ni sư huỳnh Liên xuống đường biểu tình, đòi
tự do cho tôn giáo.
Đám
chính trị gia xôi thịt, trí thức nửa mùa, yêu nước gỉa hiệu này không cần biết hay không đủ trình độ nhận biết hiện tình đất nước sau Hiệp định Balê ra sao,
Quốc gia miền Nam đã bị ép đến đường cùng:
- Quân
phí hết sạch, ngày 14 tháng 4 năm 1974, Tổng Thống từ Mỹ về đã cho biết ngân
khoản quân phí 300 triệu được chính phủ Hoa Kỳ hứa viện trợ trước đây, nay đã
bị Quốc Hội Mỹ cắt bỏ.
- Nhiên liệu bị cắt giảm 50 %,
- Vũ khí cá nhân: cấp số đạn đi hành quân bị hạn chế.
- Bom đã bị rút hết ngòi nổ, nhiều phi vụ không quân yểm trợ bộ binh chỉ là xăng bột bỏ vào thùng phi 200 lít.
- Nhiên liệu bị cắt giảm 50 %,
- Vũ khí cá nhân: cấp số đạn đi hành quân bị hạn chế.
- Bom đã bị rút hết ngòi nổ, nhiều phi vụ không quân yểm trợ bộ binh chỉ là xăng bột bỏ vào thùng phi 200 lít.
- Mặt khác, họ cũng đâu cần biết M16, không thể so sánh với AK47 - Đại bác 155
ly hay 175 ly làm sao chọi với hỏa tiễn 122 ly - Thiết vận xa M113 hay M48 càng
không thể đối đầu với T54, và đặc biệt là B40, B41 càng ăn đứt M72 chống tăng
của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi đó, vào cuối thập niên 60, đầu 70, 1
yếu nhân của VNCH đã từng tuyên bố cho ký gỉa trong và ngoài nước: "Khi
tiếng súng AK của Cộng quân nổ tràn ngập trên chiến trường miền Nam thì người
Mỹ mới bắt đầu viện trợ nhỏ giọt AR 16 cho chúng ta".
- Mục đích của cái gọi là Hiệp định Balê chỉ là người Mỹ muốn miền Nam chấm dứt chiến tranh, buông tay chịu chết.
- Mục đích của cái gọi là Hiệp định Balê chỉ là người Mỹ muốn miền Nam chấm dứt chiến tranh, buông tay chịu chết.
Nhưng
xót xa thay, những nhà chính trị này, những trí thức này, những kẻ yêu nước
này, lại chưa bao giờ có mặt trên chiến trường để hiểu chiến trường là gì. Họ
bỏ mặc sinh mạng của miền Nam như ngàn cân treo sợi tóc. Họ mặc xác những người
lính phơi thây ngoài trận địa. Họ không cần biết đến những nguy hiểm mà người
lính phải đương đầu từng giây từng phút chiến đấu để bảo vệ cho họ ở Sàigòn tha
hồ biểu tình. Họ ngang nhiên không cần đếm xỉa tới việc người lính đang giành
từng tấc đất của lãnh thổ với Cộng quân ngoài mặt trận. Họ cũng bỏ mặc những
dân lành vô ti, những phụ nữ mang thai, những trẻ em và cụ già trong những vùng
tranh chấp, chiến tranh.
Còn 1
số trí gỉa khác của miền Nam, lại bỏ mặc, tiêu dao tự tại, hoặc chủ quan... rồi
chuyển ra chủ bại. Than ôi, chỉ tội cho người lính, bỏ đi 1 cánh tay, mất đi 1
bàn chân, tặng tổ quốc 1 con mắt, hiến dâng cho trí giã 1 đời người, họ có tội
tình gì để phải trả cái nợ oan khiên này cho đám người vô dụng kia chứ ? Họ chỉ
nhiệt thành, đem lòng ra đi trả nợ núi sông sao bắt họ trả luôn cái nợ oan nghiệt
này. Rồi những dân lành chất phác của 12 tỉnh vùng 2, của Banmêthuột hay toàn
vùng cao nguyên, họ đâu có làm ra tội tình nào. Giờ đây có lẽ 1 số các vị dân
cử đang mặc áo vest (vestment) và thắt cà-vạt ( Necktie), ngồi chểm chệ trong
căn nhà dân cử, đang đưa tay phản đối sắc lệnh này, đạo luật nọ, hoặc đang đọc
những bài diễn thuyết hùng hồn, từ ngữ thì phong phú mà ý nghĩa thì dân lính
không tài nào hiểu được. Than ôi, thật là tiếu lâm thay !!!!!!
