Vào ngày này
năm 1975, Ban Mê Thuột, thủ phủ của tỉnh Darlac ở Tây Nguyên, rơi vào tay quân
đội Bắc Việt.
Cuối tháng
01 năm 1975, chỉ hai năm sau khi lệnh ngừng bắn được thực hiện theo Hiệp định
Hòa bình Paris, Bắc Việt đã phát động Chiến dịch 275. Mục tiêu của chiến dịch
này là giành lấy Ban Mê Thuột ở Tây Nguyên. Trận chiến bắt đầu vào ngày 04
tháng 03 và Bắc Việt đã nhanh chóng bao vây thành phố với năm sư đoàn chính, cắt
đứt nó khỏi sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Khi tình
hình trở nên rõ ràng rằng lực lượng cộng sản sẽ chiếm thành phố và có thể là
toàn tỉnh, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định rút lực
lượng của mình để bảo vệ các khu vực đông dân có tính chiến lược hơn ở phía
nam. Theo đó, ông ra lệnh cho các lực lượng ở Tây Nguyên rút lui khỏi vị trí của
họ.
Từ bỏ Pleiku
và Kontum, các lực lượng Nam Việt Nam bắt đầu di chuyển ra hướng biển, nhưng điều
bắt đầu như một cuộc rút quân có trật tự đã nhanh chóng biến thành hoảng loạn
và các lực lượng này nhanh chóng tan rã. Bắc Việt đã thành công ở cả Tây Nguyên
và xa hơn về phía bắc tại Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng.
Quân đội Nam
Việt Nam sớm sụp đổ trong vai trò là một lực lượng chiến đấu vững chắc trong
khi quân Bắc Việt tiếp tục tấn công vào Sài Gòn. Việt Nam Cộng hòa đầu hàng vô
điều kiện trước Bắc Việt vào ngày 30 tháng 4 và chiến tranh kết thúc.
Nhìn lại trận đánh Ban Mê Thuột 1975
Lời Tòa Soạn:
Sau những
bài liên quan đến trận đánh Ban Mê Thuột, có nhiều thư từ gởi đến nói lên những
nhận xét, góp ý kiến hay những bài trình bày thêm những chi tiết góp phần làm
sáng tỏ những bí ẩn của trận đánh này, trong đó có bài dưới đây của Đại Tá Nguyễn
Trọng Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac khi trận đánh Ban Mê Thuột xảy ra.
Như Đại tá
Luật nói ngay từ đầu, ông chỉ là một Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng của tỉnh
Darlac, quyền hạn của ông rất giới hạn. Tư lệnh chiến trường lúc đó là Đại tá
Vũ Văn Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, ông chỉ là người thừa hành. Vì thế,
chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông không biết rõ những tin tức tình báo mà
Quân đoàn 2 đã thu lượm được cũng như những quyết định của Quân đoàn 2 liên
quan đến trận Ban Mê Thuột. Nhưng đối với diễn biến của trận đánh, từ khi mở
màng cho tới khi kết thúc, ông nắm rất vững, vì ông là người trong cuộc. Đây là
một tài liệu quý báu có thể giúp cho các nhà sử học và các nhà phân tích, phê
bình hiểu rõ hơn về trận đánh có tính cách quyết định này.
Chủ Nhật 9/3/75
– Trình Đại
tá, Thiếu tướng Tư lệnh Quân doàn 2 sẽ đến Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 vào lúc 10 giờ
hôm nay để duyệt tình hình. Trung úy Dzi, sĩ quan tùy viên, sau khi đứng nghiêm
chào tôi và nói với tôi như vậy, khi tôi còn ngồi tại tư dinh để xem công văn
công điện cùng ký những giấy tờ cần thiết cho một ngày làm việc. Không phân biệt
ngày cuối tuần, ngày nào cũng là ngày thứ Hai, mà người Mỹ thường nói trên cửa
miệng. Với trọng trách Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac, ngày lại ngày
tôi rất bận, về hành quân, đi thanh tra, đôn đốc, kiểm soát các chi khu, phân
chi khụ Đó là chưa kể dành thì giờ tiếp đón các phái đoàn từ Saigon ra hay từ
Quân đoàn xuống. Nên chỉ còn ban đêm và những giờ sáng sớm để xe công văn giấy
tờ. Tôi hỏi lại:
– Xe sẵn
sàng chưa?
– Dạ, thưa sẵn
sàng.
– OK, thôi
chúng ta đi.
Khi tới phi
trường Phụng Dực, lòng tôi như lửa đốt. Phần vì đêm qua mất ngủ, phần lo số phận
của hàng trăm sinh linh đang chiến đấu tại Đức Lập mà VC đã tấn công tối quạ Hiện
mất liên lạc không biết còn hay mất. Tâm hồn tôi như đang gắn liền với các chi
khu, các binh lính dưới quyền mình. Làm sao cho họ an toàn giữa cuộc chiến càng
ngày càng tàn khốc này. Hàng đêm vừa chợp mắt là thấy những lo lắng không đâu
chợt đến với giấc ngủ muộn màng… Dù quận Đức Lập không phải là vùng trách nhiệm
của mình nhưng tiên liệu cho kế hoạch phòng thủ Darlac vẫn là trọng tâm của tôi
trong lúc này. Tôi có một cái nhìn rõ ràng, mất Thuần Mẫn, mất Đức Lập thì việc
tiến chiếm Ban Mê Thuột chỉ còn là vấn đề thời gian. Nhưng tiếng nói của tôi có
ai nghe trong khi tôi chỉ là một Tiểu khu trưởng trong tay có mấy tiểu đoàn Địa
phương quân, mấy Trung đôi Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân tự vệ. Tư lệnh chiến
trường lại do Đại tá Quang đảm trách, tôi chỉ là cấp thừa hành. Tôi sinh ra
trong binh chủng Thiết giáp; nếu tấn công thì rất thích hợp cho binh chủng này,
còn phòng thủ thì thiết giáp chỉ là bia đỡ đạn cho những trò chới của súng chống
chiến xạ Tôi càng suy nghĩ bao nhiêu, lại càng nhìn thấy sự bất lực của mình.
Con ngựa sắt của tôi đâu, hay bây giờ chỉ còn những tay súng tài tử đối chọi với
những kẻ gian hùng đang điên khùng xông vào lửa đỏ chẳng khác gì những con
thiêu thân? Chợt phía Tây, hướng về phía Đông, một chiếc Dakota 47 lù lù đang
tiến tới và đáp xuống phi trường.
Máy bay mở cửa,
tôi dứng nghiêm chào Tướng Phạm Văn Phú và phái đoàn. Tướng Phú tiến đến bắt
tay tôi và ngồi lên xe của Tòa Hành chánh đi về Ban Mê Thuột. Ngồi cạnh Tướng
Phú, tôi thấy ông có vẻ đăm chiêụ Ông không hỏi tôi điều chi, cũng như tôi vẫn
giữ im lặng, trông chờ một hy vọng. Hình như, Tướng Phú đang lo nghĩ về quận Đức
Lập, đến bay giờ còn hay mất?
Đoàn xe trực
chỉ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Tướng Lê Trung Tường, Đại tá Vũ Thế Quang đã
chờ sẵn để hướng dẫn phái đoàn vào Trung tâm Hành quân Sư đoàn. Tại đây, đã có
sự hiện diện của Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Đức để
thuyết trình về tình hình quận Đức Lập lên Tướng Phú và phái đoàn. Nhìn trên bản
đồ hành quân, sau mấy câu mở đầu chiếu lệ, Đại tá Nghìn ngậm ngùi:
– Cộng quân
đã pháo kích và tấn công vào quận Đức Lập vào lúc 5 giờ sáng, rất nặng và thiệt
hại đáng kể. Bộ chỉ huy Chi khu đã trúng nhiều đạn pháo binh 130 ly, nên Chi
khu trưởng đã đưa Bộ chỉ huy Chi khu rời khỏi quận và hiện giờ vẫn còn đang chiến
đấu…
(Sau này,
tôi được gặp lại Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng Đức Lập tại trại tù Vĩnh
Phú, Tân Lập. Trung tá Vực đã kể cho tôi biết trận đánh vào Chi khu như sau:
Khi tấn công vào Chi khu, VC đã dùng pháo binh 130 ly và SKZ 82 ly — súng không
giựt 82 ly — bắn vào Chi khu và Chi đoàn Chiến xạ Với đạn SKZ 82 ly bắn trực xạ,
địch đã làm tê liệt các chiến xa của ta, nên không còn được xử dụng ngay từ
phút đầu. Chi khu cầm cự cho đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên thì thất thủ).
Sau đó Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23
BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột, lên trình bày kế hoạch phòng thủ của
Trung đoàn 53 BB do Trung tá Võ Văn Ân làm Trung đoàn trưởng. Nói là Trung
đoàn, nhưng cấp số chỉ còn Bộ chỉ huy Trung đoàn và một Tiểu đoàn mà thôi, cộng
thêm một Trung đội Pháo binh 105 ly để làm lực lượng tiếp ứng cho Darlac và Quảng
Đức khi bị tấn công.
