Tài liệu của
Ngũ Giác Đài : “Ngay sau khi Phước Long
bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển
nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biều quyết viện trợ để VNCH
đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối
với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc”. ( Cao Văn Viên, The Final
Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 132 ).
Chuẩn bị của phía CSVN
Năm 1974,
tháng 11. Theo hồi ký của Tướng CSVN Trần Văn Trà, Tham mưu phó của Mặt trận
B.2 CSVN là Hai Nhã đang trị bệnh tại Hà Nội nhận được lệnh vào Nam mang theo
chỉ thị mới của Tổng bí thư Lê Duẩn là
không đánh lớn vào năm 1975, không đồng
ý đánh Đồng Xoài thuộc tỉnh Phước Long theo như đề nghị của Tướng Trà.
Ngoài ra Hai
Nhã cũng nhận được lời dặn riêng của Tổng tham mưu trưởng CSVN Văn Tiến Dũng :
“Năm nay chỉ đánh ở đồng bằng, phá bình định.
Đạn dược, nhất là pháo lớn ta còn kém lắm. Không nên đánh lớn rồi khi có thời cơ không
còn lực lượng mà đánh…”.
Sau đó Hai
Nhã lên đường vào Nam nhưng trong khi ông đang trên đường đi thì Phạm Hùng và
Trần Văn Trà cũng trên đường đi ra Hà Nội, hai bên không gặp nhau.
Năm 1974,
ngày 13-11, Bí thư Quân ủy Miền Nam Phạm Hùng cùng với Tư lệnh Mặt trận B.2 Trần
Văn Trà đi Hà Nội tham dự Hội nghị 23 Trung ương ĐCSVN, giao cho Nguyễn Văn
Linh trực Trung ương Cục Miền Nam và giao cho Tướng CSVN Lê Đức Anh chỉ huy Mặt
trận B.2, tức là các tỉnh phía Đông Sài Gòn.
Trước khi Tướng
Trà lên đường thì Tướng Lê Đức Anh đề nghị Trà xin thêm quân Miền Bắc bổ sung
cho lực lượng quân sự của B.2. Lúc này lực
lượng chính quy của B.2 là Quân đoàn 4 CSVN nhưng quân đoàn chỉ có 2 sư đoàn là
Sư đoàn 7 CSVN và Sư đoàn 9 CSVN. Hoạt động trong vùng biên giới của tỉnh Tây
Ninh, Bình Long ( Lộc Ninh ).
Chú giải : Đầu năm 1972 Hà Nội đưa 3 sư đoàn chính quy
vào Nam Bộ để đánh trận “Mùa hè đỏ lửa” 1972.
Sau đó cả 3 sư đoàn đã bị tiêu diệt trong trận An Lộc, chỉ còn lại quân Chủ lực Miền của
Trung ương Cục Miền Nam. Gồm 2 trung
đoàn 271 và 201 nhưng 2 trung đoàn này cũng tổn thất nặng nên cần bổ sung bằng
quân Miền Bắc vào chứ Miền Nam không thể nào bắt lính thêm được.( Sau trận Mậu Thân dân Miền Nam vùng xôi
đậu đã trốn hết về vùng an toàn do VNCH kiểm soát ).
Đến giữa năm
1974 Lê Duẩn mới đưa 2 sư đoàn quân Bắc Việt vào Lộc Ninh, Bình Long để bảo vệ
Chính phủ Cách Mạng Miền Nam Việt Nam đang đóng tại Lộc Ninh. Hai sư đoàn do Tướng
Hoàng Cầm chỉ huy, đến tháng 7 -74 thì 2 sư đoàn được biên chế thành Quân đoàn
4 CSVN, do Tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh.
( 2 sư đoàn khoảng 17.000 người ).
Như vậy lực
lượng quân sự của Trung ương cục Miền Nam vào cuối năm 1974 tiếng là do Trần
Văn Trà làm tư lệnh nhưng thực sự là quân Bắc Việt do Lê Duẩn trực tiếp điều động
qua tướng Hoàng Cầm.
Năm 1974,
tháng 12, Tướng Lê Đức Anh chỉ thị Sư đoàn 7 CSVN điều nghiên căn cứ Đồng Xoài
( chi khu Đôn Luân, tỉnh Phước Long ).