Mất
Banmêthuột trách nhiệm về ai, mất toàn vùng cao nguyên ai chịu trách nhiệm, mà
biết đâu còn mất cả quốc gia ? Ai đây? Ai đây ?????? Đúng là đám người lũng
đoạn hậu phương dưới bất cứ hình thức nào, phải là tội đồ thiên cổ. Nhưng oan
trái thay, những kẻ phải gánh lấy cái nợ nghiệp chướng này chỉ có những người
lính, lại là lính, vì họ là lính. Nhưng nước là của mọi người, mỗi người đều có
bổn phận phải bảo vệ, của 26 triệu dân miền Nam, chứ có phải của 1 triệu 200
ngàn binh lính, và cảnh sát đâu.
Than
ôi thật là những chuyện khôi hài mà dân lính đành chịu !
(5)Tấm
Giấy ra trại hay là cơ chế Hành chánh của chế độ
Khoảng
thời gian mà tôi cầm Tấm Giấy Ra Trại, mọi phương tiện giao thông trên toàn
Việt Nam gần như kiệt quệ, phương tiện di chuyển từ Bắc vào Nam thịnh hành vẫn
là xe đò, hoặc xe lửa, nhưng xe gì cũng phải mua chợ đen, giá tăng gấp đôi,
những người không tiền, phải ra bến xe xếp hàng từ 1, 2 ngày trước .
Phương
tiện di chuyển liên tỉnh chỉ có xe đò, ngày chỉ có 1 chuyến xe, 40 chỗ, nhưng
mấy bác tài xế có thể nhét thêm 10 người nữa, cộng thêm hàng hoá, xách tay, qủa
là rất vất vả cho hành khách, cho nên ít ai đi lại đó đây. Hơn nữa, người dân
muốn đi từ Nam ra Bắc phải xin giấy Thông Hành của Thành phố hay Tỉnh cấp, phải
làm đơn xin phép trước 1 hay 2 tuần, đi lại trong phạm vi những tỉnh trong miền
Nam, thì xin giấy Đi đườngcủa cấp Quận hay Huyện. Không có Giấy đi đường, không
thể mua được vé xe, không thể xin tạm trú ở nơi đến.
Đặc
biệt đối những người xin phép đi thăm tù cải tạo, những người đã từng làm việc
cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, việc xin Giấy Thông Hành không khác gì trước
năm 1975 xin đi xuất ngoại du học.
Một
đêm trước ngày tôi được tha, bạn bè đã dặn trước là coi chừng bị ăn cắp, nhất
định phải ngủ lại ở bến xe ít nhất vài ngày, từ trại tù cải tạo tôi ra đến bến
xe đã 5 giờ 30 chiều, nhìn 4 hàng người ngồi la liệt trước phòng vé đã có hơn
vài trăm, tôi thầm nghĩ đến phiên tôi chắc là phải vài ba hôm sau nữa mới mong
mua được vé. Bỏ ba-lô xuống hàng thứ 4 sau cùng, tôi ngồi xuống, có gì dơ đâu
mà sợ, chiếc ba lô nhà binh, bộ quần áo tù, ai nhìn tôi cũng hiểu thân phận
rồi, nhưng lạ thay, hầu như ai cũng nhìn tôi rất thân thiện, không giống như những
điều tôi hàng ngày vẫn nghe cán bộ nói "không phải Đảng và nhà Nước không
muốn tha các anh, mà chỉ tại các anh là những người có nợ máu, kẻ thù của nhân
dân, tha các anh về, chỉ sợ chưa đến nhà, các anh đã bị nhân dân đánh chết
ngoài đường". Một số các hành khách lớn tuổi, còn hỏi thăm tôi về đâu, có
khỏe không, gia đình có biết được tha chưa..., trong lúc tôi đang lo trả lời các câu thăm hỏi, thì 2 cô, chú Bảo vệ đến cạnh tôi hỏi:
- Chú
đi học tập được tha phải không?