Đại tá Quang trình bày kế tiếp về kế hoạch
phòng thủ của thị xã Ban Mê Thuột.
Thị xã Ban
Mê Thuột được phòng thủ với tất cả các đơn vị trú đóng như sau:
– Phía Bắc
có Trung tâm Huấn luyện Sư đoàn 23 BB.
– Phía Nam
có Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 BB.
– Phía Đông
có Bộ chỉ huy Chi khu Ban Mê Thuột.
– Phiá Tây,
vùng nguy hiểm nhất, có hậu cứ của Thiết đoàn 3 Thiết giáp và Kho đạn Mai Hắc Đế.
– Trừ bị cho
thị trấn Ban Mê Thuột là Trung đoàn 53 trừ bị, đóng tại phi trường Phụng Dực.
Nghe xong phần
trình bày của Đại tá Vũ Thế Quang, Tướng Phú có vẻ hài lòng và không chê trách
cũng như cho những chỉ thị đặc biệt. Lúc bấy giờ đã quá trưa, tôi cho dọn cơm
ra mời Tướng Phú, Tướng Tường, Đại tá Nghìn cùng phái đoàn ăn tại chỗ. Đây là bữa
cơm rất dạm bạc. Tất cả đều dùng cơm đĩa, uống nước ngọt hay biạ Tướng Phú ăn rất
nhanh để còn kịp trở về Pleiku theo dõi tình hình chung của Quân đoàn 2. Tôi
cũng không ngờ, đây là bữa ăn cuối cùng giữa tôi và Tướng Phú, cấp chỉ huy trực
tiếp của tôị
Ăn xong,
chính tôi đích thân đưa tiễn Tướng Phú ra phi trường Phụng Dực để về Pleikụ Khi
bắt tay tạm biệt, Tương Phú đã vỗ vai tôi nhỏ nhẹ:”Chú mầy cẩn thận coi chừng
chúng nó đánh nghe”. Đây chỉ là câu nói thông thường mà cuộc đời binh nghiệp đã
dạy cho tôi, nghĩa là hầu hết các cấp chỉ huy đi thăm các đồn bót, hay đơn vị
tiếp giáp với địch đều dặn dò với thuộc cấp của mình bằng câu nói trên. Nói
khác hơn, không có tính cách khẩn cấp, nguy ngập. Nếu nghiêm trọng, các cấp chỉ
huy sẽ chỉ thị một cách tỉ mỉ hơn nhiều.
Khi về đến
Ban Mê Thuột tôi lại phải đến nhà Tướng Tường để đưa Tướng này về Pleiku bằng
trực thăng. Bước vào nhà tôi thấy Tướng Tường đang nói chuyện với gia đình và
sau đó ông ra phi trường L19 cũng là phi trường trực thăng. Trong lúc chờ đợi
phi công trực thăng đến, có ông Paul Struharick, là đại diện cho Tổng lãnh sự Mỹ
tại Nha Trang đến hỏi Tướng Tường về tình hình VC xung quanh Ban Mê Thuột ra saọ
Tướng Tường cười hí hí, có vẻ tự tin tự đắc, cầm cây gậy tướng đánh vào mông
đít mình bộp bộp, rồi trả lời bằng tiếng Anh:”Don’t worry about that”. Ông Paul
cụt hứng nên không hỏi thêm và Tướng Tường cũng lên trực thăng bay về Pleiku.
Việc đầu
tiên trở về Bộ chỉ huy Tiểu khu là tôi triệu tập ngay Bộ tham mưu, các đơn vị
trưởng quân đội tại thị xã và các ty sở thuộc Tòa hành chánh cũng như các Ty
trưởng chuyên môn. Tôi trình bày tình hình quân sự. Quận Thuần Mẫn đã bị mất.
Quốc lộ 14 nối liền Pleiku – Ban Mê Thuột đã bị cắt. Quốc lộ 21 từ Ban Mê Thuột
– Nha Trang qua quận Khánh Dương đã gián đoạn và sáng nay quận Đức Lập đã bị CS
tấn chiếm, và như vậy Quốc lộ từ Quảng Đức – Ban Mê Thuột coi như không xử dụng
được nữa. Không cần phải là nhà quân sự, mọi người cũng đủ hiểu, Mặt trận Ban
Mê Thuột coi như bị bao vây tứ phía, và cần đặt câu hỏi về sự kiện hoạt dộng
quân sự của địch và thấy rõ ý đồ của địch. Riêng phía Tây thị xã còn dồn Ban Don,
cách xa Ban Mê Thuột khoảng 40 km.
Cuối cùng việc
cấm trại 100% từ quân nhân đến công chức là điều bắt buộc trong thời gian
nghiêmtro.ng này và tôi ra lệnh:”Sẵn sàng ứng chiến!”.
Để tăng cường
cho Ban Mê Thuột, tôi quyết định nhanh chóng rút ngay Tiểu đoàn 204 Địa phương
quân đang đóng tại Ban Don về thị xã. Việc di chuyển này không phải là dễ dàng
vì phải trưng dụng hết tất cả các xe GMC của các đơn vị đóng tại Ban Mê Thuột mới
đủ chuyên chở cả một Tiểu đoàn. Trước khi trở về tư dinh, tôi đã cẩn thận đi
quan sát tất cả những yếu điểm phòng thủ của thị xã và cho họ những chỉ thị cần
thiết. Có một điều tôi hơi an tâm một chút là các đơn vị như Địa phương quân,
Nghĩa quân, Cảnh sát và Nhân dân tự vệ đều thi hành nghiêm chỉnh lệnh cắm trại
100% và báo động.
Chẳng cần tắm
rửa và dù người nhà đã dọn cơm sẵn, tôi vẫn đi thẳng vào nơi làm việc của tôi với
bản đồ hành quân. Tôi như muốn suy nghĩ về tình hình và ý đồ của địch. Dù cấp
nhỏ, nhưng tôi vẫn cố gắng phân tích theo nhãn quan của tôi để mình còn nước
còn tát trong việc giữ Ban Mê Thuột, vùng trách nhiệm của mình bằng mọi giá.
Nhìn qua những mũi tên và những đơn vị của Cộng quân, theo như bản phối trí của
Quân đoàn: các Sư đoàn 320, F10, 316 của Cộng quân vẫn còn ở phía Tây Pleiku và
Kontum. Những tin tức các sư đoàn này đã về Ban Mê Thuột vẫn chưa được Quân
đoàn xác nhận, vẫn còn phải theo dõi và kiểm chứng, nói theo Phòng 2 của Quân
đoàn.
Tôi đã tiên
đoán, Ban Mê Thuột sẽ là nơi thử lửa đầu tiên cho việc tiến chiếm miền Nam. Bằng
chứng là VC đã chặt tay chân của Ban Mê
Thuột rồi bằng cách nhổ 2 cứ điểm Thuần Mẫn và Đức Lập, Khánh Dương coi như đứt
đoạn. Vì vậy, tôi đã nhiều lần xin Tướng Phú tăng cường quân chính qui bằng
cách đưa Trung đoàn 45 BB về phòng thủ Ban Mê Thuột.
Với nhiều lần
xin quân viện, mãi đến ngày 4/3/75, Tướng Phú mới bằng lòng cho Trung đoàn về
Ban Mê Thuột. Lệnh di chuyển đã được ban hành. 2 giờ chiều cùng ngày, toàn thể
đơn vị thuộc Trung đoàn 45 đã ngồi lên xe GMC để chờ lệnh Tướng Tường là xe
chuyển bánh. Không ngờ vừa lúc đó, pháo kích của Cộng quân rót vào thị xã
Pleiku, cũng Bộ Tư lịnh Quân đoàn 2.
Tướng Phú đang ở Nha Trang được báo cáo của
Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 về việc pháo kích này, đã không ngần ngại hét vào
máy:”Tôi ra lệnh cho Trung đoàn 45 BB không di chuyển về Ban Mê Thuột nữa, ở lại
Pleiku vì Mặt trận Pleiku đã bùng nổ rồi”.
Qua ngày hôm
sau, tức ngày 5/3/96, Chi khu Thuần Mẫn
thuộc tỉnh Phú Bổn, nằm ngay Quốc lộ 14, lại bị Cộng quân đánh chiếm. Sự kiện
này càng củng cố ước đoán của Tướng Phú:”CS sẽ tấn công Pleiku” là đúng.
Cho dù ngày 7/3/95, chi khu Khánh Dương thuộc tỉnh
Khánh Hòa nằm trên trục lộ Ban Mê Thuột – Nha Trang bị mất mà Tướng Phú vẫn
chưa nghĩ đến việc CS sẽ tấn chiếm Ban Mê Thuột.
Rồi đến sáng
ngày 9/3/75, Tỉnh Quảng Đức đã báo cáo cùng Tướng Phú về tình hình rất bi đát của
Quảng Đức, các chi khu đang giao tranh với cấp số đáng kể của Cộng quân. Tôi
như người có miệng phải câm, nhìn đồi núi chập chùng của Cao nguyên mà lòng héo
hắt. Vận mệnh của cả đất nước đang bị cấp chỉ huy lượng giá sai và chiến thắng
sẽ đến của CS chỉ là may mắn. Tôi phải đương đầu với thử thách này đến bao giờ???
