SỬ GIA PHẠM VĂN SƠN (1915-1978)
Sinh ngày 15/8/1915, mất ngày 6/12/1978 trong
nhà tù cộng sản (trại giam Tân Lập)
Trước năm 1975, ở miền Nam, ông Phạm Văn Sơn là một trong rất ít những vị viết sử. Bộ sử được nhiều
người biết đến nhất của ông là bộ Việt
Sử Tân Biên.
Tôi hân hạnh được làm việc dưới quyền chỉ huy của ông từ năm 1958
đến 1960. Thời gian này ông mang cấp bậc Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng
trường Quân Báo & Chiến Tranh Tâm Lý Cây Mai; tôi mang cấp bực Trung úy, là
huấn luyện viên và sĩ quan an ninh của Trường. Chính trong thời gian này, ông
đã tu chỉnh bộ sử nói trên và cho tái bản.
Những thì giờ nhàn rỗi, tôi đã tình nguyện giúp ông. Tôi được ông
giới thiệu đến gặp ông Lê Ngọc Trụ, công chức làm việc ở Thư Viện Quốc Gia --
lúc đó còn nằm trên đường Gia Long -- để nhờ hướng dẫn sưu tầm tài liệụ Ông Lê
Ngọc Trụ còn là một học giả, giảng sư Ngữ học của Đại học Văn khoa Saigon, đã
chỉ dẫn cho tôi tìm được khá nhiều tài liệu và sách viết bằng tiếng Pháp về
thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Các tài liệu này cũng như những tài liệu quí giá
khác, giúp cho ông Phạm Văn Sơn tu chỉnh Việt Sử Tân Biên. Thời gian làm việc
với ông, tôi đã học được ở ông nhiều điều về viết lách.
Năm 1961, trường Cây Mai đổi tên, chỉ còn là trường Quân Báo Ngành
Chiến Tranh Tâm Lý tách ra riêng, đuợc dạy riêng ở một trường của ngành này,
mới thành lập, ở một địa điểm khác; do đó, Thiếu
tá Phạm Văn Sơn cũng được thuyên chuyển về ngành Chiến Tranh Chính Tri. Sau
đó không lâu, ông được bổ nhậm vào chức vụ Trưởng Ban Quân Sử của Quân Lực VNCH, thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Ông lần lượt được thăng đến cấp Đại tá và giữ nhiệm vụ này cho đến
ngày miền Nam sụp đổ.
Tôi nghĩ rằng, với khả năng của ông và và dưới sự chỉ đạo của
người viết sử sở trường và kinh nghiệm như ông, hẳn là Ban Quân Sử Quân Lực
VNCH đã viết được những bộ sử chiến tranh VN cận đại quí giá, nhất là binh sử
thời kỳ sau năm 1954 trở đi. Tôi nghĩ như vậy vì tôi biết ông PVS rất thận
trọng, không thể khinh xuất trong nhiệm vụ của mình và càng không thể để cho
thuộc cấp khinh xuất. Ngày trước ông thường bảo tôi :"Phải cố gắng làm sao
cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì
những điều mình viết về sử mới mong có thêm một chút giá trị Việc sưu tập những
sự kiện, chứng tích, tài liệu có độ xác tính cao nhiều chừng nào thì việc so
sánh, nghiên cứu, lượng giá, đối chiếu...dễ chừng nấy". Đó là lề lối làm
việc nghiêm cẩn, thận trọng của ông. Vì vậy sau này, năm 1972, tôi đã không
ngạc nhiên khi chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối
tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố -- giữa các đơn
vị VNCH và quân CS Bắc Việt -- khi những cơn pháo kích dữ dội của địch quân
chưa giảm, khi không một chiếc trực thăng nào đáp xuống An Lộc mà không sợ tan
xác,tôi đã thấy ông hiện diện ở chiến trường này để tìm hiểu sự thật viết về
trận chiến khốc liệt đó.
Lúc bấy giờ, tôi là Trưởng Phòng 2 của Bô Tư Lệnh Hành Quân của
tướng Lê Văn Hưng, đã cung cấp cho ông những tài liệu, sự kiện "sống"
nóng bỏng, chính xác và đầy đủ. Tuy nhiên, muốn viết cho trung thực hơn, ông đã
ở lại trong hầm chống pháo với tôi một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo
của địch quân rơi trên đầu mình và xung quanh đâu đó, vừa hỏi tôi thật chi tiết
về những sự kiện ghi trong nhật ký hành quân (mỗi phòng của Bộ Tư Lịnh Hành
Quân đều có) kể cả tài liệu, cung từ tù binh của địch bắt được trong các trận
đánh trước ở đó.
Sau khi ông rời An Lộc, không bao lâu mặt trận được giải tỏa, tôi
đến Bộ Tổng Tham Mưu để gặp ông thì được biết ông đã ra Quảng Trị để làm nhiệm
vụ như đã làm ở An Lộc. Như vậy ông và những sĩ quan thuộc cấp trong Ban Quân
Sử đã hiện diện ở khắp chiến trường lớn để tìm sự thật viết về binh sử...
Tôi nêu lên những chi tiết trên đây mong các bạn hình dung được tư
cách khả trọng của một người viết sử chân chính, ông PVS, một người đã thành
danh trong giới trí thức VN, để rồi tôi xin kể lại những ngày cuối cùng bi đát
trước cái chết thảm thương của ông trong lao tù, dưới chế độ bất nhân, tàn độc
của CSVN.