- Chú mua vé về đâu ?
- Chú mua vé về đâu ?
Tôi
chưa kịp trả lời thì cô Bảo Vệ hỏi tôi giấy ra trại. Qủa thạt tôi có 1 chút lo,
vì từ trong traị cải tạo, chúng tôi đã nghe danh đám công an, cán bộ 30, chuyên
môn hà hiếp người, nhất là đối với những sĩ quan đi học tập cải tạo trở về. Tôi
đưa tấm giấy ra trại cho cô Bảo Vệ, chừng 10 phút sau cô trở lại trả cho tôi
tấm giấy ra trại và vé xe 6 giờ 30 sáng mai về Sàigòn, ghế số 2 với giá qui
định. Chú Bảo vệ dặn tôi: "chú đừng lo, các cháu đã nói với tài xế xếp chỗ cho chú, chú không phải trả tiền cước Ba-lô đâu, chú vào quán trọ số 5 ngủ tạm
đêm nay, 6 giờ sáng, chú ra đây là được rồi, chúc mừng chú đoàn tụ với gia
đình". Tôi cám ơn hai người bảo vệ mà lòng đầy xúc động. Những hành khách
đang xếp hàng cũng chúc mừng tôi, tôi đã gặp lại tình người, tình của những người
dân đối với lính.
6 giờ
30 sáng hôm sau, xe bắt đầu lăn bánh và chạy cho đến 12 giờ trưa thì ghé vào ăn
trưa ở 1 quán bên đường, hành khách xuống xe để ăn uống. Người tài xế ngồi lại
chờ cho hành khách xuống hết, rồi xuống xe sau cùng với tôi,
-
Chừng 6 giờ hơn mình sẽ đến Sàigòn, người tài xế nói với tôi.
- Hơn 12 tiếng đồng hồ, tôi hỏi ?
- Vâng, đưòng xá bây giờ tệ lắm, mấy ổng đâu có sửa sang gì, chỉ là lấy của dân thôi, mai mốt về Sàigòn rồi ông sẽ thấy.
- Xe này là của ông hay của nhà nước ?
- Xe của tôi, nhưng nhà nước quản lý, hư hỏng thì tôi sửa, tiền là tiền lương, vì vậy buộc lòng chúng tôi phải lấy tiền cước hàng hoá của hành khách để tu sửa xe. Ông biết mà, để được cầm lái chiếc xe này, nói thật là tôi phải làm đơn lạy họ, mới được gia nhập Nghiệp đoàn xe khách, nếu không thì họ đã lấy mất xe rồi. Còn nhiều chuyện lắm, bây giờ thì ai cũng biết cả, nhưng rồi làm sao. Hôm nay, chúng tôi mời ông ăn cơm trưa với chúng tôi, tôi hay là các xe khác đều cũng vậy, hễ có sĩ quan tù cải tạo về là chúng tôi mời ăn cơm ở dọc đường, ông cũng hiểu rồi, bây giờ thì chúng tôi chỉ có thể làm được như vậy đối với người mình.
- Hơn 12 tiếng đồng hồ, tôi hỏi ?
- Vâng, đưòng xá bây giờ tệ lắm, mấy ổng đâu có sửa sang gì, chỉ là lấy của dân thôi, mai mốt về Sàigòn rồi ông sẽ thấy.
- Xe này là của ông hay của nhà nước ?
- Xe của tôi, nhưng nhà nước quản lý, hư hỏng thì tôi sửa, tiền là tiền lương, vì vậy buộc lòng chúng tôi phải lấy tiền cước hàng hoá của hành khách để tu sửa xe. Ông biết mà, để được cầm lái chiếc xe này, nói thật là tôi phải làm đơn lạy họ, mới được gia nhập Nghiệp đoàn xe khách, nếu không thì họ đã lấy mất xe rồi. Còn nhiều chuyện lắm, bây giờ thì ai cũng biết cả, nhưng rồi làm sao. Hôm nay, chúng tôi mời ông ăn cơm trưa với chúng tôi, tôi hay là các xe khác đều cũng vậy, hễ có sĩ quan tù cải tạo về là chúng tôi mời ăn cơm ở dọc đường, ông cũng hiểu rồi, bây giờ thì chúng tôi chỉ có thể làm được như vậy đối với người mình.
