Trong thời gian bị giam giữ trong các trại cải tạo của CS, chúng
tôi đã có dịp tiếp xúc với hàng trăm người có trách nhiệm hay liên quan đến
những biến cố đưa đến sự sụp đổ toàn bộ miền Nam VN, trong đó trận Ban Mê Thuột
là trận quan trọng nhất. Vì được gặp nhiều người cùng một lúc nên chúng tôi đã
có dịp kiểm chứng những điều mà mỗi người đã kể. Đối với những người mà chúng
tôi không ở cùng chung trại, sau khi về Saigon hay qua Mỹ, chúng tôi đã tìm
cách để tiếp xúc và hỏi thêm, như trường hợp của Đại tá Nguyễn Văn Đồng, Tư lệnh Thiết đoàn 2 của Quân khu 2. Ông
chỉ huy đoàn quân tháo chạy trên liên tỉnh lộ 7 và đã bị bắt gần Củng Sơn (Phú
Yên). Chúng tôi cũng đã có dịp tham khảo nhiều sách báo của các tác giả miền
Nam VN, của người Mỹ cũng như của Quân đội VC viết liên quan đến biến cố
30/4/75. So sánh những tài liệu thu thập được, chúng tôi đã khám phá ra nhiều sự
kiện lịch sử cần được viết lại cho chính xác hơn.
Khi mới đến Hoa Kỳ vào năm 1990, chúng tôi đã viết ngay một bài
nói về những bí ẩn đằng sau sự thất thủ Ban Mê Thuột, bài này đã gây ngạc nhiên
và xúc động cho nhiều ngườị Nay những người liên hệ đến trận Ban Mê Thuột đã
đến Hoa Kỳ. Có nhưng người đã đồng ý viết ra những biến cố mà họ đã tham dự hay
chứng kiến như Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng
phòng 2 Quân đoàn 2, Trung tá Ngô Văn Xuân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44
thuộc Sư đoàn 23... nhưng đa số đã thú nhận rằng họ phải bỏ bớt đi vì sợ đụng
chạm. Có người chỉ kể lại chứ không chịu viết và cũng có người khi kể lại đã
yêu cầu đừng nêu tên họ ra khi viết, cũng vì sợ đụng chạm. Sau khi tổng kết,
chúng tôi xin ghi lại những bí ẩn liên quan đến sự thất thủ Ban Mê Thuột. Sự
thật có nhiều điều khác xa với những gì Văn
Tiến Dũng đã viết trong cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” hay Phạm Huấn đã viết trong cuốn
“Tướng Phú và Những Trận Đánh Từ Điện Biên Phủ 1954 Đến Ban Mê Thuột 1975”.
Biến cố 30/4/75 đã gây ra những ấn tượng kinh hoàng và đau xót
trong lòng người Việt trong cũng như ngoài nước. Biến cố đó đã đưa cả dân tộc
vào những ngày bi thảm nhất và để lại một vết thương đau đớn trong lịch sử. Mặc
dầu đã 21 năm qua, ấn tượng đau xót và tủi nhục đó vẫn chưa phai mờ đi được.
Mọi người dều công nhận rằng sự thất thủ Ban Mê Thuột là biến cố
khởi đầu đưa đến sự sụp đổ toàn bộ miền Nam VN. Tại sao Ban Mê Thuột đã bị thất
thủ một cách mau chóng như vậy? Phải chăng đây là một cuộc tấn công quá bất ngờ
của Cộng quân khiến QL/VNCH không trở tay kịp? Phải chăng Bộ Tổng Tham Mưu
QLVNCH đã thua đòn cân não của Hà Nội? Phải chăng khả năng chiến đấu của QLVNCH
quá yếu kém, không đương đầu nổi với lực lượng của Cộng quân? Rất nhiều câu hỏi
như thế đã được nhiều người đặt rạ Chúng tôi xin tuần tự trình bày từng chi
tiết về diễn biến của trận Ban Mê Thuột để trả lời những câu hỏi đó.
1. Phối trí của QLVNCH và
Cộng quân
Ban Mê Thuột là một tỉnh nằm ở Cao nguyên Trung phần; vùng cao
nguyên này gồm 4 tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột và Quảng Đức.
Tướng Phú phụ trách Quân đoàn 2 đã phối trí quân để phòng thủ Cao
nguyên như sau : 5 Liên đoàn Biệt động quân được dùng để bảo vệ Kontum vì sợ
Cộng quân sẽ mở một cuộc tấn công như “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Ba tỉnh còn lại
được giao cho Sư đoàn 23 bảo vệ, sư đoàn này được phối trí như sau : 2 Trung
đoàn 44 và 45 được đưa về phòng thủ Pleikụ Trung đoàn 45 đóng ở căn cứ Gầm Ga,
phía Bắc Quận Thuần Mẫn, gần đèo Tữ sĩ, dọc theo Quốc lộ 14, giữa Ban Mê Thuột
và Pleikụ Trung đoàn 53 giữ Ban Mê Thuột và Quảng Đức. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23
đóng tại Ban Mê Thuột còn Bộ Tư lệnh Hành quân đóng tại căn cứ Hàm Rồng ở
Pleikụ Về sau, Bộ Tổng Tham mưu tăng cường cho Quân đoàn 2 thêm 3 Liên đoàn 4,
6 và 7 Biệt động quân của trung ương nữạ
Cộng quân có Sư đoàn 320 đóng ở Kontum, Sư đoàn F.10 hoạt động ở
Pleiku, Sư đoàn 986 trú quân tại vùng Tam Biên và Trung đoàn biệt lập 25, một
trung đoàn khá thiện chiến, luôn quấy phá ở 2 tỉnh Ban Mê Thuột và Quảng Đức.
Ban Mê Thuột là nơi đặt Bộ Tư lệnh của Sư đoàn 23 của QLVNCH. Nơi
đây toàn rừng cao su, không có chướng ngại thiên nhiên để giúp phòng thủ như ở
Kontum hay Pleiku nên rất dễ bị tấn công. Lực lượng phòng thủ ở đây lại rất yếụ
Nghĩa quân và Địa phương quân phần lớn là người Thượng, không thiện chiến,
thiếu tinh thần kỷ luật và được trang bị không đầy đủ. Tất cả chỉ trông chờ vào
Trung đoàn 53, nhưng Trung đoàn này phải bao một vùng lãnh thổ quá lớn gồm 2
tỉnh nên khó bảo vệ nổị Do đó, không ai ngạc nhiên khi thấy Cộng quân chọn Ban
Mê Thuột để tấn công. Mặt khác, nếu chiếm được Ban Mê Thuột, Cộng quân sẽ khai
thông được con đường Đông Trường Sơn từ Pleiku tới Phước Long qua Quận Đức Lập
của Ban Mê Thuột.