Nghĩ đến câu dặn dò của Tướng Phú để dối lòng:”Hãy coi chừng tụi nó đánh nghe”,
như một câu nói thôn thường. Rồi “Don’t worry about that” của Tướng Tường nói một
cách kiêu hãnh với ông Paul.
Cộng thêm lời
tường trình của Trung tá Trưởng Phòng 2 Quân đoàn: Cộng quân vẫn còn luẩn quẩn
tại Pleiku, Kontum, kể cả những đơn vị thiết giáp, làm tôi cũng bớt lo âu phần
nào. Và tự an ủi mình, nếu Cộng quân có tiến chiếm Ban Mê Thuột, mình còn cầm cự
được đôi ba ngày. Khó khăn lắm tôi mới chợp mắt qua đêm, với những lo âu…
XIN BẤM VÀO READ MORE ĐỂ ĐỌC TIẾP
TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
Ngày 10/3/75
Khoảng 2 giờ
sáng, khi Ban Mê Thuột còn đang trong giấc điệp, bỗng bị đánh thức dậy bằng tiếng
pháo kích inh tai, rợn óc của Cộng quân. Tôi rất bình tĩnh vì đã nếm mùi hỏa tiễn
của Cộng quân ở những trận đánh trước Tết Mậu Thân tại Kontum, tại Quảng Ngãi,
Đà Nẵng và cả trận đánh Hạ Lào, v.v… Từ lầu hai tôi chạy xuống hầm chỉ huy mà
những vị Tiểu khu trưởng tiền nhiệm đã xây cất. Đây là một hầm rất kiên cố, làm
bằng bê tông cốt sắt, có thể chống được pháo kích. Trong hầm trang bị đầy đủ
máy móc truyền tin để liên lạc tới các đơn vị trực thuộc cũng như liên lạc với
cấp trên, hay cấp trung ương rất dễ dàng. Tôi liên lạc ngay với Thiếu tá Hy, Trưởng
Phòng 3 Tiểu khu dưới hầm TOC của Tiểu khu:
– Pháo kích
từ hướng nào?
– Dạ thưa, Cộng
quân bắn từ phía Tây tới.
– Bắn vào vị
trí nào?
– Trình Đại
tá, bắn vào Bộ chỉ huy Tiểu khu, Đài truyền tin ở sân bay L19, Bộ tư lệnh Sư
đoàn 23 BB và Kho đạn Mai Hắc Đế.
– Anh hãy gọi
ngay Pháo binh của mình cũng như Pháo binh Sư đoàn 23 BB tai Phụng Dực phản
pháo.
Tiếng pháo
kích vang rền thị xã Ban Mê Thuột cho đến 4 giờ sáng. Chúng dùng chiến thật tiền
pháo hậu xung và tấn chiếm kho đạn Mai Hắc
Đế ở phía Tây, bằng mũi dùi thật mãnh liệt. Đơn vị đồn trú đã chống trả một
cách anh dũng và kho đạn vẫn vững vàng. Về phía Bắc, Đài Truyền tin của Không
quân cũng bị tấn công.. Với chiến thuật biển người (Human Wave) và đánh sát lá
cà, chỉ cần nửa tiếng đồng hồ sau, Cộng quân đã tiến tới sát miệng hầm và dùng
lựu đạn tung vào miệng hầm. Một số sĩ quan và binh sĩ ta bị tử thương và bị
thương. Và chỉ 15 phút sau, TOC đã báo cáo với tôi, Đài Truyền tin đã lọt vào
tay giặc. Về phía trại Mai Hắc Đế, với những tay súng can trường ta dã bẻ gẫy
nhiều đợt tấn công của Cộng quân. Khoảng 5 giờ sáng, TOC/TK báo cáo Đại úy Chỉ
huy trưởng bị thương nặng. Kho đạn như rắn mất đầu và chỉ cầm cự đến 5 giờ 30
thì kho đạn bị tràn ngập. Như vậy mặt trận về phía Bắc và Tây đã bỏ ngõ, bây giờ
chỉ còn trông chờ vào những đơn vị phía Nam và Đông.
Đạn pháo
kích 130 ly vẫn rót đều vào thị xã. Lý do dễ hiểu là pháo binh của ta tại phi
trường Phụng Dực phản pháo với đạn 105 ly đâu có tầm xa như đạn 130 ly của CS,
đang đặt tuốt phía Tâỵ Vì vậy sự phản pháo trở nên vô vọng, không thể khóa họng
những khẩu đại pháo của địch. Nhất là pháo binh của ta không có L19 hướng dẫn,
chỉ điểm, điều chỉnh chính xác.
Đến 7 giờ
sáng, địch ngưng pháo kích và cũng ngay lúc này Thiếu tá Trưởng ty Cảnh sát
Darlac báo cáo thẳng với tôi:
– Thưa Đại
tá, chiến xa CS đã tiến vào thị xã và hiện đang bố trí xung quanh nhà thờ thị
xã. (Cũng nên ghi nhận là nhà thờ Công giáo này nằm ở trung tâm thành phố).
Lúc bấy giờ,
vì Tiểu khu nằm dưới hệ thống chỉ huy của Sư đoàn 23 BB và để tiện phối hợp,
bàn bạc kế hoạch chóng trả nhanh chóng. Tôi liền báo cáo và xin Tướng Phú được
qua chung với Đại tá Vũ Thế Quang, tại Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 BB. Tướng
Phú chấp thuận.
Mối lo ngại
lớn lao của Đại tá Quang và tôi là chiến xa CS đã lọt vào giữa thị xã. Với kinh
nghiệm của một sĩ quan kỵ binh tôi hiểu rất rõ hỏa lực tấn công của những con
ngựa sắt này.
Tia hy vọng
tới, khi trên bầu trời Ban Mê Thuột, đã xuất hiện L19 của Quân đoàn 2 gởi tới.
Những chiếc phản lực cơ chiến đấu đã vần vũ trong vùng giao tranh để yểm trợ
cho Tiểu khu Darlac và Sư đoàn 23 BB. Tinh thần chiến đấu của quân cán chính
lên rất cao. Những đoàn chiến xa CS từ hướng Bắc tiến về phía Nam đã bị các đơn
vị Điạ phương quân của Tiểu khu đánh chặn lại. Sư tiến quân của CS rất chậm chạp.
9 giờ tin
vui đem tới. Ta hạ được 2 chiến xa T54 địch và đang bốc cháy trước Câu lạc bộ
Sĩ quan trên đường Thống Nhất. Sự chênh lệch về lực lượng ta và địch quá rõ. Địa
phương quân phải so tài với quân chính qui Bắc Việt, với sự yểm trợ chiến xa và
pháo binh. Còn bên ta, đội pháo binh tại Phụng Dực, cũng như phi pháo không thể
yểm trợ vì dân chúng chưa được di tản. Cộng thêm, hỏa lực phòng không của địch
rất dày đặc, làm phản lực cơ A37 của ta cũng không thể xuống thấp để thả bom
cho chính xác được.
12 giờ 45, Thiếu tá Hy, Trưởng phòng 3 Tiểu
khu báo cáo: BCH/TK đã bị pháo kích nặng
nề. Một trái đã đánh trúng hầm TOC/TK làm nhiều người chết và bị thương. Trong
số đó có Trung úy Năm, Trưởng phòng 5/TK đã đền nợ nước. Hệ thống và máy truyền
tin chỉ huy bị hư hại nặng. Thiếu tá Hy xin phép được di chuyển Bộ Tham mưu ra
khỏi vị trí. Tôi chấp nhận ngaỵ
13 giờ 30,
Thiếu tá Hy báo cáo, địch quân đã tập trung pháo binh bắn vào Bộ Chỉ huy, sau
đó chiến xa và bộ binh đang tràn ngập vào hệ thống phòng thủ.
14:00 giờ, BCH/TK coi như thất thủ hoàn toàn. Tôi liền
báo cáo cho Tướng Phú.
Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên
đoàn 21 Biệt động quân xuống Ban Mê Thuột để tái chiếm BCH/TK.
Mãi đến 16
giờ chiêu, tôi mới nhận tin của Quân đoàn 2 rằng Liên đoàn 21/BDQ đang được trực
thăng vận xuống Ban Mê Thuột để chiếm lại BCH/TK.
17:00 giờ, đoàn trực thăng đã đến gần thị xã
nhưng không đáp xuống được vì phòng không CS bắn quá rát. Đến mãi 18 giờ, Quân
đoàn 2 mới quyết định cho thả Liên đoàn 21 BDQ xuống BCH/Chi khu Buôn Hô rồi đi
bộ tiến vào thị xã Ban Mê Thuột. Tôi liên lạc với Trung tá Dậu, Chỉ huy trưởng
Liên đoàn 21 BDQ, hối thúc Trung tá Dậu phải cho tiến quân nhanh vào thị xã để
tái chiếm lại BCH/TK. Mãi đến 11 giờ khuya, Trung tá Dậu cho biết rằng đã tới
ven thị xã Ban Mê Thuột mà không tiến vào được vì bị VC chặn đánh.