Tuy nhiên sau đó Hà Nội ra lệnh không được đánh Đồng Xoài và cũng không
được sử dụng pháo lớn.
* Chú giải
: Tự truyện của Tướng Lê Đức Anh :
“Trong cán bộ có nhiều đồng chí thắc mắc là tại sao cấp trên lại không cho
đánh, hơn nữa cấp Bộ mà lại chỉ đạo cụ thể quá như vậy? Trong thâm tâm thì ông Lê Đức Anh hiểu sâu xa
của sự việc này, nhưng không thể nói ra để giải thích với anh em được. Còn nguyên nhân trực tiếp: vì hiện trạng lượng pháo lớn và xe tăng dự trữ
của ta không còn nhiều” ( Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh, trang 132 ).
Hồi ký của
Tướng Hoàng Văn Thái cũng có giải thích là vì đạn súng lớn không còn; nhưng đó
chỉ là nguyên nhân bên ngoài, con nguyên nhân bên trong mà Tướng Lê Đức Anh
không muốn nói ra là gì? Thực ra lúc đó
Hà Nội không muốn để cho Lê Đức Anh ( Trung ương Cục Miền Nam ) chỉ huy 2 sư
đoàn của Bắc Việt.
Tuy nhiên không
vì chuyện đó mà Lê Đức Anh chịu bó tay, ông sử dụng hai trung đoàn Chủ lực miền
( 271 và 201 ) đánh chiếm hai quận Đức Phong và Bố Đức một cách dễ dàng.
Đến lúc đó
thì Lê Duẩn mới theo lời khuyên của Trần Văn Trà, đang có mặt tại Hà Nội, chỉ
thị cho Tướng Hoàng Cầm tung 2 sư đoàn chính quy, xe tăng và đại pháo chiếm
toàn tỉnh Phước Long.
Diễn tiến trận đánh Phước Long
Năm 1974, ngày 14-12, Tướng Lê Đức
Anh sử dụng Sư đoàn 3 CSVN tấn công Chi
khu Đức Phong ( Bù Đăng ) và Chi Khu Bố Đức ( Bù Na ). Sư đoàn 3 là sư đoàn
Chủ lực địa phương, không thuộc Quân đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm. Thực ra sư đoàn này là do ghép tạm bợ hai
trung đoàn địa phương là 271 và 201, chứ không có hệ thống tổ chức và trang bị
như quân chính quy.
Lúc 8 giờ 40
: Quân CSVN chiếm được cả hai Chi khu,
hai tiểu đoàn ĐPQ phòng thủ tại 2 chi khu tan rã.
Năm 1974, ngày 15-12, Tiểu đoàn 363 ĐPQ của Tiểu Khu Phước Long tự
động rút khỏi căn cứ hỏa lực Bù Na, chạy về Phú Riềng. Hai pháo đội Pháo binh gồm 10 khẩu cũng phá hủy
súng và rút chạy. Có 4 súng không kịp
phá hủy bị quân CSVN tịch thu với 7.000 viên đạn
* Chú giải
: Tự truyện của Tướng CSVN Lê Đức Anh
cho biết Tiểu đoàn 363 ĐPQ tự ý rút chạy,
trang 134. Trong khi hồi ký của Tướng
VNCH Cao Văn Viên; trang 103, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong ; thì “căn cứ hỏa lực
bị tấn công và tràn ngập” .
Hồi ký của
Tướng Cao Văn Viên : “Những cuộc điều tra sau này không tìm ra nguyên nhân tại
sao hai quận mất quá nhanh, vì tất cả các cấp chỉ huy đều bị mất tích khi hai
tiền đồn rơi vào tay địch”.
Đây chỉ là
cách Tướng Viên nói để che giấu dư luận chứ sự thực là cả hai chi khu đều bị lính sắc tộc làm phản, trước đó họ móc nối với
quân CSVN và đến giờ hẹn thì họ hè nhau khống chế các cấp chỉ huy người Kinh rồi
mở cửa đồn cho quân CSVN vào tiếp thu.