Hành
khách đã xuống hết, ông và tôi vào quán, ngồi xuống một bàn đã dọn sẵn, người lơ
xe đứng dậy kéo ghế cho tôi,
- Bác
ở trong đó lâu không ?
- Cho đến hôm qua.
- Ba cháu và anh cháu cũng chưa về.
- Ba cậu ở đâu ? BR - Trại Ðưng, Thanh hóa.
- Cho đến hôm qua.
- Ba cháu và anh cháu cũng chưa về.
- Ba cậu ở đâu ? BR - Trại Ðưng, Thanh hóa.
Lâu
lắm rồi, tôi không trông thấy canh cá lóc, không nhìn thấy thịt sườn, nên bữa
cơm hôm nay là bữa cơm ngon nhất trong đời tôi. Trong khi chúng tôi đang ăn thì
bà chủ quán đến nói với tài xế:
- Anh
Tám này, đây là chút tình, bà vừa nó, vừa nhìn tôi.
- Cám ơn chị Sáu, rồi ông đưa cho tôi một bao thuốc lá trong đó có 73 đồng, ông nói: "như thường lệ, là quán nào cũng vậy, xe nào cũng vậy, đều có quà cho những tù cải tạo trở về, nếu họ đi trên đường này và bất cứ là cấp bậc gì, xin ông đừng ngại".
- Cám ơn chị Sáu, rồi ông đưa cho tôi một bao thuốc lá trong đó có 73 đồng, ông nói: "như thường lệ, là quán nào cũng vậy, xe nào cũng vậy, đều có quà cho những tù cải tạo trở về, nếu họ đi trên đường này và bất cứ là cấp bậc gì, xin ông đừng ngại".
Tôi
đứng lên cám ơn bà chủ quán và người tài xế, nhưng không nói ra lời, một bác hành
khách ngồi bàn bên cạnh quay lai vỗ vai tôi như thông cảm tâm tình tôi lúc đó.
- Đây
là tâm ý của chủ xe, chủ quán và hành khách trong xe, ông đừng ngại.
Trong
khi đó một em bé bán kính đến mời chào mọi người trong quán:
- Cháu
có đủ kính râm, kính mát, kính lão, kính cận thị, mời ông bà mua giùm.
- Giải
phóng mấy năm rồi, mắt bác đã sáng, đâu cần mang kính nữa, cả quán cùng cười.
Tôi quay lại nhìn về hướng đó, một người đàn ông ngoài 50 đang nhìn em bé bán
kính và cười.
Thật
là một câu khôi hài và ý vị.
(6) Cơ
chế hành chánh của chế độ mới
Khi xe
về đến Long Khánh thì dừng lại đổ nước, những người bán trái cái cây, bánh kẹo,
chạy đến mời hành khách mua, những người khách chờ xe về Sàigòn cũng chen nhau
bước lên xe, tôi hỏi ông tài xế:
- Chở
nhiều như vậy không sợ bị phạt sao?
- Có gì đâu, cho nó 20 đồng là hết, tôi chở thêm 10 người, bớt đi 20 đồng của một người thì cũng còn lời chán, bây giờ xe nào cũng vậy.
- Có gì đâu, cho nó 20 đồng là hết, tôi chở thêm 10 người, bớt đi 20 đồng của một người thì cũng còn lời chán, bây giờ xe nào cũng vậy.
Nghe
người tài xế nói, tôi chợt nhớ đến một án lệ ở nước ngoài đại ý là "Nếu
những chiếc xe chở hành khách, chở qúa số người ấn định, đã đi qua trạm kiểm
soát, mà cảnh sát không ngăn chận, thì nếu bất cứ một người hành khách nào trên
xe bị tổn hại, do việc chở khách vượt qúa ấn định, số lượng khách ấn định là số
ghế trang bị cố định trên xe) thì toà án sẽ truy cứu trách nhiệm cho cảnh sát,
mà không phải tài xế, người tài xế chỉ bị truy cứu về trách nhiệm dân sự mà
thôi". Các toà án của Việt Nam Cộng Hòa cũng trích dẫn án lệ này.