Tướng Phú ra
lệnh cho Trung tá Dậu, với bất cứ giá nào đêm nay Liên đoàn BDQ phải tái chiếm
BCH/TK.
Sau khi CS
chiếm được BCH/TK/DL xong là tiếng súng pháo binh cũng như súng trường đều được
im lặng khắp mọi nơị
Tôi báo cáo
lên Tướng Phú kết quả trong ngày là Tiểu khu bắn cháy 7 chiến xa T54 CS và rất
nhiều xác VC. Tướng Phú rất vui khen ngợi TK/DL (Darlac).
Tôi theo dõi
cuộc tiến quân của Liên doàn 21 BDQ từng phút, cứ 15-20 phút là tôi liên lạc với
Trung tá Dậu hỏi coi đã tiến tới đâu rồi. Vẫn những câu trả lời ngắn gọn:”Đang
tiến nhưng gặp nhiều ổ kháng cự. Ở trong hầm TOC/SD/23 BB suốt đêm, tôi và Đại
tá Vũ Thế Quang không nghe một tiếng súng nổ nào của bạn và địch cả.
Tôi ra lệnh
cho ông Phó Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Vỵ và Trung úy Dzi hiện là tùy viên của
tôi, nhưng trước là sĩ quan Chiến tranh Chánh trị của Tiểu khu, viết bài kêu gọi
dân chúng yên tâm, ngày mai Quân đoàn 2 sẽ chiếm lại Bộ Chỉ huy Tiểu khụ
Tôi đọc ghi vào băng và phát ra cho dân trong
thị xã Ban Mê Thuột nghe lúc 1 giờ sáng ngày 11/3/75.
Trong đêm,
Phòng 3 Bộ Tổng tham mưu liên lạc với tôi bằng điện thoại nhiều lần, hỏi về tình
hình thị xã như thế nào. Tôi báo cáo: BCH/TK đã mất, Kho đạn Mai Hắc Đế, phi
trường L19 đã bị CS chiếm từ sáng. Tôi và Đại tá Quang đang ở BTL/SD cố thủ, chờ
quân viện của Quân đoàn 2. Tinh thần anh em sĩ quan và binh sĩ rất cao, không
có gì nao núng.
Lực lượng trừ
bị của Tiểu khu là Trung đoàn 53 với 1 Tiểu đoàn và 1 Trung đội pháo binh cũng
bị CS tấn công từ sáng nên không thể tiếp cứu, giúp đỡ gì được cho Tiểu khu
Darlac.
Tôi chờ đợi
Liên đoàn 21 BDQ tiến vào thị xã, 2 giờ sáng ngày 11/3, rồi 3 giờ, rồi 4 giờ
cho đến hừng sáng Liên đoàn 21 BDQ cũng không tiến vào được.
Đúng 7 giờ sáng ngày 11/3/75, CS Bắc Việt bắt
đầu nã pháo binh vào Bộ Tư lịnh Sư đoàn 23, chiếc xe Jeep của tôi đậu gần
TOC cũng bị trúng pháo nổ tung rạ Tôi đoán chắc rằng CSBV đang cho pháo binh bắn
vào vị trí BTL/SD 23 để chuẩn bị tấn công. Tôi nói với Đại tá Vũ Thế Quang, lúc
này là lúc nguy ngập, sắp cận chiến, nếu không có cấp chỉ huy đứng bên cạnh
binh sĩ để chỉ huy, thì binh sĩ sẽ bỏ chạy khi địch quân xung phong. Đại tá
Quang đồng ý. Tôi nói với Đại tá Quang: Vì ở trước cổng BTL/SD (Bộ Tư lịnh Sư
đoàn) có 1 chiếc M113, nên để tôi trấn giữ mặt đó, còn Đại tá Quang thì trấn giữ
phía Tây Nam.
Lúc này khoảng
7 giờ 30 sáng. Tôi liền đi thẳng ra cửa BTL/SD đến chiếc thiết quân vận M113
đang bố trí tại cổng, dưới các loạt pháo kích 130 ly của CSBV gây nên một vùng
khói lửa mịt mù.
Tôi nhảy lên
chiếc thiết quân vận để quan sát thì thấy ngay ngoài cổng BTL khoảng cách độ
300 m đầy chiến xa T54 đã bao xung quang BTL. Đồng thời trong lúc này, Trung úy
Hoành đặc trách phòng thủ dinh Tỉnh trưởng với 1 Trung đội Địa phương quân, báo
cáo tư dinh, đang bị chiến xa tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh, đã bị sụp
đổ. Trung đội phòng thủ đã hạ được 2 chiến xa địch ngay trước cổng dinh bằng
súng M72. Tôi hết sức động viên khen ngợi Trung úy Hoành cố gắng chống cự.
Tôi cũng biết
CS tấn công xong tư dinh là tấn công BTL SD 23.
Các chiến xa
T54 đậu xung quanh BTL ngạo nghễ coi thường đối phương, không cần phải ẩn núp,
ngụy trang chi cả, vì chúng nó biết bên ta không có một chiến xa nào cả để
đương đầu, có thể tiêu diệt chiến xa của chúng.
Trung úy
Hoành báo cáo chiến xa CS đã ủi sập cổng tư dinh và tấn công vào phía trước.
Trung úy Hoành báo cáo vì có một số tử thương cùng bị thương, không thể chống
giữ với đợt tấn công bằng chiến xa của địch, nên binh sĩ rất nao núng và xin
phép được rút ra khỏi tư dinh.
Tôi chấp thuận.
(Trong khi
chiến xa CS tấn công bắn trực xạ đại bác của chiến xa vào lầu của tư dinh, 3 đứa
con trai của tôi vẫn còn ở trên lầu, có một đứa con trai út bị sức ép của viên
đạn đại bác nổ ra, nó bị hơi đẩy té từ lầu, lăn xuống thang, rớt xuống đất bị
thương ở ngực và chân).
Trung úy
Hoành hướng dẫn Trung đội Điạ phương quân còn lại thoát ra ngoài. Còn 3 dứa con
trai của tôi thì được toán phục dịch trong nhà dẫn theo Trung đội.
Tôi biết,
sau khi thanh toán tư dinh, thì CS sẽ cho lệnh xung phong vào BTL/SD 23.
Giờ phút
nguy ngập sắp đến, tôi sợ binh sĩ bỏ chạy, liền nhảy xuống M113 đi một vòng
theo hàng rào phòng thủ để kiểm soát binh sĩ và nhất là với mục đích cho binh
sĩ thấy mặt cấp chỉ huy của mình, cùng trực tiếp tham dự vào trận đánh, nên
không dám bỏ chạy. Tôi nói với binh sĩ hãy can đảm chống giữ BTL vì lực lượng của
Quân đoàn 2 sắp tới. Kiểm soát và ra lệnh xong, tôi liền nhanh chân trở lại chiếc
M113 và nhảy phóc lên trên, quan sát lại thì thấy các chiến xa T54 vẫn còn ở vị
trí cũ.
Những giây phút cuối cùng của Bộ Tư lệnh SD
23 BB
Khoảng 10 giờ
sáng, tiếng pháo địch im tiếng. Nếu ai đã ở trong binh nghiệp thì đều hiểu rõ
tâm trạng của những phút giây im lặng này. Nó hoang mang và lo sợ hơn nhiều khi
bên tai mình có tiếng súng nổ. Người ta cho là say súng. Mà thật vậy, khi đã
làm quen với chiến trận, việc nghe thấy tiếng nổ làm mọi người quên chính mình
và chỉ còn một cách duy nhất là chiến đấu. Chiến đấu để sống còn và ít ai còn để
ý đến thần chết đang lảng vảng quanh mình. Tôi lại nhảy lên pháo tháp quan sát
và thấy những chiếc xe đang chuyển bánh. Tôi nhảy vội xuống và la lớn:”Sẵn sàng
ứng chiến!”. Tôi dứng cạnh trưởng xa và căn dặn chỉ được bắn khi chúng tới gần
100 m nhé. Các anh em đều răm rắp tuân lệnh theo và chờ đợi khúc phim nghẹt thở
bắt đầu.
Chiến xa địch
đầu chầm chậm tiến thẳng vào chiết vận xa M113. May mà ngụy trang khéo léo nên
chúng không thấy. Tôi mừng quá và nói thầm trong bụng:”Mày sẽ chết con ạ”… Khói
đen từ ống thoát phun ra mù mịt, chiến xa T54 địch, chiếc đầu chầm chậm tiến
vào. Chúng vẫn chưa biết có chiếc M113 đang chờ đón nó vào cửa tử, vì được ngụy
trang kỹ càng như đã nói trên.