2. Địch điều quân
Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 của Quân đoàn 2 kể lại rằng nhờ hệ thống truyền tin điện tử, Quân đoàn 2 QL/VNCH
đã mở được hầu hết các khóa mật mã của Cộng quân đánh đị Nhờ vậy, Quân đoàn 2
đã khám phá ra Cộng quân chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ tháng 12/74.
Để đánh Ban Mê Thuột, lúc đầu Cộng quân huy động 4 sư đoàn : Sư
đoàn Sao Vàng ở Bình Định, Sư doàn F.10 ở Pleiku, Sư đoàn 320 ở Kontum, Sư đoàn
986 đang đóng ở vùng Tam Biên. Ngoài ra, Cộng quân còn xử dụng Trung đoàn biệt
lập 25.
Trước hết, Cộng quân ra lệnh cho Sư đoàn 986 đang đóng ở vùng Tam
Biên kéo về phía Tây Quận Thanh An ở phía Tây Pleiku để thay cho Sư đoàn F.10
tiến về phía Tây Nam Ban Mê Thuột. Đại úy Trác Ngọc Anh, một sĩ quan không báo
của Quân đoàn 2, đã nói với chúng tôi rằng vào cuối tháng 1/75, khi máy bay
L.19 chở anh đang bay thám thính trên con đường từ vùng Tam Biên về Thanh An
thì bất thần anh phát hiện ra một đoàn quân xa độ 100 chiếc đang chạy từ Tam
Biên theo hướng Nam về phía Pleikụ Một lúc sau khi nghe báo cáo, cơ quan quân
báo của Hoa Kỳ đã nói vào máy cho biết đích danh đó là các xe chuyển quân của
Sư đoàn 968 của Cộng quân. Quân đoàn 2 đã xin Bộ Tổng Tham mưu huy động các phi
cơ A37 của Sư đoàn 2 và Sư đoàn 6 Không quân đến oanh kích. Cuộc oanh kích kéo
dài từ 9 giờ sáng đến quá trưa, nhưng vẫn còn thấy một số xe đang chạỵ Bộ Tổng
Tham mưu phải điều động thêm Sư đoàn 1 Không quân ở Đà Nẵng vào trợ chiến. Cuộc
oanh kích kéo dài đến 4 giờ chiều thì chấm dứt. Một máy bay C.47 của Bộ Tổng
Tham mưu đã đến chụp hình và thấy khói bay ngụt trời, nhiều tiếng nổ từ dưới
đất phát ra, vô số xe bị bắn cháy nằm rải rác trên đường. Sau chiến công này
Trung úy Trác Ngọc Anh (hiện đang ở Hoa Kỳ) được vinh thăng Đại úỵ.
Bị thiệt hại nặng trong vụ oanh kích đó, Sư đoàn 968 không còn khả
năng chiến đấu như lúc đầu nữạ Bộ chỉ huy Tây nguyên của Cộng quân đã điện về
Hà Nội cầu cứụ Hà Nội liền ra lệnh rút gấp Sư đoàn 316 đang đóng ở vùng biên
giới Lào - Việt ở phía Tây Nghệ Tĩnh đưa vào Cao nguyên Trung phần thay thế cho
Sư đoàn 968. Sư đoàn 316 là một sư đoàn cơ động nhẹ, chỉ có 2 trung đoàn, nên
khi đi qua Thừa Thiên đã được tăng cường thêm một trung đoàn của 1 sư đoàn Cộng
quân đóng phía Tây đèo An Khê; sư đoàn này cắt quốc lộ 19 nối liền Bình Định và
Pleiku để chận đường tiếp viện của Sư đoàn 2 Bộ binh VNCH và làm nghi binh.
Sư đoàn F.10, từ Pleiku tiến về phía Tây Ban Mê Thuột, vây Quận
Đức Lập, cắt con đường (Quốc lộ) 14 nối liền Ban Mê Thuột với Đức Lập. Sư đoàn
320 từ Kontum di chuyển về phía Bắc Ban Mê Thuột, đóng cách Quốc lộ 14 về phía
Tây 5km để chận Quốc lộ 14 từ Pleiku đến Ban Mê Thuột. 1 tiểu đoàn của sư đoàn
này đã băng qua Quốc lộ 14, khúc cầu 210 (còn gọi là Ialeo) và tiến về phía
Đông, đóng chốt trên đường nối liền tỉnh Phú Bổn với Quận Thuần Mẫn ở phía Đông
Bắc Ban Mê Thuột.
Trung đoàn 25 Cộng quân tiến về phía Đông Ban Mê Thuột, chận Quốc
lộ 21 nối liền tỉnh Khánh Hòa với Ban Mê Thuột, khúc đèo Chư Cúc, giữa Quận
Khánh Dương của Khánh Hòa và Quận Phước An của Ban Mê Thuột. Tàn quân của Sư
đoàn 986 (khoảng hơn 1 trung đoàn) tiến về phía Tây Pleiku, có nhiệm vụ gây rối
để cầm chân 2 Trung đoàn của Sư đoàn 23 VNCH lại mặt trận Pleikụ
Sư đoàn cơ động nhẹ 316 mới từ Bắc vào sẽ làm mũi nhọn đánh vào
thành phố Ban Mê Thuột để thăm dò. Sợ Sư đoàn 316 thiếu kinh nghiệm, không nắm
vững địa hình địa vật, không hoàn thành nhiệm vụ, Hà Nội chỉ thị cho một tiểu
đoàn của Trung đoàn 95-B hướng dẫn sư doàn nàỵ
Riêng Sư đoàn 2 Sao Vàng, Phòng 2 của Quân đoàn 2 VNCH không tìm
thấy dấu vết ở đâụ Sau này, khi đọc cuốn “Sư đoàn 3 Sao Vàng” của VC, chúng tôi
mới khám phá ra sư đoàn 2 Sao Vàng này đã bị tiêu diệt trong trận Kontum năm
1972, số còn lại đã tăng cường cho Sư đoàn 3 Sao Vàng ở Bình Định.