Ngày 30/4/75, như mọi người đều biết, Dương Văn Minh, một Tổng
thống phi hiến định, tuyên bố đầu hàng CS Bắc Việt vô điều kiện, Quân Lực VNCH
bị bức tử, buông súng, tan rã. Một số tướng lãnh, sĩ quan cấp tá, cấp úy tuẫn
tiết. Tất cả những sĩ quan còn lại ở miền Nam vào lúc đó, bị dồn vào các trại
tập trung tạm trong lãnh thổ miền Nam, cùng với các cấp chỉ huy cảnh sát, công
chức cao cấp và các nhà hoạt động chánh trị trong các đảng phái miền Nam.
Một năm sau, CS đưa tất cả những người mà họ gọi là có "nợ
máu" nhiều nhất với nhân dân miền Bắc, giam giữ và bắt lao động khổ sai ở
những trại giam trong rừng sâu nước độc của Thượng du và Trung du Việt Bắc. Một
số sĩ quan và công chức khác còn bị giam giữ ở các trại cải tạo miền Nam.
Tháng 6, năm 1976, đợt tù
nhân đầu tiên bị đưa ra Bắc, trong đó có tôi, bị dồn cứng dưới khoang của những chiếc tàu
thủy cận duyên cỡ nhỏ, loại chuyên chở của quân đội CS. Sau 4 ngày 4 đêm, tàu cập ở Bến Thủy thuộc Vinh. Từ đó
vào nửa khuya, chúng tôi bị chuyển vào bờ, lần này thì bị dồn vào các toa tàu
hỏa dùng để chở súc vật, lên phía Bắc.
Ngày 15/6/76 -- ngày duy nhất mà tôi nhớ suốt 13 năm tù -- đúng
một năm sau ngày tôi đưa đầu vào cùm ở trường Don Bosco ở Gò Vấp -- trên chuyến
tàu hỏa nói trên, qua một kẻ hở thật nhỏ của toa tàu, tôi đã nhìn thấy nhà
thương Bạch Mai và ga Hàng Cỏ, những địa danh của Hà Nội mà tôi đã được đọc qua
trong các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, thuở tuổi học trò. Hai sĩ quan tù nhân cấp Tá đã ngộp thở chết
trong toa chở súc vật, quãng giữa đường Việt Trì - Yên Bái. Kể từ đó, có thêm
hàng trăm tù nhân đi trên những chuyến tàu định mệnh này đã ngã xuống ở các
trại tù miền Bắc, vĩnh viễn không còn thấy được những chuyến tàu xuôi
Nam...Trong số những người này có Đại Tá Phạm Văn Sơn.
Một số tù nhân trên dưới một ngàn người trên các toa tàu này được
đổ xuống ga Yên Bái, trong số đó có tôi. Từ ga Yên Bái, bộ đội CS dùng xe quân
sự Molotova chuyển chúng tôi theo đường bộ lên Sơn La giam giữ ở các trại giam
dành cho quân nhân. Tôi ở đó được một năm rồi bị chuyển sang trại giam công an,
cũng ở Sơn La, trong 2 năm nữa.
Năm 1979, trước cuộc chiến ngắn ngủi giữa Trung Cộng và CSVN không
bao lâu, tất cả chúng tôi -- những tù nhân chính trị -- ở những trại giam trên
các tỉnh biên giới phía Bắc và Tây Bắc được chuyển về các trại giam vùng Trung
Du và các tỉnh phía nam, tây nam Hà Nội, như các trại giam Tân Lập (Vĩnh Phú), Nam Hà (Nam Đinh), Thanh Phong (Thanh
Hóa, Nghệ Tĩnh),...
Sự chuyển dồn trại như vậy làm cho đời sống lao tù chúng tôi đã cơ
cực càng cơ cực hơn, ăn đã đói càng đói hơn, mỗi người không có được đến 4 m2
để có thể nằm ngửa, phải nằm nghiêng chen chúc lẫn nhau mà ngủ sau mỗi ngày lao
động nặng nhọc, nên phòng giam nào cũng hôi hám, thiếu ánh sáng, thiếu không
khí đến ngộp thở, bao nhiêu chứng bệnh ngặt nghèo nguy hiểm đã bộc phát trong
anh em chúng tôi, thuốc men không có để trị, mạng sống của mọi người cũng bị Tử
Thần rình rập từng ngày từng đêm.
Đa số anh em chúng tôi được đưa về trại giam Tân Lập do công an quản chế, bây giờ đặt dưới sự chỉ huy
của Trung Tá công an Nguyễn Thủy, một tên cán bộ chữ nghĩa viết chưa hết một
lòng bàn tay nhưng vẫn thích đọc thơ Tố Hữu và Huy Cận trước mặt anh em tù
nhân, trong khi lòng dạ lại hiểm độc vô lường...
Tân Lập là một hệ thống trại gồm một trại chính và nhiều phân trại thường
được gọi là K, đánh số từ K1 đến K7,
nằm rải rác hai bên bờ một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lô, chảy qua xã Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Tôi đến Tân
Lập ngày nào năm đó, đã không còn nhớ nữa, chỉ nhớ là lúc đó trời đã bắt đầu
trở lạnh; dù vậy, sau mỗi buổi lao động vẫn phải theo mọi người ra những bãi
vắng trên sông này để tắm trước khi về trạị Chính ở các bãi tắm này chúng tôi
mới thấy hình hài khốn khổ của nhau, vì mọi người đều trần truồng. Trong khi số
tù nhân từ Sơn La mới chuyển về người ngợm còn chút thịt da, thì, những anh em
tù đã ở trại giam K2 Tân Lập từ mấy năm trước thân thể chỉ còn da bọc xương,
đến 2 bên mông là nơi lý ra phải còn có chút thịt, cũng chỉ thấy có xương xẩu
nhô hẳn lên, trông thật thảm nãọ Khi tắm ai cũng rét run, vì cái lạnh của trời
và nước làm cho mọi người thấu buốt ruột gan...bởi trong người không còn năng
lượng để kháng nào nữa.