Tiếng máy
kêu ầm và các chiến xa đâm thẳng vào cổng Bộ Tư lệnh. Những con cua sắt ì ạch
tiến gần cổng 250m, rồi 200m, rồi 100m. Thần kinh tôi như giãn ra. Tất cả anh
em chúng tôi hồi hộp, giờ sinh tử bắt đầu. Tôi hét lớn “Bắn!”. Thay vì chúng
tôi phải nghe tiếng nổ thật lớn của viên đạn vút ra khỏi nòng súng, thì trái lại
cây súng chỉ cho chúng tôi một tiếng khô khan, lãng xẹc:”Cóc!”.
Trong khi mắt
mọi người và tôi dán chặt vào những con cua sắt. Tôi gào lên:
– Gì thế! Gì
thế!
Xạ thủ trả lời:
– Trở ngại
tác xạ, Đại tá!
– Mở
“culasse” ra xem?
– Trình Đại
tá, “Percuteur” bị gẫy!
– Có
“Percuteur” thay thế không?
– Thưa…
không!
Tiếng “thưa
không” làm tôi toát mồ hôi, vì đây là hy vọng cuối cùng cho sự cầm cự với Cộng
quân để chờ viện binh tới. Cây súng đại bác 106 ly không giựt này là phương tiện
duy nhất chống trả với T54 của địch mà thôị Các loại súng khác chỉ là trò đùa với
những con cua sắt này.
Bây giờ tiêu
diệt chiến xa địch bằng phương tiện gì đây? Tôi biết tôi phải rất bình tĩnh mới
cứu được anh em và chính mình. À phải rồi, chúng ta còn oanh tạc cơ đang bay lượn
trên không. Những chiếc phản lực cơ A37 sẽ xơi tái chúng một cách dễ dàng. Cũng
nên biết từ ngày hôm qua cho đến sáng nay, phi cơ của ta chỉ có thể thả bom ở
các mục tiêu xa ở ngoài thị xã. Trong thị xã còn 50,000 thường dân chưa được di
tản, vì vậy tôi đã trình với Tướng Phú về việc này và ông đã chấp nhận không
oanh tạc vào khu đông dân cự Cũng cần ghi nhận, từ trước tới giờ, chưa bao giờ
thị xã bị pháo kich của CS hoặc tấn công nên không gia đình nào có hầm trú ẩn…
Nay thì chiến xa địch đã lọt vào thị xã thì các oanh tạc cơ cũng không có cơ hội
nhào xuống thấp để đánh trúng mục tiêu vì phòng không của Cộng quân quá mạnh. Cứ
mỗi lần máy bay quan sát L19 hay oanh tạc cơ bay thấp một chút là phòng không địch
đã bắn lên trời như cảnh đốt pháo bông trong ngày Quốc Khánh.
Tôi liên lạc
ngay với L19 và nói chấp nhận sự nguy hiểm để dùng phản lực cơ dội bom thẳng
vào các chiến xa đang tiến vào Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 23 BB và như vậy mới chặn đứng
cuộc xung phong của CS. Trong lúc chờ đợi phi cơ làm thịt mấy con “cua sắt”,
tôi đi lui đi tới kế cận các chiến sĩ đang ghì tay súng chống trả lại địch
quân.
Thình lình,
mọi người nghe một tiếng nổ “ầm” thật khủng khiếp vang dội cả một góc trời.
Cát, đá, bụi tung lên cao cả hàng trăm thước. Thôi hỡi ơi! Trung tâm Hành quân
Sư đoàn (TOC), nơi đầu não Mặt trận Ban Mê Thuột để chống lại địch quân đã bị
Không quân ta đánh trúng.
TOC bị sập
và các phương tiện truyền tin thiết trí trong đó đều tiêu tùng theo mây khói. Một
số lớn sĩ quan, binh sĩ ở trong TOC bị chết và bị thương. Ai cũng biết, trong
trận mạc, truyền tin là huyết mạch chính. Bây giờ không còn để liên lạc với cấp
trên và thông tin cho cấp dưới nữa. Không một chút suy nghĩ, tôi chạy về phía
sau TOC để bàn với Đại tá Quang. Tôi nói nhanh với Đại tá Quang nhận định của
tôi:
– Chúng ta
không thể cố thủ được nữa vì đầu não của chúng ta là Trung tâm hành quân nay đã
sụp đổ. Không có truyền tin, không có chiến xa làm sao chận đứng những chiến xa
T54 và bộ binh CS đang tiến vào căn cứ. Trong khi đó chúng ta không có viện
binh. Tồi đề nghị chúng ta rút ra khỏi vị trí phòng thủ BTL Sư đoàn ngay để bảo
toàn lưc lượng còn lại.
Đại tá Quang
đồng ý và ra lịnh rút quân. Chúng tôi vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây
tức là “Suối Bà Hoàng” – cách BTL Sư đoàn 250m.
Cũng may mùa
này là mùa khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất tới 15m nên rất dễ
cho việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông, chừng 100 người. Xa xa tiếng
phát thanh tuyên truyền của địch quân gần Chùa Phật giáo của Tỉnh hội Phật giáo
Ban Mê Thuột kêu gọi các binh sĩ ta đầu hàng. Chúng tôi tiếp tục di chuyển về
phía Tâỵ Nhìn anh em binh sĩ, súng trên vai và lầm lũi theo mình. Đến giờ phút
này tôi mới thấy tình chiến hữu bên nhau thắm thiết. Lòng tôi bỗng chùng xuông.
Không có bút nào tả cho hết nỗi nhọc nhằn, buồn tủi của chúng tôi khi phải xa
lìa BLT Sư đoàn, tượng trưng cho sự thách đố với địch quân. Tôi không dám ngoảnh
mặt nhìn lại một lần cuối vì sợ không biết chính mình có đủ can đảm để không nhỏ
nước mắt cho số phận hẩm hiu, xui xẻo cho Ban Mê Thuột, cho anh em binh sĩ, cho
chính mình không? Đừng oanh tạc lầm, thì bây giờ mình đâu đến nỗi trở thành kẻ
chạy trốn như thế này. Ôi Ban Mê Thuột, xin tạm biệt mi và hứa sẽ trở về bên mi
suốt đời…
Hình ảnh lê
thê lếch thếch của đoàn quân ô hợp, như những khúc phim trên màn bạc cho trận
thế chiến II – trận Dunkerque năm 1940, mà lực lượng đồng minh phải bỏ thành phố
vì bị Đức tràn ngập. Lúc đó ho còn thiết giáp, nhưng thiết giáp của Đức tối tân
hơn nên phải ra hàng. Họ chạy đến bờ biển và đã kiếm bất cứ phương tiện nào như
du thuyền, canô hay thùng phao để thoát. Còn tôi bây giờ còn gì đâỵ sinh ra làm
lính thiết giáp mà bây giờ di chuyển như lính bộ binh. Tôi cũng không biết mình
là ai bây giờ. Mình là cấp chỉ huy hay chỉ là một binh sĩ tầm thường? Lo cho
anh em ra sao đây và chính mình sẽ ra sao đây? Trong những giây phút cuối cùng
của đời binh nghiệp, chết hay sống là chuyện bình thường. Lúc vào lính, tôi đã
có lúc nghĩ đến lúc mình làm thân chiến bại hay một viên đạn xuyên vào lồng ngực.
Nhưng không ngờ trong cảnh huống này nó lại sầu đau chất ngất như lúc này, tủi
nhục như bây giờ? Tôi chưa dám nghĩ quẩn vì bên cạnh mình còn anh em đang trông
chờ nơi mình. Chỉ một phút sai lầm, sẽ đem anh em và mình xuống hố sâu vực thẩm.
Tôi chỉ bàn với Đại tá Quang. Mình phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của
địch quân. Tôi đề nghị:”Toa” đi về một phía, “moa” một phía và cố gắng tìm về
Nha Trang nhé.
Đại tá Quang
gật đầu và chọn ngay cho mình một quyết định. Vị Tư lịnh chiến trường Ban Mê
Thuột nói với tôi:”Moa sẽ đi về hướng Nam, đến gần cầu khoảng cách 14km là tìm
đường về Nha Trang”. Còn tôi không còn chọn lựa naò khác hơn là đi về hướng
Tây, nằm về khu cà phê của Trung tướng Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc
Ban Mê Thuột và từ đó tìm về Nha Trang. Thật là đau thương, khi làm việc có
nhau, và giữa phút nghiêm trọng này chúng tôi cần có nhau hơn. Nhưng hoàn cảnh
lại không cho phép như vậy. Đành chia tay nhau và may ra còn cứu được lấy định
mệnh riêng của mình.
Trước khi
chia tay, chúng tôi bèn tập trung anh em binh sĩ lại và tôi tuyên bố:
– Tôi xin
thay mặt cho chính phủ và quân đội tuyên dương công trạng của anh em – những
chiến sĩ anh hùng, can trường đã chống trả mãnh liệt với bọn CS xâm lược miền
Nam với một tinh thần hy sinh cao độ. Từ 2 giờ sáng ngày hôm qua cho đến cho đến
giờ này các anh em đã làm tròn nhiệm vụ mà đất nước giao phó cho dù địch quân
có đông gấp mười chúng tạ 2 quả bom rơi nhầm vào Trung tâm Hành quân đã đưa
chúng ta tới nông nỗi này. Bây giờ anh em phân tán mỏng đừng dể địch quân phát
giác và tìm cách trở về Nha Trang. Hy vọng lúc đó chúng ta sẽ tập họp lại để tiếp
tục chiến đấu… Toàn dân ghi công anh em. Tổ quốc VN ghi công anh em. Xin tạm biệt.