Qua các khóa mật mã mở được, Quân đoàn 2 cũng biết đích xác ngày
giờ Tướng VC Văn Tiến Dũng sẽ từ Bắc vào Nam theo đường mòn HCM, xuống đường
Đông Trường Sơn để vào Ban Mê Thuột. Ngày Văn Tiến Dũng đi qua phía Tây Kontum,
Quân đoàn 2 đã cho thả một đại đội trinh sát xuống quãng đường này để phục kích
Văn Tiến Dũng nhưng không gặp vì đường Đông Trường Sơn ở khúc đó có quá nhiều
nhánh, không biết đoàn xe đi đường nàọ
Tóm lại, mọi ý đồ, cách điều quân và phối trí quân của địch đều
được Quân đoàn 2 đệ trình lên Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh của Quân đoàn.
Nhưng...
3. Các tin tức tình báo dồn
dập
Đại tá Phùng Văn Quang, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 45 thuộc Sư đoàn 23 VNCH cho biết rằng 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 45
đang hành quân trênQuốc lộ 14 gần Quận Thuần Mẫn thì một cán binh VC ra xin đầu
thú. Anh ta khai tên là Sinh (có người nói là Sính), một sĩ quan truyền tin, có
nhiệm vụ bắt đường dây điện thoại ngang qua Quốc lộ 14 nối liền Bộ Tư lịnh Sư
đoàn 32 Cộng quân ở tây quốc lộ này với một đơn vị đang đóng ở Quận Thuần Mẫn.
Khi điều tra thì khám phá ra anh ta chỉ là một Thượng sĩ chớ không phải sĩ
quan. Vì giữ nhiệm vụ truyền tin, anh ta biết khá nhiều về kế hoạch hành quân
của sư đoàn 320 và các đơn vị phối hợp. Anh cho biết Sư đoàn 320 đang đóng ở phía Bắc Quận Buôn Hô, cách Quốc lộ 14 về phía
Tây và đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột. Khi tin này được báo về Quân đoàn
2, Tướng Phú ra lệnh cho Trung đoàn 45 cho 1 tiểu đoàn hành quân lục soát 2 bên
Quốc lộ 14, từ Ban Mê Thuột đến Pleiku để phát hiện địch. Trung tá Quang nói
ông đã cho lục soát nhưng không thấy gì. Sau này ông tiết lộ rằng tiểu đoàn đó
chỉ lục soát mỗi bên Quốc lộ 14 khoảng 1km, trogn khi Sư đoàn 320 đóng xa quốc
lộ đến 5 km nên không thể phát hiện địch, tên Sinh đồng ý hướng dẫn trực thăng
đến trên vùng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 đang đóng. Đại tá Quang nói rằng theo sự
chỉ dẫn của tên Sinh ông đã nhìn thấy phía dưới các cơ sở chứng minh có địch
đang đóng quân tại đó và đã báo cáo cho Tướng Phú biết.
Mặc dầu có tin Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320 đã chuyển từ Kontum về phía
Bắc Ban Mê Thuột, nhưng cơ quan truyền tin của Quân đoàn 2 cho biết vẫn nhận
được các tín hiệu truyền tin của sư đoàn này phát xuất từ một căn cứ ở Kontum.
Căn cứ vào báo cáo này, Tướng Phú cho rằng Sư đoàn 320 vẫn còn tại Kontum và
những lời khai của tên Sinh chỉ là một kế nghi binh của địch để đánh Pleiku. Về
sau mới biết rằng Sư đoàn 320 cho tiếp
tục phát các tín hiệu truyền tin ở Kontum là để đánh lạc hướng. Trong thực tế,
sư đoàn này đã chuyển về phía Bắc Ban Mê Thuột.
Đầu tháng 2/75, Phòng 2 Quân đoàn 2 khám phá ra một thông báo của
Cộng quân về cuộc họp ngày 1/2/75 của Tư lịnh Sư đoàn 320, F.10 và 986 tại vùng
phía Tây Đức Cơ để khai triển chiến dịch 275. Thông báo này do một người ký tên
là Tuấn. Đây là một trong những bí danh của Văn Tiến Dũng. Một nữ du kích hồi
chánh ở Ban Mê Thuột cho biết Trung đoàn 25 Cộng quân đã được lệnh ăn Tết trước
để chuyển quân về vùng Khánh Dương ở phía Đông Ban Mê Thuột và một số đơn vị
thuộc Sư đoàn F.10 đã có mặt xung quanh Quận Đức Lập, phía Tây Nam Ban Mê
Thuột. Các thợ rừng báo cáo họ thấy nhiều đơn vị Cộng quân ở phía Tây Pleiku
chuyển xuống Ban Mê Thuột, v.v... Những tin tức này cho thấy Cộng quân chuẩn bị
đánh Ban Mê Thuột.
4. Tổng Thống Thiệu ăn Tết
Pleiku
Khi ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, Đại tá Trịnh Tiếu có cho chúng tôi
biết vào ngày mồng 2 Tết, TT Thiệu đến Pleiku. Tại phòng Hành quân của Không
quân ở phi trường Cù Hanh, ông đã trình bày cho TT Thiệu kế hoạch đánh Ban Mê
Thuột của Cộng quân. TT chỉ thỉ Tướng Phú đưa 2 Trung đoàn của Sư đoàn 23 về
lại Ban Mê Thuột, nhưng sau đó Tướng Phú không thi hành vì cho rằng địch sẽ
đánh Pleikụ Khi ông đến Mỹ, chúng tôi yêu cầu ông viết lại chuyện này thì trong
bài “Thiếu tướng Phạm Văn Phú và Quân đoàn 2” đăng trên báo SGN, ông viết rằng
trước Tết 5 ngày, khi TT Thiệu lên Quân đoàn 2 ủy lạo chiến sĩ, chính ông đã
đích thân trình bày cho TT kế hoạch nói trên của Cộng quân.