Tôi về
đến Sàigòn thì đã tối, việc đầu tiên phải làm là trình diện công an Phường,
nhưng đã hết giờ, đành đi tìm công an khu vực, không gặp được công an khu vực
thì tìm tổ Trưởng Dân Phố, hàng xóm của tôi đã chỉ tôi điều này.
Sáng
hôm sau tôi ra Công an phường trình diện.
- Về
hồi nào? Một công an mang cấp bậc Trung úy, (sau này tôi mới biết là Trưởng Công
an Phường), hỏi tôi.
- Thưa chiều hôm qua
- Mày ngồi xuống, mày phải biết là nếu 2 bàn tay mày không đầy máu thì Mỹ, Ngụy không gắn cho mày cái cấp bậc đó trên vai. Đem đơn này lên Quận xin với Quận, nếu Công An quận, Quản Huấn Quận đồng ý thì mang về đây.
- Mày ngồi xuống, mày phải biết là nếu 2 bàn tay mày không đầy máu thì Mỹ, Ngụy không gắn cho mày cái cấp bậc đó trên vai. Đem đơn này lên Quận xin với Quận, nếu Công An quận, Quản Huấn Quận đồng ý thì mang về đây.
Tôi
lên công an Quận, công an chỉ qua Ban Quản Huấn, đến Ban quản Huấn chờ 2 tiếng
đồng hồ nữa, hết buổi sáng, tôi nghĩ. Người nữ công an mang giấy ra trại và đơn
xin tạm trú trả lại cho tôi. Anh phải lên Thành phố xin.
- Xin
cán bộ cho biết địa chỉ
- Lên công an thành phố mà hỏi!
- Lên công an thành phố mà hỏi!
Tôi về
nhà, tìm hỏi những người bạn về trước, họ cũng chẳng rõ ràng "Tụi nó thay
đổi như chong chóng, chẳng biết đâu mà mò, hãy lên thử đường Phan Thanh Giản (
Điện Biên Phủ), thôi để tôi dẫn anh đi."
Gần
hết giờ làm việc tôi mới xin được tạm trú từ Ban Quản Huấn Thành Phố, với lời
ghi "Đồng ý cho tạm trú tại thành phố Hồ chí Minh 1 tháng, chờ làm thủ tục
hồi hương đi Kinh Tế Mới".
Tôi
mang sự chấp thuận tạm trú 1 tháng của Ban Quản Huấn Thành phố về trình công an
Phường:
-
Được, anh mang về nhà bảo vợ anh viết thêm vào cuối đơn thế nầy:
"Tôi
tên là .......
Thường trú tai số........
Đường ........ Phường ......
Là vợ chính của ...............
Bằng lòng cho chồng tôi được tạm trú tại nhà của tôi 1 tháng và đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của địa phương"
Thường trú tai số........
Đường ........ Phường ......
Là vợ chính của ...............
Bằng lòng cho chồng tôi được tạm trú tại nhà của tôi 1 tháng và đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của địa phương"
Những
tờ đơn xin tạm trú này tôi vẫn giữ mãi bên mình, như kỷ niệm khôi hài mà tôi đã
gặp trong đời mình.
(7) Chỉ
thị 08/1979 của Thành Ủy Thành phố Hồ chí Minh
Thời
gian tôi ra tù thì chỉ thị 08/1979 đã ra đời và vẫn còn hiệu lực, chỉ thị này
do ông Võ văn Kiệt là bí thư Thành Ủy thời đó ký. Chỉ Thị dài 7 trang rưỡi đánh
máy. Nội dung của chỉ thị qui định về việc xử dụng trí thức tại chỗ, ở Khoản b
- mục 3.
Trí
thức tại chỗ là những người tốt nghiệp từ Đại học trở lên, không phải do hệ
thống Xã hội Chủ Nghĩa đào tạo, mà tốt nghiệp từ các nước Anh, Pháp, Mỹ, Nhật hoặc các đại học tại miền Nam ... và các nước khác trong khối tư bản chủ nghĩa.