Tại căn cứ hỏa lực Bù Na cũng vậy, việc 4 khẩu súng còn nguyên vẹn trong
số 10 súng chứng tỏ các sĩ quan chỉ huy không trở tay kịp, chứ như có chiến đấu
thì các khẩu súng sẽ bị phá hủy bằng lựu đạn lân tinh ( CH.2 ) trước khi nó bị
rơi vào tay quân CSVN.
Tướng Viên dễ
dàng có kết quả điều tra về vụ này nhưng ông muốn giấu, không cho các sĩ quan
trong quân đội VNCH biết, bởi vì còn có 45 ngàn quân biệt kích Mỹ khác đang sẵn
sàng thanh toán các cấp chỉ huy người Kinh.
Điều này đã thực sự xảy ra vào tháng 3 -1975, khi có lệnh triệt thoái khỏi
Tây Nguyên. Nhà báo Pháp Paul Leandri đã
nhanh chóng loan tin này ra toàn thế giới nhưng bị CIA bịt miệng bằng cách thủ
tiêu trong một đồn cảnh sát.
Đoạn hồi ký của Tướng Cao Văn Viên nói về trận
Phước Long không hề đề cập tới chuyện ông ta đã phản ứng ra sao và ra lệnh như
thế nào trước biến cố mất 2 quận, 3 tiểu đoàn và 2 pháo đội pháo binh trong
vòng 2 ngày. Vả lại địa điểm xảy ra chiến
trận chỉ cách Sài Gòn có 60 cây số. Điều
này chứng tỏ Tướng Viên cố tình che giấu nhiều quyết định không hay ho gì lắm của
cá nhân ông vào thời đó.
Năm 1974, ngày 16-12, BTL/Quân
đoàn 3 VNCH đổ Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 7 của Sư đoàn 5 BB xuống Thị xã Phước
Long. Lực lượng quân đội VNCH trong toàn tỉnh Phước Long chỉ còn 1 Tiểu đoàn Bộ
binh và 2 tiểu đoàn ĐPQ ( Khoảng 1.500 người ).
Trong khi đó phía CSVN là 3 sư đoàn ( Khoảng 30.000 người )
Ngày 16-12,
Tiểu đoàn 2 thuộc Sư đoàn 7.BB tấn công chiếm lại quận Bố Đức.
Ngày 17-12, lập cầu không vận chở tiếp liệu
đổ xuống Phước Long và di tản dân chúng ra khỏi vùng giao tranh.
Ngày 22-12, quân CSVN tấn công chiếm quận Bố
Đức lần thứ hai. Tiểu đoàn 2 Bộ binh rút về phòng thủ quận lỵ Phước Bình và phi
trường Sông Bé
Ngày 23-12, Trung đoàn 165 CSVN tấn công Chi
khu Phước Bình ( Bù Đốp ), đến chiều thì chiếm được Chi khu Phước Bình.
Ngày 26-12,
Sư đoàn 7 CSVN với 3 trung đoàn 141, 201 và 209 tấn công Chi khu Đôn
Luân ( Đồng Xoài).
Theo hồi ký của Tướng CSVN Lê Đức Anh thì sau
khi chiếm được Bù Đăng, Bù Na và Đồng Xoài, thấy quân VNCH không có phản ứng gì
lớn thì ông mới nghĩ tới đánh Thị xã Phước Long chứ trước đó không hề nghĩ tới.
Năm 1974, ngày 30-12, Sư đoàn 7
và Sư đoàn 3 CSVN với sự hỗ trợ của 1 trung đoàn tăng tấn công Phước Bình, là
vòng đai phòng thủ của Thị xã Phước Long. ( Cần phân biệt “Sư đoàn 3” CSVN tại
Mặt trận B.2 với “Sư đoàn 3 Sao Vàng” tại Bình Định . Tại Quân khu 5 của CSVN còn có Sư đoàn 2,
cũng thường được gọi là “Sư đoàn 2 Sao Vàng” ).