Sau khi thăm hỏi nhiều người liên hệ khác, chúng tôi thấy lời
tường thuật của Trung tá Ngô Văn Xuân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 là đúng
hơn cả. Trung tá Xuân cho biết vào Tết Ất Mão (1975), Trung đoàn 44 đang đóng ở
căn cứ 801, cách tỉnh Pleiku khoảng 20km về hướng Tây Bắc, đã được Quân đoàn 2
chỉ định tiếp đón TT Thiệu đến ăn Tết. Đúng 12 giờ trưa ngày mồng một Tết
(11/2/75), TT từ Bộ Tư lịnh Quân doàn 2 đến Trung tâm Hành quân của Trung đoàn
44 bằng trực thăng cùng với các Tướng Trần Văn Trung, Lê Nguyên Khang và Phạm
Văn Phú. Tại đây, Trung tá Điều Ngọc Chuy, Trưởng phòng 2 Sư đoàn 23 đã trình
bày về tình hình chung của các khu vực trách nhiệm đang do Sư doàn 23 trấn giữ,
đặc biệt nhấn mạnh đến chi tiết về cung từ của một cán binh CS thuộc Sư đoàn
320 ra đầu thú cho biết rõ các chi tiết địch đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.
TT có vẽ đăm chiêu rồi quay lại hỏi Tướng Phú thì Tướng Phú nhận định rằng có thể VC đưa ra một kế trá hàng nhằm đánh lạc
hướng chú ý của ta. Theo ông, Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện, bởi vì
Pleiku có cơ sở đầu não là Bộ Tư lịnh Quân đoàn 2. Nếu địch tiêu diệt được
cứ điểm này, chúng sẽ dễ dàng làm chủ được toàn bộ khu vực cao nguyên và tỏa
xuống khu vực duyên hải . TT Thiệu suy
nghĩ trong giây lát, rồi ra lịnh cho Tướng Phú đưa toàn bộ Sư đoàn 23 về Ban Mê
Thuột. TT nói địa thế Pleiku là khu vực trống trải, bao gồm nhiều đồi thấp
và trọc, có tầm quan sát rộng, địch không bao giờ dám đương đầu trên khoảng
trống như vậỵ TT hứa sẽ cho thêm một Liên đoàn Biệt động quân để làm một lực lượng
trừ bị. Tướng Phú đáp xin tuân lịnh.
Sau khi nghe thuyết trình, TT Thiệu không đi Kontum như đã dự định
mà đến Ban Mê Thuột và Quảng Đức để thăm và ủy lạo các chiến sĩ.
5. Bất tuân thượng lịnh
Đại tá Trịnh Tiếu cho biết ngày 15/2/75, Tướng Phú đã mở một cuộc
họp tại Quân đoàn 2 để kiểm điểm tình hình trong Quân khu 2, có Lãnh sự Mỹ ở
Nha Trang lên tham dự. Đại tá Trịnh Tiếu đã trình bày thêm các tài liệu cho biết địch sẽ
đánh Ban Mê Thuột, nhưng Tướng Phú cứ chần chờ, không chịu ra lịnh chuyển quân.
Trung tá Ngô Văn Xuân cho biết ngày 17/2/75, Tướng Phú mới triệu
tập phiên họp để đặt kế hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột. Theo kế hoạch này, Bộ Tư lịnh Sư đoàn 23 sẽ di chuyển bằng đường
bộ, khi qua khu đèo Tử Sĩ, Trung đoàn 45 sẽ đi theo tháp tùng. Trung đoàn 44
đợi một Liên đoàn Biệt động quân đến thay thế trong vòng 3 ngày và sẽ đi sau
Trong bài “Tướng Phạm Văn Phú và Quân đoàn 2”, Đại tá Trịnh Tiếu
ghi rằng ngày 1/3/75, Tướng Phú mới ra lịnh chuyển quân, sau khi hỏi lại nhiều
người, chúng tôi được biết ngày chuyển quân là ngày 17/2/75 như Trung tá Ngô
Văn Xuân ghi lại là đúng.
8 giờ sáng ngày 18/2/75, đoàn quân tập trung tại căn cứ Hàm Rồng
để khởi hành, nhưng đến 11 giờ Tướng Phú ra lịnh hủy bỏ việc chuyển quân. Ông nói địch sẽ đánh Pleiku và địch chuyển quân quanh Ban Mê
Thuột là để nghi binh mà thôi. Lệnh của Tướng Phú đã làm cả Quân đoàn 2 ngạc
nhiên.
6. Những ngày địch chuẩn bị
tấn công
Ngày 1/3/75, Sư đoàn 3 Sao Vàng chốt đèo Mang Yang trên quốc lộ 19
nối liền Pleiku với Qui Nhơn và gây áp lực mạnh ở Đông Pleiku. Điều này càng
làm cho Tướng Phú tin hơn nữa rằng địch sẽ đánh Pleiku. Tướng Phú xin thêm viện
binh để giữ mặt nàỵ Liên đoàn 44 Biệt động quân được gởi đến tăng viện Pleikụ
Tướng Phú liền ra lịnh Thiết đoàn 2 Thiết giáp do Đại tá Nguyễn văn Đồng chỉ
huy phối hợp với Liên đoàn này trấn giữ phía ĐĐng Pleiku. Năm 1989, khi gặp Đại
tá Đồng ở Saigon, ông cho chúng tôi biết mặt trận này khá nặng, vì địch rất
đông, ẩn nắp trong các hóc núi pháo kích ra dữ dội, nên mặc dù có lệnh phá
chốt, Thiết đoàn 2 cũng không yểm trợ cho Liên đoàn 4 Biệt động quân thực hiện
việc phá chốt được.
Đại tá Nguyễn Văn Đồng cũng kể lại từng chi tiết việc ông chỉ huy
đoàn quân tháo chạy trên liên tỉnh lộ 7 và sau đó ông bị bắt gần Củng Sơn (sẽ
tường thuật vào một dịp khác). Cũng trong ngày 1/3/75, Sư đoàn 968 tấn công
chiếm 2 đồn ở phía tây Thanh An và áp sát vào Quận Thanh An. Điều này càng làm
cho Tướng Phú tin địch sẽ đánh Pleiku.
Ngày 2/3/75, Chi trưởng CIA ở Quân khu 2 tại Nha Trang đã lên Ban
Mê Thuột báo cho Đại tá Nguyễn Trọng Luật phải đề phòng. Đại tá Luật thông báo cho Quân đoàn 2 thì ở đây cho biết đã nhận
được công điện của CIA vào buổi sáng. Tướng Phú liền ra lịnh cho Trung đoàn 53
rút một tiểu đoàn đang hành quân tại Quảng Đức về phòng thủ Ban Mê Thuột và đưa
một Liên đoàn Biệt động quân từ Kontum đến thaỵ Cũng trong ngaỳ này, tình báo
của Cảnh Sát báo cáo phát hiện một dơn vị Cộng quân lảng vảng ở rừng cao su
phía đông Ban Mê Thuột, gần quốc lộ 21.