Tôi nói lên những điều này để chỉ rõ chế độ quản chế, đối xử với
tù nhân chính trị của trại giam Tân Lập cay nghiệt hơn bất cứ trại giam nào mà
chúng tôi đã trải qua trước đó, mặc dù chúng tôi biết rằng với chế độ tập trung
cải tạo, trại giam là nơi CSVN giết người kín đáo nhất, ít đổ máu nhất, bằng áp
đặt khổ sai vắt sức, bằng bỏ đói trường kỳ khiến cho tù nhân chết mỏi mòn vì
kiệt sức, vì bệnh hoạn hay vì những lý do mờ ám khác nữạ Không một ai trong
chúng tôi, lúc đó, thoát khỏi sự thách đố của định mệnh, của cái chết đến bằng
nhiều cách ở bất cứ lúc nào. Ở Tân Lập, bọn công an Nguyễn Thùy đã làm hơn
những điều chúng tôi nghĩ, đã biết. Vì thế các tù nhân chính trị chết trong các
phân trại Tân Lập nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Riêng ở phân trại K2, mấy
tháng mùa đông cuối năm 1979, đầu năm 1980, mỗi ngày ít nhất cũng có 1 đến 2 tù
nhân chết; con số tù nhân đến bệnh xá (không có một thứ thuốc men nào để trị
bệnh), hằng ngày hơn 200 người, mục đích không phải là để xin trị bệnh, nhưng
để được khám, chứng nhận là bệnh, để khỏi đi lao động, được ngày nào đỡ ngày
đó, mặc dầu họ là những người bệnh thực sự cần phải được điều trị và miễn làm
việc...
Tại K2 Tân Lập, trong hoàn cảnh chung như vậy, tôi đã gặp lại ông
Phạm Văn Sơn.. Tôi đã nhìn thấy tận mắt những ngày sống bi đát cuối cùng của
đời ông.
Chừng một tháng sau khi đến K2, một buổi trưa, tôi và một người
bạn tù khác cùng đợi đến phiên phải lên phạn xá gánh cơm về cho anh em trong
đội ăn sau buổi lao động; trong khi chờ đến lượt mình nhận cơm, tôi đã vơ vẫn
đến bên ngoài hành lang của một căn phòng nhỏ cạnh phạn xá, tôi thấy một người,
đã nhận ra ông mà cứ ngỡ là đôi mắt mình đã nhìn lầm.
Ông chính là Đại tá Phạm Văn Sơn, vị chỉ huy trưởng ngày xưa của
tôị Ông chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín
sau chân song sắt, bên trong cửa sổ của căn phòng "cách ly", duy đôi
mắt hiền hòa thì vẫn tinh anh như thuở nào. Rõ ràng ông hiện hữu như một tĩnh
vật có linh hồn sáng suốt, đang nhìn ngắm mọi sự vật đổi thay, quay cuồng điên
đảo với những nhận định xuyên suốt, những ý nghĩ sâu sắc, cao xa nào đó một
cách hữu thức, vì chính đôi mắt nhìn lắng sâu, và sáng kia là "cửa sổ linh
hồn ông", cho tôi biết điều đó.
Tôi nhìn ông và ông nhìn tôị Trong một thoáng, quá khứ như chổi
dậy; không biết vì mừng rỡ hay vì ngỡ ngàng xúc động, tôi chợt buột miệng gọi
lên :
- "Thầy" !
Chỉ một tiếng rồi lặng thinh. Tôi còn biết nói gì hay làm gì hơn
khi mà ai cũng biết rằng mình bất lực trước hoàn cảnh bất hạnh nào riêng của
mỗi ngườị
Mắt ông hình như sáng hơn, ông đã nhận ra tôi. Trong gương mặt đã
biến dạng, sần sùi của ông, với đôi môi khẽ chớp động, tôi đã nhìn thấy một nụ
cười. Ông đã hiểu rõ tâm trạng của tôi, tuy ông lặng lẽ không nói một lời nào.
Không một dấu hiệu, ông rời song cửa sổ. Chỉ chưa đầy một phút
sau, cánh cửa ra vào của căn phòng nhỏ -- đang khép hờ -- mở rộng ra. Ông đứng
ở ngưỡng cửa, thẳng thớm như đứng giữa giang san của mình, một giang san thu
hẹp đến thật nhỏ nhoi, lạnh lẽo, cô độc...
Với thế đứng vững vàng như vậy ông đã cho tôi ý nghĩ là, chính nơi
này, nơi thật nhỏ nhoi này, là nơi ông đã tìm ra nguyên ủy, phương trình giải quyết
và kết luận cho một nan đề khó giải quyết nhất, hay ông đang ấp ủ một điều gì
thật to tát trong tư tưởng của ông. Nhận xét của tôi không thể nhầm lẫn vì ngày
xưa nhiều lần tôi đã nhìn vào mắt và tư thế của ông mà đoán đúng những gì ông
định ra lệnh cho tôi hay muốn nói cùng tôi. Ở lần gặp lại này, tôi cũng linh
cảm được ý nghĩ của ông như thuở đó.
Tôi định bước vào hành lang, tiến đến gần ông nhưng kịp thấy ông
nhìn tôi khẽ lắc đầu. Tôi dừng lại và ghi nhận đầy đủ hơn tín hiệu của căn bệnh
ghê gớm đã và đang tàn phá cơ thể của ông.
Ông đứng thẳng, hai tay chập lại để trước người, những ngón tay
đan chéo vào nhau, chỉ nhìn tôi không nói một lời nào. Ngày đó, trời đã lạnh.