Với nét buồn
vô tận, anh em đã nghe tôi nói như lời biệt ly sầu thảm. Nhiều anh em đã bật
khóc, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào mặt họ và lặng lẽ giơ tay chào anh em.
Nhìn anh em binh sĩ, Đại tá Quang và tôi còn nguyên vẹn bộ đồ tác chiến, giây
ba chạc, áo giáp, nót sắt. Nhìn chiếc hoa mai bạc trên ngực Đại tá Quang, tôi đề
nghị nên dấu nó đi để dễ bề ngụy trang trong khi di chuyển. Chúng tôi chia tay
nhau mà ai cũng như muốn khóc. Đi theo con suối Bà Hoàng mà lòng tôi như bị cắt
từng đoạn ruột, chúng tôi len lỏi qua các bụi lau sậy, những tảng đá lớn và những
nhà chòi mà người dân cất làm chỗ tạm thời che nắng đụt mưa khi làm việc cả
ngày ngoài đồng áng. Đi khoảng 100m tôi ngó lại vẫn còn chừng 20 người theo tôị
Trong đó có ông Phó Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, Nguyễn Ngọc Vy, một người kỳ cựu
của vùng Darlac và nhất là thị xã Ban Mê Thuột.
Tôi liền hỏi
ông Vy:
– Anh có biết
đồn điền cà phê của Trung tướng Thái
Quang Hoàng ở đâu không?
Ông Vy chỉ
tay về hướng đằng trước mặt:
– Thưa Đại
tá tôi biết. Xin Đại tá cứ tiếp tục đi về phía
Tây là sẽ tới.
– Vậy khi
nào đi ngang qua anh cho biết nhé. Chúng ta sẽ vào đó ẩn núp cho đến tối. Lợi dụng
bóng đêm chúng ta sẽ bọc về phía Bắc rồi tìm đường về Nha Trang.
Ông Vy gật đầu
và chúng tôi âm thầm tiếp tục di chuyển. Việc tôi chọn đồn điền của Trung tướng
Thái Quang Hoàng vì đồn điền này đã có từ lâu tất nhiên cây cỏ đã cao và rậm rạp
rất dễ ngụy trang…
Những
phút cuối cùng của đời binh nghiệp
Chúng tôi tiếp
tục đi khoảng 300m, anh Nguyễn Ngọc Vy nói với tôi:
– Trình Đại
tá, chúng ta đã tới ngang vườn cà phê của Trung tướng Hoàng rồi đây.
Tôi nói
ngay:
– Bây giờ
chúng ta phân tán mỏng và cẩn thận bò từ con suối này lên vườn cà phê và mỗi
người hãy chọn một chỗ ẩn núp và rồi chờ đến tối chúng ta sẽ tìm đường thoát
thân về Nha Trang.
Tuân theo lời
nói của tôi tất cả đều giăng hàng ngang và từ từ bò lên bờ suối. Sự hồi hộp đến
với mọi người vì phải bò băng qua một thửa đất bằng lộ thiên – không có cây cối
nào để ngụy trang, ẩn núp được. Nhìn toán người theo tôi, tôi rất lo ngại. Phần
vì, có hơn phân nửa là quân nhân, còn kỳ dư là nhân viên hành chánh với những
chiếc sơ mi áo trắng rất dễ dàng cho địch quân phát giác. Tôi rất ngao ngán cho
việc vượt thoát này. Nhưng không còn một con đường nào khác. Chúng tôi bò tiến
lên ngang mặt đất. Vưà lúc đó hàng loạt súng cộng đồng nổ vang và nhắm vào đoàn
người chúng tôị Đạn cày xới lên đất làm tung bụi mịt mù. Phản ứng tự nhiên của
mọi người là chạy ào lên vườn cà phê để ẩn núp. Bây giờ tôi mới thấm thía câu
“đạn tránh người chớ không phải người tránh đạn”. Nhiều người trúng đạn đã lăn
ra chết hoặc rên la vì bị thương. Dưới hỏa lực vũ bão, tôi vẫn bò như người
lính trong quân trường.
Nhìn sang bên cạnh có Thiếu úy Phương, tùy
viên của tôi vẫn bám sát lấy tôị Tôi rất cảm phục người sĩ quan tùy viên này,
dù đến phút này tinh thần kỹ luật vẫn còn giương cao và vẫn làm tròn nhiệm vụ của
một quân nhân gương mẫu. Tiếng đại liên, tiếng gào thét của chiến xa đang tiến
về chúng tôi như cuộc bủa vây đang thắt chặt. Tôi biết chúng tôi không thể nào
thoát trước một thế trận đường cùng này.
Tôi bèn bàn
với Thiếu úy Phương là chúng ta nên đầu hàng. Như hiểu ý tôi, Thiếu úy Phương cởi
áo lót trắng và lấy cây đưa lên cao phẩy qua phẩy lại để ra dấu hiệu đầu hàng.
Lập tức súng đại liên ngưng bắn và chiến xa tiến sát về phía chúng tôị Chúng ngừng
cách chúng tôi khoảng 10m, một cán binh CS nhảy ra khỏi chiến xa, với khẩu AK47
chĩa thẳng vào chúng tôi và quát lớn:
– Tất cả hãy
giơ tay lên! Giơ tay lên!
Mọi người đều
tuân lệnh hắn. Nó hỏi tôi:
– Tụi bây chức
vụ gì và cấp bậc gì??
Như cái máy,
tôi trả lời:
– Tôi là Đại
tá Tỉnh trưởng.
Hắn tròn xoe
mắt lại và nghi ngờ:
– Thật
không? Thật không?
Tôi gật đầu
và hắn hỏi tiếp:
– Tên gì nói
mau.
Tôi không ngần
ngại:
– Nguyễn Trọng
Luật!
– Thật
không?
– Thật.
Khi biết tôi
là sĩ quan cao cấp, hắn sững người và rất đỗi ngạc nhiên. Hắn càng ghìm tay
súng vào đầu tôi và nói hãy đứng yên và giơ tay cao khỏi đầu, và hắn tiếp tục hỏi
Thiếu úy Phương như vậy. Một cán binh khác nhảy từ trên xe đến lột hết quần áo
chúng tôị Trên người tôi và Thiếu úy Phương chỉ còn chiếc áo lót và chiếc quần
treillis. Chúng lấy hết súng lục, áo giáp, nón sắt, giầy boots và luôn cả vớ.
Chúng nhanh tay lấy giây trói chặt tay chúng tôi ra đằng sau và đẩy chúng tôi mỗi
người vào một hố cá nhân. Chừng nửa giờ sau, từ phía Tây một chiến xa khác tới.
Một cán binh người mập mạp, mặt mũi sáng sủa nhảy ra khỏi chiến xa và tiến tới
tôi chất vấn:
– Anh có thật
là Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Darlac không?
– Đúng.
– Thôi anh
ngồi chờ, chốc lát sẽ có xe đưa anh đi.
Khoảng 4 giờ
chiều, cũng từ phía Tây một chiến xa xuất hiện và bốc một mình tôi lên xe. Cửa
xe đóng lại tối thui và xe bắt đầu di chuyển. Tôi có thể đoán chắc là chúng đi
về hướng Tây để đến Bộ Chỉ huy của chúng. Đến lúc này, tôi thật bình tĩnh và
coi nhẹ những sự việc xảy ra cho mình. “Sinh nghề tử nghiệp. Tôi là sĩ quan thuộc
binh chủng Thiết giáp và bây giờ bị bắt bởi chính đoàn quân kỵ mã này.
Dầu sao, tôi
vẫn còn những tia hy vọng rọi xuống tâm hồn khô héo của tôi lúc này là tiếng
súng vẫn còn vang động khắp chiến trường Ban Mê Thuột. Phản lực cơ của quân đội
ta vẫn vần vũ trên không phận thân quí Cao nguyên. Dù tôi có bị bắt, nhưng hy vọng
của tôi vẫn là Ban Mê Thuột vẫn như thành đồng trụ sắt. Quân tiếp viện sẽ tới
và những con mãnh hổ sẽ làm tròn nhiệm vụ của người lính VNCH ngàn đời uy danh.
Ban Mê Thuột vẫn ngạo nghễ thách đố với mọi hoàn cảnh…
Nhìn lại trận đánh Ban Mê Thuột
Bây giờ với
đời sống thật sự thanh thản, bình tâm mà nhìn lại, nghĩ lại tôi thấy vài điều cần
được xét lại. Tất nhiên không phải để phê phán, hay gỡ tội hoặc giả để lẩn
tránh trách nhiệm, lẩn tránh sự thật. Nhìn lại, nghĩ lại chỉ có mục đích duy nhất
là chia sẻ với những người còn sống về một biến cố trọng đại đầu tiên đã dẫn tới
sự sụp đổ của chính thể và chế độ VNCH tại miền Nam nước Việt.