Ngày 4/3/75, Sư đoàn 3 Sao Vàng cắt đứt quốc lộ 19 từ Qui Nhơn đến
Pleiku, ở khúc Bình Khê và Suối Đôi . Hai Trung đoàn 41 và 42 của Sư đoàn 22
VNCH được lệnh khai thông nhưng không tiến lên nổi.
Ngày 5/3/75, Trung đoàn 25 của Cộng quân chốt quốc lộ 21 ở đèo Chu
Cúc ở giữa Khánh Dương và Quận Phước An, phía đông Ban Mê Thuột. Một đoàn xe
quân sự của QLVNCH di chuyển qua đèo Chu Cúc đã bị Cộng quân phục kích và bắn
cháy, các binh sĩ bị bắt.
Trưa 5/3/75, Sư đoàn 320 Cộng quân cho 1 tiểu đoàn chận đánh một
đoàn quân xa của Trung đoàn 45 gồm 14 chiếc di chuyển trên quốc lộ 14, khúc phía
bắc Quận Thuần Mẫn. Đoàn xe này có kéo theo một khẩu đại bác 105 lỵ Từ Tết đến
hôm đó, việc di chuyển trên quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đến Pleiku vẫn an toàn
và hàng ngày có từ 60-80 xe quân sự lưu thông trên khoảng đường nàỵ Được tin
này, Tướng Phú ra lịnh cho Trung đoàn 53 đưa một tiẻu đoàn hành quân lục lọi 2
bên quốc lộ 14 để tìm các dấu vết của Su đoàn 320 Cộng quân, nhưng không phát
hiện được gì.
Ngày 7/3/74, Cộng quân chiếm cứ điểm Chư Xê phía bắc Buôn Hô và
cắt đứt quốc lộ 14. Sau đó, Cộng quân pháo kích vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 tại phi
trường Cù Hanh ở Pleiku và mở những trận đánh lớn ở Bình Định để cầm chân Sư
đoàn 22 và đánh lạc hướng. Tướng Phú đã lấy máy bay đi quan sát mặt trận Bình
Định. Đại tá Trịnh Tiếu kể rằng sau khi thị sát các mặt trận Tam Quan, Bồng Sơn
và đèo Mang Yang, Tướng Phú đưa ông và một sĩ quan khác về Nha Trang ăn cơm tối
ở nhà ông. Tại đây, bà Phú đã lên tiếng khiển trách các sĩ quan Quân đoàn 2
trong việc cho oanh tạc cơ phá hủy đoàn xe của Sư đoàn 968. Theo bà, VC chỉ mượn
đường của Quân đoàn 2 để đi vô Nam, nhưng vì Quân đoàn 2 đánh họ nên bây giờ họ
đánh trả lại khắp nơi Tướng Phú ngồi im lặng và tỏ ra ngao ngán chán nản.
Đại tá Phùng Văn Quang có kể lại khi tin tình báo về việc địch tập
trung xung quanh Ban Mê Thuột ngày càng dồn dập, Tướng Phú đã gọi ông vào và
nói : “Anh quen thuộc địa hình Ban Mê Thuột, anh bay về đó xem tình hình ra
sao”. Đại tá Phùng Văn Quang đã bay một vòng và phát hiện rất nhiều dấu vết xe
tăng của địch đã chạy qua khu vực Buôn Hô, cách Ban Mê Thuột khoảng 30km. Ông
cho trực thăng đáp xuông thì quân báo của địa phương cho ông biết các thợ rừng
và dân chúng địa phương thông báo rằng họ thấy rất nhiều bộ đội VC đi qua vùng
nàỵ
Ngày 8/3/75, Sư đoàn 320 Cộng quân đánh chiếm Quận Thuần Mẫn. Tại
đây chỉ có 1 tiểu đoàn Địa phương quân trấn đóng nên họ không cầm cự được lâu
và đã bi thất thủ. Quốc lộ 14 bị cắt thêm ở khúc Quận Thuần Mẫn. Đêm 8/3/75, Sư
đoàn F.10 Cộng quân bắt đầu tấn công Quận Đức Lập, Các căn cứ Núi lửa và 23 bảo
vệ Đức Lập bị tràn ngập.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 9/3/75, Tướng Phú và Bộ Tham mưu Quân đoàn
2 đã bay về Ban Mê Thuột họp với Chuẩn
tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23, Đại tá Võ Thế Quang, Tư lệnh phó sư
đoàn, Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Ban MêThuột, Đại tá Phạm Văn Nghìn,
Tỉnh trưởng Quảng Đức và Trung tá Võ Ân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 53.
Theo dõi 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 45 đang chiến đấu với Sư đoàn F.10 Cộng
quân, Tướng Phú cho rằng tình hình Đức Lập không thể cứu vãn được nên không
tăng viện thêm.
Điều đáng ngạc nhiên là cho đến giờ phút đó, khi mọi tin tức quân
báo và tình hình thực tế xác định dịch chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột, Tướng Phú vẫn
cho rằng địch sẽ đánh Pleiku. Ông lặp lại nhận định của ông là Cộng quân chỉ
bao vây Ban Mê Thuột để làm kế nghi binh rồi bất thần tấn công vào Pleiku.
Nhưng do sự thúc đẩy của Bộ Tu lệnh Quân đoàn, Tướng Phú chỉ thị cho Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng của Quân
đoàn xin Bộ Tổng Tham mưu cho trực thăng chuyển Liên đoàn 21 Biệt động quân
đang đóng tại Kontum, thả xuống Buôn Hô, cách thành phố Ban Mê Thuột 30km về
phía Bác, đề phòng khi địch tấn công vào Ban Mê Thuột, có thể tiến về cứu viện.
Cuộc chuyên quân khởi sự từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều thì chấm dứt.
Thấy tình thế nguy ngập, Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Ban
Mê Thuột, đã lấy một chiếc máy bay cho vợ con ông và vợ con của một vài viên
chức cao cấp trong tỉnh di tản về Saigon. Các giới chức trách nhiệm phòng thủ
Ban Mê Thuột đều biết trong vòng 1,2 ngày tới địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột,
nhưng họ không làm gì được, vì Tướng Phú không chịu thay đổi ý kiến.