Khác biệt với trí thức xã hội chủ nghĩa là những thành phần tốt nghiệp ở các
đại học miền Bắc hay tại các nước Xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ
vào Chỉ thị 08, những sĩ quan đi tù cải tạo trở về, nếu tốt nghiệp đại học,
phải đến số 43 Nguyễn Thông, Quận 3, (Hội Trí Thức Yêu Nước) để khai báo. (Hội
Trí thức yêu nước nằm trong Mặt trận tổ quốc, là một bộ phận của Đảng), để được
bố trí việc làm.
Cái
khôi hài là muốn xin việc làm ở đâu, cơ quan nào trong thành phố cũng phải có
Lý Lịch được công an phường nơi cư trú chứng nhận. Nhưng
muốn được công an chứng nhận Lý Lịch, lại phải có Hộ Khẩu thường trú. Vì vậy,
khi tôi mang lý lịch ra công an phường xin chứng nhận, công an hỏi tôi:
- Hộ
Khẩu thường trú đâu.
- Tôi học tập về.
- Chúng tôi không chứng nhận lý lịch cho những người không có Hộ Khẩu thường trú tại Thành phố.
- Tôi học tập về.
- Chúng tôi không chứng nhận lý lịch cho những người không có Hộ Khẩu thường trú tại Thành phố.
Tôi
mang lý lịch về nhà, Tổ trưởng Dân Phố bảo tôi mang ra Ủy Ban Phường cho ông
Thọ là Phó Chủ Tịch An Ninh Phường. Ông Thọ không cần đọc lý lịch của tôi, ông
chỉ ghi: "Đương sự có xin tạm trú tại địa phương".
Tôi
mang lý lịch đến Hội trí thức yêu nước nạp cho người phụ trách. Một tuần sau,
công an phường gọi tôi lên, Trưởng công an hỏi tôi:
- Anh
biết ở đây ai quản lý người không, tôi hay anh Thọ ?
Tôi im
lặng vì chưa hiểu được sự việc, Trưởng công an lôi trong học bàn ra tờ lý lịch
của tôi rồi chỉ con dấu của Ủy Ban Nhân dân phường và chữ ký của ông Nguyễn
Thọ.
-
"Tôi muốn nhắc nhở anh, tôi mới là người quản lý các anh, Ủy Ban Phường
không có quyền gì", và trả cho tôi tờ lý lịch có chứng nhận của công an
phường:
"Đương
sự là sĩ quan ngụy học tập cải tạo được tha về tại địa phương thuộc diện phải
đi Kinh Tế Mới, đang chờ địa phương sắp xếp".
Thật
đúng như câu khôi hài mà cô Thư Ký Phường nói với tôi:
-
"Công an là quan, Ủy Ban là lính !"
Thật
là khôi hài !
Nhìn
sự việc, qủa thực, công an có quyền hành rất lớn, vì công an là công cụ bảo vệ
và phục vụ chế độ. Tuy nhiên, cơ cấu chính quyền của Cộng sản là một mô thức đặc
biệt chuyên chế, mà trong đó, không hề có sự phân ranh giữa các cơ quan Lập
pháp (Quốc hội), Hành pháp (Hội đồng chính phủ tức là Thủ tướng và nội các của
Thủ tướng, hay là các bộ trưởng) và Tư pháp (Tòa án).
Từ
Phường (Xã), Quận (Huyện), Thành phố, Tỉnh, lên đến Trung ương, tuân hành 2 hệ
thống: chính quyền và đảng. Nhưng lại chấp hành 1 chỉ thị, đó là chỉ thị của
Đảng.
Tại
Phường (Xã), có đảng bộ Phường, cầm đầu là Bí thư, chỉ thị cho Ủy Ban phường
thi hành mọi đường lối chính sách.
Tại Quận
(Huyện), có đảng ủy Quận, huyện, có bí thư, phó bí thư, ban thường vụ, ra lệnh
cho ủy ban Quận (Huyện) và công an.
Cũng
mô thức đó, tại Tỉnh hay Thành phố, cũng rập khuôn như vậy.
Tại
Trung ương, có Tổng bí thư, Ban bí thư Trung ương đảng, chỉ thị cho chủ tịch
nước, hội dồng chính phủ.