Tuy nhiên, tôi nghĩ không phải vì trời lạnh mà ông trùm kín đầu bằng một chiếc
khăn lông trắng đã trở màu vàng, bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Vòng khăn
quấn kín cổ chỉ chừa có đôi mắt, mũi, miệng và một phần rất nhỏ ở 2 bên má. Ông
trùm kín mặt như vậy có lẽ đã che bớt đi những vết lở lói trên mặt mình, bởi
chứng bệnh nan y của ông.
Thân thể gầy gò nhưng cộm lên vì mặc nhiều lớp áo quần bên trong;
bên ngoài, ông mặc một chiếc áo mưa màu nhà binh đã thật cũ, sờn rách một đôi
nơi. Chân được bó lại bằng những mảnh vải quần áo cũ xé ra, dính đầy bụi đất và
những vết máu, vết mủ.
Chỉ có một phần mặt mũi và hai tay của ông lộ ra, các phần thân
thể khác không thấy được. Và chỉ có vậy thôi, tôi cũng nhận ra rằng không phải
ông mang chứng lở lói bình thường mà tôi đã từng thấy, từng biết. Mũi ông đỏ
ửng, bóng; hai má cũng vậy, cộng thêm một số vết lở lói; lông mi ở mắt đã
ru.ng. Hai bàn tay cũng có những vết lở tấy, nhưng các ngón tay đã co lại, móng
tay nhiều ngón đã bị khuyết lại hay mất hết : ông bị chứng phong hủi (leprosy) ở thời kỳ trầm trọng. Vì không có thuốc và vì điều kiện vệ sinh
không thể có được trong tù nên bệnh của ông phát triển rất nhanh. Dó là lý do
tại sao chỉ mới đi tù trong vòng bốn năm năm ông đã trở thành người tàn phế, bị
cách ly riêng biệt.
XIN BẤM "READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Có lẽ người ta gán cho ông chứng bệnh lở lói là để tránh sự loan truyền căn bệnh cùi trong trại giam. Vả lại ông bị "cách ly", chỉ được ra ngoài vào những giờ mọi người đã đi lao động, không còn ai trong trại, nên ít ai biết rõ. Nhưng chính ông, ông biết rõ bệnh trạng của ông.
Có lẽ người ta gán cho ông chứng bệnh lở lói là để tránh sự loan truyền căn bệnh cùi trong trại giam. Vả lại ông bị "cách ly", chỉ được ra ngoài vào những giờ mọi người đã đi lao động, không còn ai trong trại, nên ít ai biết rõ. Nhưng chính ông, ông biết rõ bệnh trạng của ông.
Tôi nhìn ông thật lâu, trong lòng xót xa, không biết phải nói gì,
làm gì. Vị sĩ quan cao cấp chững mực với quân phục chỉnh tề trang nghiêm ngày
xưa nay đã mang hình hài của một người tàn phế giống như một kẻ hành khất lở
lói mà ai cũng có thể gặp ở đâu đó. Dôi mắt tôi nói rõ sự thương cảm của tôi
đối với ông. Và một lần nữa ông cười, nụ cười nhăn nhúm với một chiếc răng
khểnh trong môi, như ông muốn nói với tôi rằng :"Tôi chấp nhận định mệnh
của tôi, nhưng tư tưởng của tôi đã vượt khỏi thân xác nhỏ nhoi tàn phế của tôi
rồi. Anh đừng thương hại cho tôi"
Sau nụ cười là ánh mắt nhìn tôi sâu hơn. Trong ánh mắt đó của ông,
tôi đã ghi nhận được sự thương xót của ông đối với tôi. Hình như ông đã nhìn
thấy lại người sĩ quan thuộc cấp trẻ tuổi của ông ở những ngày xưa, còn độc
thân, mặt còn non sữa, nhưng sáng sủa và nhanh nhẹn, đã từng lúc làm ông hài
lòng, cùng từng khi khiến ông phải chỉ bảo...Ngày nay, hắn ta đã trở thành một
người cằn cỗi, gầy ốm, lam lũ với áo quần chùm đụp rách rưới, má hóp, mắt thâm
vì những ngày thiếu ăn, những đêm thiếu ngủ. Hơn thế nữa, hắn ta còn chưa biết
phải làm gì trong cảnh tù đày và trong tương lai.
Tôi chưa biết nói gì thêm, làm gì thêm ở buổi gặp lại ông trong
hoàn cảnh khốn khổ đó, thì anh bạn cùng tôi đi lãnh cơm, tìm được tôi, thấy tôi
đang đứng "nói chuyện" với Đại
tá Sơn. Anh đến gọi tôi vì cơm anh đã lãnh xong để ngoài sân phạn xá.
Tôi tần ngần một phút nhưng rồi cũng phải theo anh trở lại phạn xá
gánh cơm về cho anh em ăn. Chúng tôi chào từ giã ông, không thấy ông trả lời.
Tôi quay đi, mang theo nỗi buồn thật lớn. Anh bạn nói với tôi :
- Đại tá Sơn đó, ông ta bị
chứng bệnh nan y, vừa bị suyển, bệnh tim, lao phổi. Ông không hề nói chuyện với
ai
Tôi trả lời ngắn : "Xếp cũ của tôi"
Suốt ngày hôm đó tôi thẫn thờ vì những ý nghĩ miên man trong đầu
óc tôi. Đêm đó cũng không thể ngủ được.