Lúc 11 giờ trưa, Tướng Phú đến thăm Tiểu khu Ban Mê Thuột và chỉ
thị cho Đại tá Vũ Thế Quang và Đại tá Nguyễn Trọng Luật phối trí quân phòng thủ
các vị trí quan trọng và các kho tiếp liệụ 5 giờ chiều ông bay về Pleiku.
Mặc dù đã có chỉ thị của Tướng Phú, Đại tá Vũ Thế Quang không biết
lấy đâu ra quân để phòng thủ. Trong thị xã và vòng đai thành phố lúc đó chỉ còn
2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 45, một giữ ở ngã ba Dak Sak và một đóng ở căn cứ
B.50 ở gần phi trường Phùng Dực, cùng với 2 chi đội thiết giáp và một đại đội
pháo binh. Số còn lại là 2 Tiểu đoàn Địa phương quân và Nghĩa quân phân tán
mỏng để bảo vệ các kho trong thành phố. Cảnh sát Dã chiến được phân chia bố trí
ở các cao ốc. Tướng Phú hứa sẽ cho thêm một chi đoàn thiết giáp và cho phép rút
2 Tiểu đoàn Địa phương quân ở bản Đôn về bảo vệ thị xã.
Tối 9/3/75, Quận Đức Lập bị thất thủ. Sư đoàn F.10 Cộng quân đã
làm chủ tình hình về phía tây nam Ban Mê Thuột và đang tiến về thành phố. Vòng
vây Ban Mê Thuột bắt đầu xiết chặt.
7. Cuộc tấn công mở màn
Khoảng 2 giờ sáng ngày 10/3/75, Cộng quân bắt đầu tấn công vào
thành phố. Cộng quân mở đường bằng xe tăng và trọng pháo đủ loạị Mọi phía đều
có dịch. Trung đoàn 174 CS theo quốc lộ 14 từ hướng Đức Lập tiến vào trước tiên,
sau đó Trung đoàn 149 CS đánh từ phía Nam lên, Trung đoàn 95-B CS từ ngả Buôn
Hô xuống, còn Trung đoàn 148 từ ngả Bản Đôn vàọ
Đại tá Phùng Văn Quang kể lại rằng khi nghe tin địch tấn công vào
Ban Mê Thuột, ông đã điện đàm với Tướng Phú để xin chỉ thị. Ông cho biết các
binh sĩ của ông rất nóng lòng, muốn được di giải cứu Ban Mê Thuột, vì vợ con họ
đang ở tại dó. Nhưng Tướng Phú đã trả lời với ông rằng nếu đem quân đi cứu Ban
Mê Thuột, Cộng quân sẽ tấn công Pleiku
Khi tiến công vào thành phố, địch nhắm vào hậu cứ Sư đoàn 23, Tiểu
khu, kho Mai Hắc Đế và căn cứ B.50. Đến 8 giờ sáng, địch dùng chiến xa T.54
đánh chiếm kho Mai Hắc Đế của Bộ Chỉ huy 5 Tiếp vận. Đại tá Quang chỉ thị Đại
tá Luật điều động 2 đại đội và 4 xe M.113 ra chốt ở Ngã Sáu để chận địch. Các
oanh tạc cơ được phái đến yểm trợ. 11 giờ địch tấn công Bộ Chỉ hy Tiểu khụ Đại
tá Luật trao quyền lại cho Tiểu khu phó và chạy qua Bộ Tư lịnh Sư đoàn 23. 3
giờ chiều, Đại tá Quang không còn bắt liên lạc được với Tiểu khu. Khoảng 5 giờ, Đại tá Quang bắt liên lạc được với Liên đoàn 21
Biệt động quân đang ở phía Buôn Hô tiến vào thành phố. Ông liền ra lịnh cho Trung
tá Lê Quý Dậu cho Tiểu đoàn 72 chiếm lại Tiểu khu và Tiểu đoàn 96 yểm trợ
lấy lại kho Mai Hắc Đế. Suốt đêm mồng 10, Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh
sát Dã chiến quần thảo với địch trong thành phố để tranh từng tấc đất.. Địch
không nắm vững địa hình nên không tiến nhanh được.
7 giờ sáng ngày 11/3/75, Cộng quân tấn công vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn
23, nhưng lực lượng phòng thủ vẫn còn cầm cự được. Đến 10 giờ, một
phi đội A37 trợ chiến đã thả bom lạc, trúng một góc hầm Bộ Tư lệnh, hệ thống
truyề tin bị hỏng, không còn liên lạc được với các đơn vị chung quanh nữạ, cả
Đại tá Quang lẫn Đại tá Luật bỏ Bộ Tư lịnh, luồn qua lưng chùa Khải Đoan để
chạy qua căn cứ B.50, nhưng bị bắn dữ quá, phải tạt vào rừng cao su và bị bắt
sau đó.
Chỉ có căn cứ B.50 ở gần phi trường Phùng Dực là cầm cự được lâu
dài nhất. Đây là một căn cứ có chu vi trên 1 km, trước đây là 1 trại Lực
lượng Đặc biệt của Mỹ nên công sự được xây cất rất kiên cố, có tất cả 11 hầm đủ
sức chịu đựng được đạn 130 ly, xung quanh có xếp bao cát cao làm thành những ụ
chiến đấu cá nhân. Ở xa xa là một vòng đai hàng rào kẻm gai nhiều lớp bao bọc. Căn cứ này được dùng làm hậu cứ của Trung
đoàn 53. Nhờ các công sự vững chắc, Trung tá Võ Ân đã chỉ huy chỉ có 1 tiểu
đoàn chống lại rất anh dũng các đợt tấn công bằng xe tăng và đại pháo của địch.
Cuộc cầm cự kéo dài đến ngày 18/3/75 thì phải mở đường máu chạy
thoát về hướng Lạc Thiện, sau khi có lệnh rút khỏi Cao nguyên. Tướng Phú và Bộ
Tham mưu đã lên máy bay đi tìm và bắt được liên lạc, nhưng số tàn quân ở cạnh
Trung tá Ân lúc đó chỉ còn 20 binh sĩ mà thôi. Đây là đơn vị chiến đấu anh dũng
nhất trong trận Ban Mê Thuột và đã làm Cộng quan phải điên đầu.