1. Mất tỉnh, Tỉnh trưởng phải chịu trách nhiệm?
Đây là câu
nói thông thường của những người thiếu hiểu biết. Nhiệm vụ của Tỉnh trưởng chỉ
là trách vụ về hành chánh, kinh tế, chính trị, v.v…mà thôi. Về an ninh quân sự
lại nằm trong tay Tiểu khu trưởng.
Nhiệm vụ của
Tiểu khu trưởng là giữ an ninh các cơ sở, đường xá, cầu cống, tìm kiếm tin tức
tình báo để báo cáo len cấp trên, cũng như truy lùng, tiêu diệt du kích và những
cán bộ CS xâm nhập vào vùng trách nhiệm của mình. Tiểu khu trưởng chỉ có trong
tay những Tiểu đoàn Địa phương quân, Nghĩa quân, Cảnh sát và tổ chức Nhân dân Tự
vệ… Vì vậy, các đơn vị này không có khả năng đương đầu với quân chính qui của địch.
Nhìn lại trận
đánh Ban Mê Thuột, Tiểu khu Darlac đã nhiều lần báo cáo có những dấu hiệu về sự
xuất hiện hoạt động của quân chính qui CS. Bằng chứng là tại phía Tây, Ban2 Tiểu
khu Darlac đã phát hiện ống dẫn dầu của quân Bắc Việt hay những dấu xích chiến
xa để lại ở phía Tây Ban Don và Ia Sup. Đặc biệt ngày 7/3/75, Tiểu khu Darlac
hành quân đã bắt được một tù binh thuộc Sư đoàn 320/BV đang giăng giây điện thoại.
Tin tức này cũng không thuyết phục nổi Tướng Phú và Tướng Tường để cho Trung
đoàn 45 BB trở lại Ban Mê Thuột. 2 ông này vẫn còn ám ảnh về CS sẽ đánh Kontum
hay Pleikụ Chưa bao giờ các ông cho rằng Ban Mê Thuột sẽ bị tấn công.
2. Tại sao Tiểu khu lại không biết chiến xa địch
tiến vào Ban Mê Thuột?
Câu hỏi này
làm tôi thắc mắc mãi và muốn tìm câu trả lời cho chính mình. Khi ngồi trong tù,
tôi có đọc “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng tôi mới vỡ lẽ. Các chiến xa của
CS đã được bố trí cách thị xã Ban Mê Thuột trên hàng trăm km về phía Tây Bắc,
trong rừng úi trùng trùng điệp điệp của Cao nguyên.
Nhìn trên bản
đồ, Phòng 2 hay cấp chỉ huy bao giờ cũng tiên đoán ngay và cho rằng nếu chiến
xa địch, nếu có tấn công đêm nay, thì chỉ có khả năng tấn công Pleiku chứ không
thể là Ban Mê Thuột.
Vì xung
quanh Ban Mê Thuột, hay phía Tây, dù Tây Bắc hoặc Tây Nam đều là dãy rừng già với
cây cối cao lớn. Qua con mắt của một sĩ quan kỵ binh như tôi, việc tấn công Ban
Mê Thuột bằng chiến xa khó có thể thực hiện nổi. Trái lại, Pleiku với những đồi
thoai thoải, trống trải, không có cây cối là địa bàn lý tưởng cho chiến xạ.
Nhưng, đây
là chữ nhưng to tướng, nghĩa là CS đã cho công binh dọn đường trước, bằng cách
cho cưa tất cả các cây lớn mà chiến xa không ủi ngã được. CS đã không cưa đứt hẳn
để cây đổ xuống làm phi cơ quan sát được, mà chỉ cưa 2/3 cây thôị Trên máy bay
do thám của ta luôn luôn thấy cây cối um tùm như thường, không có con đường nào
băng qua rừng cả. Đến khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc trực chỉ Ban Mê Thuột,
và khi gặp những thân cây lớn, chiến xa cứ ủi xập những cây mà công binh đã cưa
sẳn 2/3. cây lớn đều nằm rạp xuống và chiến xa cứ thế mà tiến lên dễ dàng. Khi
gần tới thị xã, CS đã cho pháo kích vào thị xã để che lấp tiếng động cơ của các
chiến xa đang di chuyển…
3. Làm sao Địa phương quân có thể tiêu diệt
chiến xa?
Tôi là sĩ
quan kỵ binh được giao trọng trách chỉ huy trưởng Tiểu khu Darlac, ngoài ý muốn
của tôi. Kinh nghiệm về Thiết giáp vẫn là sở trường của tôi. Khi tôi nhận nhiệm
vụ lẽ tất nhiên tôi đã để ý nhiều về những con ngựa sắt này. Tất cả thiết giáp
của ta đều được điều dộng về Pleiku hết. Ban Mê Thuột chỉ còn có 2 chiếc
Commando car để tuần tiểu, hộ tống cho các đoàn công voa hay các cấp chỉ huỵ
Trong đầu tôi bao giờ cũng đặt ra câu hỏi, liệu CS tấn công các chi khu hay đồn
bót bằng chiến xa thì sao? Vì vậy, việc đầu tiên nghĩ đến là loại súng M72, loại
chống chiến xa mà Quân đội Hoa Kỳ cung cấp. Tôi bèn xin BTL Quân đoàn 2 cho
trang bị loại súng trên cho Tiểu khu. Không có toán, tiểu đội, trung đội, đại đội
nào thuộc Địa hương quân của Tiểu khu Darlac là không có trang bị M72. Ngay cả
những Trung đội Nghĩa quân nữa. Tôi chỉ thị cho các sĩ quan và binh sĩ đều phải
sử dụng M72 một cách nhanh nhẹn và chính xác. Tôi còn luôn luôn kiểm soát chặt
chẽ và khi tôi thanh tra bất cứ một đơn vị thuộc Tiểu khu Darlac, bất cứ đâu, từ
sĩ quan đến binh sĩ đều lưu lại khảo hạch và chờ biểu diễn cách sử dụng M72 chống
chiến xa, cũng như ân cần nhắc nhở mọi người làm sao tăng hiệu năng của của súng
và bắn cho chính xác.
Trong trận
đánh Ban Mê Thuột, 9 chiến xa CS nằm ụ
trên đường Thống Nhất hoặc trước mặt BCH Tiểu khu và Dinh Tỉnh trưởng đều là
công đầu của các chiến sĩ Điạ phương quân Tiểu khu Darlac. Ai cũng biết,
các oanh tạc cơ của ta không được thả bom vào thị xã mà chỉ được đánh bom vào
các mục tiêu ven thị xã mà thôị Oanh tạc cơ của ta chỉ có một lần đánh vào chiến
xa địch trước mặt BTL Sư đoàn 23 BB với 2 quả bom. Nhưng thảm thương thay lại
đánh trúng Trung tâm Hành quân của Mặt trận Ban Mê Thuột. Tôi cũng cần minh
xác, tôi viết ra đây những sự kiện này, không phải là kể công cho Tiểu khu
Darlac hay phiền trách Không quân, mà là những lời nói danh dự của một sĩ quan
QLVNCH biết tự trọng, liêm sỉ và sự trung thực gởi đến các chiến hữu đã sát
cánh bên nhau trong những ngày lửa đạn và các bạn.
Tôi cũng xin
kể thêm, năm 1984, trong hời gian tôi ở trại tù Nam Hà — Hà Nam Ninh. Một buổi
sáng tôi đang gánh nước tưới rau, vì tôi thuộc trung đội trồng rau cho trại.
Tình cờ tôi gặp một thanh niên trạc ngoài 30 tuổi, lại chào tôi:
– Chào Đại
tá.
– Thôi cứ gọi
nhau bằng anh em đi, vì nước mất nhà tan rồi, còn đâu là tá với tướng.
– Không!
Riêng với Đại tá, tôi vẫn tôn kính là Đại tá. Tôi phục Đại tá là chưa có Địa
phương quân của Tiểu khu nào mà bắn cháy được chiến xa CS được. Riêng chỉ có Địa
phương quân Darlac là tiêu diệt được T54 của địch. Tôi còn nhớ ngày 11/3/75,
tôi là người đi dọc theo đường Thống Nhất để lấy tin tức về báo cáo cho Đại đội
23 Thám sát của tôị Tôi đã đếm được 10
chiến xa bị bắn cháy.. Sự thán phục ấy đến nay tôi mới gặp Đại tá để bày tỏ
nỗi niềm cũng như chào kính và thăm hỏi Đại tá.
– Vậy anh là
ai và ở đâu?
– Tôi tên là
Chí trước thuộc Đại đội Thám báo Sư đoàn 23 BB. Hiện nay tồi còn bị tù ở đây
cùng với Đại tá nhưng ở khu khác.