Tôi suy nghĩ về ông và những ngày tù đày của chính bản thân tôị
Quả thật, trong lần đối thoại bằng mắt ở buổi gặp lại lạ lùng này,
ông đã nói với tôi thật nhiều về thân phận của ông và tôi. Tôi biết rõ ông đã
vượt khỏi cái thân xác bệnh hoạn yếu đuối nhỏ nhoi của con người, dẫn phần tâm
linh của ông đến một cõi an bình nào đó, như một tín đồ công giáo tin tưởng sự
an bài của Dấng Tạo Hóa về định mệnh của mình. Hơn thế nữa, trong tư tưởng, ông
không chỉ còn là một người viết sử bình thường, một sĩ quan bình thường, mà đã
trở thành một triết gia lớn biết cả cội nguồn của dân tộc và tổ quốc. Tâm trí
ông đã đi ra ngoài thân thể ông để đến một khung trời bao la nào đó, cao rộng,
hay ít nhất cũng phủ trùm trên bờ cõi VN.
Rõ ràng ông đã tìm được cho ông một lối thoát, sau khi đã trải qua
đau khổ đến tột độ : thể xác nứt nẻ, nhức nhối vì bị gặm nhấm, rút tỉa bởi con
máu độc hại của chứng bệnh nan y; bị bỏ đói khát lạnh lẽo, cô độc trong một nơi
cách biệt đến trở thành câm nín. Bao nhiêu tháng ngày đau đớn oằn oại mà ông
phải chịu đựng từng phút từng giây đó không đủ để ông trở thành một triết nhân
hay sao, vả lại ông là một người thâm trầm, hiểu sâu học rộng...Dù sao thì ông
cũng đã vượt thoát được đau khổ và tìm ra cho mình một con đường.
Một ngày nào thoát khỏi gông cùm CS, nếu tấm thân tàn phế của ông
còn hơi thở, thì biết đâu khối óc phong phú và tĩnh đạt của ông sẽ không giúp
ông trở nên bất tử trong lòng mọi người, vì những điều chứa đựng trong đó sẽ có
thể cho chúng ta những hiểu biết về lịch sử VN -- trong thế hệ chúng ta -- một
cách xác đáng nhất, tường tận nhất, đáng suy gẫm nhất vì sao chúng ta đã đau
khổ triền miên trong cuộc chiến tranh tàn khốc dai dẳng vừa qua. Hay xa hơn
nữa, biết đâu ông cũng có thể cho chúng ta một triết lý nhân sinh rút tỉa từ
kinh nghiệm bản thân ông, khả dĩ giúp được nhiều người tìm ra sự an bình trong
tâm hồn ở cuộc sống nhiều đau thương này.
Tôi yên tâm phần nào về ông, vì tôi biết, dù ông là kẻ chiến bại
trong cuộc sống, nhưng lại là người chiến thắng chính bản thân mình.
Còn tôi, ông đã nói cho tôi biết bằng ánh mắt, là ông thương cảm
cho tôi, vì ông đã biết rõ tôi đã và đang còn mù mờ, quờ quạng trong đáy ngục,
trong lưu đày. Tôi chưa nghĩ gì cho hôm nay và cho ngày mai hơn là phải sợ lao
động nặng nhọc sáng nay hay sợ bị đói lạnh chiều này. Tâm trí, tư duy của tôi
là một thứ bong bóng.
Tôi phải gặp lại ông, tôi phải học tấm gương của ông, phải biết
nhận chịu cái đau buốt tận xương tủy, để nghiền ngẫm về lẽ sống và tìm cho mình
một con đường thích hợp nhất mà bước đi.
Từ ngày đó tôi định bụng hôm nào thuận tiện tôi sẽ đi tìm ông, vì
ông ở phòng "cách ly" không phải lúc nào cũng tự tiện mà dến được,
bọn cán bộ cấm ngặt mọi tù nhân đến đó.
Trong mấy ngày liền, sau các buổi lao động xong về trại, tôi đi
theo các bạn lãnh cơm lên phạn xá, lảng vảng đến gần căn phòng cách ly mong
nhìn thấy ông để đến gặp, nhưng lần nào cũng trở về không. Rồi một buổi chiều
tôi trở lại đó, từ xa tôi đã thấy ông sau xong cửa sổ, mắt đang nhìn ra xa xôi
cao hơn bờ tường rào của trại trước mặt ông. Tôi muốn nhìn ông cho rõ hơn nên
bước thêm mấy bước nữa rồi dừng lạị Một chập rất lâu, ánh mắt ông vẫn thế,
không thay đổi hướng. Ở hướng đó, mặt trời chiều đã xuống thấp, nắng đã nhạt,
mấy áng mây thật mỏng, ráng hồng, còn vơ vẩn, rồi bị gió xé nát rạ Tôi chợt
thấy ông rùng mình.
Tôi tự nghĩ : Chẳng lẽ mình nhầm hay sao khi nhận xét về ông ở
buổi đầu tiên. Không do dự nữa, tôi bước đến gần, đứng ngoài sân, trước hành lang,
chào ông và khẻ hỏi :
- Chào Thầy, hôm nay Thầy có khoẻ hơn không ?
Ông quay lại nhìn tôi, nhẹ gật đầu nhưng không trả lời. Dôi mắt
ông lại hướng về góc trời có một bóng mây vừa tan, một thoáng như mờ đi, như
nghĩ ngợi, rồi chợt sáng hẳn ra nhìn thẳng hơn vào mắt tôi
Thôi, Thày ơi ! Tôi đã hiểu rồị Tôi đã hiểu trong lòng Thầy nghĩ
gì và Thầy muốn gì ở tôị Lòng tôi trong một phút cảm thấy đau điếng.
Tôi có nên nói đến những điều này cho các bạn nghe hay không ?