Cái tệ
hại là, một người vừa có thể là chánh án, lại vừa là chủ tịch hay phó chủ tịch
ủy ban, hoặc là viện trưởng hay phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân, mà cũng
là đại diện dân cử như quốc hôi, hội đồng nhân dân các cấp, đương nhiệm. cho
nên họ có thể tùy nghi dùng quyền hành ở bất cứ chức vụ nào mà họ đang mang
trên người..
Vì vậy
trong hệ thống xã hội mà Việt Nam đang áp dụng, không hề có sự độc lập giữa Lập
Pháp, Hành pháp hay Tư pháp. Và đảng là tập thể đứng trên luật pháp, ngoài
luật pháp và chỉ thị cho luật pháp thi hành theo ý của đảng! Đảng không những
nắm vận của mệnh quốc gia, mà còn nắm luôn sinh mạng của từng người dân trong
nước.
Điều
này hoàn toàn khác biệt với cơ chế của Việt Nam Cộng Hòa. Luật Pháp VNCH minh
thị sự độc lập tuyệt đối giữa Lập pháp, Hành pháp và tư Pháp. Một Tỉnh Trường, một chánh án, nếu đắc cử vào chức vụ dân cử, đương nhiên phải từ nhiệm chức vụ cũ,
nếu là quân nhân, đương nhiên phải giải ngũ. Và đặc biệt là không ai có quyền
xen vào công việc xét xử của Tòa án.
Ngày
thứ 21 trong thời hạn 30 ngày tạm trú, tôi nhận được giấy "Yêu cầu trình
diện nhận việc" của Bộ Đại Học và Trung học chuyên nghiệp, đặt tại số 35
đường Lê Thánh Tôn, Quận 1 Sài gòn (TP Hồ chí Minh).
Làm
việc và sinh hoạt trong chế độ, tôi càng thấy rõ chế độ hơn: Hối lộ và tham
nhũng, quan liêu và bè phái. Muốn làm chiến sĩ thi đua, đạt tiêu chuẩn tiên
tiến trong bình bầu A, B, C mỗi nửa năm ư, đâu cần chăm chỉ, đâu cần tài ba,
chỉ cần qùa cáp cho thủ trưởng là đủ rồi.
Mỗi
đơn vị, tất cả mọi đơn vị trong cơ chế xã hội chủ nghĩa đều giống nhau, trên
đội, dưới đạp. Trí thức tại chỗ chỉ có làm việc, không có tiêu chuẩn chế độ,
không được đòi hỏi, đề nghị hoặc yêu cầu. Nhưng có một điều không phân ranh trí thức
tại chỗ hay trí thức xã hội chủ nghĩa, đó là "vàng".
Bạn
muốn có hộ khẩu tại thành phố ư ? 4 đến 5 lượng vàng là xong (1 lượng vàng
tương đương 1 ounce) - Muốn vượt biên, đi chui, 3 lượng/1 người, đi bán chính
thức 7 lượng /người - Bị công an bắt, chẳng có gì phải lo, có vàng là xong mọi
việc.
Xã hội
của xã hội chủ nghĩa như thế đó, nhưng báo chí không bao giờ dám nói đến nửa
lời, vì báo Thanh Niên ư? Chủ nhiệm chủ bút là Bí thư thành đoàn, Báo Saìgòn
Giải phóng là của Ban Tuyên huấn, Báo công an là của công an, báo Tuổi Trẻ cũng
là Đoàn Thanh Niên Cộng sản thành phố Hồ chí Minh...
Bỗng
nhiên tôi lại nhớ Ông Trần Hữu Thanh và nhóm ký gỉa đòi tự do báo chí của những
năm 1973, 1974. Không hiểu bây giờ ông Trần hưũ Thanh đâu nhỉ, ông nỡ làm ngơ
trước nạn tham nhũng trên khắp cả nước thế này ư ? Nhóm ký gỉa của năm 1974,
1975 đâu, sao không xuống đường tuyệt thực và đi ăn mày để phản đối nữa? Thật
là qủa báo, ngày hôm nay mấy ông ký gỉa đó chắp đang tuyệt thực và đi ăn mày
thực sự rồi! Rồi những vị đạo cao đức trọng như ông Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan,
Nguyễn Phương trốn chui chỗ nào. Ngày hôm nay đã chứng minh được rằng, rõ ràng
thời đó, các vị chỉ vì cái tôi của qúi vị mà thôi, cũng chỉ vì một miếng đỉnh
chung mà lòng chưa đạt, vị đời chưa nỡ bỏ. Các vị nhất định phải trả cái nợ
nhân qủa mà các vị đã gieo cho toàn dân miền Nam hôm nay. Nghĩ lại, những việc
làm của các ông ấy, thật đáng khôi hài!