– Cám ơn anh
về những lời khen cho Địa phương quân Tiểu khu Darlac. Xin anh một điều là từ
bây giờ chúng ta cứ gọi là anh em thôị Vì như tôi đã nói lúc nãy, đất nước đã mất
rồi, chúng ta chỉ còn tình nghĩa để đối với nhau mà thôi.
– Dạ nếu như
Đại tá cho phép thì tôi vâng.
Lòng tôi
dâng lên một niềm vui sướng cho buổi gặp gỡ ngắn gọn ấy. Thứ nhất là dù trong
hoàn cảnh tù đày anh em vẫn tôn kính nhau và họ nhận ra tôi đã không làm điều
sai quấy khi còn tại chức. Đây cũng là phần thưởng cho tôi vì trong tù anh em
thường hay nói với nhau:”Khi ở tù rồi mới biết ai là tướng tá thật, ai là tướng
tá giả — đáng kính hay đáng khinh…
Thứ hai là
anh Chí đã xác nhận số chiến xa bị bắn cháy mà do Thiếu tá Trưởng Phòng 3 báo
cáo cùng tôi là 9 chiếc mà bây giờ là 10 chiếc.
4. Tướng Phạm Văn Phú là tướng giỏi hay dở?
Tướng Phú
hoàn toàn bị địch đánh lừa và ít ra không có kinh nghiệm chiến trường Cao
nguyên. Trước kia, khi còn Quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN, tin tức tình báo
chiến lược hay tin tức liên quan đến các đơn vị lớn của VC đều do Mỹ cung cấp.
Nhưng sau Hiệp định Paris, nguồn tin từ Mỹ đều chấm dứt và Phòng 2 của ta chỉ
còn khả năng lấy tin tức các đơn vị chính qui Bắc Việt bằng cách tìm điện đài của
địch. Vì biết được yếu điểm này của QLVNCH, nên CS vẫn cho điện đài phát thanh
hàng ngày như thường lệ và tuyệt đối im lặng truyền tin trong khi di chuyển về
phía Nam. Vì vậy Tướng Phú cứ đinh ninh là các Sư đoàn Bắc Việt vẫn còn ở phía
Tây Pleiku và Kontum.
5. Tổng Thống và Tổng Tham mưu Trưởng
Nếu qui
trách nhiệm cho Tướng Phú làm mất Ban Mê Thuột vì dở là quá sai. Vì kế hoạch
hành quân hay bố trí các đơn vị để phòng thủ các Vùng đều được Tổng Tham Mưu
Trưởng và Tổng Thống (Tổng Tư Lệnh) duyệt xét và chấp thuận mới được thi hành.
Quân đoàn 2 và Tướng Phú được sự chỉ huy trực tiếp của Tổng TMT và TT. Mất Ban
Mê Thuột đâu phải trách nhiệm riêng gì của Tướng Phú mà chính là Tổng TMT và
TT. Các đơn vị chia sẻ trách nhiệm như Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu, Cục An ninh
Quân đội, Đơn vị 101/TTM. Tất cả các cơ quan trên làm gì, để các đại đơn vị Bắc
Việt di chuyển về phía Nam, để đánh vào thị xã Ban Mê Thuột? Ai là người dám
công khai lãnh nhận trách nhiệm? Cho đến nay, trong chiến tranh VN mới chỉ có
thấy ông cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara là dám nói lên lỗi lầm của ông ấy mà
thôị Bằng một cuốn sách, McNamara nhận trách nhiệm. Còn ai nữa? Hay tất cả chỉ
cầu mong thời gian khỏa lấp vào “cuối trời lãng quên” hay là viết hồi ký để rửa
tay kiểu quan Phi-la-tô trong Thánh kinh khi trao Đức chúa GieÁsu cho dân chúng
muốn làm gì thì làm, muốn giết chúng mày cứ việc giết, tao không có trách nhiệm
gì hết? Ngụy biện quá sức.
6. Hãy so sánh lực lượng đôi bên
a) Lực lượng Quân đoàn 2
– Sư đoàn 22
BB
– Sư đoàn 23
BB
– 4 Liên
đoàn BDQ (bằng 1 sư đoàn)
– 1 Lữ đoàn
Thiết giáp
– 1 Sư đoàn
Không quân (Sư đoàn 6 Không quân)
– 1 Trung đội
Hoả tiển TOW
b) Lực lượng CS
– Sư đoàn
320
– Sư đoàn
F10
– Sư đoàn
Sao Vàng
– Sư đoàn
968
– Pháo binh
130
– Pháo binh
Phòng không (Sư đoàn)
– Thiết giáp
Lữ đoàn)
– Các đơn vị
Công binh
– Các đơn vị
Đặc công (2 Trung đoàn)
Nhìn qua
tương qua giữ ta và địch, với nhiệm vụ phòng thủ, ta có thể làm tròn nhiệm vụ một
cách dễ dàng. Trong binh pháp ai cũng biết, một lực lượng tấn công, phải gấp 3
lần lực lượng phòng thủ mới mong thắng trận được. Mất Ban Mê Thuột ta đã bị
đánh lừa, vì ta không biết địch tấn công ở đâu, cũng giống như trên bàn cờ tướng,
ta thua vì không biết nước chiếu của đối thủ.
7. Bài học của người Pháp
Khi còn là Đại
úy, tôi đã có dịp theo học một khóa tham mưu, trong đó học chiến thuật, chiến
lược. Người Pháp đã để lại một tài liệu nói về Cao nguyên. Đại ý:”Muốn giữ Cao nguyên thì phải giữ Ban Mê Thuột.
Muốn giữ miền Nam phải giữ Cao nguyên”. Phải chăng qua nhận dịnh đó, chúng
ta đã mắc tới 3 sai lầm:
– Dời Bộ tư
lệnh Quân đoàn 2 về Pleiku?
– Tập trung
quân giữ Kontum và Pleikụ
– Bỏ Cao
nguyên để giữ miền Nam?
8. Những chuyện nghe được từ trong tù
Tại trại tù
Nam Hà (Hà Nam Ninh), tôi được biết đứa con út của tôi đã chết tại xã Châu Sơn
cách thị xã Ban Mê Thuột chừng hơn 3km. Số là khi CS tràn ngập tư dinh Tỉnh trưởng
Darlac, các con tôi đã theo chân những binh lính trong dinh chạy trú ẩn tại nhà
cha Tâm, cha sở xã Châu Sơ, một xã phần dông là người Công giáo từ Bắc di cư
vào Nam năm 1954, nên có tinh thần chống Cộng cao độ. CS đã nã pháo kích như
mưa vào làng, làm trúng hầm trú ẩn gia đình cha Tâm. Kết quả là đứa con út tôi
và 2 đứa cháu của cha Tâm bị tử thương.
Cũng trong
tù CS, tôi có gặp Đại tá Nguyễn Văn Của, Thiết giáp, Tỉnh trưởng tỉnh Châu Đốc
đã có dịp nói chuyện cho tôi biết: “Khi
thị xã Ban Mê Thuột bị mất, TT Thiệu đã triệu các Tỉnh trưởng về họp tại Dinh Độc
lập và có phán một câu xanh rờn, “Thằng Luật trở về trình diện, tôi sẽ xử bắn
ngay vì bỏ chạy mà không giữ được thị xã. Còn các anh cũng vậy, ai bỏ tỉnh mà
chạy, tôi cũng bắn ngay”.
Nghe lời kể
của anh Của mà lòng tôi xót xạ Ở dời ai có hiểu mình và tôi lại nhớ tới bài hát
“Bay Đêm” của Song Ngọc có câu “Ở đời ai hiểu ai…” để an ủi chính mình trong đời
lao tù không có ngày ra này. Thêm nữa, cũng may cho tôi là tôi đã không có bỏ tỉnh,
chạy trước khi địch quân đến như ít vị Tỉnh trưởng khác và cũng may là tôi còn ở
lại cố thủ để bị bắt tại chiến trường. Nếu không bị xui xẻo vì bị oanh tạc lầm
vào TOC, nếu quân tiếp viện đến kịp thời thì đâu đến nỗi bị bắt và ở tù tại miền
Bắc 13 năm, 5 tháng, 25 ngày.
Để chấm dứt
bài này, sau khi gia đình tôi đã được định cư tại Mỹ, qua diện HO. Vì chưa ổn định
được đời sống nên tôi chưa có dịp diện kiến TT Thiệu để thưa lại vị Tổng tư lịnh
của tôi đôi điều. Có một cảm nghĩ mà tôi cứ suy nghĩ mãi là các Tướng VNCH có đọc
truyện Tàu không, nhất là Tướng Phú, để không bị CS đánh lừa ở vùng 2. Vì nếu đọc
truyện Tàu đời xưa, chúng ta đều biết trận đánh giữa Hàn Tín và Hạng Võ được gọi
là “Minh tu sạn đạo; ám độ trần thương”.
Đại Tá Nguyễn Trọng Luật
Florida, 6/95
SOURCE:
https://nhatbaovanhoa.com/a8886/10-03-1975-ban-me-thuot-that-thu
.
No comments:
Post a Comment