Mãi đến sáng ngày 12/3/75, khi TT Thiệu trực tiếp ra lịnh cho
Tướng Phú phải đem 2 Trung đoàn của Sư đoàn 23 về giải cứu Ban Mê Thuột, Tướng
Phú mới tuân lệnh hành quân.
8. Việc nhà trước, việc nước sau
Khi Cộng quân khởi đầu tấn công Ban Mê Thuột, Đại tá Vũ Thế Quang,
Tư lịnh phó Sư đoàn 23 liền điện đàm mgay với Chuẩn tướng Lê Trung Tường để xin
viện binh. Tướng Tường trả lời rằng không thể có viện binh vì Tướng Phú còn tập
trung quân để đối phó tại Pleikụ Tướng Phú chỉ ra lịnh cho Liên đoàn 21 Biệt
động quân do Trung tá Lê Quý Dậu chỉ huy, từ Buôn Hô tiến vào thành phố thôị
Liên đoàn 21 đã vào được thành phố và lập được một số chiến công, nhưng khi
cuộc giao chiến đang tiếp tục thì đùng một cái, Chuẩn tướng Lê Trung Tường ra lệnh cho Trung tá Dậu điều động
Liên đoàn 21 phối hợp với Địa phương quân còn lại rút về vây quanh sân bay L.19
trong thành phố để ông phái trực thăng đến đón 21 người trong gia đình của ông
đang kẹt tại sân bay nàỵ Mặc dù có sự yểm trợ của cả Địa phương quân lẫn Liên đoàn 21 Biệt
động quân, trực thăng của Tướng Tường phái đến cũng không đáp xuống được vì
địch pháo kích dữ quá. Cuối cùng Chuẩn tướng Tường đã ra lịnh lấy một chiếc
Thiết vận xa M.113 chở toàn bộ gia đình của ông tới Trung tâm Huấn luyện cách
thị xã 3km để trục thăng đến đón. Khi trực thăng bốc được gia đình Chuẩn tướng
Tường đi rồi thì địch đã chiếm gần như toàn bộ thành phố Ban Mê Thuột. Liên
đoàn 21 tiến về sân bay Phùng Dực để phối hợp tác chiến với 1 tiểu đoàn của
Trung doàn 45 ở căn cứ B.50 thì bị chận đánh phải lui ra khỏi vòng đai thành
phố và bị vây ở Đạt Lý. Đại tá Trịnh Tiếu nói rằng Tướng Phú biết những chuyện
Tướng Tường đã làm nói trên, nhưng ông nói ông thông cảm với Tướng Tường, giống
như trường hợp của ông tại Huế trong trận Tết Mậu Thân.
9. Kế hoạch tái chiếm Ban
Mê Thuột
Ngày 12/3/75, sau khi có lệnh trực tiếp của TT Thiệu phải tái chiếm lại Ban Mê
Thuột, một cuộc họp đã được tổ chức tại
Bộ Tư lịnh Quân đoàn để hoạch định kế hoạch tái chiếm. Theo kế hoạch này,
Trung đoàn 45 được bốc ngay trong ngày 12/3/75 từ đèo Tử Sĩ đổ xuống Phước An,
phía Đông Ban Mê Thuột. Trung đoàn này sẽ lần theo quốc lộ 21 tiến về Ban Mê
Thuột cho đến khi chạm địch thì ngưng lại và chờ lệnh. Liên đoàn 7 Biệt động
quân sẽ được chuyển từ Saigon ra thay Trung đoàn 44 ở căn cứ 801. Sau khi bàn
giao, Trung đoàn 44 di chuyển đến căn cứ Hàm Rồng đợi máy bay đến bốc thả xuống
Phước An tiếp theọ
Việc chuyển quân của Trung đoàn 45 không có gì trở ngại, nhưng Đại
tá Phùng Văn Quang nói với chúng tôi rằng khi từ Phước An tiến về Ban Mê Thuột
thì một số binh sĩ của ông đã bỏ ngũ đi tìm gia đdình của họ ở Ban Mê Thuột.
Ngày 13/3/75, 50 chiếc trực thăng đủ loại đã đến đưa Trung đoàn 44
tới Phước An, nhưng chỉ mới di chuyển được Tiểu đoàn 3, Đại đội Trinh sát và Bộ
Chỉ huy của Trung đoàn thì có lệnh ngưng lạị Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 bị bỏ
lại ở Hàm Rồng.
Lực lượng của 2 Trung đoàn 44 và 45 khi tiến về thành phố thì bị
chận lại ở vòng đai thành phố. Ở phía sau, Trung đoàn 25 của Cộng quân từ Chư
Cúc đánh lên chi khu Phước An, nơi đặt Bộ Chỉ huy Hành quân của Sư đoàn 23.
Ngày 14/3/75, trong chuyến bay từ Khánh Dương đến Phước An, máy
bay của Tướng Lê Trung Tường bị bắn, ông chỉ bị xây xát đôi chút, nhưng ông lấy
cớ này xin từ chức Tư lệnh Sư đoàn 23. Ngày 15/3/75, Tương Phú cử Đại tá Lê Hữu
Đức đến thay thế.
Ngày 16/3/75, lực lượng còn lại của Sư đoàn 23 được lệnh tập
trung về Phước An và được trực thăng bốc về Nha Trang vì đã có lệnh của TT
Thiệu rút khỏi Cao Nguyên.
Một số sĩ quan cao cấp trong Bộ Tư Lịnh Quân đoàn 2 kể lại rằng
trong suốt thời gian chưa bốc được gia đình ra khỏi Ban Mê Thuột, Chuẩn tướng
Lê Trung Tường không màng gì tới các đơn vị thuộc quyền cũng như tình hình mặt
trận. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 23 giống như rắn không đầu, không biết phải làm
gì nữạ Mãi cho đến khi mang được gia đình tới nơi bình yên, Chuẩn tướng Tường
mới lo việc hành quân.