Liệu các bạn có tin rằng tôi nói bằng sự thật, bằng tấm lòng của tôi hay không
? Thôi thì tôi cứ nói
Ông đã cảm nhận được định mệnh của ông rồi. Hơn ai hết, ông hiểu
rõ tình trạng sức khoẻ của ông. Ông chỉ sợ mình như ráng mây mong manh kia, sẽ
phải tan rã mất đi vội vàng. Thời gian quí báu không còn nữa đối với ông, ngọn
đèn hắt hiu trong tim ông sắp tắt, nhưng ngọn lửa lớn trong óc ông, đang rực
sáng, không có chỗ thoát ra. Bốn bức tường của nhà giam này thật cay nghiệt;
cái hoài bão của ông, niềm ấp ủ đã hình thành trong tâm não ông cũng sẽ tan biến
mà thôi. Ông không sợ bản thân ông bị tiêu hủy, ông chỉ sợ những điều đó bị
tiêu diệt, tôi nghĩ như vậỵ
Với ánh mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi nhận ra hình như ông muốn
ủy thác cho tôi một việc gì đó sau này -- khi tôi ra khỏi 4 bức tường của trại
giam -- chẳng hạn như sẽ thay ông viết lên những gì mà ông muốn để lại cho
những thế hệ tương lai.
Nếu quả thật điều này tôi đoán đúng, tôi cam đành chịu sự thất lễ
đối với ông. Dù tôi hiểu ông, nhưng làm sao tôi có thể hiểu tường tận những gì
tách bạch định hình trong tư tưởng của ông.
Ông đã nghĩ gì, ông đã biết những gì -- hẳn nhiên là phải rộng lớn
và khúc chiết -- ông muốn viết những gì, làm cách nào tôi có thể biết được. Vả
lại, những thứ ấy là những điều mà ông phải phấn đấu thật cam go với bệnh tật,
với chính mình bao nhiêu năm trời, chịu đựng vô vàn đau đớn tủi nhục từ thể xác
đến tâm não mới có được. Nó là của riêng ông. Làm sao tôi có thể cảm nhận được
hết, khi mức độ thương đau của tôi có hạn định; làm sao tôi có thể viết những
điều ấy thành lời.
Sở năng của ông là viết sử. Ngay ở công việc này, nếu tôi có hiểu
biết một đôi điều, thì với khả năng của tôi, tôi cũng không thể thay ông mà
viết nổi hết cái cao xa rộng lớn của ông, cái sâu sắc phong phú của ông, cái
chiết trung tinh túy của ông, cái kinh nghiệm dồi dào của ông về những gì phức
tạp nhất, nhiêu khê nhất, khuất lấp nhất của lịch sử ở thời đại nhiễu nhương
này.
Nếu tôi cần thời gian để có được những ưu điểm trên đây như ông,
thì sẽ bao lâụ Có lẽ suốt đời đến khi nhắm mắt, tôi cũng không có được.
Hôm trước tôi gọi ông bằng "Thầy" để tránh tiếng gọi
bằng cấp bậc đã trở thành "không thích hợp" nữa. Hôm nay, tôi cũng
gọi ông bằng chữ đó, cùng nghĩa. Xét cho cùng, tôi chưa đáng là học trò của ông
trên nhiều phương diện.
Tôi đành cam chịu sự bất lực rồi.
Cái hy vọng giữ được cuộc sống của ông thật mong manh, cái hy vọng
giữ sự hiểu biết trong trí não ông cũng không thể có, rồi cát bụi sẽ trở về với
cát bụi mà thôi...Bỗng nhiên tôi nghe mấy giọt nước mắt lăn trên má tôi.
Ông nhìn tôi lặng lẽ thở dài rồi quay đi.
Tôi trở về phòng giam của mình với tâm trạng buồn bã, mệt mỏi. Tôi
muốn làm vui lòng cố nhân, muốn làm tròn bổn phận với một cấp chỉ huy tôi quí
trọng, nhất là khi ông đang ở trong hoàn cảnh khốn cùng, nhưng tôi biết tôi kém
tài, thiếu khả năng để khả dĩ hoàn thành sự ký ủy của ông.
Sau buổi chiều đó, lại một đêm và nhiều đêm khác nữa tôi mất ngủ.
Dù ông muốn hay không, tôi cũng thương cảm cho ông, xót xa cho ông. Niềm trắc
ẩn của tôi không ngoài việc tôi biết ông cảm thấy sức khoẻ của ông đã cạn, ông
biết ông sẽ không thể -- bằng cách nào đó, phổ cập được những gì đó thật hữu
ích đã kết tinh trong não tủy của ông qua những tháng ngày đau khổ. Niềm hy
vọng cuối cùng là ký thác những điều đó cho một ai đó có khả năng, cũng đã bị dập
tắt. Sự cô đơn của ông bây giờ đã hoàn toàn, tất cả đã quay lưng lại với ông.
Bên ông có lẽ chỉ còn Thượng đế là vị an ủi, là vị cứu tinh cuối cùng mà thôi.
Con người đã không còn trong tầm mắt và niềm hy vọng của ông nữa, mãi mãi...
Sau đó không lâu, một buổi tối, bọn cán bộ trại tổ chức buổi chiếu
bóng ngoài trời cho tất cả tù nhân xem ở cái sân rộng lớn giữa trại. Đêm ấy, trời đầy trăng sáng trong sương đêm
loang loáng của mùa đông. Hơn 1,000 tù nhân được xếp hàng ngồi theo đội của
mình trong sân. Tuy nhiên, mọi người khi cần thiết cũng có thể tách ra đứng lên
đi tiểu ở một vài nơi mà CS đã chỉ định trước. Một nơi như vậy nằm bên trong bờ
tường của phạn xá.