Tiếc
thay, phải chi chế độ Cộng Hòa ở miền Nam có được một chút độc tài, một tí hạn chế
tự do dân chủ, thì có lẽ Miền Nam chưa đến nỗi chết yểu ở cái độ tuổi chưa
thành niên. Và 26 triệu dân miền Nam không lâm cái cảnh này, hàng trăm ngàn
người không phải bỏ thây trên biển, hàng chục ngàn thanh thiếu nữ và phụ nữ
không lâm cảnh bị hãm hiếp rồi vất xuống biển sâu.
Mỗi
chiều sau giờ làm việc, tôi vẫn tìm theo con đường Nguyễn Du, vòng qua Huyền
Trân Công Chúa, rồi theo đường Hồng Thập Tự để ngược về. Nhìn khu vườn Dinh Độc
Lập, tôi thật không sao nén được cảm xúc trong lòng:
.......... Vườn
xưa tràn ngập vàng rơi
Bao nhiêu lá chết đổi dời thời gian
Tôi hôn âu yếm cánh vàng
Nghe như dao cắt bàng hoàng xót đau!
Bao nhiêu lá chết đổi dời thời gian
Tôi hôn âu yếm cánh vàng
Nghe như dao cắt bàng hoàng xót đau!
...........
Mùa
Thu của Sài gòn thật ra không có mấy thay đổi so với miền Cao Nguyên đất đỏ như
Pleiku hay Banmêthuột, rừng lá thay vàng, cỏ úa báo mùa sang. Cho đến bây giờ tôi
thật vẫn không sao quên được những nơi này, nơi đã cho tôi biết bao vui buồn
đời lính, bao máu xương của đồng đội hay là bản thân tôi đã đổ ra. Và tất cả đó,
mỗi khi nhớ lại, vẫn còn mãi là một nỗi sầu lẩn khuất trong lòng tôi:
Banmêthuột
- những gánh sầu
Tôi
nhớ hàng cây - mỗi bước đi,
Những mùa Thu đến - mỗi chiều về,
Bằng lăng tím đổ trên muôn nẻo
Che lấp đường đi lẫn lối về.
Những mùa Thu đến - mỗi chiều về,
Bằng lăng tím đổ trên muôn nẻo
Che lấp đường đi lẫn lối về.
Tôi
nhớ đàn em mỗi sớm mai
Tung tăng với những chiếc áo dài
Đem thơ ngây trải trên muôn phố
Mang nét tin yêu phủ xuống đời.
Tung tăng với những chiếc áo dài
Đem thơ ngây trải trên muôn phố
Mang nét tin yêu phủ xuống đời.
Ai đốt
của em tuổi ngây thơ
Trường yêu không giữ nỗi học trò
Bao nhiêu bè bạn, thầy cô đó
Chôn kiến thức rồi mới hết lo !
Trường yêu không giữ nỗi học trò
Bao nhiêu bè bạn, thầy cô đó
Chôn kiến thức rồi mới hết lo !
Tôi
nhớ hằng đêm trên phố khuya
Tiếng người bán phở gánh bên lề
Khách quen thường đến con hẻm nhỏ
Ngõ đường Võ Tánh mỗi lúc khuya.
Tiếng người bán phở gánh bên lề
Khách quen thường đến con hẻm nhỏ
Ngõ đường Võ Tánh mỗi lúc khuya.
Bây
giờ gánh phở biết về đâu
Thương đàn em nhỏ nỗi cơ cầu
Bao nhiêu hoài bão đành quên mất !
Thương đàn em nhỏ nỗi cơ cầu
Bao nhiêu hoài bão đành quên mất !
Cố gánh cùng nhau những gánh sầu !
Nguyễn
Ðịnh
.
No comments:
Post a Comment