10. Một người đàn bà
Tôi gặp Đại tá Trịnh Tiếu đầu tiên ở trại Thanh Cẩm. Ông cho biết
khi được báo cáo Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ban
Mê Thuột bị bắt, Tướng Phú liền chỉ định ông làm Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột thay
thế Đại tá Luật. Trong bài “Tướng Phạm Văn Phú và Quân đoàn 2”, ông cũng viết
tương tự : “Ngày hôm sau, 12/3/75, Tướng Phú gọi tôi và nói :”Tôi đã trình với
TT bổ nhiệm anh làm Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột. Ngày mai, 13/2/75, anh xuống
Phước An cùng đoàn quân của Sư đoàn 23 và phối trí tại đó, 2 ngày sau sẽ có Sư
đoàn Dù tăng cường tái chiếm Ban Mê Thuột”. Tôi đứng nghiêm nhận lệnh và thi
hành”.
Năm 1983, khi được chuyển vào trại giam Xuân Lộc, chúng tôi được
gặp Đại tá Phạm Duy Khang, Trưởng phòng 3 của Quân khu 2 nên biết thêm 1 chi
tiết khác khá quan trọng torng việc chỉ định chức vụ Tỉnh trưởng nàỵ Đại tá
Khang là môt người nhỏ bé nhưng rất nhanh nhẹn, cương trực và có những nhận
thức về tình hình rất sâu sắc, nên chúng tôi thường hỏi han và baný luận với
ông. Sau nhiều lần nói chuyện về Ban Mê Thuột bị thất thủ, ông tiết lộ với
chúng tôi rằng chính ông mới là người đầu tiên được Tướng Phú cử làm Tỉnh
trưởng Ban Mê Thuột thay thế Đại tá Luật bị bắt. Sau khi được thả xuống Phước
An dể cùng chỉ huy đoàn quân tiến về tái chiếm Ban Mê Thuột thì Thiếu tá Phạm
Huấn, một “sứ giả” của bà Tướng Phú được trực thăng chở đến gặp ông. Phạm Huấn
đã thông báo cho ông hay theo lệnh của bà Phú, nếu muốn được làm Tỉnh trưởng
Ban Mê Thuột ông phải cam kết sau này khi tái thiết lại Ban Mê Thuột, sẽ chi
cho bà Phú 20% số tiền tái thiết. Đại tá Khang nói ông đã trả lời Phạm Huấn
rằng hiện mặt trận đang dầu sôi lửa bỏng, ngay mạng sống của ông cũng không
biết ra sao, trách nhiệm của ông bây giờ là giải tỏa Ban Mê Thuột, ông không
muốn bàn tới chuyện tiền bạc đó.
Đại tá Khang cho biết tiếp, sau khi Phạm Huấn lên trực thăng bay
về Nha Trang vài tiếng đồng hồ thì Chuẩn tướng Lê Trung Tường nhận được công
điện khẩn của Tướng Phú cử Đại tá Trịnh Tiếu làm Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột thay
thế Đại tá Khang. Tướng Tường đã hỏi Đại tá Khang :”Có đến 2 công điện cử 2
người khác nhau làm Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, tôi biết theo công điện nào?” Đại
tá Khang liền trả lời :”Công điện sau có hiệu lực hủy công điện trước. Tôi sẽ
bàn giao ngay cho Đại tá Trịnh Tiếu”.
Vì lúc đó Đại tá Trịnh Tiếu đang ở cùng chung một trại nên tôi đi
gặp Đại Tá Trịnh Tiếu ngay và nói với ông về những việc Đại tá Khang đã kể. Đại
tá Tiếu xác nhận:”Câu chuyện thay ngựa giữa đường do Đại tá Khang kể là hoàn
toàn sự thật”.
Đại tá Khang đã đến dịnh cư tại Hoa Kỳ và đang hiện ở Bắc Cali
Trong bài “Thiếu tướng Phạm Văn Phú và Quân doàn 2”, sau khi kể
lại chuyện bà Tướng Phú khiển trách việc Quân đoàn đánh cháy đoàn xe của Sư
đoàn 968 CS như chúng tôi đã tường thuật ở trên, Đại tá Trịnh Tiếu Viết :”Tướng
Phú làm Tư lịnh Quân đoàn 2 chỉ mới 4 tháng, nhiều sĩ quan tình báo trước đây
có khả năng nên được Tướng Toàn tin tưởng bổ nhiệm làm Quận trưởng các quận có
nhiều VC, đều báo với tôi rằng bà Phú thường cho người đến “thu hụi”, số tiền
nhiều ít tùy theo quận giàu hay nghèo”.
Những sự kiện trên giải thích tại sao Phạm Huấn đã không viết
trung thực những chuyện Tướng Phú đã làm ở Cao nguyên.
11. Chọn con đường chết
Địch đã chiếm dược Ban Mê Thuột vì sự nhận định sai lầm và thái độ
cố chấp của Tướng Phạm Văn Phú. Theo ý kiến của đa số các Đại tá ở Quân đoàn 2,
Tướng Phú chỉ có khả năng làm tới Tư lịnh Sư đoàn, còn Tướng Tường chỉ có thể
làm Trung doàn trưởng mà thôi. Đưa các ông ấy lên chức vụ cao quá đã gây tai
họa. Nếu QLVNCH không thất trận ngày 30/4/75, cả 2 Tướng này đã bị đưa ra Tòa
Án Quân Sự Mặt Trận.
Trước khi kết thúc bài “Thiếu tướng Phạm Văn Phú và Quân đoàn 2”,
Đại tá Trịnh Tiếu có nhận xét về Tướng Phú như sau: “Tướng Nguyễn văn Toàn đã
thành công tại Quân đoàn 2 vì biết nghe lời khuyên của Đại tướng Cao Văn Viên,
khôn khéo hợp tác chặt chẽ với John Paul Vann trong kế hoạch bảo vệ Kontum.
Tướng Phạm Văn Phú làm Tư lịnh Quân đoàn 2 không có cố vấn Hoa Kỳ nữạ Ông chỉ
làm việc với vài người thân tín của ông. Ông không tin tưởng vào Bộ Tổng Tham
mưu Quân đoàn. Ông không thi hành lệnh TT Thiệu đưa Sư đoàn 23 về giữ Ban Mê
Thuột. Đến khi Ban Mê Thuột bị mất, ông rơi vào “mê hồn trận”. Sau đó, ông lại
thi hành một cách mù quáng lệnh bỏ Kontum, Pleiku và đưa đoàn quân vào tử lộ
một cách đau thương. Hàng chục ngàn quân đã bỏ xác một cách oan uổng trên liên
tỉnh lộ 7”.
Lữ Giang
No comments:
Post a Comment