Đây là cơ hội may mắn cho
tôi. Khi phim chiếu được chừng một giờ -- phim gì đó, tôi không còn nhớ -- tôi
đứng lên đi về phía ở bờ tường vào phạn xá, đến chỗ đi tiểu. Nhìn không có ai,
tôi bước thêm mấy bước nữa, dừng lạị Chỗ tôi đứng chỉ còn cách căn phòng nơi
ông ở không đầy 10 bước. Tôi không có ý định gặp ông, chỉ muốn nhìn thấy ông mà
thôi, và tôi đã nhìn thấy Ông đứng bên trong cửa sổ, ở đó có ánh đèn le lói hắt
ra, đang nhìn lên khung trời đầy ánh trăng bàng bạc trong sương. Giờ đó cũng
gần khuya, ông vẫn thức, đứng nhìn trăng, nhìn trời.
Tôi đã hiểu rõ hơn tâm sự của ông. Tôi đứng nhìn ông một lúc khá
lâu, rồi sợ bị bọn cán bộ bắt gặp, tôi quay trở ra về chỗ ngồi của các bạn cùng
đội và không xem gì được nữa ở những thước phim tuyên truyền còn lại
Tôi lơ đãng ngắm nhìn những vì sao xa xa, ngắm vần trăng nhàn nhạt
trên nền trời nhiều sương lành lạnh, diệu vợi, buồn man man.
Đêm trăng là khung trời của Hàn Mặc Tử, vầng trăng và ánh trăng là
thơ của Hàn Mặc Tử, không phải của ông. Ông không là một thi nhân, ông là một
nhà viết sử. Trăng đã thức trong máu để Hàn Mặc Tử làm thơ và ngâm thơ. Trăng
đã thức trong máu của ông, chỉ để ông thấy nỗi cô đơn của ông thấm đậm hơn mà
thôi
Hàn Mặc Tử, ở những ngày cuối cùng của cuộc đời, còn nói lên được,
còn viết lên được những điều muốn nói, những điều muốn viết, trong sự yêu chiều
an ủi của một người đẹp yêu ông. Ông ta thật có diễm phúc so với nhà viết sử
Phạm Văn Sơn. Vị sử gia của tôi trong những giờ phút cuối cùng này còn có ai đâu.
Ông bị cách ly thân thể, bị chối bỏ tình cảm, tuyệt nguồn tâm sự đến trơ trọi
cả linh hồn.
Ngày xưa, vua Hezekiah của Do Thái -- trong Thánh Kinh -- hơn mười
mấy năm bị phong hủi cũng không cô đơn bằng ông, vì ông vua này vẫn sống trong
hoàng cung lộng lẫy với hằng trăm cung tần mỹ nữ hầu ha..
Có lẽ chỉ một người chịu sự cô đơn như ông là một vị bác sĩ nào đó
-- một nhân vật có thật -- trong tác phẩm "Kẻ Độc Hành" (Man Who
Walks Alone) của một nhà văn Mỹ, tôi đã quên tên, đã hy sinh suốt quãng đời đẹp
đẽ nhất của mình, tình nguyện đến một phương trời xa, phục vụ một trại hủi để
chữa trị bệnh nhân bằng sự hiểu biết và lòng tận tâm của mình, cho đến một ngày
chính ông ta bị truyền nhiễm chứng bệnh nan y này. Khi trở lại quê hương, ông
lại bị hất hủi, bị bỏ quên, cô đơn như một kẻ độc hành trong cõi đời thường như
hoang vắng. Dù sao vị bác sĩ đó cũng đã làm tròn thiên chức của mình, đã hưởng
được sự tự do để suy gẫm về cái triết lý của cuộc sống.
Còn ông, nhà viết sử của chúng ta, ông đã cô đơn bốn bề ở kiếp con
người; loài người dưới đất quên lửng ông, trăng sao trên trời xa lạ với ông.
Ông là kẻ cô đơn nhất trong loài người...ở những giờ phút sau cùng.
Đêm trăng này hay bao nhiêu đêm trăng nữa sẽ cho ông nhìn thấy gì,
hay ông chỉ nhìn thấy sự hoang mạc đến tận cùng của cuộc đời ông trong những
ngày còn lại. Hay hơn thế nữa, ông sẽ nhìn thấy nỗi tuyệt vọng vừa nhen nhúm
trong tâm sự ông, về sự không thể làm tròn thiên chức của mình, sẽ lớn dần lên,
sẽ còn đày đọa ông không biết bao lâu nữạ đêm không ngủ dưới trăng kia có ích
lợi gì cho ông không...
Thì ra tâm sự con người thật phức tạp trước những sự kiện tưởng
chừng như vô tình nhất, giản dị nhất.
Lần đầu tiên sau khi gặp lại ông, tôi tưởng ông đã yên tâm vì đã
tìm cho mình được một con đường, một chân lý, đến độ khi nhìn ông tôi cũng cảm
thấy yên tâm. Hôm nay, bởi những sự kiện mới mẻ tưởng như vô tình, tôi mới biết
ông vẫn còn ưu tư khoắc khoải, nên lòng dạ tôi xốn xang vô cùng.
Tôi đã ngu muội và thật thà ở buổi chiều hôm trước, vì vô ý thức,
tôi đã đẩy tình trạng cô đơn của ông đến cao độ nhất, bởi sự phản ứng tự nhiên,
chân tình bằng mấy giọt nước mắt dại khờ, non nớt, rơi không đúng chỗ, đúng
lúc.
Một giọt nước đã làm tràn miệng bát.
Đáng lẽ tôi phải tế nhị giữ nó lại, tìm cách an ủi ông. Biết đâu
niềm hy vọng vẫn còn là ngọn lửa, tuy nhỏ nhoi, cũng sưởi ấm lòng ông để ông
cảm thấy mình vẫn còn người tri kỷ, không cô đơn, còn có ý nghĩa với mọi người.
Biết đâu như vậy sẽ làm cho ông yên tâm hơn. Dù cái chết có đến với ông, bằng
cách nào đi nữa, ông cũng cảm thấy ấm cúng trong tâm hồn.