Ngày 31-12, Bộ chỉ huy Chi khu Phước Bình bị
tràn ngập, Tiểu đoàn 2 BB/VNCH và Tiểu đoàn ĐPQ rút về phòng tuyến mới tại phi
trường Sông Bé. Một cuộc chạm súng lớn xảy
ra, 4 xe tăng CSVN bị bắn cháy ở đầu phi đạo, quân CSVN bị chết rất nhiều nhưng
không đếm được, có 50 cán binh CSVN đầu hàng.
Buổi chiều,
quân CSVN chiếm được căn cứ pháo binh Bà Rá.
Năm 1975, ngày 1-1, lúc 7 giờ
sáng, quân CSVN tấn công vào thành phố Phước Long. Đồng thời đại bác 130 ly của CSVN bắn trực xạ
vào hệ thống phòng thủ thành phố Phước Long,
trong đó có 8 khẩu 105 ly và 4 khẩu 155 ly.
Ngày 2-1, Tiểu
khu Phước Long xin tiếp viện và tải thương nhưng vì đài tiếp vận truyền tin tại
Bà Rá bị phá hủy nên không liên lạc được với BTL/Quân đoàn 3.
Ngày 2-1, một
cuộc họp diễn ra tại dinh Độc Lập, gồm có Tướng Thiệu, Phó tổng thống Hương, Tướng
Khiêm, Tướng Quang, Tướng Viên, Tướng Đồng Văn Khuyên, Tướng Dư Quốc Đống, Tướng
Trần Văn Minh. Đề tài của buổi họp là quyết
định có nên tiếp viện cho Phước Long hay không, nếu có thì như thế nào?
Tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn 3, đề
nghị BTTM tăng cường cho ông Sư đoàn Nhảy dù hoặc 1 sư đoàn Bộ binh. Sau đó ông xin từ chức; Tướng Thiệu không chấp
thuận.
Sau khi bàn
bạc, hội nghị đưa tới quyết định là dùng quân của Liên đoàn Biệt Cách Dù để giải cứu Phước Long. ( Tài liệu The
Final Collapse của Tướng Cao Văn Viên ).
Ngày 4-1,
quân CSVN pháo hằng ngàn quả đạn vào thành phố Phước Long, tất cả súng đại bác
trong thành phố đều bị phá hủy. Tiểu khu
trưởng bị thương nặng, Tiểu khu phó tử trận.
Ngày 5-1,
lúc 8 giờ sáng, Không quân VNCH thực hiện 60 phi vụ thả bom, dọn đường cho trực
thăng đổ 2 đại đội Biệt cách dù ( 250 người ) xuống phía Bắc thành phố, tuy
nhiên vì đạn phòng không của CSVN quá
nhiều nên không thực hiện bốc thương binh như đã dự trù.
Buổi trưa,
xe tăng của quân CSVN chọc thủng phòng tuyến của Bộ chỉ huy tiếp vận Phước Long
và tiến vào trung tâm thành phố , súng chống tăng M.72 của VNCH không có hiệu quả
đối với xe tăng của quân CSVN.
Lúc 9 giờ tối,
2 đại đội Biệt cách bị hao hụt hết phân nửa, họ báo cáo về Quân đoàn 3, cho biết
tình hình nguy ngập, quân VNCH chỉ còn chiếm giữ Tòa hành chánh và dinh Tỉnh
trưởng.
Trong đêm
quân CSVN pháo kích 1.000 quả đạn vào vị trí của quân Biệt Cách..
Ngày 6-1,
lúc 9 giờ sáng, quân CSVN với xe tăng tấn công vào vị trí của quân Biệt Cách và
ĐPQ. Lúc 11 giờ sáng, mất liên lạc với
BCH Tiểu khu nhưng vẫn còn liên lạc với đại đội Biệt cách.
Lúc 12 giờ đêm, lực lượng BCND/VNCH quyết định
bỏ tuyến phòng thủ và rời thành phố.
Ngày 7-1, một
toán quân Biệt cách gồm 50 người cho biết họ đang đóng quân ở phía Bắc thành phố. Một toán khác cho biết đang ở hướng Đông Bắc
của Quốc lộ 14.
Từ ngày 9 đến ngày 15, 121 quân Biệt cách đã về tới nơi an toàn,
nghĩa là một nửa đã nằm lại chiến trường.
BÙI ANH TRINH
.
No comments:
Post a Comment