Niềm trắc ẩn xốn xang này đã trở thành sự hối hận triền miên trong
tôi suốt 15 năm qua, chưa có dịp bộc lộ cùng aị. Tôi thật khổ tâm.
Lúc đó, tôi thầm cầu nguyện Thượng Dế xui khiến cho những người CS
thấy rõ chứng bệnh vô cùng hiểm nghèo, nguy ngập của ông mà tha cho ông ta, cho
ông được trở về với gia đình. Đó là con đường duy nhất cứu được ông, cứu được
cái hoài bão mà ông từng ôm ấp bao nhiêu năm qua.
Tôi đã thất vọng, ý trời không phải là ý ngườị CS chỉ hủy diệt
những nhân tài đối lập, không bao giờ nhẹ tay với một ai.
Rồi việc gì phải đến, đã đến.
Một ngày, chưa hết mùa đông, đầu năm 1980 (tôi không nhớ chính xác
ngày tháng), buổi sáng sớm lất phất một cơn mưa phùn nhỏ, trời lạnh và đục,
người ta đã đánh kẻng tập hợp tù nhân các đội ra ngoài sân để tuần tự cho xuất
trại đi lao động như thường lê.. Bấy giờ tôi ở trong đội cưa xẻ gỗ súc. Dội
chúng tôi ra hiện trường làm việc -- là hai dãy nhà lợp tranh, chỉ cách cổng
trại vài mươi bước -- trong vòng mấy phút. Mỗi cặp cưa gồm 2 người, tự động vào
giàn cưa của mình và xẻ những thân gỗ lớn thành những tấm ván dày hoặc mỏng
dùng để đóng bàn ghế, vách nhà, sàn nằm trong trại, hay đóng hòm chôn tù nhân,
chết bởi nhiều cách, đa số là chết vì bệnh và kiệt sức.
Chừng chín giờ rưỡi hay mười giờ hôm đó, tôi đến nhận phần sắn phụ
trội (đội cưa xẻ thuộc loại lao động nặng, có thêm một phần ăn phụ trội ở giờ
giải lao, nhưng bất thường) vừa định quay về giàn cưa mình thì anh bạn hôm
trước đi lãnh cơm với tôi, hôm nay vừa đi lãnh sắn ở nhà bếp, nói nhỏ vào tay
tôi :
- Tin buồn !
Tin buồn có nghĩa là trong anh em của chúng tôi có thêm một người
vĩnh viễn nằm xuống, cũng có nghĩa là đội của chúng tôi phải xẻ thêm những tấm
ván để đóng chiếc hòm tạm bợ bọc xác bạn bè, một điều không ai muốn, nhưng ai
cũng tình nguyện làm để biểu lộ lòng thương xót với người đã ra đị Biết đâu rồi
ngày nào cũng đến lượt mình. Tâm lý trái ngược đa đoan là thế đó.
Tôi nghe anh nói xong, định hỏi xem là ai, nhưng anh đã bảo tôi :
- Đi đi...!
Trở về chỗ, vừa ngồi xuống đã thấy anh theo đến, ngồi sát bên, nói
vừa đủ cho tôi nghe :
- Đại tá Sơn, "xếp" của anh, chết rồi !
Tôi sững sờ, tưởng chừng như ai tạt một gáo nước lạnh vào mặt, hỏi
lại anh :
- Anh nói...chết rồi, tại sao, hồi nào ?
Anh buồn bã thuật lại câu chuyện anh vừa nghe ở nhà bếp :
- Sáng nay, sau khi các đội đã xuất trại hết, "tụi nó"
ra lệnh cho ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại như những ngày trước.
Không biết ông bưng vác đến giỏ thứ mấy thì kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu
bất tỉnh. Khi chúng hay được cho mang ông lên bệnh xá thì mấy phút sau ông mất;
cả người nhầy nhụa máu me, hình như bao nhiêu máu mủ trong các phần thân thể lở
lói tuôn tràn ra hết...
Anh nói tiếp :
- Giờ này có lẽ họ đã đem ông xuống nhà xác rồi !
Anh lặng lẽ bỏ đi, không nói thêm gì nữạ
Tôi như một kẻ mất hồn. Tôi đã hiểụ
Từ lâu nay, thỉnh thoảng chúng tôi thấy một chiếc xe tải chở vào
trại loại than đá vụn vo thành viên tròn to như những trái "poids"
lớn, dùng làm chất đốt ở bếp. Mỗi lần như vậy, họ đổ than đá ở phần sân ngoài
bức tường, trước cửa vào nhà bếp. Bọn cán bộ ra lệnh cho ông hằng ngày dần dà
chuyển hết những đống than đá đó vào bếp, trừ trường hợp trời mưa, phải chuyển
gấp chúng cho người phu.. Như vậy, một người bệnh trầm kha như ông vẫn bị chúng
vắt sức lao động đến giọt máu cuối cùng. Hôm nay ông đã ngả xuống như trăm ngàn
nạn nhân khác dưới chủ trương giết người siêu dã man này trong các trại giam
CS.
Sau buổi giải lao, tất cả anh em trong đội cưa xẻ đều biết về cái
chết thảm thương của ông.
Ông đã mất rồi về cõi thiên đường đã mang theo sự chịu đựng và
hiểu biết của ông, vốn dĩ không hề tưởng là đã có trong con người mang nhục
thể. Cái gì của Thượng Dế trả về cho Thượng Dế.
Người ta ra lệnh xẻ gỗ đóng quan tài cho ông.
Tôi nhận việc ấy với những giọt nước mắt chảy dài trên má. Chỉ còn
một chút đáp đền này thôi, hỡi cố nhân ơi...
Nguyễn
Văn Dưỡng
No comments:
Post a Comment